TẦM SOÁT THIẾU MEN G6PD VÀ SUY GIÁP BẨM SINH TRÊN

SƠ SINH

TÓM TẮT

Mục tiêu: sàng lọc thiếu men G6PD và suy giáp bẩm sinh trên sơ sinh tại

khoa Phụ Sản, bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005-

2006.

Đối tượng: Tất cả các bé sơ sinh sinh tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược Cơ

Sở 4 trong thời gian từ tháng 9 năm 2005 đến tháng 8 năm 2006.

Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang và mô tả

Kết quả: 52 ca thiếu men G6PD (< 3 U/g Hb) (0,955%) trong đó có 6 nữ

(11,5 %), 46 nam (88,5%); 5 ca có TSH > 20 microIU/ml (0,092%) trên tổng số

5444 ca khảo sát dựa trên kết quả tầm soát lần đầu.

Sau đó định lượng lại men G6PD lúc 2 tháng tuổi (MEDIC), và đo lại nồng

độ TSH, FT4 ngay khi có kết quả tầm soát TSH. Kết quả: không có ca nào suy

giáp, 01 ca có nồng độ men G6PD bình thường, 40 ca có men G6PD thấp, 11 ca

không liên lạc được (địa chỉ không đúng hoặc đã mất liên lạc).

Kết luận: Tầm soát sớm các bệnh lý bẩm sinh và di truyền để chủ động

điều trị và dự phòng là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong giai đoạn sơ sinh..

Qua khảo sát của chúng tôi, tỷ lệ thiếu men phát hiện được là 0,734% và không có

ca nào suy giáp. Cần tiếp tục phát triển chương trình tầm soát này, và có một khảo

sát trên một mẫu lớn hơn về tình hình thiếu men G6PD và suy giáp bẩm sinh trên

sơ sinh sinh tại bệnh viện ĐHYD. Ngoại trừ một số ca mẹ xuất viện sớm trước 48

giờ, chúng tôi đề nghị lấy XN tầm soát từ 48 giờ tuổi trở đi để tránh những ca tăng

giả TSH.

SUMMARY

Objectives: screening G6PD deficiency and congenital hypothyroidism at

HCMC University Of Medicine And Pharmacy Hospital, year 2005-2006.

Materials: neonates were born at HCMC University Of Medicine And

Pharmacy Hospital from September, 2005 to August, 2006.

Methodology: sectional, descriptive

Results: totally, 5444 newborns were screened. 52 cases (0.955%) were

G6PD deficiency (< 3 U/g Hb), iclude 6 females (11.5 %), 46 males (88.5%); 5

cases had TSH > 20 microIU/ml (0.092%) on the first test of screening. Then we

quantified again TSH & FT4 just after we had abnormal tests, and at seccond

month of age for decr eased G6PD cases (MEDIC). Result: 0 case was

hypothyroidism, 01 case had normal G6PD level, 40 cases were G6PD deficiency,

11 cases were lost.

Conclusion: Neonatal screening is very useful action to early detect and

prophylaxis some important hereditary and congenital deficiencies. In our study,

G6PD deficiency was 0.734%, no case was congenital hypothyroidism. We should

continue to develop this program, and examine a larger study to get the whole and

more exact proportions. We should screen from the 48th hours to minimize the

false TSH positive test.

GIỚI THIỆU

Thời kỳ sơ sinh, một giai đoạn đầy biến động của sự thích nghi và tồn tại,

khởi diễn trên một cơ thể sống với vô số những yếu tố kế thừa và bẩm sinh. Trong

giai đoạn khởi đầu này, người ta đã và đang tìm ra ngày càng nhiều các phương

pháp nhằm phát hiện sớm các khiếm khuyết di truyền và các bệnh lý bẩm sinh, từ

đó đưa ra những khuyến cáo dự phòng, điều trị có hiệu quả, nhằm hạn chế những

tác hại nghiêm trọng của chúng trên toàn bộ viễn cảnh đời sống của trẻ. Trong số

các bệnh lý này, phải kể tới thiếu men G6PD và suy giáp bẩm sinh.

Thiếu men G6PD là một trong số nhiều nguyên nhân gây thiếu máu tán

huyết ở mọi lứa tuổi, có thể mạn tính hoặc từng đợt cấp tính trên nền mạn, với nhiều

mức độ khác nhau. Bệnh cũng là một nguyên nhân quan trọng góp phần trong phức

hợp các nguyên nhân gây vàng da ở trẻ sơ sinh, làm tăng nguy cơ vàng da nhân, để

lại những di chứng thần kinh vĩnh viễn. Bệnh phân bố ở khắp nơi trên thế giới, Việt

Nam cũng là một vùng lưu hành bệnh. Đây là một bệnh di truyền, chưa có cách

chữa trị, nên việc phát hiện sớm và phòng tránh những tác hại có thể xảy ra là một

vấn đề thiết thực.

Suy giáp bẩm sinh một bệnh lý rất quan trọng có nhiều khả năng bị bỏ sót,

vì hầu hết ca bệnh đều không có triệu chứng trong thời kỳ sơ sinh, các biểu hiện

lâm sàng sau đó lại rất mơ hồ, làm cho việc chẩn đoán rất khó khăn, chậm trễ.

Song song với tính chất trên là các tác động bệnh lý lại xảy ra một cách âm thầm,

rất sớm, ảnh hưởng trầm trọng trên toàn bộ quá phát triển từ thể chất đến tâm vận

của trẻ, làm cho trẻ đần độn, thể chất kém cỏi, tàn phế, không có khả năng học tập,

lao động, chưa kể tới vô số các bệnh lý mạn tính đi kèm. Với tiến bộ y học, việc

phát hiện sớm và điều trị thích hợp giúp ngăn ngừa các tác động nêu trên. Do vậy

yêu cầu chẩn đoán sớm suy giáp bẩm sinh trở thành một nhu cầu hết sức thiết thực

được y học quan tâm.

Xét nghiệm tầm soát thiếu men G6PD và suy giáp bẩm sinh từ giai đoạn sơ

sinh đã được thực hiện rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam từ

nhiều năm qua. Tại thành phố Hồ Chí Minh, chương trình tầm soát đã được làm

tại Bệnh Viện Từ Dũ, Bệnh viện Pháp Việt, Bệnh viện Hùng Vương, và bước đầu

được triển khai tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược Cơ Sở 4.

Các phương pháp đo đạt

- Test tầm soát TSH, G6PD: QuantaseTM Neonatal G6PD Dificiency

Screening và QuantaseTM Neonatal TSH Screening (BIO-RAD Laboratories

Europe Perth, UK)

- Test đo TSH và FT4: AxSYMR Ultrasensitive hTSH II và AxSYM R

Free T4, cả hai test đều dựa vào kỹ thuật MEIA (Xét Nghiệm Miễn Dịch Men Vi

Phần Tư)

- Test định lượng G6PD (MEDIC) lúc 2 tháng tuổi: GLUCOSE-6-

PHOSPHATE-DEHYDROGENASE - PD 410 (RANDOX Laboratories Ltd., UK).

Tiêu chuẩn chọn bệnh

- Mọi trẻ sinh ra được chăm sóc theo dõi tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược

Cơ Sở 4, bao gồm trẻ nằm với mẹ và trẻ nằm tại phòng Nhi Sơ Sinh của Bệnh

Viện, không kèm một tình trạng lâm sàng nguy cấp đang diễn tiến nào (vd: suy hô

hấp, hạ đường huyết, xuất huyết tiêu hóa, hạ thân nhiệt...)

- Đủ 36-48 giờ tuổi.

- Được sự chấp thuận của cha/mẹ bé sau khi đọc tờ rơi giới thiệu về ý nghĩa

và lợi ích của xét nghiẹm tầm soát này.

Tiêu chí loại trừ

- Sơ sinh đang có tình trạng lâm sàng nguy cấp, như kể trên.

- Sơ sinh được chuyển viện ngay sau sanh hoặc trước 36 giờ do bệnh lý

nặng.

- Gia đình từ chối tham gia nghiên cứu.

Định nghĩa ca bệnh

§ Test tầm soát TSH bình thường: giá trị đo được < 20 microIU/ml

§ Test tầm soát TSH bất thường: giá trị đo được > 20 microIU/ml

§ Ca bệnh suy giáp: TSH >/= 40 µUI/ml và FT4 < 2 ng/dl

§ Test tầm soát G6PD bình thường: >/= 3 U/g Hb

§ Test tầm soát G6PD bất thường: < 3 U/g Hb

§ Test định lượng men lúc 2 tháng tuổi (MEDIC): giới hạn bình

thường 118-144 mU/109 Hồng Cầu

PHÂN MỨC ĐỘ THIẾU MEN G6PD

MỨC HOẠT TẦN LOẠI

ĐỘ ĐỘ MEN XUẤT

Thiếu

máu tán

huyết với HC Không I Nặng không hình thường gặp

cầu với chức

năng HC

bình thường

II Nặng < 10 Thay

% bình đổi; thường

thường gặp ở người

Châu Á và

Địa Trung

Hải

10 - 10 % Trung III 60 % bình nam da đen bình

thường tại Mỹ

60 - Nhẹ IV Hiếm 150 % bình không thiếu

thường

> 150 Không Hiếm V % bình thiếu

thường

Nguồn: Diagnosis and Management of G6PD Deficiency- Copyright ©

2005 by the American Academy of Family Physicians

Thu thập dữ kiện

- Điều dưỡng phòng nhi lấy vài giọt máu của bé, nhỏ lên phiếu giấy thấm

chuyên dùng, có đề rõ các thông tin cá nhân của bé. Tạp trung mẫu mỗi ngày từ lầu

trại và phòng nhi gởi phòng xét nghiệm.

- Điều dưỡng phòng nhi nhập tên họ của mẹ trẻ, cùng các thông tin cá nhân

vào máy vi tính, lập thành file Exel theo từng đợt tập trung và gởi sang cho nhân

viên phòng xét nghiệm.

- Phòng xét nghiệm xuất số liệu tương ứng vào file nhận được và trả lại

kết quả xét nghiệm cho phòng nhi bằng phiếu kết quả in và bằng file kết quả.

Xử lý dữ kiện

- Các bác sĩ phòng nhi đánh giá kết quả nhận được, nếu kết quả bất thường:

điện thoại báo mời cha mẹ bé tới phòng Nhi nhận kết quả. Ba mẹ bé được bác sỹ

tư vấn giải thích về khả năng bệnh lý của bé.

- Đối với trường hợp giảm men G6PD: phát phiếu tư vấn phát tờ Tham

Vấn Về Bệnh Thiếu G6PD + ghi phiếu xét nghiệm cho bé lúc 2 tháng tuổi tại

MEDIC để định lượng G6PD bằng máu tĩnh mạch. Hẹn tái khám tại dưỡng nhi.

- Đối với trường hợp tăng TSH: ghi phiếu xét nghiệm TSH và FT4 (máu

tĩnh mạch) làm tại phòng xét nghiệm Bệnh Viện Đại Học Y Dược. Khi có kết quả,

Bác sĩ phòng Nhi xem và đánh giá ngay tại phòng. Nếu TSH ≥ 40 µUI/ml và FT4

< 2 ng/dl kết luận suy giáp, gởi bé ngay đến BV Nhi đồng 1 hoặc 2 để điều trị.

- Ghi lại kết quả kiểm tra vào sổ.

- Xử lý các các số liệu thu được bằng phần mềm Excel 2003.

Số liệu thu được

Tổng số ca khảo sát: 5444 ca

Số ca có kết quả tầm soát men G6PD bất thường: 52 ca (0,955%), trong đó

có 6 nữ (11,5%), 46 nam (88,5%).

Số ca khảo sát lại men G6PD lúc 2 tháng tuổi (MEDIC): 40 ca thiếu men

(0,734%), 1 ca có hoạt độ men bình thường, 11 ca không liên lạc được.

Số ca có kết quả tầm soát TSH tăng: 5 ca (0,092%), trong đó có 2 nữ

(40%), 3 nam (60%)

Số ca suy giáp bẩm sinh xác định lại bằng TSH và FT4: 0 ca

BÀN LUẬN

Tỷ lệ thiếu men phát hiện được là 0,734% (40 ca) trên số 5444 ca khảo sát,

thấp so với thống kê tại BV Từ Dũ là 2,06% trên số 136.009 ca khảo sát.

Trong suốt thời gian nghiên cứu không phát hiện thấy trường hợp nào có suy

giáp bẩm sinh, so với 1/4857 ca sinh sống phát hiện được tại BV Từ Dũ.

Có những lý do có thể giải thích cho sự khác biệt này như sau:

- Thời gian khảo sát chưa đủ dài (chỉ 01 năm)

- Số ca khảo sát còn hạn chế

- Những ca TSH tăng cao và kiểm tra lại đều về mức bình thường có thể do

thời điểm lấy máu xét nghiệm tầm soát còn sớm (≥ 36 giờ), còn trong giai đoạn

tăng sinh lý của TSH.

- Một số trường hợp mất liên hệ trong quá trình nghiên cứu

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

Tầm soát sớm các bệnh lý bẩm sinh và di truyền để chủ động điều trị và dự

phòng là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong giai đoạn sơ sinh, và là một

khuynh hướng ngày càng phát triển của y học thế giới.

Dù bước đầu còn một số vướng mắc khó khăn, nhưng kết quả thu được vẫn

có một ý nghĩa khích lệ cho đơn vị chúng tôi tiếp tục triển khai chương trình tầm

soát này và có những thống kê lâu dài hơn về tỷ lệ các ca bệnh lý tầm soát được.

Ngoại trừ một số ca mẹ xuất viện sớm trước 48 giờ, chúng tôi đề nghị lấy

XN tầm soát từ 48 giờ tuổi trở đi để tránh những ca tăng giả TSH.