
73
TẬP DƯỠNG SINH
I. ĐẠI CƢƠNG
Dưỡng sinh là một phương pháp luyện tập của y học cổ truyền đ được trải
nghiệm qua hàng trăm năm, nhằm giúp cho con người phục hồi, tăng cường sức khỏe
phòng và chữa một số bệnh.
Ở Việt Nam phương pháp dưỡng sinh đ có truyền thống từ lâu đời, được nhiều
danh y nghiên cứu, phát triển như Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV), Hoàng Đôn Hòa (thế kỷ XVI),
Đào Công Chính (thế kỷ XVII), Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII), Nguyễn Khắc Viện,
Nguyễn Văn Hưởng (thế kỷ XX)… đ góp phần làm cho phương pháp dưỡng sinh từ
chỗ thiên về dưỡng sinh cá nhân trở thành một phương pháp y học dự phòng toàn diện.
Dưỡng sinh có tác dụng rất tốt cho sức khỏe. Các phương pháp dưỡng sinh đều
hướng tới việc giữ gìn và nâng cao nguyên khí giúp tăng cường thể chất và nâng cao
tuổi thọ trên cơ sở giữ cân bằng âm dương trong cơ thể với môi trường và vũ trụ, kết
hợp nhuần nhuyễn các phương pháp luyện tập cả về ý (luyện ý chí, tinh thần), về khí
(luyện thở) và về hình (luyện tập cơ bắp) nhờ vậy mà hạn chế được những hậu quả của
giảm vận động, tăng lưu thông máu, tăng cung cấp ôxy cho tổ chức, phục hồi hoạt động
của hệ xương, cơ, khớp, khôi phục hoạt động của các chức năng và khả năng thích nghi
của cơ thể không chỉ có tác dụng hạn chế một số rối loạn hoặc chứng bệnh mạn tính
thường gặp ở người cao tuổi, mà còn đem lại nguồn vui cho cuộc sống, thêm lạc quan
yêu đời, tạo nên sự thoải mái cả về thể chất và tinh thần. Vì vậy, dưỡng sinh còn được
xem như là một phương pháp trị bệnh không dùng thuốc.
II. CHỈ ĐỊNH
Người bệnh mắc các bệnh mạn tính:
Bệnh lý tim mạch: suy tim, tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim.
Di chứng tai biến mạch máu não.
Suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, viêm phế quản, viêm phổi kẽ,
K phổi, giãn phế quản.
Hội chứng dạ dày: viêm dạ dày, loét dạ dày - hành tá tràng, rối loạn tiêu hóa.
Thấp khớp, viêm khớp, thoái hóa khớp.
Đau thần kinh tọa, gai cột sống, đau lưng.
Cảm mạo liên miên.
Mất ngủ…
III. CHỐNG CHỈ ĐỊNH