
Thăm khám và triệu chứng học
bệnh mạch máu ngoại vi – Phần 2
1.4. Một số phương pháp thăm khám mạch máu khác:
Một số phương pháp khác có thể được dùng để thăm khám và đánh giá các tổn
thương trong các bệnh mạch máu ngoại vi.
1.4.1. Ghi dao động thành mạch:
Dùng dao động kế đặt ở vùng có động mạch cần thăm khám để ghi lại hình
ảnh các dao động của các động mạch đó. Thường đo ở 1/3 giữa đùi, 1/3 trên và 1/3
dưới cẳng chân. Đo cả hai bên chân để so sánh.
Khi động mạch bị hẹp hoặc tắc, biên độ dao động của nó giảm đi rõ rệt so với
bên lành.
1.4.2. Đo nhiệt độ da:

Dùng loại nhiệt kế được thiết kế đặc biệt để đo nhiệt độ da của từng vùng chi
thể, đo cả hai chi để so sánh.
Khi bị hẹp hay tắc động mạch thì có thể thấy nhiệt độ da của vùng chi do động
mạch đó chi phối bị giảm xuống so với bên lành.
1.4.3. Đo trực tiếp áp lực tĩnh mạch chi dưới:
Có thể đo trực tiếp áp lực tĩnh mạch sâu ở chân bằng cách đặt thông vào tĩnh
mạch ở cổ chân, đo áp lực tĩnh mạch nông ở cổ chân bằng cách đặt thông vào tĩnh
mạch nông ở mu chân.
Bình thường ở tư thế đứng thì áp lực tĩnh mạch sâu ở cẳng chân là khoảng
100 cm H2O, khi cho vận động thì áp lực này giảm xuống còn 50 - 90% so với
ban đầu trong vòng 9 - 26 giây, khi nghỉ ngơi thì áp lực đó lại trở lại mức ban
đầu sau 23 - 40 giây.
2. Triệu chứng học.
2.1. Vết thương động mạch:
Vết thương động mạch có thể là vết thương xuyên (do các vật nhọn, đạn, mảnh,
đầu xương gãy…) hoặc giập vỡ (do va đập, quệt…). Động mạch có thể bị đứt đôi,
giập nát hoặc chỉ bị đứt rách ở một bên thành.

Thăm khám triệu chứng vết thương động mạch thường là một thăm khám cấp
cứu, cần phải tiến hành nhanh chóng, tuần tự và chính xác.
2.1.1. Tình trạng tại chỗ vết thương:
+ Vị trí vết thương:
- Quan sát kỹ lỗ vào và lỗ ra của vết thương (nếu là vết thương chột thì cần hỏi
kỹ về cơ chế và tư thế bệnh nhân khi bị thương) để xác định vị trí động mạch có
thể bị tổn thương.
- Có khi phải chụp X quang để xác định vị trí dị vật (mảnh đạn...) trong vết
thương hoặc vị trí và hình thái gãy xương, nhằm đánh giá vị trí động mạch có khả
năng bị tổn thương.
+ Miệng vết thương:
- Thường có máu đỏ tươi chảy ra mạnh, có khi thành tia.
- Nhiều trường hợp dị vật gây vết thương vẫn nằm tại chỗ và có tác dụng bịt
tạm thời lỗ vết thương lại. Cần thận trọng khi quyết định rút bỏ dị vật ra vì có thể
gây chảy máu rất dữ dội qua vết thương.
+ Phần mềm quanh vùng vết thương:

- Thường căng nề nhanh chóng, nhất là khi miệng vết thương bị bịt lại làm cho
máu chảy ra tụ lại trong tổ chức quanh vết thương.
- Có khi máu chảy ra tạo nên một bọc máu tụ: khám thấy khối máu tụ này nổi
căng dưới da, đập nẩy theo nhịp mạch và nghe có tiếng thổi tâm thu.
2.1.2. Vùng chi phía ngoại vi của động mạch bị tổn thương:
+ Thường có triệu chứng thiếu máu cấp tính: da xanh nhợt, lạnh, mất cảm giác,
phù nề tăng dần. Cử động của chi bị hạn chế và có cảm giác đau nhức liên tục
trong chi.
+ Mạch ngoại vi mất hoặc đập yếu hơn so với bên lành.
+ Có thể có các triệu chứng tổn thương các dây thần kinh đi cùng với các mạch
máu của chi bị thương.
+ Có thể gặp hội chứng chèn ép khoang: xảy ra với các vết thương động mạch
trong đó máu chảy ra bị tụ lại với khối lượng lớn trong các khoang cân cơ, gây
chèn ép nặng nề cả mạch máu và thần kinh của chi thể đó, tạo nên hiện tượng
“garo trong” làm thiếu máu và hoại tử nhanh chóng vùng chi tổn thương. Thường
gặp hội chứng này trong các tổn thương động mạch ở vùng đùi, khoeo, chày sau,
bàn chân… nhất là vùng khoeo và chày sau. Các triệu chứng cơ bản là:

- Vùng chi tổn thương căng cứng, rất đau. Cảm giác đau tức tăng lên khi bóp
vào cơ hoặc làm duỗi căng các cơ của chi tổn thương.
- Mất dần cảm giác nông cũng như vận động của chi bị tổn thương.
- Da vùng chi tổn thương tím nhợt, lạnh. Có thể có các nốt phỏng nông trên da.
- Mạch ngoại vi yếu hoặc mất hẳn.
- Nếu không phát hiện và xử trí kịp thời, vùng chi bị tổn thương sẽ bị hoại tử
nhanh chóng.
2.1.3. Toàn thân:
+ Thường có hội chứng mất máu cấp tính: khát nước, hoa mắt, chóng mặt, da
niêm mạc nhợt nhạt, toát mồ hôi lạnh, mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt...
+ Trong hội chứng chèn ép khoang, bệnh nhân có thể có tình trạng nhiễm độc
nặng do vùng chi tổn thương bị hoại tử.
2.2. Tắc động mạch chi:
2.2.1. Tắc động mạch chi cấp tính:
Tắc động mạch chi thường gây ra bởi cục tắc. Cục tắc này có thể là cục máu
đông, bóng mỡ, bóng khí, tổ chức cục nghẽn động mạch vỡ ra... di chuyển theo
dòng máu từ nơi khác đến.