Thiếu 'con tin': Ngân hàng không chịu
nhả vốn
Tình trạng doanh nghiệp khó khăn, ngân hàng khó giải ngân
đã khiến tín dụng trên toàn hệ thống sụt giảm. Trong bối cảnh
niềm tin không có thì tài sản thế chấp vẫn là điều kiện chính
trong các giao dịch vay vốn.
Rào cản thế chấp
Một tuần lễ sau khi trần lãi suất huy động được hạ xuống 9% và lãi
suất cho vay dưới 1 năm xuống 13%, tình hình tín dụng tại các
ngân hàng thương mại (NHTM) dường như vẫn chưa được cải
thiện.
Trao đổi tại một tọa đàm các doanh nhân mới đây, giám đốc một
chi nhánh ngân hàng tâm sự: “Lãi suất tiền gửi hạ xuống 9%, nhiều
điện thoại gọi đến chúc mừng ngân hàng do họ cho rằng chúng tôi
sẽ có nhiều khách hàng trong thời gian tới, vốn ứ đọng sẽ được
tháo ra. Nhưng sau 1 tuần lễ, thực tế không như vậy. Chúng tôi
không thấy có nhiều khách hàng. Doanh nghiệp (DN) mong lãi
suất 13% nhưng ngân hàng muốn xem sổ sách và phương án hoạt
động. Gần như với tất cả, chúng tôi đã phải nói rằng: Xin quý vị
đến với chúng tôi trong một thời điểm trong tương lai. Rất nhiều
DN đã thất vọng nhưng đây là một thực tế”.
Khảo sát nhanh với câu hỏi: “Vấn đề lớn nhất là gì khi doanh
nghiệp vừa và nhỏ đi vay vốn ngân hàng?” trong chương trình Tọa
đàm Café Doanh nhân với gần 100 CEOs mới đây thì 11 DN cho
rằng ngân hàng gây khó khăn; 18 DN cho biết gặp khó khăn trong
sản xuất nên ngân hàng không cho vay; 11 DN khẳng định vấn đề
chính là không có thế chấp.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, Thành viên HĐQT Ngân hàng An Bình,
cũng cho rằng, thế chấp là vấn đề chính. “Ngân hàng không cho
vay là do không có thế chấp. Nếu doanh nghiệp thua lỗ mà có tài
sản thế chấp thì ngân hàng vẫn cho vay. Đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, vấn đề chính rõ ràng là thế chấp. Đây là vấn đề đầu
tiên”, ông Hiếu cho biết.
Hơn thế, theo ông Hiếu, mặc dù lãi suất tiền gửi là 9% nhưng trên
thực tế lãi suất cho vay vẫn là 15-16%; 17% cũng có, 18% cũng có
và thậm chí lên tới 20%.
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) kêu gọi các NHTM cho
doanh nghiệp vay trong bối cảnh các NHTM đang có quá nhiều
tiền. Một bên thì ngân hàng thừa vốn, ứ vốn và lãi suất thì đang
xuống… Trong khi đó, các DN đang thiếu vốn, đang chết lâm
sàng. Hai bên không gặp nhau cho dù NHNN đứng ở giữa kêu gọi.
Ám ảnh nợ xấu
Một câu hỏi được đặt ra là: Vấn đề gì đang xảy ra ở nền kinh tế
Việt Nam. Vấn đề gì đang xảy ra đối với ngân hàng và với DN?
Về vĩ mô, lạm phát tụt xuống quá nhanh. Rất nhiều chuyên gia
cũng không ngờ là lạm phát chưa tới giữa năm đã xuống tới gần
8%. Kết quả này có lẽ là do chính sách của Chính phủ… Nhưng
cũng có lẽ có một yếu tố nào đó khác, và phải chăng là lực cầu
giảm xuống một cách khủng khiếp. DN tồn kho cao ngất là một
nguyên nhân khiến nhu cầu vay vốn suy giảm. Bên cạnh đó, khối
nợ xấu khổng lồ đang làm tụt mong muốn đẩy mạnh cho vay của
các ngân hàng cho dù hàng loạt DN đói vốn.
Gần đây, nhiều người cho rằng, ngân hàng đang siết chặt lại điều
kiện cho vay. Nhưng thực tế không phải. Các điều kiện cho vay
vẫn giống như 2, 3, 5 năm trước đây. Các ngân hàng chỉ nghiêm
chỉnh hóa các điều kiện này. Họ đang siết chặt chính họ, để tuân
thủ những quy định đưa ra cho chính mình. Họ áp đặt lên họ kỷ
luật cho vay.
Theo tiến sĩ Hiếu, nỗi lo nợ xấu vốn đã rất cao, nay tiếp tục tăng
lên nữa đang khiến các ngân hàng có thừa vốn nhưng không cho
doanh nghiệp vay. Thay vì cho vay, họ chấp nhận mua trái phiếu
Chính phủ hoặc/và cho nhau vay cho dù lỗ 3-5%.
Để minh họa cho thực tế này, ông Hiếu cho biết biên độ lợi nhuận
của ngân hàng là 2%. Và như vậy, một nợ bị mất đi thì cần 50 món
nợ khác để bù đắp. Đây là lý do khiến các ngân hàng rất cẩn thận.
Nợ xấu khiến cho ngân hàng co rút lại.
Về thực tế nợ xấu, hồi tháng 8/2011, theo NHNN, tỷ lệ này trên
toàn hệ thống là dưới 3%. Trong khi đó, theo Fitch là 12-13%. Đến
tháng 3/2012, Chính phủ cũng mời các chuyên gia đến để bàn về
vấn đề này. Con số 9-10% được đưa ra nhưng không công bố ra
bên ngoài. Vừa rồi, Thống đốc cho rằng nợ xấu khoảng 10%. Con
số này cũng có thể chưa hoàn toàn đúng nhưng có lẽ là chính xác
nhất từ trước tới nay.
Không những thế, tính thanh khoản của hệ thống vẫn là một vấn đề
đáng quan tâm. Không phải tất cả các ngân hàng cho tới thời điểm
này đều tốt. Trần lãi suất huy động được hạ xuống 9% từ 11/9. Cho
tới hôm 15/6 vừa rồi, một số ngân hàng đã đẩy lên 13-14% cho kỳ
hạn 13 tháng (tăng 50% so với kỳ hạn 12 tháng). Như vậy, có thể
thấy rất có thể những ngân hàng đó có vấn đề. Hình như họ đói
vốn, gặp vấn đề thanh khoản.
Như vậy, mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ, hai bên doanh nghiệp và
ngân hàng cần “hiểu nhau”. Các khoản vay cần được bảo đảm.
Theo ông Hiếu, để dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, ngoài
tài sản thế chấp đang có và hình thành từ nguồn vốn, đơn vị đi vay
nên chuẩn bị báo cáo, dự báo tài chính, kế hoạch kinh doanh rõ
ràng, ít nhất phải được 1 năm. Nếu được 3 năm thì càng tốt và 5
năm thì tuyệt vời. Khi đó, ngân hàng có cơ sở để xem xét.
Còn theo ông Nguyễn Hồng Trường, Phó Chủ tịch IDG Ventures
Vietnam, việc huy động vốn không nhất thiết là chỉ dựa vào ngân
hàng. Các doanh nghiệp có thể gọi vốn qua các quỹ. Với các quỹ
đầu tư, điểm quan trọng nhất lại không phải là các bản báo cáo tài
chính và kế hoạch kinh doanh. Việc thu hút đầu tư thành công hay
không trước hết dựa vào người đứng đầu doanh nghiệp và sản
phẩm của doanh nghiệp. Theo đó, người đứng đầu (CEO) của
doanh nghiệp phải có tầm nhìn, có mục tiêu rõ ràng, có khả năng
ảnh hưởng tới người khác. Việc xác định rõ sản phẩm là yếu tố mà
các nhà đầu tư rất quan tâm. Các điều kiện sau đó mới là các bản
kế hoạch…
Đồng quan điểm với ông Trường, ông Mai Hữu Tín - Chủ tịch Hội
đồng quản trị Tập đoàn đầu tư U&I, Chủ tịch Hội doanh nhân trẻ
Việt Nam - cũng cho rằng, vai trò của người đứng đầu doanh
nghiệp là quan trọng nhất. Để có thể gọi được vốn, người đứng đầu
doanh nghiệp phải tự biết tiếp thị tốt bản thân mình. Phải để cho
người khác thấy được tầm nhìn cũng như khả năng của mình.
“Doanh nhân phải biết biến mình thành món hàng tốt, phải biết tự
tiếp thị mình để bán được giá hay chính là thu hút được đầu tư”,