THỜI GIAN BÁN HỦY CỦA DENGUE IG G

TRUYỀN QUA NHAU

TÓM TẮT

Mục tiêu: ước tính tần suất huyết thanh của dengue-IgG trong máu

cuống rốn trẻ sơ sinh và xác định thời gian bán hủy của kháng thể này trong

cơ thể trẻ.

Phương pháp: Một cohort sinh (birth cohort) được tập hợp với 100

trẻ đơn thai có tuổi thai lúc sinh 38-42 tuần, thai kỳ và chuyển dạ không biến

chứng, mẹ khỏe mạnh và đồng ý tham gia nghiên cứu. Bệnh phẩm gồm máu

cuống rốn và các mẫu máu thu thập lúc 6, 9 và 12 tháng tuổi. Việc xác định

thờI gian bán hủy của dengue-IgG dựa vào phương trình hồi quy tuyến tính

của nồng độ dengue-IgG ở các thời điểm khác nhau.

Kết quả: IgG đối với virus dengue (dengue-IgG) có nguồn gốc từ mẹ

truyền qua nhau hiện diện trong 98/100 mẫu máu cuống rốn của trẻ sơ sinh

khỏe mạnh tại Bệnh viện Hùng Vương: tần suất: = 98%, KTC 95%: 93,0% –

99,8%. Trị số nghịch đảo của hiệu giá dengue-IgG (số lần pha loãng huyết

tương tại OD= 0,3) bằng 24.955 vào lúc sanh, kế đó 623, 225 và 121 lần lượt

tại 6, 9 và 12 tháng tuổi. Ứng với mỗi đối tượng, một phương trình hồi quy

tuyến tính được xác lập dưới dạng C= C0X10-ke.t trong đó C và C0 là nồng độ

IgG lần lượt ở thời điểm t và trong máu cuống rốn, ke là hệ số thải và t là tuổi

sau sanh tính bằng tuần. Thời gian bán hủy trung bình của dengue-IgG truyền

qua nhau là 6,3 tuần (KTC 95%= 5,7-6,9) tuần.

Kết luận: Dengue-IgG hiện diện trong 98% mẫu máu cuống rốn của

trẻ sơ sinh khỏe mạnh tại Bệnh viện Hùng Vương. Thời gian bán hủy của

kháng thể này là 6,3 tuần (KTC 95%= 5,7-6,9) tuần.

Từ khoá: dengue-IgG, thời gian bán hủy.

ABSTRACT

HALF-LIFE OF TRANSPLACENTALLY TRANSFERRED

DENGUE-IGG

Nguyen Trong Hieu, Jeremy Farrar, Doan Anh Thu, Bui Thi Thuy

Tien, To Van Phu

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007: 6

– 10

Objectives: to estimate the seroprevalence of dengue-IgG in cord

blood and to determine the in vivo half-life of this antibody.

Methods: A birth cohort was assembled with 100 singleton newborn

infants, 38-42 weeks of gestational age, pregnancy and labor uncomplicated,

mothers healthy and giving consent to participate in the study. Specimens

included cord blood and postnatal infant blood samples at 6, 9 and 12 moths

of ages. Determination of dengue-IgG half-life was based on the linear

regression equations fitted on dengue-IgG levels at different ages.

* Bệnh viện Hùng Vương

** Đơn vị nghiên cứu lâm sàng, Đại học Oxford, Anh quốc.

Results: Transplacentally transferred IgG to dengue virus (dengue-

IgG) existed in 98/100 cord blood samples of healthy newborns at Hung

Vuong hospital: prevalence: 98%, 95% confidence interval= 93.0% –

99.8%. Mean dengue-IgG reciprocal titer (number of dilution of plasma

sample at OD= 0.3) was 24.955 at birth, and 623, 225 and 121 at 6, 9 and 12

months, respectively. A linear regression equation C= C0X10-ke.t was fitted

for each subject, where C and C0 were reciprocal titers at point of time t and

in cord blood, respectively, ke was eliminating coefficient, and t was

postnatal age in weeks. Mean half-life of transplacentally transferred

dengue-IgG was estimated at 6.3 (95% confidence interval= 5.7-6.9) weeks.

Key words: dengue-IgG, half-life.

Sốt xuất huyết (SXH) là một hội chứng dò mao mạch cấp nghiêm

trọng do virus dengue gây nên. Được ghi nhận đầu tiên từ những năm 1950s

tại Đông Nam Á, SXH thường phát thành dịch ở các nước châu Á Thái Bình

dương và châu Mỹ với những trận dịch đặc biệt nghiêm trọng như tại Thái

Lan năm 1998 với tần suất 201.4 trường hợp trong 100.000 dân(4,7,8).

Bốn týp huyết thanh thường gặp của virus dengue là týp 1, 2, 3 và 4, gây

bệnh riêng lẻ hay phối hợp. Nhiều nghiên cứu chu sinh học đã lưu ý hiện tượng

miễn dịch thụ động của thai nhi với sự tiếp nhận kháng thể qua tuần hoàn nhau-

thai(6,11). Nhóm các IgG nói chung có thể vào được cơ thể thai nhi nhờ trọng

lượng phân tử nhỏ, tuy nhiên đây không phải là sự hấp thu thụ động của thai

nhi vì trong đa số các trường hợp nồng độ IgG trong máu cuống rốn cao hơn

trong máu người mẹ(3,5,10,12,14) Các IgG này đặc hiệu cho từng tác nhân gây bệnh

với các đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn về thời gian tồn tại trong cơ thể trẻ nhủ

nhi, IgG đối với virus syncitial hô hấp biến mất khi trẻ được 6 tháng tuổi, trong

khi thời gian trên là 10-12 tháng đối với virus varicella zoster, và từ 4 tháng đến

trên 1 năm đối với HIV(1,2,9,13). Sự hiểu biết về thời gian tồn tại của IgG trong

máu trẻ nhỏ sẽ là cơ sở để lựa chọn thời điểm phù hợp chích ngừa cho trẻ sơ

sinh.

Tại Việt Nam, mặc dù SXH là bệnh phổ biến và tử vong cao, nhưng sự

hiểu biết về sinh học của bệnh còn hạn chế, và cho đến hiện tại việc chích ngừa

SXH cũng chưa thực hiện. Nghiên cứu của chúng tôi ước tính tần suất huyết

thanh của dengue-IgG trong máu cuống rốn trẻ sơ sinh và thời gian bán hủy

của kháng thể này trong máu trẻ nhủ nhi nhằm góp phần tìm hiểu về động học

của IgG đối với virus dengue (dengue-IgG) trong cơ thể trẻ nhủ nhi. Sự hiểu

biết về thời gian tồn tại của IgG trong máu trẻ nhỏ sẽ là cơ sở để lựa chọn thời

điểm phù hợp chích ngừa cho trẻ sơ sinh.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

Thiết kế

Đây là một nghiên cứu cohort sanh (birth cohort).

Tiêu chuẩn chọn đối tượng

Phụ nữ sanh đơn thai tại BVHV, tuổi thai 38-42 tuần, không mắc các

bệnh nặng như lao tiến triển, bệnh tim mất bù và ung thư, thai kỳ và chuyển

dạ không biến chứng, được thu nhận sau khi ký tên tham gia nghiên cứu.

Các bà mẹ HIV (+) được loại trừ.

Cỡ mẫu

Với cỡ mẫu = 100, khi tần suất của bệnh thay đổi ở các mức 90%,

95% và 97%, sự ước tính ở mức tin cậy 5% sẽ có độ chính xác tuyệt đối tuần

tự là 5.,9%, 4,3% và 3,4%.

Phương pháp thu thập số liệu

Các bà mẹ hội đủ tiêu chuẩn được xét thu nhận trước sanh. Ngay sau

sanh, 10 ml máu cuống rốn được thu thập, xử lý và trữ ở -20° C. Một nhóm

trẻ được chọn ngẫu nhiên để theo dõi vào lúc 6, 9, và 12 tháng tuổi, bệnh

phẩm thu thập vào mỗi thời điểm là 1 ml máu kháng đông. Tất cả bệnh

phẩm được xử lý và trữ đông để xét nghiệm miễn dịch đồng loạt sau khi

chấm dứt thời gian theo dõi. Phương pháp ELISA định tính được sử dụng để

nhận diện dengue-IgG. Nồng độ kháng thể này trong máu cuống rốn, 6, 9, và

12 tháng cho phép xác định thời gian bán hủy của dengue-IgG có nguồn gốc

từ mẹ. Ngoài ra dengue-IgM cũng được định tính tại các bệnh phẩm trên để ước

tính tần suất mắc bệnh mới của trẻ trong năm đầu.

Phân tích số liệu

Tần suất dengue-IgG (+) được ước tính với khoảng tin cậy 95%. Trị số

nghịch đảo của hiệu giá dengue-IgG ở 4 thời điểm được chuyển đổi log để có

phân bố bình thường trước khi dùng phương trình hồi quy tuyến tính để tính

thời gian bán hủy. Các dạng biểu đồ phù hợp được sử dụng để minh hoạ kết

quả.

Phần mềm thống kê: Intercooled Stata for Windows 7.0.

Vấn đề y đức

Nghiên cứu được thực hiện sau khi đã thông qua Hội đồng Khoa học

Công nghệ của đơn vị. Các bước thực hiện tuân thủ các tiêu chí về y đức

gồm mang lại lợi ích cho bệnh nhân, không làm tổn hại người bệnh, công

bằng trong thu nhận và bảo đảm tính chất riêng tư của số liệu.

KẾT QUẢ

Trong thời gian từ 17/4/ 2003 đến 30/7/2003, 100 sản phụ tuổi từ 16-

42 đã được thu nhận để ước tính tần suất huyết thanh của dengue-IgG. Đặc

điểm tổng quát của mẹ và con được trình bày trong Bảng 1.

Chín mưoi tám trong số 100 mẫu máu cuống rốn có phản ứng (+) với

dengue-IgG: p= 98,0%, KTC 95%= 93,0 – 99,8%. Có 3/87 (3.4%) trẻ có

phản ứng (+) với dengue-IgM lúc 6 tháng tuổi. Tỷ lệ này là 2/81 (2,5%) ở 9

tháng tuổi và 0/79 (0%) ở 12 tháng tuổi.

Năm mươi lăm trẻ được chọn ngẫu nhiên để theo dõi trong năm đầu

để ước tính thời gian bán hủy của dengue-IgG có nguồn gốc từ mẹ. Trong

nghiên cứu này, nồng độ dengue-IgG được biểu thị bằng số lần pha loãng

của mẫu huyết tương tại OD= 0.3. Số nghịch đảo của hiệu giá Dengue-IgG

trung bình vào lúc sanh, 3, 6, và 12 tháng tuổi lần lượt là 24.955, 623, 225

và121. Log(10) của dengue-IgG có phân bố bình thường với các trị số p của

skewness-kurtosis test là 0.473 (skewness), 0.487 (kurtosis) và 0.604 (hiệu

chỉnh). Ưng với mỗi đối tượng, một phương trình hồi quy tuyến tính được

xác lập dưới dạng C= C0X10-ke.t trong đó C và C0 là nồng độ IgG lần lượt ở

thời điểm t và trong máu cuống rốn, ke là hệ số thải và t là tuổi sau sanh tính

bằng tuần. Thời gian bán hủy được tính bằng cách thay thế C= C0/2, khi đó t

= – log10(2)/ke. Trên tổng số 55 bệnh nhân với 201 bệnh phẩm, thời gian

bán hủy trung bình là 6,3 tuần, KTC 95%: 5,7-6,9 tuần (Bảng 2).

Bảng 1. Đặc điểm tổng quát của mẹ và con (n=100).

Số

% trường

hợp

Tuổi (TSTB±

26,7 5,2

ĐLC)

Không

3 3,0

đi học

Trình Cấp 1 30 30,0

độ văn hoá:

Cấp 2 42 42,0

Cấp 3 25 25,0

Khá

16 16,0

giả

Trung Kinh

36 36,0

bình tế gia đình

Khó

48 48,0

khăn

Con so 59 59,0

Tỷ suất trai:gái 52:48

Cân nặng <2500 g 9 9,0

Nhỏ so với tuổi

3 3,0

thai

Bảng 2. Thời gian bán hủy (tuần) của Dengue-IgG (n= 55)

TSTB±ĐLC 6,3±2,1

Bách phân vị

3,8

5

Bách phân vị

4,1

10

Bách phân vị

4,7

25

Trung vi 5,5

Bách phân vị

7,8

75

Bách phân vị

10,0

90

Bách phân vị

10,4

95

Tuổi sau sanh (tuần)

Hình 1: Nồng độ IgG theo tuổi sau sanh tính bằng tuần. Log(10) của trị số

nghịch đảo dengue-IgG giảm theo tuần lễ tuổi sau sanh với đường biểu diễn

tuyến tính trong đó hệ số góc của đường thẳng chính là hệ số thải dengue-

IgG.

BÀN LUẬN

Nghiên cứu này là một phần trong chương trình nghiên cứu các bệnh

nhiễm trùng chu sinh và hậu quả ở trẻ nhủ nhi. Sự hiện diện của dengue-IgG

trong máu cuống rốn cho biết kháng thể này có nguồn gốc từ mẹ. Tuy nhiên

vì lý do kỹ thuật trong giai đọan này chúng tôi không định týp virus dengue

mà chỉ xét đến kháng thể dengue-IgG nói chung.

Tại Việt Nam, sốt xuất huyết là một bệnh rất thường gặp, gây nên

dịch có tính chu kỳ và tỷ lệ tử vong cao. Tỷ lệ 98% mẫu máu cuống rốn có

chức dengue-IgG cho thấy SXH hết sức phổ biến và mang tính nội dịch.

Lượng kháng thể truyền từ mẹ sang thai nhi giúp bảo vệ trẻ chống lại virus

dengue trong thời gian đầu, tuy nhiên khi kháng thể tiếp tục giảm xuống

dưới mức bảo vệ trẻ sẽ ở vào một trạng thái có nguy cơ nhiễm SXH do hiện

tượng gia tăng họat động của virus kéo dài khỏang 2 tháng. Chính vì vậy nếu

chích ngừa cho trẻ thì phải chích vào thời điểm thích hợp, trước giai đọan

gia tăng họat động của virus dengue.

Thời gian bán hủy của dengue-IgG trong nghiên cứu của chúng tôi là

6,3 tuần, KTC 95%: 5,7-6,9 tuần, không khác biệt đáng kể so với Gitlin và

Srisakul (25-45 ngày)(5,10,14). Với thời gian bán hủy như trên, giai đọan bảo

vệ ban đầu cho trẻ vào khỏang 6 tháng, kế đó sẽ là giai đọan trẻ có nguy cơ

cao nhiễm virus dengue kéo dài lối hai tháng. Mặc dù với cỡ mẫu nhỏ, số

liệu của chúng tôi cũng cho thấy 3/87 (3,4%) trẻ 6 tháng tuổi trẻ có phản ứng

(+) với dengue-IgM, 2/81 (2,5%) ở 9 tháng tuổi và 0/79 (0%) ở 12 tháng

tuổi. Điều này cho thấy trẻ có thể nhiễm virus dengue khá sớm và phù hợp

với sự suy đoán về giai đọan gia tăng khả năng nhiễm virus dengue (6-9

tháng tuồi).

Để kết luận, trong cộng đồng chúng ta SXH là một bệnh nội dịch với

98% mẫu máu cuống rốn có dengue-IgG. Thời gian bán hủy trung bình của

lượng kháng thể có nguồn gốc từ mẹ nói trên là 6,3 (KTC 95%: 5,7-6,9)

tuần, cho thấy trẻ có thể được bảo vệ trong 6 tháng đầu. Từ số liệu ban đầu

này, có thể tiếp tục nghiên cứu thêm về mối tương quan giữa lượng kháng

thể trong máu mẹ và con, các týp virus, và sự thay đổi khả năng mắc bệnh

của trẻ trong năm đầu.