
Các nguyên tắc chung của Luật quốc tế
1
Tiểu luận
Các nguyên tác chung của luật quốc tế

Các nguyên tắc chung của Luật quốc tế
2
MỤC LỤC
A. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA LUẬT QUỐC TẾ - GENERAL
PRINCIPLES OF INTERNATIONAL LAW: ................................................... 3
B. VỤ NHÀ MÁY CHORZOW........................................................................... 6
I. Tóm tắt vụ việc. .............................................................................................. 6
II. Submission của các bên ............................................................................... 6
1. Nguyên đơn Đức..................................................................................... 6
2. Bị đơn Ba Lan ......................................................................................... 8
III. Lập luận của Toà........................................................................................ 9
1. Vấn đề đối tượng tranh chấp................................................................... 9
2. Vấn đề về sự tồn tại của nghĩa vụ bồi thường....................................... 10
3. Vấn đề lượng và phương pháp đền bù .................................................. 10
4. Về submission 4(d) của Đức................................................................... 11

Các nguyên tắc chung của Luật quốc tế
3
A. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA LUẬT QUỐC TẾ - GENERAL PRINCIPLES OF
INTERNATIONAL LAW:
Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp mà một Tòa án xem xét một vụ việc trước khi biết
rằng không có quy định hay tập quán nào có thể được áp dụng trong vụ việc đó. Khi ấy, các
nguyên tắc pháp luật chung sẽ được viện dẫn đến.
Các nguyên tắc pháp luật chung là nguồn thứ 3 được liệt kê tại điều 38 Quy chế TAQT:
ARTICLE 38
1. The Court, whose function is to decide in accordance with international law such
disputes as are submitted to it, shall apply:
a. International conventions, whether general or particular, establishing rules
expressly recognized by the contesting States;
b. International custom, as evidence of a general practice accepted as Law;
c. The general principles of law recognized by civilized nations;
d. Subject to the provisions of Article 59, judicial decisions and the teachings of the
most highly qualified publicists of the various nations, as subsidiary means for the
determination of rules of law.
2. This provision shall not prejudice the power of the Court to decide a case en aequo
et bono, if the parties agree thereto.
ĐIỀU 38:
1. Tòa án mà trọng trách là giải quyết phù hợp với Luật quốc tế các tranh chấp đưa ra
trước Tòa, áp dụng:
a. Những điều ước quốc tế chung hoặc riêng, thiết lập các quy tắc được các quốc
gia tranh chấp thừa nhận rõ ràng;
b. Tập quán quốc tế như một chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như là luật;
c. Các nguyên tắc pháp luật chung được các quốc gia văn minh thừa nhận;
d. Phù hợp với điều 59, những quyết định của các tòa án quốc tế và các học thuyết
của các luật gia có trình độ cao của các nước khác nhau, như nguồn bổ sung xác
định các quy tắc của luật.
2. Quy định này không cản trở quyền năng của Tòa án trong việc đưa ra một quyết
định công bằng không dựa trên luật (en aequo et bono) khi giải quyết một vụ tranh
chấp nếu các bên đồng ý.
Nhiều học giả cho rằng các nguyên tắc pháp luật chung thực chất chỉ là sự khẳng định lại
các nguyên tắc pháp luật tự nhiên. Một số khác lại coi các nguyên tắc pháp luật chung chỉ là tiểu
đề của luật điều ước và luật tập quán quốc tế trừ khi nó phản ánh sự đồng thuận của các quốc gia.

Các nguyên tắc chung của Luật quốc tế
4
Dù thế nào thì các học giả nhìn chung đều chấp nhận rằng các nguyên tắc pháp luật chung là
nguồn riêng biệt và độc lập của luật nhưng có phạm vi khá giới hạn.
Cụm từ “các nguyên tắc pháp luật chung” (general principles) cũng là vấn đề tranh cãi
trong đó tồn tại hai quan điểm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng đó là các nguyên tắc chung
của luật quốc tế; quan điểm thứ hai cho rằng đó là các nguyên tắc chung của luật quốc gia. Tuy
nhiên, cũng không có lí do nào để nói rằng nó không thể là cả hai.
Theo cách định nghĩa thứ nhất, các nguyên tắc pháp luật chung chính là các nguyên tắc của
luật quốc tế. Cách định nghĩa này có vẻ đã hạn chế phạm vi các nguyên tắc có thể được áp dụng.
Theo cách định nghĩa thứ hai, những thiếu sót trong luật quốc tế có thể được bù đắp bằng cách
dựa theo các nguyên tắc phổ biến với tất cả hoặc hầu hết các hệ thống luật pháp quốc gia bởi luật
của các quốc gia là khác nhau nhưng các nguyên tắc cơ bản thì thường tương tự nhau. Cách định
nghĩa này lại không đề cập đến các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mà được tất cả các quốc
gia thừa nhận. Do đó, “các nguyên tắc pháp luật chung” nên được hiều đầy đủ bảo gồm các
nguyên tắc chung của luật quốc tế và các nguyên tắc chung phổ biến của luật quốc gia.
Không có gì phải bàn cãi về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nhưng với các nguyên
tắc chung của luật quốc gia thì việc xem xét xem các nguyên tắc đó có thể được coi là các
nguyên tắc pháp luật chung hay không lại gặp một số khó khăn.
Trên thực tế, không phải tất cả các nguyên tắc pháp luật chung được áp dụng trong thực
tiễn quốc tế đều xuất phát từ hệ thống pháp luật quốc gia và được chuyển hóa thành luật quốc tế
bằng cách công nhận. Một vài nguyên tắc dựa vào “công lý tự nhiên” (natural justice) phổ biến
với tất cả các hệ thống pháp luật (như nguyên tắc good faith, estoppels và proportionality), một
vài nguyên tắc lại chỉ được áp dụng theo logic mà các luật sư cảm thấy hợp lý (ví dụ như luật lex
specialis derogate legi generali - luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung chung, lex posterior
delogat legi priori – luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước đó) , và một vài nguyên tắc
khác lại liên quan đến “tình trạng đặc trưng của cộng đồng quốc tế” (the specific nature of
international community) như các nguyên tắc Jus cogens. Bởi vậy, Các nguyên tắc của luật quốc
gia có thể được coi là nguyên tắc chung của luật quốc tế chỉ giới hạn trong một số các nguyên tắc
mang tính thủ tục như: quyền tranh tụng công bằng, từ chối thẩm quyền, hay sự cạn kiệt các biện
pháp nội địa (exhaustion of local remedies) và một vài các nguyên tắc quan trọng, mang tính
chất căn bản như phong tục tập quán lâu đời (prescription) và trách nhiệm đối với vi phạm.
Chính thẩm phán và các trọng tài viên là người quyêt định xem một nguyên tắc pháp luật quốc
gia có thể được áp dụng như một nguyên tắc pháp luật chung của luật quốc tế hay không. Việc
này được biết đến như vai trò sáng tạo (creative role) của quan tòa và thường không phổ biến
trong hệ thống pháp luật quốc tế.

Các nguyên tắc chung của Luật quốc tế
5
Khó khăn gặp phải khi chứng minh một nguyên tắc là phổ biến ở hầu hết hoặc tất cả các hệ
thống pháp luật thực tế không quá nghiêm trọng. Các hệ thống pháp luật được phân chia thành
các nhóm luật mà luật của các quốc gia trong cùng một nhóm về cơ bản là giống nhau (ví dụ
thông luật và dân luật). Vấn đề là ở chỗ một nguyên tắc là phổ biến với nhóm luật này nhưng
liệu nó có tương tự ở các nhóm luật khác. Trong quá trình giải quyết các vụ việc, đôi khi các
thẩm phán hay trọng tài viên quốc tế dựa vào các nguyên tắc rút ra từ luật của quốc gia mình mà
không kiểm tra xem các nguyên tắc đó có được thừa nhận ở các quốc gia khác hay không. Thực
tế này hiển nhiên là không được mong đợi nhưng nó quá phổ biến để có thể quy là trái với luật.
Trong việc lựa chọn các thẩm phán cho ICJ, người được lựa chọn phải luôn luôn tâm niệm trong
đầu rằng “trong một cơ quan tổng thế, sự đại diện của các hình thái văn minh chính và các hệ
thống nguyên tắc pháp lý quốc tế phải được đảm bảo” (in the body as a whole the representation
of the main forms of civilization and of the principle legal systems of the world should be
assured”
Vào thế kỷ XIX, khi biện pháp trọng tài quốc tế trở nên phổ biến (được áp dụng rộng rãi),
nhu cầu tìm kiếm các luật liên quan đến thủ tục xét xử được đáp ứng bằng việc sử dụng luật quốc
gia (ví dụ như nguyên tắc chính tòa án có thẩm quyền quyết định liệu tòa có thẩm quyền giải
quyết vụ việc hay không hay nguyên tắc các yêu cầu khởi kiện (claims) được đưa ra Tòa sau
khoảng thời gian trì hoãn không hợp lý sẽ không được xem xét).
Hiện nay, các hợp đồng giữa các cá nhân hay các công ty với các quốc gia hay các tổ chức
quốc tế ngày càng gia tăng. Các điều ước quốc tế hay luật tập quán quốc tế có rất ít các quy tắc
có thể áp dụng được trong các lĩnh vực đó, và những thiếu sót đó được bù đắp bằng việc áp dụng
các nguyên tắc pháp luật chung của luật thương mại và luật hành chính. Các nguyên tắc đó được
dựa theo các nguyên tắc của các hệ thống pháp luật quốc gia. Ví dụ như các tòa hành chính quốc
tế giải quyết các tranh chấp giữa các tổ chức quốc tế với các nhân viên của họ đã áp dụng các
nguyên tắc được vay mượn từ các nguyên tắc pháp luật quốc gia (công chức phải được thông báo
về những ý kiến chống lại họ và có cơ hội phản biện lại những ý kiến đó).
Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng, môi trường mà luật quốc tế vận hành rất khác so với môi
trường của luật quốc gia, và các nguyên tắc của luật quốc gia có thể được sử dụng để lấp các chỗ
trống trong luật quốc tế chỉ khi chúng phù hợp với môi trường quốc tế.
Kết luận: vấn đề liệu một tòa án quốc tế có nghĩ vụ hoàn thiện các thiếu sót trong luật quốc
tế chính quy hay mang đến sự hoàn thiện cho hệ thống pháp luật, để đưa ra một phán quyết cứng
rắn và từ đó tránh được việc phải tuyên bố một vụ việc là non liquet (vấn đề không rõ ràng) vẫn
đang là vấn đề gây tranh cãi.