
- 1 -
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Khoa CTQT&NG
Các vấn đề toàn cầu
Cạn kiệt nguồn nước
)

- 2 -
Tổng quan
Từ những năm 1990 trở lại đây, cạn kiệt nguồn nước đã và đang là một trong các vấn
đề toàn cầu mà toàn nhân loại đang phải quan tâm. Vấn đền này nghe qua thì có vẻ đơn
giản nhưng hậu quả mà nó gây ra lại rất nghiêm trọng, bởi nó đe dọa tới sự sinh tồn và
phát triển của mỗi người chúng ta nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chính vì vậy, việc
khắc phục những hậu quả của nó đang là một mục tiêu mới nổi trong việc hoạch định
chính sách của các quốc gia hiện nay. Điều đó nói lên rằng các nhà hoạch định chính sách
trước đây chưa chú ý nhiều đến vấn đề này, và họ cần phải có được cái nhìn tổng quát
nhất về vấn đề cạn kiệt nguồn nước trên phạm vi toàn cầu cũng như trong nước mình. Bài
nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp cho nguời đọc cái nhìn tổng quát, khoa học về
vấn đề cạn kiệt nguồn nước, cùng những ví dụ về những nơi cụ thể được coi là điểm nóng
về thiếu nước hiện nay trên thế giới, để người đọc tham khảo và cùng suy nghĩ về một
vấn nạn mang tính chất toàn cầu. Do thời gian làm việc, tập trung nhóm có hạn và còn
một số mặt hạn chế của nhóm thực hiện tiểu luận này, nhóm chúng em mong cô giáo chỉ
bảo thêm và các bạn cùng góp ý.
Lời nói đầu
Tài nguyên nước (ở đây là tài nguyên nước ngọt) là một vấn đề môi trường
sinh thái, vấn đề kinh tế, và quan trọng hơn đó là vấn đề xã hội và chính trị. Sau
khi chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với việc tài nguyên nước toàn cầu ngày càng
thiếu nghiêm trọng, vấn đề này càng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Để có
được cái nhìn chung và khái quát cho mọi người, đồng thời góp phần làm cho bài
tiểu luận có giá trị khoa học cao, nhóm chúng tôi thấy nên trình bày vấn đề này
theo những nội dung chính sau: thực trạng, nguyên nhân, tác động tới quan hệ
quốc tế, giải pháp và khó khăn khi thực hiện.

- 3 -
Thực trạng nguồn nước hiện nay
Nếu không có gì thay đổi, chỉ trong vòng một thế hệ nữa, nghĩa là từ khoảng năm
2030, trên phạm vi toàn thế giới sẽ trở nên khô hạn. Vấn đề quản lí nguồn nước, nước
ngọt trong lục địa sẽ là vấn đề chính quyết định sự phát triển kinh tế và xã hội. Sự lãng
phí nước, sự ô nhiễm cũng như sự căng thẳng về nước (water stress), dù cách này hay
cách khác cũng sẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc
gia nghèo.
Trong bản báo cáo của Liên hợp quốc (LHQ) vừa được công bố mang tên “tương lai
2008”, có phần dự báo về những thách thức của loài người trong tương lai. Theo đó,
ngoài giá lương thực và năng lượng tăng cao, thì cùng với vấn đề thay đổi khí hậu, khan
hiếm nguồn nước cũng là một trong những thách thức vô cùng lớn đối với nhân loại trong
tương lai.
Theo số liệu thống kê của LHQ, hiện nay khoảng 20% dân số thế giới sống tại 30
quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt và con số này trong năm
2025 được dự báo sẽ lên tới 30%. Ngoài ra, có gần 50% dân số thế giới hiện không có hệ
thống nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn, do đó, hơn 1/3 dân số thế giới đang gặp phải các vấn đề
về sức khỏe liên quan tới nước.
Trong khi đó, số liệu của Viện Nước Quốc tế ở Stockholm (Thụy Điển -SIWI) cũng
cho thấy, mỗi ngày trên thế giới có tới 5.000 trẻ em tử vong vì bị tiêu chảy do điều kiện
vệ sinh không đảm bảo, không đủ nước cho sinh hoạt. Theo thống kê của Viện này,
lượng nước sinh hoạt trung bình dành cho người dân ở khu vực châu Á hiện nay chỉ đạt
khoảng 15-30% so với trong thập niên 50 của thế kỷ XX. Có nghĩa là viễn cảnh nước
ở khu vực châu Á đến năm 2025 rất đáng báo động, lượng nước sinh hoạt trung bình sẽ
giảm đến 70% so với năm 1950 và "nước sẽ là một trong những thách thức đau đầu nhất
đối với khu vực này".
Tại Trung Quốc, 200 sông suối và nhiều ao hồ ở khu vực quanh Thủ đô Bắc Kinh
đang dần cạn kiệt nước. Hơn 2/3 lượng nước thành phố đang sử dụng phải hút từ các
giếng sâu tới hơn 1.000m trở lên. Như vậy, Bắc Kinh có thể hết nước ngầm trong vòng 5-
10 năm tới.

- 4 -
Việt Nam hiện cũng thuộc số các quốc gia thiếu nước, với mức bình quân chỉ đạt
4.400 m3/người/năm (bao gồm cả nước mặt và nước ngầm), thấp hơn rất nhiều so với
mức bình quân của thế giới là 7.400 m3/người/năm.
Một số vùng như các sa mạc ở châu Phi, vùng Trung Đông, Ai Cập... cũng thiếu
nước trầm trọng, thậm chí đã diễn ra các cuộc xung đột về nước. Một nửa diện tích đất
canh tác của Ai Cập có nguy cơ bị chua mặn vì thiếu nước, bởi lẽ: mực nước của sông
Nile - "thần nước" của nền văn minh Ai Cập ngày nay đã tụt xuống 90 cm so với trước
đây.
Tại Châu Âu, cũng có tới 20 triệu người dân không được tiếp cận với các điều kiện
vệ sinh an toàn vì tình trạng thiếu nước. Hiện nay, Đức là quốc gia có giá nước sinh hoạt
đắt nhất thế giới, cao gấp 4 lần so với giá nước sinh hoạt tại Mỹ.
Ngay cả người dân ở Nam California (Mỹ), lần đầu tiên sau nhiều năm trong lịch sử
cũng phải đối mặt với chuyện tiết kiệm nước tối đa.
Bên cạnh đó, một vấn đề đạo lý cũng được đặt ra: đó là tình trạng bất bình đẳng giàu
nghèo trước nguồn nước. Hiện nay, một người sinh sống ở Bắc Mỹ bình quân sử dụng
400 lít nước mỗi ngày, một người ở châu Âu cũng dùng đến 200 lít/ngày.
Ngược lại, tại các nước nghèo đang phát triển, lượng nước bình quân sử dụng theo
đầu người chỉ vẻn vẹn khoảng 10 lít mỗi ngày.
Có thể thấy rằng nhân loại chúng ta sắp phải trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng
về nước. Nó ảnh hưởng tới lợi ích sống còn của nhiều dân tộc nhiều quốc gia, đặc biệt là
những nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Vì vậy mà chúng ta cần phải tìm hiểu nguyên
nhân gây ra tình trạng trên mà qua đó ta sẽ có thể tìm ra được giải pháp phù hợp ngăn
chặn thảm họa đó.
Nguyên nhân cạn kiệt nguồn nước
Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm và quan trọng nhất đang bị cạn kiệt.
Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm hoạ lớn cho sự sống còn
của loài người, cũng như toàn bộ trái đất. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra vấn đề trên,
tuy nhiên, theo báo cáo của Liên Hợp Quốc có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Sự tăng trưởng dân số và kinh tế ở châu Á cũng như ở nhiều quốc gia đang phát
triển khác là một nhân tố quan trọng dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn nước. Theo ước

- 5 -
tính của LHQ, dân số thế giới năm 2050 sẽ đạt tới 9 tỷ người, như vậy nhu cầu sử dụng
nước sẽ tăng lên và việc tiếp cận với nguồn nước sạch ngày càng khó hơn.
Thêm vào đó là tốc độ đô thị hóa quá nhanh, tốc độ phát triển kinh tế cao và sự thay
đổi trong cách ăn uống của người dân bị đô thị hóa cũng là nguyên nhân gây ra cạn kiệt
nguồn nước. Phần lớn chất thải công nghiệp và sinh hoạt được thải ra các dòng nước,
cùng với việc sử dụng quá nhiều phân khoáng và thuốc trừ sâu của nông dân khiến cho
các tầng nước ngầm bị ô nhiễm, gây ra tình trạng khan hiếm nguồn nước.
Mặt khác, nhu cầu nước dùng cho nông nghiệp tăng cao, càng làm cạn kiệt nguồn
nước. Theo SIWI, hoạt động nông nghiệp của thế giới hiện sử dụng 70% lượng nước khai
thác, trong khi đó 60% lượng nước này bị sử dụng không hiệu quả. Trong khi đó tình
trạng và nhu cầu tưới tiêu của nông nghiệp lại không ngừng tăng lên cùng với sự phát
triển dân số. Ngay cả những nước có khí hậu ôn hòa như Pháp thì lượng nước dành cho
nông nghiệp cũng chiếm tới 30% tổng lượng nhu cầu. Tiêu thụ ở những thành phố lớn
cũng không ngừng tăng lên. Ở đó có một kẻ tiêu thụ mới nhưng cũng không kém phần
tham lam: du lịch. Tính trung bình, một khách du lịch trong một khách sạn hạng sang tiêu
thụ từ 500 đến 800l nước/ngày, gấp nhiều lần mức tiêu thụ của cư dân bản địa. Kèm theo
là các dịch vụ giải trí và vệ sinh. Một sân golf hằng năm tiêu thụ khoảng 10.000m3 nước
cho một ha, tương đương với một diện tích trồng trọt trong nông nghiệp. Thêm vào đó
thủy điện và công nghiệp cũng là những kẻ tiêu thụ nước với số lượng lớn. Cùng với đó
là những tác động xấu đến sinh thái và văn hóa – xã hội ở các khu vực nhà máy.
Rác thải gây ô nhiễm, khí hậu biến đổi và ô nhiễm môi trường từ nhiều nguồn khác
cũng khiến nguồn nước sạch khan hiếm dần. Có những dự báo cho rằng, khí hậu toàn cầu
ấm dần lên nên lưu lượng nước nhiều con sông ở châu Á và châu Phi có thể giảm từ 15-
50%. Hơn nữa, nước băng tan không bổ sung cho nguồn nước ngọt, mà thường chảy ra
biển thành nước mặn.
Tình hình trên càng trở nên trầm trọng hơn bởi việc quản lí tài nguyên nước đòi hỏi
phải có những cơ quan quản lí chuyên trách, có tính cách liên vùng và liên quốc gia. Vậy
mà hiện nay, đó lại chính là khâu còn thiếu. Hơn thế nữa, một chính sách tiết kiệm nước
bằng giá cả thông qua việc quy định một mức giá bao hàm tất cả mọi thứ chi phí về sử
dụng nước vẫn còn chưa được phổ biến. Càng ngày, người ta càng nhận thấy rằng không

