l
i
d
e
z
i
r
o
h
t
u
A
e
r
u
s
o
c
s
D
c
i
l
b
u
P
l
i
d
e
z
i
r
o
h
t
u
A
e
r
u
s
o
c
s
D
c
Nghiên Cứu Ô Nhiễm Nông Nghiệp Khu Vực của Ngân Hàng Thế giới
i
l
b
u
P
d
e
z
i
r
o
h
t
l
i
u
A
e
r
u
s
o
c
s
D
c
i
l
b
u
P
l
i
Tổng quan về Ô nhiễm
Nông nghiệp ở
Việt Nam:
Ngành Chăn nuôi
2017
d
e
z
i
r
o
h
t
u
A
e
r
u
s
o
c
s
D
c
i
l
b
u
P
Nghiên Cứu Ô Nhiễm Nông Nghiệp Khu Vực của Ngân Hàng Thế giới
Tổng quan về Ô nhiễm
Nông nghiệp ở Việt Nam:
Ngành Chăn nuôi
2017
Báo cáo trình cho
Ban Môi trường và Nông Nghiệp của Ngân Hàng Thế Giới
Tác giả của
Tùng Xuân Đinh
© 2017 Ngân hàng Tái thiết và Phát triển / Ngân hàng Thế giới
1818 H Street NW
Washington DC 20433
Điện thoại: 202-473-1000
Internet: www.worldbank.org
Công việc này là sản phẩm của nhân viên Ngân hàng Thế giới. Các phát hiện, diễn giải, và
kết luận được thể hiện trong tài liệu này là của các tác giả và không nhất thiết phản ánh
quan điểm của Ngân hàng Thế giới, Hội đồng Quản trị hoặc các chính phủ mà họ đại diện.
Ngân hàng Thế giới không đảm bảo tính chính xác của dữ liệu được đưa vào tác phẩm này.
Các ranh giới, màu sắc, mệnh giá và các thông tin khác được thể hiện trên bất kỳ bản đồ
nào trong tác phẩm này không ngụ ý bất kỳ phán quyết nào của Ngân hàng Thế giới liên
quan đến tình trạng pháp lý của bất kỳ lãnh thổ nào hoặc sự xác nhận hoặc chấp nhận các
ranh giới đó.
Quyền hạn
Tài liệu trong tác phẩm này phải tuân theo bản quyền. Bởi vì Ngân hàng Thế giới khuyến
khích phổ biến kiến thức của mình, tác phẩm này có thể được sao chép, toàn bộ hoặc một
phần, cho các mục đích phi thương mại miễn là có đầy đủ ghi nhận cho tác phẩm này được
đưa ra. Mọi truy vấn về quyền và giấy phép, bao gồm cả các quyền phụ thuộc, cần được
gửi tới Ngân hàng Thế giới Ấn phẩm, Nhóm Ngân hàng Thế giới, 1818 H Street NW,
Washington, DC 20433, USA; Fax: 202-522-2625; E-mail: pubrights@worldbank.org.
Trích dẫn báo cáo này như sau:
Đinh, Tùng Xuân. 2017. "Tổng quan về Ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam: Ngành chăn
nuôi" Chuẩn bị cho Ngân hàng Thế giới. Washington, DC.
Ảnh bìa, theo chiều kim đồng hồ từ phía trên bên trái (cần thêm giấy phép để tái sử dụng):
• Trại nuôi lợn ở Long An. © bamboofox / Alamy Stock Photo.
• TH Milk. © Afimilk.
• Trại vịt. © Bản quyền thuộc về Tommy Trenchard / Alamy Stock Photo.
• Trang trại gia cầm. © bamboofox / Alamy Stock Photo.
MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt .........................................................................................................................iv
Lời nói đầu ...........................................................................................................................................v
1 Giới thiệu ................................................................................................ 1
2 Khung phân tích .................................................................................... 3
3 Kết quả và thảo luận.............................................................................. 5
3.1 Phát triển chăn nuôi và các xu hướng chăn nuôi thâm canh .......................................5
3.2 Tái cơ cấu phân ngành chăn nuôi của BỘ NN&PTNT .............................................7
3.3 Hệ thống sản xuất chăn nuôi và các thực hành quản lý chất thải ...............................7
4 Tác động vật lý tới môi trường .......................................................... 15
4.1 Khối lượng phân động vật được tạo ra và xả thải vào môi trường ........................... 15
4.2 Các loại ô nhiễm ................................................................................................................ 16
5 Tác động kinh tế - xã hội ..................................................................... 21
5.1 Tác động lên sức khỏe con người ................................................................................... 21
5.2 Tác động lên sức khỏe động vật ...................................................................................... 22
5.3 Vấn đề kháng thuốc ........................................................................................................... 22
5.4 Tác động kinh tế ................................................................................................................ 22
6 Yếu tố tác động .................................................................................... 25
6.1 Xu hướng sản xuất và quản lý chất thải ......................................................................... 25
6.2 Những khó khăn trong việc áp dụng quản lý chất thải chăn nuôi tốt hơn ............ 25
6.3 Thiếu ưu đãi cho việc áp dụng quản lý chất thải cải tiến ........................................... 26
6.4 Áp lực xã hội thấp .............................................................................................................. 26
6.5 Các chính sách mâu thuẫn ưu tiên cho chăn nuôi tăng cường ................................ 27
7 Các biện pháp can thiệp ..................................................................... 29
7.1 Các chính sách và quy định về quản lý chất thải chăn nuôi ..................................... 29
7.2 Các công nghệ có tại địa phương cho việc quản lý chất thải chăn nuôi ................. 30
8 Thiếu hụt kiến thức và dữ liệu ........................................................... 33
8.1 Thiếu hụt về kiến thức ...................................................................................................... 33
8.2 Thiếu hụt về dữ liệu .......................................................................................................... 34
8.3 Các điểm nóng nên thực hiện nghiên cứu điểm ......................................................... 34
ii
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
9 Kết luận và khuyến nghị ..................................................................... 35
9.1 Những kết luận chính ....................................................................................................... 35
9.2 Khuyến nghị ....................................................................................................................... 37
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................................... 39
Phụ lục ................................................................................................................................................ 42
iii
Mục lục
Danh mục cách Hình
Hình 1. Khung phân tích ................................................................................................................3
Hình 2. Tỷ lệ thịt theo loài năm 2014 ..........................................................................................5
Hình 3. Tỷ lệ phân bón theo loài năm 2014................................................................................5
Hình 4. Biểu đồ số lượng vật nuôi 2005–2015 tại Việt Nam..................................................6
Hình 5. Sản xuất thịt và trứng tại Việt Nam ...............................................................................6
Hình 6. Tổng sản phẩm quốc nội, sản xuất thịt và tiêu thụ thịt ..............................................6
Hình 7. Thực hành quản lý chất thải lợn tạiViệt Nam ........................................................... 10
Hình 8. Sơ đồ nước thải theo EM thứ cấp ................................................................................ 11
Hình 9. Sự liên quan giữa các loại chuồng trại, thực hành quản lý chất thải và vệ sinh .. 12
Hình 10. Khối lượng phân động vật theo loài từ 2010 tới 2014 ......................................... 16
Hình 11. Khối lượng phân trên mỗi km2 theo loài và vùng năm 2014 .............................. 16
Danh sách các Bảng
Bảng 1. Các đặc điểm của hệ thống chăn nuôi tại Việt Nam ...................................................8
Bảng 2. Khối lượng chất thải động vật thải vào môi trường theo vùng tại Việt Nam ...... 16
Bảng 3. Tổng khối lượng phát thải CO2 tương đương với năm 2012 ................................. 18
Bảng 4. Những văn bản pháp quy liên quan tới ô nhiễm chăn nuôi .................................... 42
Các thực hành quản lý chất thải ................................................................................................... 44
iv
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bộ TN&MT
BOD5
CH
CH4
CO2
COD
ĐBSCL
ĐBSH
ĐNB
DHBNTB
DLP
EIA
EM
FO
H2S
LCASP
LIFSAP
LPC
MNTDPB
NGO
NH3
NO2
NO3
NSCC
P
PRRS
QSEAP
SNN&PTNT
TCTK
TN
TP HCM
VAC
VAHIP
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nhu cầu oxy sinh hoá 5 ngày
Khu vực Tây nguyên
Mêtan
Carbon Dioxide
Nhu cầu oxy hóa học
Đồng bằng Sông Cửu Long
Đồng bằng Sông Hồng
Đông Nam Bộ
Duyên hải Bắc và Nam Trung bộ
Cục Chăn nuôi
Đánh giá Tác động Môi trường
Vi sinh vật hữu hiệu
Tổ chức Nông dân
Hydro-sunfua
Dự án Hỗ trợ Nông nghiệp Các bon thấp
Dự án Cạnh tranh Ngành chăn nuôi và An toàn Thực phẩm
Nhóm Chăn nuôi
Miền núi và Trung du phía Bắc
Tổ chức Phi chính phủ
A-mô-ni-ắc
Nitrite
Nitrate
Bắc Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ
Phosphorus
Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
Dự án nâng cao chất lượng và an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát
triển khí sinh học
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Tổng Cục Thống Kê
Tây Nguyên
Thành phố Hồ Chí Minh
Vuon-Ao-Chuong
Dự án phòng chống dịch cúm gia cầm, cúm ở người và dự phòng đại
dịch ở Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Từ tháng 7 năm 2015 đến tháng 12 năm 2016, Ngân hàng Thế giới đã tiến hành nghiên
cứu khu vực về ô nhiễm nông nghiệp ở Đông Á, tập trung vào Trung Quốc, Việt Nam và
Philippines, hợp tác với Bộ Nông nghiệp của mỗi nước. Nỗ lực này nhằm cung cấp một cái
nhìn khái quát về các vấn đề ô nhiễm liên quan đến nông nghiệp ở các quốc gia và khu vực
này như mức độ, tác động, và các yếu tố tác động đến ô nhiễm và những gì đang được thực
hiện về vấn đề này. Nghiên cứu cũng tìm cách đưa ra những cách tiếp cận tiềm năng để giải
quyết những vấn đề này trong tương lai. Nghiên cứu nhằm xem xét sự chuyển đổi cơ cấu
của ngành nông nghiệp và sự phát triển của sản xuất nông nghiệp đang tạo ra các vấn đề ô
nhiễm nông nghiệp và các cơ hội giảm thiểu. Nó cũng đưa ra để xác định những khoảng
trống về kiến thức, chỉ ra các hướng đầu tư và nghiên cứu trong tương lai. Các Bộ Nông
nghiệp và Môi trường là đối tượng chính của nghiên cứu. Đối tượng thứ hai bao gồm các tổ
chức phát triển, các hiệp hội ngành nghề và các đối tượng khác quan tâm đến nông nghiệp
bền vững và sức khoẻ và bảo vệ môi trường.
Nghiên cứu này là tổng thể của một công trình và bao gồm nhiều hợp phần, trong đó có
tổng quan về tình trạng ô nhiễm nông nghiệp ở ba quốc gia trọng điểm, các bài báo chuyên
đề, và một báo cáo tổng thể. Báo cáo này là một phần trong báo cáo tổng quan quốc gia
về tình trạng ô nhiễm nông nghiệp ở Việt Nam, và cụ thể là báo cáo về tình hình ô nhiễm
trong chăn nuôi. Báo cáo này đưa đến một cái nhìn khái quát trên toàn quốc về (a) mức
độ, các tác động và yếu tố chi phối vấn đề ô nhiễm liên quan tới sự phát triển của ngành
chăn nuôi; (b) các biện pháp được khu vực công thực hiện nhằm quản lý hoặc giảm nhẹ ô
nhiễm; và (c) những thiếu hụt về kiến thức và phương hướng nghiên cứu trong tương lai.
Báo cáo này được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu hiện có, các phân tích gần đây
và số liệu thống kê quốc gia và quốc tế. Báo cáo này không thực hiện nghiên cứu mới và
không nỗ lực đề cập những vấn đề ô nhiễm được nêu ra trong chuỗi giá trị chăn nuôi vượt
ra khỏi lĩnh vực chăn nuôi—ví dụ như các lò mổ, các nhà máy chế biến thức ăn hay nhà
máy sản xuất thuốc thú y. Bản dự thảo trước đó của báo cáo này đã được gửi tới các bên liên
quan đại diện cho các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các viện nghiên cứu
và đã được thảo luận tại hội thảo tham vấn các bên liên quan vào tháng 12 năm 2016. Báo
cáo đã được hoàn thiện bằng cách củng cố và giải quyết các ý kiến từ các bên liên quan và
nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới.
Báo cáo này được viết bởi Đinh Xuân Tùng với sự đóng góp của Emilie Cassou và Cao
Thăng Bình.
vi
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
Nghiên cứu này đã được thực hiện với sự tài trợ của Quỹ Uỷ thác Phát triển Cơ sở hạ tầng
Đông Á và Thái Bình Dương do Australia tài trợ và do Nhóm Ngân hàng Thế giới điều
hành.
GIỚI THIỆU
1
Trong 10 năm qua, dân số của Việt Nam đã tăng khoảng 1,03%/năm, từ 83,1 triệu
người năm 2005 đến 93,4 triệu người năm 2015. Năm 2014, tỷ lệ dân số đô thị đạt 31%,
tăng từ 27,1% vào năm 2005 (TCTK 2012). Cũng trong giai đoạn này, thu nhập bình
quân đầu người của quốc gia tăng từ 699 USD lên đến 2.111 USD, biến Việt Nam từ một
quốc gia thu nhập thấp thành một quốc gia thu nhập trung bình thấp (Ngân hàng Thế giới
2016).
Nhu cầu về thực phẩm cũng tăng lên nhanh chóng do sự gia tăng dân số và thu nhập,
đồng thời mô hình tiêu thụ thực phẩm cũng đã thay đổi. Thập kỷ vừa qua đã chứng kiến
những cấp độ tăng trưởng rất cao trong tiêu thụ thịt (đặc biệt là thịt lợn), sữa và trứng—
mức độ tăng trưởng này cao hơn bất cứ quốc gia nào khác trong khu vực ( Jaffee và cộng sự
2016).
Chăn nuôi thâm canh chính là cách phản hồi của ngành đối với nhu cầu gia tăng này,
đặc biệt là trong sản xuất gia cầm và chăn nuôi lợn; điều này đã gây ra thêm các vấn đề
về môi trường. Chăn nuôi là một trong những phân ngành phát triển nhanh chóng nhất
của sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam. Trong 10 năm qua, sản xuất chăn nuôi tại Việt
Nam đã có sự thay đổi lớn. Số lượng vật nuôi đã và đang tăng lên trong khi số hộ chăn nuôi
giảm xuống. Chăn nuôi thâm canh tại những cơ sở chăn nuôi lớn thường tạo ra nhiều chất
thải hơn so với khả năng tái chế để sử dụng làm phân bón hoặc khí đốt sinh học. Kết quả là
việc xả thải không hợp lý và thiếu sót trong xử lý chất thải trước khi xả thải vào môi trường
xung quanh đã gây ra những cấp độ ô nhiễm cục bộ khác nhau đối với nước, đất và không
khí, đồng thời gây ra một tác động tiêu cực đối với y tế công cộng, đặc biệt là trong hoặc
gần những khu vực đông dân cư.
Mục tiêu của nghiên cứu tổng quan ngày là nhằm cung cấp một cái nhìn khái quát trên
toàn quốc về (a) ô nhiễm liên quan tới phát triển chăn nuôi—mức độ, các tác động và
tác nhân; (b) các biện pháp hiện có nhằm quản lý hay giảm nhẹ ô nhiễm chất thải trong
những hệ thống chăn nuôi khác nhau và khả năng giải quyết các vấn đề khi tiếp tục phát
triển; và (c) những thiếu hụt kiến thức hiện nay, phương hướng nghiên cứu và biện pháp
can thiệp trong tương lai. Báo cáo được chia làm 9 phần. Phần 1 lời giới thiệu; phần 2 trình
bày khung phân tích; phần 3 trình bày các kết quả và thảo luận, trong đó bao gồm phát
triển chăn nuôi và các xu hướngthâm canh, các hệ thống sản xuất và thực hành quản lý chất
2
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
thải, những tác động thực tế đối với môi trường và những
tác động về mặt kinh tế- xã hội; phần 4 đề cập đến các tác
động tự nhiên đối với môi trường; phần 5 trình bày các tác
động về kinh tế xã hội; phần 6 trình bày những nhân tố tác
động; phần 7 thảo luận về các biện pháp can thiệp; phần
8 nói về thiếu hụt kiến thức và dữ liệu hiện nay; và phần 9
đưa ra các kết luận và khuyến nghị.
KHUNG PHÂN TÍCH
Hình 1 trình bày khung phân tích hướng dẫn nghiên cứu này.
2
Hình 1. Khung phân tích
C Á C N H Â N T Ố T H Ú C Đ Ẩ Y
TÁC ĐỘNG VẬT LÝ
CÁC HOẠT ĐỘNG Ở CẤP
TRANG TRẠI
TÁC ĐỘNG VỀ KINH TẾ XÃ
HỘI VÀ CÁC TÁC ĐỘNG KHÁC
Sức khỏe con người
Quản lý nước thải
và phân
Không khí
(Chăn nuôi và
thủy sản)
Quản lý thức ăn
và quản lý khác
Sức khỏe động vật hoang dã
và đa dạng sinh thái
Đất
Phân bón
Dịch vụ hệ sinh thái
Thuốc trừ sâu
Nông nghiệp và kinh doanh nông nghiệp
Nước
Trồng trọt
Chất đốt
Giải trí và ngành công nghiệp khác
Thức ăn
Nhựa
Thẩm mỹ và chất lượng cuộc sống
NƯỚC
KHÔNG KHÍ
ĐẤT
THỰC PHẨM
Lưu ý: Dưới tác động về kinh tế xã hội và các tác động khác, đa dạng sinh thái và sức khỏe động vật hoang dã bao gồm bao gồm thực vật và động vật; các dịch vụ hệ sinh thái bao gồm ổn định
khí hậu / thay đổi khí hậu.
KẾT QUẢ VÀ THẢO
LUẬN
3
3.1 Phát triển chăn nuôi và các xu hướng
chăn nuôi thâm canh
Ngành chăn nuôi tại Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong nông nghiệp. Nó
chiếm 28% giá trị sản xuất nông nghiệp (FBLI- Booklet 2015) và là một trong những phân
ngành nông nghiệp tăng trưởng nhanh nhất. Trong năm 2014, đã có 4,58 triệu tấn thịt
lợn, bò và gia cầm được giết mổ tại Việt Nam. Thịt lợn chiếm ưu thế trong sản xuất thịt
tại Việt Nam (72,6%), và sau đó là thịt gia cầm (18%), thịt bò (6,3%), và thịt trâu (1,8%)
(TCTK1 2012).
Trong 10 năm qua, số lượng gia cầm đã tăng lên nhanh hơn mức độ trung bình. Trong
khi số lượng lợn, bò và trâu giảm nhẹ lần lượt là 0,27%, 0,4% và 1,64% mỗi năm, số lượng
gia cầm ngược lại đã tăng lên đáng kể với tỷ lệ 4,56%/năm trong cùng thời kỳ (Hình 4).
Hình 2. Tỷ lệ thịt theo loài năm 2014
Hình 3. Tỷ lệ phân bón theo loài năm 2014
Lợn 30%
Trâu và các
18%
loại khác
Thịt gia
cầm
19%
Thịt lợn
73%
Gia súc 24%
Gia cầm 28%
Thịt bò 6%
Thịt trâu và các
loại khác
2%
Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK).
1 Tổng Cục Thống Kê (TCTK)
6
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
Hình 4. Biểu đồ số lượng vật nuôi 2005–2015 tại Việt Nam
Triệu con
30 –
Triệu con
350 –
300 –
25 –
250 –
20 –
200 –
15 –
150 –
10 –
100 –
5 –
50 –
0 –
0 –
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Lợn
Trâu
Gia súc
Gia cầm
Nguồn: TCTK 2004–2015..
Hình 5. Sản xuất thịt và trứng tại Việt Nam
1,000 tấn
3.500 –
Triệu quả
9.000 –
8.000 –
3.000 –
7.000 –
2.500 –
6.000 –
2.000 –
5.000 –
4.000 –
1.500 –
3.000 –
1.000 –
2.000 –
500 –
1.000 –
0 –
0 –
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Thịt lợn
Thịt gia cầm
Thịt bò
Thịt trâu
Trứng
Nguồn: TCTK 2004–2015.
Hình 6. Tổng sản phẩm quốc nội, sản xuất thịt và tiêu thụ
thịt
2.500 –
2.000 –
1.500 –
1.000 –
500 –
0 –
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
▬ GDP/đầu người
▬ Sản lượng thịt
▬ Lượng thịt/Dầu người
Đặc biệt hơn, số lượng lợn dao động giảm từ 27,4 triệu
năm 2005 xuống 26,5 triệu năm 2007, và lại tăng lên vào
năm 2009, sau đó trở nên ổn định trong những năm gần
đây. Cũng tương tự như vậy, số lượng bò tăng từ 5,5 triệu
con năm 2005 tới 6,7 triệu năm 2007, và sau đó bắt đầu
giảm sút. Số lượng trâu cũng giảm dần từ 2,9 triệu con năm
2005 tới 2,5 triệu con năm 2014. Chỉ có gia cầm cho thấy
sự gia tăng ổn định từ năm 2006 tới 2011 và giữ vững ở
mức cao trong những năm gần đây. Về mặt sản phẩm chăn
nuôi, tất cả các loại sản phầm thịt và trứng tăng lên đáng
kể với mức cao nhất của thịt gia cầm, sau đó là thịt bò, thịt
lợn và thịt trâu (Hình 5).
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Chính phủ Việt Nam.
Nhu cầu tăng cao đối với các sản phẩm chăn nuôi đã dẫn
tới quá trìnhthâm canh trong các hệ thống chăn nuôi.
Việc sản xuất thịt trong thập kỷ trước đây đã tăng trưởng
nhanh để đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao đối với
thịt, sữa và trứng. Thập kỷ vừa qua, tổng sản phẩm quốc
nội trên đầu người đã tăng gấp hơn 3 lần trong khi sản xuất
thịt chỉ tăng gấp đôi; Việt Nam đã phải nhập khẩu thịt để
7
3. Kết quả và thảo luận
hơn, quản lý chất thải động vật tốt hơn, cải thiện các tiêu
chuẩn an toàn sinh học và an toàn thực phẩm.
3.3 Hệ thống sản xuất chăn
đáp ứng nhu cầu trong nước. Năm 2014, Việt Nam đã sử
dụng 486 triệu USD để nhập khẩu thịt gia cầm và thịt bò
từ Mỹ, Brazil, Hàn Quốc, Úc. Năm 2014, tổng giá trị sản
xuất chăn nuôi của Việt Nam vào khoảng 353.876 tỷ đồng,
trong đó chăn nuôi thâm canh và bán thâm canh chiếm
64,2% (khoảng 227.260 tỷ đồng); số lượng còn lại có được
từ chăn nuôi quảng canh và tự cung tự cấp (Nguyễn 2015).
nuôi và các thực hành
quản lý chất thải
3.3.1 Những đặc điểm chính của các hệ
thống sản xuất chăn nuôi
3.2 Tái cơ cấu phân ngành
chăn nuôi của BỘ
NN&PTNT
Ngành chăn nuôi tại Việt Nam trải qua một thay đổi cấu
trúc liên quan tới một chuyển dịch, tiến đến những hệ
thống chăn nuôi thâm canh và quy mô sản xuất lớn hơn.
Trong thập kỷ vừa qua, số lượng cơ sở sản xuất chăn nuôi
đã giảm theo các năm và đồng thời sản xuất cũng chuyển
dịch dần từ quy mô nhỏ sang chăn nuôi công nghiệp (Bảng
1). Ví dụ như tại Đồng Nai—tỉnh sản xuất chăn nuôi lớn
nhất cả nước—số lượng lợn tăng lên từ 1,12 triệu con năm
2010 tới 1,5 triệu con năm 2015, trong đó các cơ sở chăn
nuôi thâm canh chiếm khoảng 70% (gồm 2.200 trang trại
chăn nuôi thâm canh quy mô lớn). Số còn lại là những cơ
sở chăn nuôi thương phẩm quy mô nhỏ.
Về khối lượng sản xuất và giá trị kinh tế, chăn nuôi lợn
là phân ngành lớn nhất, sau đó là chăn nuôi gia cầm. Hai
phân ngành này tạo nên phần quan trọng nhất trong sản
xuất chăn nuôi. Chăn nuôi lợn và gia cầm được thực hiện
rộng rãi tại cả 6 vùng sinh thái nông nghiệp của quốc gia
nhưng tập trung nhiều nhất tại những khu vực đồng bằng
như Đồng bằng sông Hồng, Tây Nam Bộ, Đồng bằng
sông Cửu Long, trong khi những gia súc nhai lại được
nuôi nhiều hơn tại những khu vực miền núi, nơi có các
hệ thống chăn nuôi—trồng trọt hỗn hợp chiếm ưu thế.
Trên 40% đàn bò tập trung tại vùng duyên hải Bắc và Nam
Trung Bộ; số lượng lớn thứ hai thuộc về vùng núi và trung
du phía Bắc (17,7%)
Trong năm 2014, chính phủ đã ban hành kế hoạch tái cơ
cấu ngành nông nghiệp, trong đó có kế hoạch tái cơ cấu
chăn nuôi. Kế hoạch nhằm tái cơ cấu sản xuất chăn nuôi
dự kiến những thay đổi trong phân bố vùng chăn nuôi,
hệ thống chăn nuôi và chuỗi giá trị cùng với công tác tăng
cường thể chế. Cũng trong năm này, Bộ NN&PTNT đã
thông qua đề án tái cơ cấu ngành chăn nuôi hướng tới gia
tăng giá trị và phát triển bền vững và một Kế hoạch Hành
động để triển khai đề án đó. Một mục đích chủ yếu chính
là tăng cường hiệu quả sản xuất chăn nuôi và tính cạnh
tranh bằng cách tập trung vào 5 lĩnh vực ưu tiên. Đó là
(a) phân bố lại số lượng vật nuôi tại 8 vùng sinh thái nông
nghiệp, bao gồm di chuyển dần vật nuôi từ những khu vực
đông dân cư tới những khu vực có dân cư thưa thớt hơn
như những khu vực cao nguyên, miền núi, và di chuyển
những khu chăn nuôi ra xa khỏi các thành phố và khu vực
dân cư; (b) thay đổi thành phần sản phẩm chăn nuôi tiến
tới một tỷ lệ lớn hơn của gia cầm trong khi duy trì đàn lợn
và đàn bò; (c) chuyển đổi các hệ thống chăn nuôi từ chăn
nuôi quy mô nhỏ sang quy mô lớn; (d) tăng cường chuỗi
giá trị chăn nuôi; và (e) tăng cường thể chế. Cũng theo đó,
một trong các chiến lược là nhằm thúc đẩy một sự thay
đổi từ chăn nuôi quy mô nhỏ và tự cung tự cấp sang chăn
nuôi thâm canh và công nghiệp hóa cao hơn thông qua
việc phát triển các cơ sở chăn nuôi lớn.
Lý do phía sau công tác tái cơ cấu ngành chăn nuôi chính
là khả năng thấy trước được sự gia tăng sản lượng và chất
lượng của phân ngành chăn nuôi để đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước, đóng góp vào an ninh dinh dưỡng
quốc gia và giảm sự phụ thuộc vào những nguồn nhập
khẩu. “Phát triển chăn nuôi bền vững” được coi là có thể
đạt được thông qua sử dụng thức ăn chăn nuôi hiệu quả
Trong những năm vừa qua, sản xuất chăn nuôi cũng
đã dần chuyển từ những vùng có mật độ dân cư cao tới
những vùng có mật độ dân cư thấp hơn và trong quá
trình đó những cụm chăn nuôi tập trung đã hình thành.
Động thái này đang diễn ra rõ ràng hơn tại những vùng
xung quanh các thành phố lớn (đó là Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh [TP HCM]). Ví dụ như tỉnh Thái Bình
nằm cách Hà Nội 100 km. Tỉnh này đứng thứ tư về số
8
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
Bảng 1. Các đặc điểm của hệ thống chăn nuôi tại Việt Nam
Số lượng và
sản lượng Gia cầm
• Có 324,6 triệu con năm 2014,
tăng 1,47 lần trong giai đoạn
2005–2014. Bò/trâu
• Số lượng gia súc tăng lên một
cách ổn định từ 5,5 triệu năm
2005 tới 6,7 triệu năm 2007 và
đã bắt đầu giảm xuống. Sữa
• Sản xuất được 227.600 tấn
sản phẩm từ sữa năm 2014,
tăng lên 2,1 lần trong giai
đoạn 2005–2014. • Ghi nhận 873.200 tấn thịt năm 2014. • Sản xuất được 549.533 tấn sữa năm 2014 (TCTK2012). Lợn
• Số lượng lợn giảm dần từ 27,4
triệu trong 2005 xuống còn
26,7 triệu trong năm 2014.
• 3,33 triệu tấn thịt hơi được
ghi nhận trong năm 2014.
• Thịt lợn chiếm khoảng 74% • Thịt gia cầm nhiều thứ hai,
tổng số thịt ở Việt Nam (TCTK
2012). chiếm 19% tổng số lượng thịt
sản xuất tại Việt Nam (TCTK
2012). • Tại ĐBSH, 90% số bò sữa Quy mô sản
xuất • Quy mô đàn bò trung bình
trên mỗi cơ sở chăn nuôi là
6,2 con. • Hộ gia đình có trên 10 con thuộc sở hữu của những nông
dân cá thể với trung bình 3,91
con bò sữa/cơ sở chăn nuôi
(Đinh 2009b). chiếm 10%. • Số lượng trâu là 1,9 con/ • Năm 2013, hộ chăn nuôi
nhỏ (1–50 con) chiếm tới
89,6%; nuôi bán công nghiệp
(50–99 con) chiếm 7,2% và
cơ sở chăn nuôi công nghiệp
(>100 con) chỉ chiếm 3,25%
(TCTK2012). • Năm 2014, 70% số con lợn và
60% sản phẩm thịt lợn được
sản xuất bởi các cơ sở chăn
nuôi hộ gia đình, số còn lại
có được từ những người sản
xuất lợn thương phẩm quy
mô lớn (Cục Chăn nuôi 2015a;
Dũng 2013). hộ chăn nuôi và chiếm 1,5%
(Đinh2009a).
• Tại TP HCM, các cơ sở chăn
nuôi có ít hơn 20 con bò
sữa chiếm 98,9% của tổng
số lượng bò sữa (Thi Dan và
cộng sự. 2003).
• Năm 2008, cơ sở chăn nuôi
gà thương phẩm (200 to 500
con) chiếm vào khoảng 10 tới
15%. 0,1% từ cơ sở chăn nuôi
công nghiệp (>2,000 con gà)
(Desvaux2008).
• Số lượng cơ sở chăn nuôi lợn
giảm xuống hơn 65% giữa
năm 2005 và 2014. Năm 2014,
số trại lợn có từ 10 con trở
lên chiếm 65,8% số thịt lợn
cung cấp cho thị trường (Đinh
2009a; TCTK2012).
• Năm 2008, những cơ sở chăn
nuôi quy mô nhỏ chiếm 85%
tổng số lợn, và 15% thuộc
những cơ sở chăn nuôi lợn
thương phẩm (Hoàng 2012).
Vùng chính • ĐBSH có tổng đàn lợn lớn • Vùng DHBNTB có gần một nửa số bò. nhất (324 con/km2), sau đó là
vùng TN và ĐBSCL. • Vùng MNTDPB chiếm 56,7% • Mật độ trung bình là 648 con/
km2. ĐBSH, ĐBSCL và TN có
mật độ cao nhất trong chăn
nuôi gia cầm. tổng số trâu. • Năm 2014, khoảng 83,8% bò
sữa thuộc về 6 tỉnh/ thành
trực thuộc Trung Ương (Hà
Nội, Sơn La, Nghệ An, Lâm
Đồng, TP HCM và Long An).
lượng lợn. Tỉnh có 285 xã nhưng việc chăn nuôi lợn có xu
hướng chỉ tập trung tại 1/3 số xã (99 xã), đặc biệt là trong
137 khu chăn nuôi tập trung trải rộng trên 1.087 ha. Mặc
dù có dấu hiệu của việc chuyển dịch sản xuất chăn nuôi
từ xã này tới các xã khác, nhưng chưa thấy sự chuyển dịch
này giữa các tỉnh. Điều này là do mỗi tỉnh đều cố gắng duy
trì kế hoạch sản xuất chăn nuôi của mình thông qua việc
sắp xếp lại sự phân bố sản xuất chăn nuôi hiện có. Ví dụ
như Hà Nội đã xây dựng 15 khu chăn nuôi tập trung, Hải
Dương và Thái Bình cũng có 7 khu chăn nuôi tập trung ở
mỗi tỉnh.
Cùng với xu hướng chăn nuôi quy mô lớn hơn và chăn
nuôi thâm canh, ô nhiễm môi trường đang trở nên
nghiêm trọng hơn do xử lý chưa tốt chất thải động vật
và sử dụng thức ăn công nghiệp chưa hợp lý. Phần lớn các
cơ sở chăn nuôi lợn và gia cầm hiện sử dụng thức ăn công
nghiệp mặc dù những cơ sở chăn nuôi nhỏ vẫn sử dụng
thức ăn truyền thống (đó là gạo và cám gạo). Ngoài hàm
lượng dinh dưỡng cao, (đó là đạm), thức ăn công nghiệp
cũng chứa hooc-môn tăng trưởng, kháng sinh và kim loại
nặng (từ năm 2014, hóc môn tăng trưởng đã bị Cục Thú y
cấm sử dụng trong chăn nuôi). 60% mẫu thức ăn cho lợn
được báo cáo là cho thấy ít nhất một loại kháng sinh thuộc
nhóm têtacylin và tylôsin. Dinh dưỡng và kháng sinh cùng
những dư lượng khác trong phân động vật chưa qua xử lý,
khi xả ra đất và nước xung quanh chính là những nguyên
nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm cục bộ. Theo Sở Nông nghiệp
• Cơ sở chăn nuôi lợn quy mô
lớn có xu hướng tập trung
xung quanh những thành phố
lớn như Hà Nội vàTP HCM.
9
3. Kết quả và thảo luận
Bảng 1. Các đặc điểm của hệ thống chăn nuôi tại Việt Nam
Lợn
• Chăn nuôi lợn tiêu thụ Bò/trâu
• Hệ thống cở sở chăn Sữa
• Bò sữa được cho ăn khoảng Hệ thống
nuôi dưỡng 20 tới 40 kg chất xơ, chất tươi. nuôi chiếm một tỷ lệ nhỏ
(Đinh2009a).
khoảng 70% trong tổng số
14,4 triệu tấn thức ăn công
nghiệp/năm (DLP 2015b;
Nguyễn 2015). Gia cầm
• Gia cầm tiêu thụ khoảng 30%
trong tổng số 14,4 triệu tấn
thức ăn công nghiệp/năm
(DLP 2015b; Nguyễn 2015).
• Hầu hết các cơ sở chăn nuôi
gia cầm sử dụng thức ăn công
nghiệp để chăn nuôi.
• Khoảng 70% mẫu thức ăn cho
trại gà công nghiệp cho thấy
có ít nhất một loại kháng
sinh thuộc nhóm tetaxylin và
Tylosin (ACE Europe 2013).
• Trên 2/3 số cơ sở chăn nuôi
lợn sử dụng thức ăn công
nghiệp. Số lượng cơ sở chăn
nuôi thương phẩm sử dụng
thức ăn công nghiệp chiếm
86,3% trong khi các cơ sở
chăn nuôi lợn thương phẩm
chỉ chiếm 42%, Và cơ sở chăn
nuôi quy mô nhỏ chiếm 25,7%
(Hoàng2012).
• Khoảng 60% mẫu thức ăn cho
lợn cho thấy có ít nhất một
loại kháng sinh thuộc nhóm
tetaxylin và Tylosin, trong đó
có một mẫu chứa lượng Tylosi
vượt quá giới hạn cho phép
(ACE Europe 2013). • Số cơ sở chăn nuôi bò có Hệ thống
chuồng trại • Loại chuồng trại phổ biến
nhất là chuồng kiên cố. • Phần lớn các cơ sở chăn nuôi
quy mô nhỏ đều có chuồng
kiên cố.
• Tại những cơ sở chăn nuôi gia
cầm quy mô nhỏ, chuồng bán
kiên cố chiếm 42%và chuồng
đơn giản chiếm 11% (Đánh giá
thực 2010). chuồng kiên cố chiếm 34,7%.
Tỷ lệ lớn nhất thuộc vùng
Duyên hải Bắc trung bộ
(97,1%) và thấp nhất ở Tây
nguyên (Đinh2009a).
• 71,8% cơ sở chăn nuôi thương
phẩm có sàn bê tông, tiếp
theo là các cơ sở chăn nuôi
thương phẩm quy mô nhỏ
(68,7%), và các cơ sở chăn
nuôi gia cầm quy mô nhỏ
(48,2%) • Trong sản xuất lợn công
Lưu ý: a. Bộ NN & PTNT xác định hộ chăn nuôi nhỏ theo các loài động vật khác nhau như sau:
• Chăn nuôi lợn:> 20 con lợn nái gọi là trang trại, <20 lợn nái làgọi chăn nuôi hộ.
• Lợn thịt:> 100 con lợn/đàn gọi là trang trại, và <100 là chăn nuôi hộ gia đình.
• Gia cầm:> 2.000 con/ đàn gọi là chăn nuôi trang trại, <2.000 gọi là chăn nuôi hộ.
• Trâu/bồ: Làm giống:> 10 con gọi là trang trại và để nuôi thịt> 50 con là trang trại.
Tuy nhiên, không phải tất cả các ấn phẩm đều tuân theo sự phân loại này. Một số tác giả chỉ đơn giản chia các trại theo quy mô nhỏ, vừa và lớn.
b. Đánh giá môi trường thực vật trong chăn nuôi. Http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Sukien-Thanh-tuu-KH-CN/Danh-gia-thuc-trang-o-nhiem-moi-truong-trong-chan-Nuoi-32705.html.
và Phát triển Nông thôn (DARD) Hà Nội, thành phố đã
có 1,223 trang trại chăn nuôi vào năm 2010.2 Phần lớn
trong số đó có quy mô nhỏ và 80% nằm tại những khu vực
dân cư. Ô nhiễm môi trường do sản xuất chăn nuôi gây ra
là rủi ro lớn nhất cho vật nuôi và sức khỏe công cộng.
Nhận ra những hạn chế, chính phủ thúc đẩy phân vùng
và sự hình thành những khu chăn nuôi tập trung để
người chăn nuôi tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị cao
và kiểm soát được ô nhiễm môi trường, bệnh tật. Mặc
dù quá trình phân vùng đã bắt đầu tại một số tỉnh, tới nay
vẫn chỉ có quy mô thí điểm. Những khó khăn chính đối
với chính sách này là chi phí đầu tư cao, nhiều đất để phát
triển hạ tầng cho những khu chăn nuôi tập trung mới.
Ngoài ra, nó cũng đòi hỏi đầu tư cao từ những người sản
xuất để di chuyển việc sản xuất của họ từ chỗ hiện tại tới
những khu chăn nuôi tập trung mới. Tới nay, tại thời điểm
viết báo cáo chỉ có một số nông dân quy mô lớn mới sẵn
2 Xử lý ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi: Còn nhiều gian nan. http://pda.vietbao.vn/Kinh-te/Xu-ly-o-nhiem-moi-truong-trong-chan-nuoi-Con-nhieu-gian-
nan/410312880/87/
nghiệp, các trại có chuồng kín
chỉ chiếm 3%, chuồng trại bán
kín chiếm 21%, và chuồng hở
chiếm 76% (Trịnh 2010).
10
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
lòng di chuyển, trong khi phần lớn những hộ chăn nuôi
quy mô nhỏ vẫn đang lưỡng lự trong việc thực hiện chính
sách này.
đốt sinh học và sử dụng trực tiếp phân tươi làm phân
bón. Trongủ phân compost, chất thải rắn được thu lại và
trộn để sản xuất phân bón hữu cơ trong khi phần chất lỏng
được rửa trôi khỏi sàn chuồng và xả vào môi trường xung
quanh hoặc ao cá. Trong khí đốt sinh học, chất thải được
thu lại và xử lý trong hầm khí sinh học, khí ga tạo ra sẽ
được sử dụng cho việc nấu và chất thải sau biogas được sử
dụng làm phân bón hoặc xả vào các ao chăn nuôi cá. Tại
một số nơi, phân chuồng tươi (phân gà) đươc bán và bón
thẳng cho cây cối như những loại phân hữu cơ. Thực hành
quản lý chất thải có sự khác biệt tùy thuộc vào điều kiện cụ
thể của cơ sở chăn nuôi, ví dụ như loài động vật, hệ thống
chuồng trại, vị trí và quy mô cơ sở chăn nuôi.
Với xu hướng và khó khăn nói trên, dự kiến rằng những
hộ chăn nuôi quy mô nhỏ sẽ bỏ sản xuất chăn nuôi trong
tương lai gần và sẽ được thay thế bởi những nhà sản xuất
thương phẩm có đủ nguồn lực để cạnh tranh và tuân thủ
những tiêu chuẩn về môi trường. Ví dụ như có 4 triệu
hộ nông dân chăn nuôi năm 2014. Dự đoán con số này sẽ
giảm xuống còn 1,5–2 triệu hộ vào năm 2025. Tuy nhiên,
quá trình này sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là
những yếu tố mang tính thể chế và kinh tế.
Thực hành quản lý chất thải rắn tại cơ sở chăn nuôi lợn
3.3.2 Các thực hành quản lý chất thải
Tại Việt Nam, diện tích đất xả thải tại các cơ sở chăn
nuôi lợn thường rất nhỏ, đặc biệt là tại các cơ sở chăn
Hiện tại, chất thải chăn nuôi được quản lý bằng nhiều
cách, bao gồm ủ phân compost, sử dụng cho hầm khí
Hình 7. Thực hành quản lý chất thải lợn tạiViệt Nam
M Ô I T R Ư ỜNG
Ủ
p
h
â
n
Khí sinh học
Thái trực tiếp
A
o
c
á
trường
Thị
Cây trồng
11
3. Kết quả và thảo luận
Hình 8. Sơ đồ nước thải theo EM thứ cấp
Chất thải động vật
Bể khí sinh học
Bể xử lý
Sông ngòi/kênh
EM thứ cấp
nuôi lợn thương phẩm ở miền bắc (34m2). Theo báo cáo,
khoảng 30% các trại lợn thực hiện tách riêng việc thu gom
chất thải rắn và lỏng, và khoảng 60% số trại này thực hiện
xử lý chất thải theo dạng hỗn hợp.
kết quả tương tự rằng sau 30 ngày xử lý hàm lượng COD,
BOD5, NO2, NO3, P tổng số và coliform nằm trong
ngưỡng cho phép theo các tiêu chuẩn thải (Trịnh2010).
Mặc dù cho thấy những kết quả đầy hứa hẹn như vậy,
những thực hành này vẫn chưa được người dân chấp nhận
áp dụng rộng rãi do chúng yêu cầu diện tích xử lý tương đối
lớn và hầu hết các hộ nông dân quy mô nhỏ ở Việt Nam
không có đủ diện tích.
Các thực hành quản lý chất thải trong cơ sở chăn nuôi
gia cầm
Phân gia cầm có xu hướng trở thành loại phân hữu cơ
được người dân ưa chuộng vì nó chứa hàm lượng chất
đạm cao và những chất dinh dưỡng cần thiết khác cho
cây. Ngoài ra, nó có hàm lượng chất khô cao và dễ thu
gom, xử lý và ít tốn kém hơn trong vận so với những loại
chất thải động vật khác. Người dân thường bón trực tiếp
cho cây trồng (hoặc cất trữ tạm thời cho mục đích này) sau
khi dọn phân ra khỏi chuồng gia cầm.
Trong chăn nuôi lợn, việc sử dụng hầm khí ga sinh học
để xử lý chất thải đã tương đối rộng rãi. Khoảng 53% các
cơ sở chăn nuôi lợn tập trung ở phía Nam và 60% ở phía
bắc, 42 % ở khu vực miền trung được báo cáo là đã sử dụng
hầm khí sinh học để quản lý chất thải (Vũ 2014). Phần lớn
các cơ sở chăn nuôi thương phẩm (81%) có hầm khí đốt
sinh học để quản lý chất thải trong khi đó chỉ có khoảng
12,7% các cơ sở chăn nuôi quy mô nhỏ có sử dụng loại này
(Đinh 2009a). Trong nhiều trại quy mô nhỏ, chất thải rắn
được thu gom và ủ với rơm rồi dùng làm phân bón cho cây
trồng. Có một mối quan hệ giữa việc sử dụng hầm khí ga
và khả năng có sẵn đất để trữ tại đó (Thi Thien Thu và các
cộng sự. 2012). Khi sử dụng hầm khí sinh học, thường thấy
rằng chất lỏng và chất rắn được trộn lẫn với nhau cho vào
hầm. Có khoảng 35,5% các cơ sở chăn nuôi lợn được báo
cáo là tích trữ chất thải của lợn mà không xử lý và khoảng
40% số chất thải của lợn được xả thẳng trực tiếp vào môi
trường không qua xử lý (DLP 2015a).
Tại các cơ sở chăn nuôi thương phẩm, phân gà thường
được bán trực tiếp cho những người thu gom không qua
xử lý. Nông dân và người sản xuất phân bón có thể tới và
mua phân khô trực tiếp tại trại gà hoặc thông qua trung
gian. Phân gà là một nguồn phân hữu cơ được ưa chuộng
cho cà phê, hồ tiêu và cây ăn quả (Thi Dan và cộng sự
2003). Năm 2014, theo báo cáo có khoảng 23,4 triệu tấn
phân gia cầm được thải ra từ các cơ sở chăn nuôi gia cầm,
trong đó 75% được sử dụng trực tiếp làm phân bón.
Thực hành quản lý chất thải tại cơ sở chăn nuôi bò sữa
Tại cơ sở chăn nuôi bò sữa, các phương thức quản lý chất
thải khác nhau rất lớn giữa các địa phương. Trong đó có
những phương thức cổ truyền liên quan tới việc đào hố
dưới đất để trữ phân, sử dụng hầm khí sinh học để xử lý
Một số thí nghiệm liên quan tới xử lý chất thải hầm khí
sinh học bằng chế phẩm E.M thứ cấp đã cho kết quả tốt
trong các điều kiệnthí nghiệm. Chế phẩm E.M thứ cấp
là những vi khuẩn có lợi thúc đẩy sự phân hủy của những
chất hữu cơ trong các điều kiện kị khí và có thể hữu ích
trong việc ngăn chặn một số mùi và mầm bệnh. Theo báo
cáo, việc sử dụng E.M trong xử lý chất thải hầm khí sinh
học tại Việt Nam đã đưa hàm lượng của nhu cầu oxy hóa
học (COD), nhu cầu oxy sinh hóa sau 5 ngày (BOD5), ni-
tơ đi-ô-xit (NO2), ni-tơ-rat (NO3), phốt-pho tổng số (P)
và coliform (sau khi xử lý 15 ngày) về mức độ chấp nhận
được theo tiêu chuẩn thải 2016 của BỘ NN&PTNT. Các
thí nghiệm sử dụng cây lục bình để xử lý nước thải từ hầm
khí sinh học (lục bình chiếm 75% diện tích mặt nước) cho
12
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
những hộ được khảo sát sử dụng hầm khí sinh học và phần
đông trong số đó thuộc vùng MNPB (Đinh2009a).
Phân trâu bò có đặc điểm là chứa hàm lượng xơ cao, hàm
lượng đạm thấp và ít mùi khó chịu hơn. Phân trâu bò
được sử dụng rộng rãi như một nguồn phân hữu cơ cho
nhiều loại cây trồng, trong đó có cỏ voi, cây cảnh, cà phê,
hồ tiêu và cây ăn quả. Phân trâu bò thường được phơi khô
dưới nắng trong vòng 3–4 ngày, sau đó trộn với vôi, rơm,
tro trấu hoặc sợi dừa. Chất lỏng từ phân trâu bò có thể
được sử dụng để tạo ra khí sinh học hoặc làm phân bón
cho cỏ voi và bón vườn (Thi Dan và các cộng sự. 2003).
chất thải và sản xuất khí đốt cho hộ gia đình sử dụng. Một
số cơ sở chăn nuôi bán chất thải cho người thu mua tại
địa phương để làm phân ủ compost. Một nghiên cứu môi
trường về các cơ sở chăn nuôi bò sữa tại Ba Vì cho thấy,
khoảng 72,2% các hộ gia đình nuôi bò sữa sử dụng hầm
khí sinh học để xử lý chất thải và những hộ còn lại (khoảng
27,8%) sử dụng phân ủ (Lê 2012, Duteurtre và các cộng
sự. 2015). Tuy nhiên tại các cơ sở chăn nuôi gần thành phố
lớn như Hà Nội, TP HCM, Vinh (Nghệ An) khối lượng
phân vượt quá khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của đất.
Công tác thực thi những quy định về môi trường còn yếu
chưa bảo vệ được nước mặt và nước ngầm khỏi bị ô nhiễm
bởi phân bò sữa. Tại công ty sữa thương phẩm lớn và hiện
đại nhất Việt Nam, Công ty TH True Milk đặt tại Nghệ
An, đệm lót sinh học được sử dụng để thu gom những
phần chất rắn trong phân tại chuồng gia súc. Vì phân
chuồng thu gom được là một nguồn phân hữu cơ tốt, cơ
sở chăn nuôi bán nó cho những nơi trồng cao su và cà phê.
Chất thải lỏng được xử lý tại một trạm công nghiệp (công
suất xử lý là 60m3/h, tương đương với 1.500 m3/ngày), tại
đó sẽ trải qua 3 giai đoạn xử lý—làm lắng, lọc (tại giai đoạn
này nước vẫn có màu vàng) và xử lý với chất clo (nước tẩy).
Sau khi xử lý, nước thải được xả vào hồ gần kề (Duteurtre
và các cộng sự 2015).
Quản lý chất thải của trâu, bò lấy thịt
Các loại chuồng trại liên quan tới các thực hành quản lý
chất thải động vật và vệ sinh chăn nuôi
Có một mối quan hệ giữa một bên là chuồng trại cho vật
nuôi và một bên là các thực hành quản lý chất thải và vệ
sinh chăn nuôi. Có những loại chuồng trại cho vật nuôi
giúp việc thu gom và xử lý phân dễ dàng hơn, giảm bớt
được mùi hôi và ô nhiễm không khí. Ví dụ như sàn chuồng
được làm hơi dốc sẽ giúp cho việc dọn dẹp và thu gom chất
thải dễ dàng hơn (độ dốc làm cho dòng chảy tới hầm khí
sinh học, hầm chứa… thuận lợi hơn). Mức độ ô nhiễm có
xu hướng tăng lên theo quy mô sản xuất. Giữa ba loài vật
nuôi chính này (lợn, gia súc và gia cầm), kết quả là chăn
nuôi lợn gây ra mức độ ô nhiễm cao nhất cả về phương
diện tương đối và tuyệt đối (Phùng và các cộng sự. 2009).
Cơ sở chăn nuôi phù hợp là cần thiết không chỉ đối với sức
khỏe vật nuôi mà cũng giúp đảm bảo những điều kiện vệ
sinh chăn nuôi tốt.
Hình 9. Sự liên quan giữa các loại chuồng trại, thực hành
quản lý chất thải và vệ sinh
Hệ thống
chuồng trại
Vệ sinh
Thực hành
quản lý
chất thải
Hầu hết bò và trâu vẫn tiếp tục được nuôi trên những
hệ thống quảng canh, bán thâm canh, và chất thải của
chúng chưa gây ra những vấn đề lớn về mặt môi trường
trong giai đoạn này; tuy nhiên tình hình này hiện đang
có thay đổi. Hầu hết phân được thu gom hoặc tái sử dụng
cho các khu đất chăn thả. Tuy vậy, với sự xuất hiện của một
số trang cơ sở chăn nuôi thương phẩm quy mô lớn như
Tổng công ty Hoàng Anh—Gia Lai và những công ty khác,
ô nhiễm môi trường có khả năng sẽ xảy ra trong tương lai.
Theo báo cáo, các cơ sở chăn nuôi bò hộ gia đình, quy mô
nhỏ và quy mô lớn có những khu vực xử lý phân riêng lần
lượt là 48,3%, 55,1% và 51,7%. Những cơ sở chăn nuôi sử
dụng phương pháp ủ phân compost để xử lý phân chuồng
lần lượt chiếm khoảng 38,7%, 34,4% và 24,1%. Một phần
lớn chất thải lỏng (76,5% cơ sở chăn nuôi gia súc của nông
hộ, 65,5% trại quy mô nhỏ và 75,8% trại quy mô lớn) được
xả thẳng vào môi trường. Tỷ lệ các hộ gia đình nuôi trâu
tại vùngMNPB, duyên hải Bắc trung bộ và Nam trung
bộ thực hiện ủ phân chiếm khoảng 31,1%. Chỉ có 0,5%
13
3. Kết quả và thảo luận
3.3.3 Xu hướng phát triển của phân ngành
thay đổi. Ngoài ra, công tác xây dựng năng lực trong quản
lý môi trường ở cấp huyện và xã là vô cùng cần thiết.
chăn nuôi trong mối quan hệ với ô
nhiễm môi trường
Trong những năm gần đây, nhiều hộ chăn nuôi nhỏ đã
rời khỏi ngành chăn nuôi trong khi những nhà sản xuất
lớn hơn lại gia nhập. Xu hướng này có thể mạnh mẽ hơn
trong những năm tới do sự thiếu hụt đất đai và việc áp
dụng chặt chẽ hơn của các tiêu chuẩn môi trường. Trong
những hệ thống sản xuất quy mô lớn, công tác quản lý
chất thải động vật thường hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc
chuyển sang sản xuất quy mô lớn không phải lúc nào cũng
cải thiện các kết quả về môi trường, mặc dù công suất quản
lý ô nhiễm cao hơn mà ta mong đợi từ hoạt động chuyên
nghiệp và quy mô lớn hơn. Khi hàng ngàn con lợn tập
trung ở một khu vực nhỏ, các tác động về môi trường và
sức khoẻ của chúng cũng trở nên tập trung. Các trang trại
quy mô lớn tạo ra quá nhiều chất thải để phân chuồng vào
đất liền. Ngoài ra, ngay cả khi họ xử lý phần lớn lượng chất
thải mà chúng sinh ra, khi một phần chất thải được thải ra
môi trường hoặc khi chất lỏng rò rỉ ra ngoài, điều này có
thể gây ra những vấn đề đáng kể.
Hoàn thiện chính sách là cần thiết để hỗ trợ tốt hơn cho
các loại hình cơ sở chăn nuôi khác nhau tuân thủ theo
những tiêu chuẩn môi trường hiện nay. Hiện tại, công
tác quản lý chất thải chăn nuôi tại những cơ sở chăn nuôi
hộ gia đình chưa được giám sát hay bắt buộc thực thi. Từ
quan điểm của người sản xuất, công tác xử lý chất thải đòi
hỏi đầu tư nhiều vào hạ tầng mà những nông hộ này rất
khó có thể làm được. Sự thiếu hụt nhận thức về tầm quan
trọng của quản lý chất thải cũng là nhân tố tác động tới
quyết định của cấp cơ sở chăn nuôi. Trong khi đó, các quy
định quản lý chất thải không được chính quyền buộc thi
hành một cách thống nhất và có hệ thống, đặc biệt là giữa
những cơ sở chăn nuôi của nông hộ. Kết quả là nông dân
có xu hướng tránh né xử lý chất thải vật nuôi tại bất cứ lúc
nào và chỗ nào có thể. Trong những năm gần đây, chính
quyền đã khởi động những dự án chăn nuôi cung cấp hỗ
trợ tài chính (ví dụ như những khoản tài trợ có điều kiện
cùng sự góp của người dân) cho các nông hộ nhỏ để giúp
cho họ xử lý tốt hơn chất thải chăn nuôi, đáng chú ý là
thông qua việc xây dựng các hầm khí sinh học và trang
thiết bịủ phân compost.
Một ví dụ điển hình là trường hợp cơ sở chăn nuôi lợn
nái của Công ty TNHH Thái Dương tại xã Đại Sơn,
huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Nhiều người dân địa
phương đã che lều xung quanh những trại lợn này để chống
ô nhiễm mà nó đã gây ra cho môi trường địa phương Năm
2011, chất thải động vật từ những trại lợn lớn được báo
cáo là đã phát hoại 14,2 ha ruộng lúa và 4,2 ha ao cá, làm
ô nhiễm nước ăn của 16 hộ gia đình trong xã3. Ô nhiễm
không khí từ trang trại cũng ảnh hưởng cuộc sống hàng
ngày và sức khỏe của họ. Nếu có nhiều cơ sở chăn nuôi
thương phẩm như thế này, tác động của sản xuất chăn
nuôi tới môi trường và sức khỏe tại địa phương còn có thể
nghiêm trọng hơn những gì hiện chúng ta đang thấy.
Quản lý những rủi ro môi trường liên quan tới vấn đề
thâm canh chăn nuôi sẽ đòi hỏi thực hiện hiệu quả hơn
nữa những chính sách và văn bản pháp lý liên quan tới
bảo vệ môi trường nông thôn. Cần phải có một cuộc rà
soát toàn diện, có hệ thống về những quy định môi trường,
công tác thực hiện và bắt buộc thi hành để thay thế những
quy định thiếu thực tế hay thiếu hiệu quả. Sự phân chia
trách nhiệm liên quan tới bảo vệ và quản lý môi trường
hiện vẫn thiếu rõ ràng ở cấp huyện và xã. Điều này cần phải
Trong khi việc xây dựng hầm khí sinh học là khả thi tại
các cơ sở chăn nuôi lợn quy mô nhỏ, đó vẫn chưa phải là
một phương án hấp dẫn đối với những cơ sở chăn nuôi
quy mô lớn vì khối lượng lớn chất thải được tạo ra, do
việc đó sẽ dẫn tới quá nhiều khí ga và bùn thải sinh học.
Chỉ có một phần nhỏ khí ga sản xuất ra từ những cơ sở
chăn nuôi quy mô vừa và lớn được sử dụng vào việc đun
nấu, và phần lớn lượng khí thừa được đốt hay thải ra ngoài
môi trường. Một số cơ sở chăn nuôi cố gắng lắp đặt máy
phát vận hành bằng khí ga để sản xuất điện. Tuy nhiên,
việc này chưa mang tính khả thi về mặt kinh tế vì (a) nhà
nước vẫn duy trì giá điện ở mức thấp; (b) tính phức tạp về
mặt kỹ thuật và sự tốn kém trong việc xây dựng những hầm
khí sinh học quy mô vừa và lớn; (c) những hạn chế trong
công nghệ làm sạch khí ga (hiện vẫn chưa đủ tốt để loại bỏ
toàn bộ H2S và hơi nước ra khỏi khí ga—những tạp chất
có thể gây hư hỏng máy phát); và (d) chi phí cao của những
máy phát chất lượng tốt. Việc xả khí ga và bùn khỏi hầm
khí sinh học vẫn còn là một vấn đề lớn đối với những cơ sở
chăn nuôi lợn quy mô vừa và lớn.
3 Hàng trăm người bao vây trại lợn gây ô nhiễm. http://www.tinmoi.vn/hang-tram-nguoi-bao-vay-trai-lon-gay-o-nhiem-01636989.html.
14
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
Chính quyền địa phương cần phải quan tâm hơn nữa tới
việc thực thi quy định về môi trường đối với những cơ
sở chăn nuôi của các nông hộ nhỏ và quy mô lớn ngay
từ giai đoạn đăng ký, giám sát chặt chẽ việc xử lý chất
thải trong quá trình vận hành và áp dụng hình thức phạt
thích đáng đối với những đối tượng vi phạm. Công tác
thi hành vẫn thường là một vấn đề lớn tại Việt Nam, đặc
biệt là ở những khu vực nông thôn, điều này cần phải thay
đổi nếu như chính phủ thực sự muốn giảm bớt tác động
của ngành chăn nuôi. Chính phủ cần có một lịch trình và
kế hoạch hành động rõ ràng để thực thi chính sách hiện
hành về di chuyển những cơ sở chăn nuôi quy mô lớn mà
hiện nay còn nằm nhiều tại các khu vực dân cư để những
khu chăn nuôi tập trung hưởng lợi từ hỗ trợ của tỉnh.
Cũng cần phải cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ sở chăn
nuôi quy mô nhỏ để giúp họ cải thiện thực hành quản lý
chất thải của mình.
TÁC ĐỘNG VẬT LÝ TỚI
MÔI TRƯỜNG
4
4.1 Khối lượng phân động vật được tạo
ra và xả thải vào môi trường
Sự chuyển đổi từ chăn nuôi quảng canh truyền thống sang sản xuất chăn nuôithâm canh
đang tạo ra khối lượng ngày càng nhiều chất thải động vật. Tới năm 2015, chăn nuôi
lợn đã tạo ra tỷ lệ phân cao nhất (30,3%), sau đó là gia cầm (27,4%), và bò (23,7%), trâu
(17,1%), và những loại khác như dê, ngựa (1,3%). Chăn nuôi lợn được tập trung chủ yếu
tại những vùng đồng bằng và dân cư đông đúc. Nó gây ra mức độ ô nhiễm lớn nhất so với
việc chăn nuôi các loài khác. Phân lợn cũng ở dạng bùn nhão và không dễ thu gom.
Việt nam tạo ra khoảng 80 triệu tấn chất thải động vật mỗi năm (DLP-Bộ NN&PTNT
2015b). Khoảng 80% số phân được tạo ra bởi các cơ sở chăn nuôi các nông hộ nhỏ và số
còn lại là từ những cơ sở trang trại chăn nuôi . hăn nuôi hộ gia đình chiếm phần lớn nhất
trong chăn nuôi trâu (98,8%), đồng thời cũng chiếm tỷ lệ cao nhất trong chăn nuôi bò
(89,4%), lợn (75%), và gia cầm (71,8%).
Số lượng vật nuôi được phân bố không đều giữa các vùng của Việt Nam. Những vùng
có số lượng vật nuôi lớn nhất là ĐBSH, ĐBSCL, và ĐNB. Khối lượng chất thải động vật
trên mỗi km2 vào khoảng 239,8 tấn. Vùng RRD tạo ra khối lượng lớn nhất, tiếp sau đó là
vùng ĐNB và ĐBSCL. Ba tỉnh thành tạo ra khối lượng phân lợn nhiều nhất trên mỗi km2
là Thái Bình (598,2 tấn /km2), Hà Nội (389,9 tấn/km2), và Đồng Nai (219,2 tấn/km2).
Theo ước tính có khoảng 36% tổng khối lượng phân động vật được thải trực tiếp vào
môi trường; với tỷ lệ từ 16% đối với chăn nuôi thâm canh tới 40% đối với chăn nuôi
nhỏ hộ gia đình. Từ khía cạnh về loài, cơ sở chăn nuôi lợn thải ra môi trường tỷ lệ phân
cao nhất (42,4%). Tỷ lệ lớn tiếp theo được thấy ở chăn nuôi trâu (41,1%), bò (32,6%),
và gia cầm (28,8%). Tại tất cả các vùng, cơ sở chăn nuôi các nông hộ nhỏ thải thực tiếp
vào môi trường khối lượng phân nhiều hơn so với các cơ sở chăn nuôi thâm canh (Bảng
16
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
Hình 10. Khối lượng phân động vật theo loài từ 2010 tới
Hình 11. Khối lượng phân trên mỗi km2 theo loài và vùng
2014
năm 2014
Triệu quả
90 –
800 –
80 –
700 –
70 –
600 –
60 –
500 –
50 –
400 –
40 –
300 –
30 –
200 –
20 –
100 –
10 –
0 –
0 –
2010
2011
2012
2013
2014
ÐBSH
MNTDPB DHNBTB
TNG
TN
ÐBSCL
Khác
Trầu
Bò
Gia cầm
Trầu
Bò
Gia cầm
Lợn
Lợn
Lưu ý: Tính toán của tác giả..
Nguồn: Bản 2013; Lam2011; Mosquera, và các cộng sự. 2012; Vũ, Trần, và Đặng 2007. DLP-Bộ
NN&PTNT 2015b.
Những điểm nóng ô nhiễm chất thải chăn nuôi
2). Theo báo cáo, tại vùng ĐBSH—vùng có số lượng lợn
nhiều nhất Việt Nam—82% lượng phân từ hệ thống chăn
nuôi thâm canh được xử lý trong khi chỉ có 39% lượng
phân từ các hệ thống chăn nuôi quảng canh được xử lý
(Đinh2009a; DLP 2015b). Có sự khác nhau rất lớn về
mữc độ ô nhiễm chất thải động vật giữa các vùng và kể cả
trong các tỉnh thành, với điều này đã phần nào phản ánh
được sự khác nhau trong mật độ chăn nuôi tại những địa
phương khác nhau (Bảng 2).
Bảng 2. Khối lượng chất thải động vật thải vào môi
trường theo vùng tại Việt Nam
1.000 tấn
ĐBSH MNPB DHTB TN ĐNB ĐBSCL Cả nước
Hầu hết những nơi bị ô nhiễm nặng nề cho tới nay
đều là những nơi có mật độ chăn nuôi cao. Một số xã ô
nhiễm nghiêm trọng gần đây đã được nêu tên trên phương
tiệnthông tin đại chúng, xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam là một trong số đó. Xã này nằm trong vùng
ĐBSH—vùng có mật độ chăn nuôi lợn cao nhất Việt
Nam. Vào ngày 23/12/2015, Đài Tiếng nói Việt Nam
phát tin rằng hầu như toàn bộ số cơ sở chăn nuôi lợn trong
xã này đều xả thẳng phân lợn xuống hệ thống thoát nước
nhỏ của xã. Từ đó chất thải chảy vào các ao và ruộng đồng
làm cho một phần lớn đất nông nghiệp ô nhiễm nặng và
không còn khả năng canh tác. Mặc dù việc chăn nuôi lợn
đã mang lại lợi ích kinh tế cho các hộ gia đình và kinh tế
địa phương, có tranh luận rằng lợi ích kinh tế đó không đủ
bù đắp cho chi phí y tế của hàng nghìn người. Một ví dụ
khác là huyện Củ Chi tại TP HCM, nơi cho thấy nhiều cơ
sở chăn nuôi bò sữa tạo ra một khối lượng phân lớn hơn
khả năng xử lý của họ. Bò sữa ở trong chuồng cả ngày và
tích tụ phân. Phân tích tụ theo thời gian làm ô nhiễm đất,
nước và không khí nghiêm trọng, gây tác động tiêu cực lên
sức khỏe người dân địa phương (ACE Europe 2013).
Vùng/loại
cơ sở chăn
nuôi Lợn Hộ gia đình 2.469 2.993 1.901 334 554 1.140 8.755 Trang trại 392 181 190 48 185 253 1.606 Gia cầm Hộ gia đình 1.835 2.097 1.804 292 5.668 221 399 Trang trại 197 74 100 9 677 111 177 Bò Hộộ gia đình 360 1.495 4.182 394 6.025 337 706 Trang trại — 66 116 49 207 20 12 Trâu 5.913 96 Hô gia đìnhộ 4.375 1.761 195 108 221
4.2 Các loại ô nhiễm
Chất thải chăn nuôi gây ra các loại ô nhiễm khác nhau,
bao gồm cả ô nhiễm nước, đất và không khí. Như đã nói
trước đây, người ta ước tính rằng chỉ có khoảng 60 phần
Trang trại — — — 38 — — — Tổng Hộ gia đình 4.885 10.960 9.647 1.214 1.220 2.340 26.361 360 406 106 315 443 1.630 —
Trang trại
Lưu ý: Tính toán của tác giả.
17
4. Tác động vật lý tới môi trường
trăm của chất thải động vật được xử lý; phần còn lại được
thải trực tiếp ra môi trường (có nghĩa là đổ trực tiếp trên
đất, ao, kênh, mương, sông ngòi). Khi lượng phân bón tích
tụ vượt quá khả năng tiếp nhận của khu vực đất hay nước,
chất thải chưa được xử lý sẽ gây ô nhiễm nghiêm trọng
cho đất, nước mặt và nước dưới đất, cũng như chất lượng
không khí tại khu vực tiếp nhận đó.
vi khuẩn E.coli gây ra bởi chăn nuôi nông hộ nhỏ cao hơn
mức độ cho phép 8,9 lần và bởi các cơ sở chăn nuôi trang
trại cao gấp 22,1 lần. Tổng hàm lượng coliform trong nước
thải từ hầm khí sinh học, nước rửa chuồng trại và nước
tắm cho lợn vượt quá ngưỡng cho phép từ 4–2.200 lần.
Mức BOD5 và COD trong nước thải khí sinh học từ các
cơ sở chăn nuôi ở miền bắc vượt quá ngưỡng cho phép từ
3 đến 5 lần (Vũ2014).
4.2.1 Ô nhiễm nước
Bằng chứng của ô nhiễm nước
Có bằng chứng cho rằng chất thải động vật và các chất
hóa học được sử dụng vào những hoạt động nông nghiệp
là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm nước tại các khu
vực nông thôn. Ô nhiễm các vùng nước thường xảy ra
thông qua nhiều con đường như xả thải trực tiếp chất thải
rắn và nước thải chưa qua xử lý một cách thích hợp, những
chất gây ô nhiễm gián tiếp ngấm vào tầng nước ngầm từ
những hồ ao, tràn từ những nơi cất trữ/đổ chất thải rắn,
phân bón cho đất bị cuốn trôi, nước rỉ từ phân bón không
được trải đều trên đất và sự lắng đọng các chất gây ô nhiễm
không khí trên bề mặt nước. (Burkholder và các cộng sự.
2007; Hribar và các cộng sự. 2010).
Một khối lượng lớn chất thải từ động vật bị xả thẳng vào
môi trường. Việc này dẫn đến hậu quả là vấn đề ô nhiễm
nước. Các chất hữu cơ, mầm bệnh và dư lượng hóa chất
từ phân thải ra theo các dòng nước và đi vào kênh rạch,
sông ngòi tại địa phương; một phần ngấm sâu vào nước
ngầm. Tùy vào nồng độ chất gây ô nhiễm, chúng gây ô
nhiễm cả nước mặt và nước ngầm ở nhiều cấp độ khác
nhau (Porphyre 2006).
Nghiên cứu và dữ liệu về ô nhiễm nước ở các địa phương
cụ thể cho đến nay vẫn còn hạn chế. Báo chí và truyền
thông đại chúng đã đề cập một số trường hợp gây ô nhiễm
nước do phân gia súc. Tuy nhiên, hầu hết các báo cáo có
tính chất định tính; có rất ít dữ liệu phân tích về quy mô
và phạm vi ô nhiễm. Một số trường hợp tại TP HCM.
Năm2016, một tờ báo có cuộc phỏng vấn với ông Hải
Bình, cán bộ của Phòng Tài nguyên và Môi trường Quận
12, TP HCM, đã khẳng định rằng ô nhiễm nước tại kênh
Trần Quang Cơ là do các cơ sở chăn nuôi lợn gây ra. Trong
khu vực này, chất thải được xả thẳng từ các cơ sở chăn nuôi
đã phá hủy các dòng kênh tại địa phương hàng ngày và gây
khốn khổ cho những người sống xung quanh đó. Theo số
liệu thống kê, các phường có nhiều cơ sở chăn nuôi lợn
gồm Tân Chánh Hiệp (92 hộ), Hiệp Thành (97 hộ), và
Thới An (80 hộ). Quy mô mỗi hộ chăn nuôi từ vài chục
đến vài trăm con heo. Theo ông Bình, còn rất nhiều hộ
chưa có hầm biogas xử lý nước thải. Trước đây, đất còn
rộng nên việc chăn nuôi khá thoải mái, vài năm gần đây,
các hộ chăn nuôi heo đã làm mùi hôi thối bốc lên và xả
nước thải ra gây phiền toái cho cư dân địa phương.4
Tại cơ sở chăn nuôi lợn, khoảng 70 đến 90% chất ni-tơ,
các loại khoáng chất (phốt-pho, kali, magiê, và những
chất khác) và các kim loại nặng có trong thức ăn được
cho là đang thải ra môi trường. Những chất này tập trung
trong nước thải cơ sở chăn nuôi.
Về mặt ô nhiễm liên quan đến vi khuẩn, mức độ ô nhiễm
của nước thải (do coliform) gây ra bởi chăn nuôi nông
hộ nhỏ được thấy là cao hơn 278 lần so với mức cho phép
trong khi ở các cơ sở chăn nuôi trang trại là 630 lần cao
hơn mức cho phép (Phùng và các cộng sự. 2009). Lượng
Theo chi cục Bảo vệ môi trường, nguồn nước thải từ
chăn nuôi của các hộ dân dù đã được hoặc chưa được xử
lý qua hầm biogas cũng là một trong những nguyên nhân
gây ô nhiễm tầng nước ngầm tại khu vực. Nước thải chăn
nuôi sau khi bị thải ra hệ thống kênh rạch thì chảy thẳng
ra sông Sài Gòn—nguồn nước thô cung cấp cho nước sinh
hoạt của cả thành phố.Nguồn nước thải này trước đã được
đưa vào danh sách nguồn thải cần thống kê và kiểm soát
chặt chẽ trong chương trình bảo vệ chất lượng nước hệ
thống sông Đồng Nai-Sài Gòn.
4 Nước thải từ chăn nuôi làm ô nhiễm nước sông? http://www.haisontq.com/tin-tuc-su-kien/tin-tuc/613-nuoc-thai-tu-chan-nuoi-lam-o-nhiem-song.html. Truy
cập ngày 1/3/2016.
18
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
4.2.2 Ô nhiễm đất
vật và thức ăn thừa. Độ mạnh của mùi hôi phụ thuộc vào
lượng phân được thải ra, điều kiện thông gió, nhiệt độ và
độ ẩm. Tỷ lệ NH3, H2S, và CH4 từ chất thải động vật thay
đổi khác nhau tùy vào giai đoạn phân hủy, những chất hữu
cơ, thành phần cấu tạo, vi sinh vật và điều kiện sức khỏe
của động vật (Huynh và các cộng sự. 2010).
Một vài nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy rằng chất thải
động vật từ các cơ sở chăn nuôi thải trực tiếp trên đất
nông nghiệp mà không có một kế hoạch quản lý dinh
dưỡng thích hợp đã gây ra vấn đề quá tải phân cho đất,
dòng chảy có độc và mầm bệnh từ các chất ô nhiễm. Điều
này mang đến rủi ro cho môi trường nước gần cạnh đó và
có thể ảnh hưởng tới nguồn nước sinh hoạt (Burkholder
và các cộng sự. 2007). Đã thấy những nguyên nhân ô
nhiễm liên quan tới chăn nuôi lợnthâm canh. Lợn thải ra
khoảng 70 tới 90% ni-tơ, các khoáng chất (phốt-pho, kali,
magie…) và những kim loại nặng có trong thức ăn. Những
chất dinh dưỡng và kim loại nặng tập trung trong phân và
dòng nước thải ra từ các cơ sở chăn nuôi (Porphyre 2006).
Xả thải trực tiếp chất thải động vật vào đất mà không qua
xử lý trước làm ô nhiễm đất tiếp nhận. Quan sát cho thấy
rằng đất ở gần và tại những khu vực có mật độ cơ sở chăn
nuôi lợn cao đang bị ô nhiễm bởi chất thải chăn nuôi ở
nhiều cấp độ. Tuy nhiên vẫn còn ít nghiên cứu và dữ liệu
về hiện tượng này.
4.2.3 Ô nhiễm không khí
Hàm lượng khí NH3 và H2S trong không khí phát ra từ
cơ sở chăn nuôi lợn tại miền Bắc được báo cáo là cao
hơn lần lượt là 7–18 lần và 5–50 lần so với mức độ cho
phép (Vũ 2014). Một nghiên cứu về ô nhiễm môi trường
do chăn nuôi năm 2009 cho biết rằng ô nhiễm không khí
(hàm lượng NH3) cao hơn 18 lần so với mức độ cho phép
đối với cơ sở chăn nuôi hộ gia đình và 21 lần đối với các cơ
sở chăn nuôi thương phẩm quy mô lớn (Phùng và các cộng
sự. 2009). Một nghiên cứu khác tại cơ sở chăn nuôi bò sữa
Ba Vì năm 2012 cho thấy rằng mức độ ô nhiễm không khí
cao hơn mức cho phép 64–74 lần (Lê 2012). Theo một số
tờ báo địa phương, rủi ro ô nhiễm tại những vùng xung
quanh cơ sở sản xuất sữa TH (tại Nghệ An) là rất cao, đặc
biệt là trong những đợt mưa bão lớn cuối mùa hè. Một nhà
báo ước tính rằng năm 2013 có khoảng 600 hộ gia đình
bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm từ cơ sở sản xuất sữa TH, bao
gồm ô nhiễm ao cá, đồng lúa, nước ngầm (Duteurtre và các
cộng sự. 2015).
Dữ liệu và nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm hiện nay liên
quan tới cơ sở chăn nuôi tại Việt Nam hiện còn hạn chế.
Các phương thức nuôi dưỡng khác nhau dẫn đến thành
phần phân khác nhau và sự biến đổi trong khối lượng và
chất lượng khí sản xuất ra trong hầm khí sinh học. Bên
cạnh nồng độ cao các chất dinh dưỡng như nitơ và phốt
pho, thức ăn công nghiệp cũng chứa hormone tăng trưởng,
kháng sinh, và một số kim loại nặng. Chất dinh dưỡng và
Sự phân hủy chất thải chăn nuôi tạo ra CO2, NH3, CH4,
H2S, vi khuẩn, nội độc tốt, các hợp chất hữu cơ bay hơi,
các chất có mùi hôi và những phân tử hạt mịn (Bunton
và các cộng sự. 2007). Sản xuất chăn nuôi được cho là
một trong những nhân tố góp phần chính vào việc tạo ra
khí nhà kính (Bảng 3). Phân vật nuôi cũng là một nguồn
ô nhiễm mùi và có rủi ro phát tán bệnh dịch. Ô nhiễm
không khí gồm mùi hôi phát ra từ quá trình phân hủy và
mục rữa của các chất hữu cơ trong phân, nước tiểu động
Bảng 3. Tổng khối lượng phát thải CO2 tương đương với năm 2012
Tấn/năm
Lợn Gia cầm Trâu Bò Tổng 4.328.080 535.590 3.749.477 6.344.163 14.960.935 Loài vật
Tổng CO2 tương đương
ĐBSH 1.045.673 144.732 215.74 708.294 2.114.968 NMM 905.692 115.801 2.071.907 1.074.209 4.168.113 DHBNTB 855.113 113.503 1.195.645 2.535.322 4.701.184 TN 280.665 20.557 124.448 797.644 1.223.410 ĐNB 528.351 26.768 82.886 477.021 1.115.500 712.585 114.229 5.885 751.672 1.637.761 ĐBSCL
Nguồn: Vũ 2013.
19
4. Tác động vật lý tới môi trường
kim loại nặng đã được tiêu hóa trong phân động vật có thể
gây ô nhiễm đất tại địa phương, các nơi chứa nước, và chất
lượng không khí nếu chúng được thải ra không qua xử lý
với khối lượng lớn hơn năng lực tiếp nhận của các hệ sinh
thái (Thi Thiên Thu và các cộng sự. 2012).
TÁC ĐỘNG KINH TẾ
- XÃ HỘI
5
Ngoài những tác động đến môi trường nước, đất và không khí, chất thải động vật cũng gây
ra những tác động đáng kể đến kinh tế- xã hội.
5.1 Tác động lên sức khỏe con người
Chăn nuôi có ảnh hưởng đến sức khỏe con người thông qua ô nhiễm nguồn nước mặt,
nước ngầm, đất và không khí. Phân động vật và nước thải từ cơ sở chăn nuôi khác (bao
gồm cả động vật đã chết) có chứa các loại virus (ví dụ như H5N1, H1N1), vi khuẩn và ký
sinh trùng mà có thể được truyền sang người và gây ra các bệnh nghiêm trọng hoặc dịch
bệnh. Chúng có thể sống sót trong môi trường nước và đất trong vài ngày hoặc vài tháng.
Bệnh theo đường nước như dịch tả đều do ăn các loại thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm bởi
chất thải của động vật. Một trong những bệnh lây truyền trong không khí nghiêm trọng
là cúm gia cầm gây ra bởi virus cúm gia cầm A động lực cao (H5N1). Năm 2003, gia cầm
đã bị ảnh hưởng bởi dịch cúm (H5N1) dẫn đến việc tiêu huỷ 44 triệu con. Sau đó virus
H5N1 truyền sang người và gây ra hơn 100 trường hợp tử vong từ năm 2003 đến năm
2008. Ngoài các bệnh do virus, vi khuẩn và ký sinh trùng, chất thải động vật và nước thải
từ cơ sở chăn nuôi cũng có chứa dư lượng thức ăn chăn nuôi và hóa chất có thể gây nước ô
nhiễm nếu không được xử lý đúng cách. Tác động đối với sức khỏe cộng đồng phụ thuộc
vào mức độ ô nhiễm thực phẩm hoặc nước uống, giới tính, điều kiện vệ sinh, và các phương
pháp xử lý chất thải (Huynhvà các cộng sự. 2010).
Mặc dù có bằng chứng rõ ràng về những tác động tiêu cực của chất thải chăn nuôi đối
với sức khỏe công cộng, cho đến nay chưa có nghiên cứu toàn diện nào được thực hiện
trên các khía cạnh này. Do thiếu thông tin, hầu hết mọi người vẫn chưa nhận thức được
tất cả các rủi ro liên quan đến quản lý và xử lý chất thải động vật không đúng cách. Ví dụ,
một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng lý do chính để nông dân xây dựng hầm khí sinh
học là vì họ muốn giảm bớt các vấn đề về mùi hôi và ruồi nhặng (Huong và các cộng sự.
2014a). Nhiều nông dân không biết rằng nước thải từ bể khí sinh học chưa an toàn đã
22
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
được xả trực tiếp vào nguồn nước được sử dụng để cung
cấp nước sinh hoạt hoặc tưới trực tiếp trên rau có thể dùng
ăn sống (Huongvà các cộng sự. 2014b). Trong thực tế, hầm
khí sinh học chỉ giúp làm giảm nồng độ vi khuẩn E.coli
bằng 1–2 đơn vị log tới 3,70 ± 0,84 E.coli (log10) cfu/ml
trong nước thải so với bùn thải. Mẫu nước thải hầm khí
sinh học vẫn dương tính với một số mầm bệnh có hại cho
con người và vượt quá tiêu chuẩn quốc gia đối với nước
thải (Bản 2013).
cầm (Dương và Nguyễn 2105; Phạm Kim và các cộng sự
. 2013). Một báo cáo dự án gần đây cho thấy 42% người
dân Việt Nam có các vi khuẩn kháng thuốc, một tỷ lệ cao
so với các nước khác (SATREPS 2012–2017). Một nghiên
cứu cho thấy cho thấy E. coli phân lập từ Colibacillosis ở
lợn đã kháng lại nhiều loại kháng sinh như Enrofloxacin
(47,2%), Ciprofloxacin (33,3%), Norfloxacin (40%), và
Erythromycin (86,6%) (Khanh 2010). Khoảng 80,1% E.
coli phân lập và 77,5% của Salmonella spp. được thấy là
kháng ít nhất một loại kháng sinh; 61,5% E. coli và 60%
Salmonell app. đã kháng 2 loại kháng sinh (hoặc nhiều
hơn) (Phương và các cộng sự. 2008).
5.2 Tác động lên sức khỏe
động vật
5.4 Tác động kinh tế
Quản lý chất thải động vật cũng rất quan trọng cho chính
sức khỏe động vật. Thực hành quản lý động vật thích hợp
dẫn đến vệ sinh môi trường tốt hơn, do đó cũng có thể
ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh động vật. Vệ sinh kém
có thể tạo ra một nguồn mà từ đó các bệnh truyền nhiễm
có thể lây lan, ví dụ như cúm gia cầm, và hội chứng rối loạn
sinh sản và hô hấp ở lợn (PRRS).
Chi phí kinh tế và lợi ích của sản xuất chăn nuôi được
gắn chặt với cách thức mà trong đó các chất thải chăn
nuôi được quản lý và xử lý. Chất thải chăn nuôi là nguồn
phân bón hữu cơ tốt có thể thay thế phân vô cơ nếu được
xử lý đúng cách và được sử dụng một cách thích hợp trên
cây trồng (Châu 1998). Tuy nhiên, nếu chưa được quản lý
đúng cách, chúng không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước, môi
trường đất và không khí mà còn gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe công cộng. Chúng trực tiếp hoặc gián
tiếp gây thiệt hại kinh tế cho nông dân, người dân địa
phương xung quanh đó và đối với toàn xã hội.
Có rất ít nghiên cứu về tác động của hoạt động quản lý
chất thải chăn nuôi tới sức khỏe động vật mặc dù từ quan
điểm kỹ thuật thì làm vệ sinh và điều kiện vệ sinh môi
trường tốt góp phần giúp động vật có sức khỏe tốt và
tăng năng suất. Được biết Dự án Cạnh tranh Chăn nuôi
và An toàn Thực phẩm (LIFSAP) đã tiến hành lồng ghép
các biện pháp quản lý, ví dụ như trong đó có biện pháp
quản lý chất thải tốt. Sau năm năm thực hiện, Dự án đã
báo cáo về kết quả giảm tỷ lệ tử vong của lợn và gia cầm
từ 15% xuống còn 11,8% và rút ngắn thời gian vỗ béo cho
lợn từ 136 ngày xuống còn 118 ngày và gia cầm từ 66 ngày
xuống 58 ngày (LIFSAP 2015).
5.3 Vấn đề kháng thuốc
Có rất ít các phân tích chi phí-lợi ích của việc quản lý
chất thải chăn nuôi ở cấp quốc gia. Tại Việt Nam, sản
xuất chăn nuôi tạo ra khoảng 80 triệu tấn phân và chất
thải mỗi năm, trong đó khoảng hai phần ba (51,2 triệu
tấn) được xử lý và tái chế làm phân bón cho nông dân địa
phương. Điều này dường như đã không chỉ tiết kiệm chi
phí sản xuất đáng kể cho nông dân mà còn giúp duy trì
độ phì của đất đất và làm giảm thoái hóa đất. Tuy nhiên,
tính đến năm 2015, hơn một phần ba lượng chất thải phát
sinh (khoảng 28,8 triệu tấn) đã được thải ra một cách tự
do, gây ra ô nhiễm môi trường ở nhiều mức độ khác nhau.
Thực hành chăn nuôi này không chỉ gây lãng phí nguồn
tài nguyên phân bón tốt mà còn gây thiệt hại cho xã hội vì
tốn kém cho việc dọn sạch, phục hồi các hệ sinh thái bị hư
hại và môi trường ô nhiễm tại địa phương. Ta đều biết rằng
một khi một hệ sinh thái đã bị hư hại, đa dạng sinh học
bị mất đi, môi trường bị ô nhiễm và y tế công cộng bị ảnh
hưởng thì vô cùng khó khăn và tốn kém để khôi phục. Mặc
Có bằng chứng cho thấy sự lạm dụng kháng sinh trong
thức ăn chăn nuôi đã làm tăng vấn đề kháng thuốc trong
những năm vừa qua. Hơn 45 loại kháng sinh được báo
cáo là được sử dụng rộng rãi trong sản xuất chăn nuôi ở
Việt Nam, trong đó có hơn 17 loại kháng sinh được sử
dụng trong chăn nuôi thương phẩm và 15 loại kháng
sinh được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi lợn và gia
23
5. Tác động kinh tế - xã hội
dù rất khó để lượng hóa các tác động, rõ ràng cần nghiên
cứu nhiều hơn để thu hút sự chú ý của công chúng và phát
triển hệ thống phòng ngừa nhằm giảm nhẹ những rủi ro
đã dự kiến được. Rất tiếc là hiện nay chỉ có ít dữ liệu và
nghiên cứu đã được tiến hành ở cấp ngành về những vấn
đề này. Tuy nhiên, không có nghi ngờ rằng mỗi năm chính
phủ phải dành một phần đáng kể trong ngân sách khan
hiếm của mình để chăm sóc sức khỏe cộng đồng và làm
sạch các điểm nóng ô nhiễm tại địa phương. Cư dân địa
phương dành một khoản lớn trong ngân sách eo hẹp của
gia đình cho chăm sóc sức khỏe liên quan đến các bệnh do
chất thải chăn nuôi.
YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
6
6.1 Xu hướng sản xuất và quản lý chất
thải
Chăn nuôi là một trong các phân ngành phát triển nhanh nhất trong nền kinh tế nông
nghiệp của Việt Nam và nhu cầu đối với sản phẩm chăn nuôi đang tiếp tục tăng. Để đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng này, số lượng các cơ sở chăn nuôi vừa và lớn có thể phát triển
trong những năm tới. Ngoài ra, các chính sách của chính phủ đang củng cố xu hướng này
bằng cách cung cấp hỗ trợ tài chính cho các hộ chăn nuôi nhỏ để mở rộng quy mô sản xuất
của họ. Sự thay đổi này sẽ đưa đến một khối lượng lớn chất thải động vật. Trong quá trình
chuyển đổi từ sản xuất nhỏ tới các hệ thống chăn nuôi trang trại với quy mô lớn, sản xuất
chăn nuôi đang phải đối mặt với một số khó khăn, chẳng hạn như hạn chế về kiến thức và
kỹ năng trong thực tiễn quản lý, bao gồm biện pháp quản lý các loại bệnh và quản lý chất
thải, diện tích đất đai hạn chế để có thể mở rộng vùng chăn nuôi và để xử lý chất thải, cùng
với hạn chế tiếp cận tín dụng. Với những khó khăn này, rất có khả năng các nhà sản xuất sẽ
thỏa hiệp các tiêu chuẩn xử lý và quản lý chất thải để dành nguồn lực tư nhân khan hiếm
của họ cho các hoạt động kinh tế khác.
6.2 Những khó khăn trong việc áp dụng
quản lý chất thải chăn nuôi tốt hơn
Có một loạt các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng các giải pháp quản lý chất thải chăn
nuôi cải tiến của nông hộ, bao gồm quy mô sản xuất, sự sẵn có của đất canh tác và các
loại đất đai khác, sự tiếp cận với hệ thống khuyến nông, mức thu nhập, và số lượng lao
động gia đình. Tỷ lệ lớn hơn các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn áp dụng biện pháp quản lý
chất thải so với các nông hộ, vì họ có khả năng tài chính và kỹ thuật mạnh mẽ để xây dựng
cơ sở xử lý chất thải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường . Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp do chăn nuôi thâm canh cao và quỹ đất hạn chế, một số cơ sở chăn nuôi quy mô
lớn đã không thể xử lý toàn bộ chất thải. Điều này thường được quan sát thấy trong các cơ
26
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
sở chăn nuôi lợn và gia cầm tập trung ở tại các thành phố
lớn và vùng lân cận như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng
Nai, Thái Bình. Các vấn đề khó chịu nhất quan sát được tại
những cơ sở chăn nuôi này bao gồm mùi độc hại và sự tập
trung của ruồi nhặngtrong khu vực.
thấy hàng xóm của họ cũng không tuân thủ. Trong các cơ
sở chăn nuôi quy mô nhỏ với một vài loài vật nuôi, nông
dân có truyền thống thu gom và tái chế chất thải động vật
làm phân bón cho cây trồng và ao cá của họ. Do cạnh tranh
thị trường ngày càng tăng, nhiều nông dân đã phải tăng
quy mô đàn của họ, dẫn đến khối lượng lớn phân bón được
tạo ra hơn so với khối lượng mà họ có thể xử lý. Một số cơ
sở chăn nuôi có khả năng tài chính và đầu tư vào các hầm
khí sinh học để xử lý chất thải thừa đó và tạo ra khí ga để
gia đình sử dụng. Một số hộ không có khả năng xây hầm
quyết định xả chất thải của họ vào môi trường không qua
xử lý. Khi một người có thể làm điều đó, người khác sẽ làm
theo.
6.4 Áp lực xã hội thấp
Điều quan trọng cần lưu ý là hầu hết nông dân đều biết
rằng nếu chất thải chăn nuôi không được xử lý đúng cách
sẽ gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng sức khỏe con
người. Tuy nhiên, các cơ sở chăn nuôi đang phải đối mặt
với khó khăn lớn hơn trong việc áp dụng biện pháp quản lý
và xử lý chất thải chăn nuôi khác nhau. Trong những biện
pháp được các cơ sở áp dụng, hầm khí sinh học có thể yêu
cầu mức độ đầu tư vốn cao nhất. Các phương pháp khác
như ủ phân compost hoặc ao nuôi cá đòi hỏi phải đầu tư
ít hơn. Bất kể sử dụng phương pháp xử lý phân nào, đầu tư
bảo vệ môi trường là một gánh nặng thêm gây tăng chi phí
sản xuất và giảm lợi nhuận nông nghiệp, ít nhất là trong
ngắn hạn. Trong bối cảnh thực thi bảo vệ môi trường yếu
kém ở cấp địa phương, nhiều cơ sở chăn nuôi chỉ muốn
tránh phải xử lý chất thải động vật nhằm giảm chi phí đầu
tư của họ càng nhiều càng tốt.
6.3 Thiếu ưu đãi cho việc
áp dụng quản lý chất
thải cải tiến
Áp lực xã hội để nông dân quản lý và xử lý tốt hơn chất
thải chăn nuôi của họ trước khi xả thải vẫn còn thấp.
Mùi hôi thối từ chất thải chăn nuôi hút sự chú ý của công
chúng hơn ô nhiễm đất và nước bởi vì ô nhiễm đất và nước
thì ít được nhìn thấy rõ ràng và trong hầu hết các trường
hợp, người ta không thể thực hiện việc đo đạc khoa học để
chứng minh sự hiện diện của nó. Ngoài ra, các tác động của
ô nhiễm đất và nước diễn ra từ từ nên hầu hết mọi người
không thể dễ dàng nhận ra. Năng lực của các đơn vị môi
trường ở cấp huyện còn yếu. Quan trắc môi trường cho các
hoạt động nông nghiệp và thực thi pháp luật ở nông thôn
hầu như chưa có.
Có tiềm năng để Việt Nam tăng cường sử dụng phân hữu
cơ sản xuất từ chất thải chăn nuôi để cải tạo đất đai và
cho trồng trọt nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu
phân bón hữu cơ vẫn còn thấp trên thị trường trong nước.
Điều này phần nào là do sự tiện lợi của việc sử dụng phân
vô cơ (trong vận chuyển, cất trữ, tốc độ cho kết quả…).
Những nhân tố khác như chi phí cao cho cơ sở xử lý, thu
gom, cất trữ, vận chuyển (do khối lượng cồng kềnh của
chất thải chăn nuôi) cũng giữ cho giá của phân hữu cơ cao
hơn so với các loại phân vô cơ5. Chỉ có số ít các nhà đầu tư
sẵn sàng đầu tư vào xử lý chất thải chăn nuôi để sản xuất
phân hữu cơ cho mục đích thương mại.
Các mùi hôi thối tạo ra bởi các khu vực chăn nuôi lợn
đông đúc, chẳng hạn như các xã Ngọc Lũ (tỉnh Hà
Nam), xã Đông Trung (tỉnh Thái Bình), xã Gia Tân và
Sông Trầu (tỉnh Đồng Nai), và xã Vĩnh Lộc (TP HCM)
đã đưa đến nhiều khiếu nại và thậm chí xung đột xã hội
giữa những người dân trong xã. Gần đây, nhiều nông dân
đã xây dựng hầm khí sinh học để giảm bớt các vấn đề về
mùi hôi; Tuy nhiên, nước thải khí sinh học chưa được
an toàn để được thải trực tiếp ra môi trường. Nhằm đáp
ứng các tiêu chuẩn môi trường quốc gia đối với nước thải,
cần phải tiếp tục xử lý nước thải từ hầm khí sinh học. Tuy
nhiên, hầu hết nông dân không nhận thức được điều đó và
họ cũng không có phương tiện hoặc điều kiện để thực hiện
xử lý thêm cho nước thải từ bể khí sinh học.
Khi thực thi quy định môi trường ở cấp địa phương còn
yếu, không có sự khuyến khích cho các nông hộ nhỏ để
tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt là nếu họ
5 Về nitơ, phân bón hữu cơ đắt hơn phân bón tổng hợp, nhưng về mặt trọng lượng thì ngược lại là đúng.
27
6. Yếu tố tác động
Có rất ít kiểm soát và quy hoạch đối với nông hộ chăn
nuôi nhỏ ở khu vực nông thôn. Cho đến nay, phần này
của ngành đã phát triển một cách tự phát, thúc đẩy bởi
các yếu tố kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ.
Ngoài ra còn thiếu sự tham gia của các bên liên quan ở
cấp cộng đồng (bao gồm người dân trong thôn/nông dân,
chính quyền địa phương, các tổ chức phi chính phủ…)
trong việc lập kế hoạch, giám sát và thực thi pháp luật đặc
biệt là khi liên quan đến kế hoạch quản lý chất thải chăn
nuôi.
Chính phủ cũng đã cố gắng thúc đẩy khái niệm vùng/
cụm chăn nuôichăn nuôi tập trung để phân bố lại các cơ
sở chăn nuôi gia súc trong các khu vực dân cư tới những
nơi dân cư thưa thớt hơn. Trong quy hoạch vùng/cụm
chăn nuôi tập trung, chính phủ sẽ xây dựng hạ tầng công
cộng (gồm hạ tầng cơ sở, điện, nước…) để hỗ trợ cho cơ sở
chăn nuôi. Cho tới nay, đây được coi như một sự khuyến
khích hơn là một chính sách bắt buộc. Có một số thí điểm
thực hiện việc này tại Đồng Nai, Hải Phòng… Một số nhà
đầu tư mới đã tới và đầu tư vào những vùng này, tuy nhiên
trên thực tế có ít hộ chăn nuôi chuyển trại chăn nuôi của
mình đến các khu chăn nuôi tập trung này
6.5 Các chính sách mâu
thuẫn ưu tiên cho chăn
nuôi tăng cường
Mặc dù năng lực yếu kém trong thực thi quy định môi
trường, chính sách của chính phủ tiếp tục đẩy mạnh đầu
tư nhiều hơn và thâm canh hơn trong sản xuất chăn nuôi.
Điều này thúc đẩy việc tạo ra ngày càng nhiều chất thải
chăn nuôi và gây ô nhiễm.
Thay vì cố gắng giám sát chặt chẽ và tăng cường tính tuân
thủ những tiêu chuẩn môi trường, chính phủ đã và đang
cung cấp ưu đãi để hộ nông dân và doanh nghiệp nông
nghiệp xây dựng các cơ sở xử lý chất thải (đó là những
khoản tài trợ trọn gói khoảng 150 USD cho mỗi hầm
khí ga sinh học được xây dựng). Tuy nhiên, trên thực tế
chính sách ưu đãi này chưa hoạt động hiệu quả do khoản
ưu đãi tương đối nhỏ so với chi phí thực sự của các cơ sở xử
lý chất thải. Được điều khiển bởi các nguồn lực thị trường
và sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn, số lượng hộ chăn nuôi
nhỏ đã giảm xuống tương đối trong những năm gần đây
và những cơ sở này đã được thay thế bởi cơ sở quy mô lớn
hơn. Chính phủ cần khẩn trương thực thi các tiêu chuẩn
môi trường ngay từ đầu (từ khi đăng kí, lập kế hoạch, vv…)
khi số lượng các trang trại quy mô lớn xuất hiện và ngành
chăn nuôi bắt đầu quá trình thâm canh hóa.
Năm 2014, một chính sách mới của chính phủ cam kết
cải thiện hiệu quả chăn nuôi hộ gia đình trong giai đoạn
2015–2020 và sẽ thúc đẩy thâm canh và công nghiệp hóa
ngành chăn nuôi thông qua phát triển các cơ sở chăn
nuôi quy mô lớn. Gói ưu đãi này bao gồm trợ cấp cho một
số loại giống vật nuôi và đầu tư vào quản lý chất thải động
vật (khí ga và đệm lót sinh học).
Trong năm 2013, chính phủ ban hành một chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
tại các khu vực nông thôn. Theo chính sách này, nếu hộ
gia đình và doanh nghiệp đầu tư vào quy mô thường xuyên
1000 con lợn, 500 con trâu, bò, dê, cừu, 200 con bò thịt
cao sản hoặc 500 con trâu cao sản thì các hộ hoặc doanh
nghiệp này sẽ được nhận 3–5 tỷ đồng cho mỗi dự án nhằm
đầu tư vào hạ tầng để quản lý chất thải, vận chuyển, tiện
ích, xây dựng, vườn cỏ và trang thiết bị. Ngoài ra, khi nhập
khẩu giống bò sữa, nhà đầu tư sẽ được giảm 40% thuế nhập
khẩu. Tuy nhiên, khi chính sách được thực thi đã không có
tính hấp dẫn bởi vì các thủ tục và hồ sơ giấy tờ phức tạp.
Thêm vào đó, các cơ sở chăn nuôi nhỏ không thể có đủ vốn
đầu tư cần có cho mở rộng quy mô hoạt động của mình.
CÁC BIỆN PHÁP CAN
THIỆP
7
7.1 Các chính sách và quy định về quản lý
chất thải chăn nuôi
Năm 2005, Luật Bảo vệ Môi trường đã được thông qua, quy định rõ ràng các trách
nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân đối với việc bảo vệ môi trường.
Cũng trong năm 2005, Cục Chăn nuôi đã được thành lập trực thuộc BỘ NN&PTNT với
trọng trách chính là giám sát việc sản xuất chăn nuôi và các vấn đề về môi trường liên quan
đến chăn nuôi trên toàn quốc, trong đó có quản lý chất thải chăn nuôi. Một năm sau đó,
chính phủ ban hành một nghị định cung cấp hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Luật Bảo
vệ Môi trường. Theo những văn bản pháp lý này, các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn với trên
1.000 con gia súc hoặc 20.000 con gia cầm phải thực hiện một Đánh giá Tác động Môi
trường (EIA) trước khi thành lập để đảm bảo rằng họ sẽ quản lý ô nhiễm môi trường một
cách thích hợp. Đối với những cơ sở chăn nuôi quy mô nhỏ và chăn nuôi hộ gia đình phải
chuẩn bị một báo cáo Cam kết Bảo vệ Môi trường, một mẫu đơn giản của báo cáo đánh giá
tác động môi trường. Báo cáo Cam kết Bảo vệ Môi trường này sẽ được đăng ký tại UBND
huyện hoặc UBND xã nếu được phân cấp.
Các tiêu chuẩn quốc gia về nước thải từ các cơ sở chăn nuôi đã được Bộ Tài nguyên và
Môi trường ban hành, nhưng các tiêu chuẩn này quá cao để các cơ sở chăn nuôi tuân
thủ. Bởi vì tiêu chuẩn này được thiết kế dựa trên các cơ sở sản xuất công nghiệp và chúng
thậm chí còn nghiêm ngặt hơn cả các tiêu chuẩn của các quốc gia công nghiệp hóa (như
Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc). Những tiêu chuẩn cao này có tác dụng ngược lại vì chúng
làm cho các cơ sở nản lòng trong việc áp dụng các hệ thống xử lý chất thải.
Mặc dù có các tiêu chuẩn quốc gia về nước thải, trên thực tế việc thực thi và tuân thủ
đối với các tiêu chuẩn này còn rất yếu. Một số cơ sở chăn nuôi chỉ lắp đặt các hầm khí
sinh học tượng trưng cho việc xử lý chất thải chăn nuôi để đảm bảo với chính quyền địa
phương, bất kể chúng có đáp ứng được các tiêu chuẩn về môi trường hay không. Trong
30
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
nhiều trường hợp, khi khối lượng chất thải quá nhiều, họ
xả ra bên ngoài mà không qua xử lý. Những vi phạm này
được người dân trong thôn biết nhưng hiếm khi bị chính
quyền địa phương bắt được trừ khi có khiếu nại. Việc thực
thi không đầy đủ chủ yếu là do sự yếu kém về mặt thể chế
đi đôi với thiếu hụt nguồn nhân lực và tài lực cho các hoạt
động giám sát.
Trong năm 2008, BỘ NN&PTNT đã ban hành quy
trình thực hành chăn nuôi tốt khuyến khích nhà sản
xuất bất kể ở quy mô nào áp dụng những thực hành tốt
để ngăn chặn các rủi ro lây nhiễm bệnh tật, cải thiện
an toàn và chất lượng sản phẩm cũng như sức khỏe con
người và môi trường. Chính phủ cũng đã xây dựng một
số dự án (LIFSAP, và Dự án Phòng, chống dịch cúm gia
cầm và cúm ở người và dự phòng đại dịch- VAHIP) nhằm
hỗ trợ cho nông dân áp dụng những thực hành chăn nuôi
tốt. Cho tới nay, đây là một quy trình áp dụng tự nguyện.
Danh sách các văn bản luật và quy định được đề cập trong
Phụ lục.
Khí sinh học. Ngày nay khí sinh học là công nghệ phổ
biến nhất ở các khu vực nông thôn, giúp giảm thiểu các
vấn đề môi trường do chất thải chăn nuôi và chuyển đổi
chất thải thành năng lượng để sử dụng. Trong thực tế, hầm
khí sinh học đã được sử dụng tại Việt Nam trong nhiều
thập kỷ, nhưng trong mười năm qua, công nghệ phát triển
mạnh hơn nhờ vào chương trình hỗ trợ tài chính của
chính phủ cung cấp ưu đãi cho nhiều nông dân áp dụng
công nghệ này. Trong năm 2009, chính phủ trợ cấp lên đến
25% của chi phí xây dựng hầm khí sinh học mới, sau đó
giảm xuống còn 10% trong năm 2011 và 2012 (khoảng
11 triệu đồng cho một hầm khí sinh học 11m3). Kết quả
là, tổng cộng 500.000 hầm khí sinh học đã được xây dựng
trên toàn quốc trong thời gian này, trong đó có 176.000
hầm khí sinh học đã được tài trợ bởi bốn nguồn/dự án
chính, cụ thể là SNV-Hà Lan, LIFSAP, Dự án Nâng cao
Chất lượng, An toàn sản phẩm Nông nghiệp và Phát triển
Khí sinh học (QSEAP), và Dự án Hỗ trợ nông nghiệp
Cacbon thấp (LCASP). Những lợi thế của công nghệ này
bao gồm: (a) giúp giảm mùi khó chịu; (B) chất thải từ
hầm khí sinh học có thể được sử dụng cho ao nuôi cá và
trồng cây nông nghiệp; và (c) các loại khí sản xuất được có
thể dùng để nấu ăn và tạo ra điện. Tuy nhiên, khí sinh học
cũng có một số hạn chế, chẳng hạn như nó đòi hỏi diện
tích đất đai lớn và đầu tư ban đầu cao.
7.2 Các công nghệ có tại
địa phương cho việc
quản lý chất thải chăn
nuôi
Đệm lót sinh học để giảm bớt ô nhiễm môi trường. Đây
là một công nghệ tiên tiến sử dụng vật liệu hữu cơ để hấp
thụ chất thải lỏng và dùng vi khuẩn để lên men phân nhằm
giảm bớt mùi hôi và ô nhiễm. Vật liệu thường được sử
dụng làm đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn và gia cầm
bao gồm vỏ trấu, mùn cưa, xơ dừa, và vi khuẩn lên men. Ưu
điểm của công nghệ này là nông dân không phải làm sạch
chuồng trại ngày. Điều này giúp giảm sức lao động và chi
phí. Theo khảo sát của DLP, trong năm 2013 có khoảng
752 trang trại chăn nuôi gia súc và 61.449 hộ chăn nuôi đã
sử dụng công nghệ này, chủ yếu trong chăn nuôi gà (DLP
2015b).
Các thực hành quản lý chất thải chăn nuôi hiện nay có sự
đa dạng. Chúng thay đổi cùng với (a) các hệ thống chuồng
trại và địa điểm của chúng; (b) các thực hành vệ sinh (tách
riêng hay trộn lẫn chất lỏng và chất rắn); (c) các thực hành
xử lý (hầm khí sinh học, ủ phân compost hay bán phân
tươi). Theo khảo sát của Cục Chăn nuôi năm 2013 (DLP
2015b), trung bình chỉ có khoảng 6,3% các trang trại được
khảo sát không sử dụng bất cứ cách xử lý phân tươi nào
trong khi tỷ lệ đó là 37,3% đối với hộ chăn nuôi; 31,8%
các trang trại chăn nuôi được khảo sát có hầm khí sinh học
trong khi chỉ có 4,1% hộ chăn nuôi nhỏ có hầm khí sinh
học; ¼ các trang trại chăn nuôi được khảo sát loại bỏ phân
(chủ yếu là phân lợn) bằng cách bán đi trong khi chỉ có
7,6% đối với hộ chăn nuôi làm vậy. Một tỷ lệ nhỏ chăn
nuôi trang trại và chăn nuôi hộ gia đình đã sử dụng phân
cho việc chăn nuôi cá.
Ủ phân compost. Đây là công nghệ đơn giản nhất được
thực hiện bằng cách trộn phân và chất thải với thực vật
cắt nhỏ. Do giàu chất dinh dưỡng, phân ủ compost được
sử dụng cho các khu vườn, cây cảnh, trồng hoa và nông
nghiệp. Phân ủ compost rất có lợi cho đất theo nhiều cách,
bao gồm vai trò điều hòa và làm màu mỡ cho đất. Trong hệ
sinh thái, phân ủ compost hữu ích cho việc kiểm soát xói
mòn, cải tạo đất đai, và đóng vai trò như một lớp che phủ
31
7. Các biện pháp can thiệp
bãi đất. Ưu điểm của công nghệ này là giúp giảm thiểu ô
nhiễm môi trường và tạo ra phân bón hữu cơ cho đất và
cây trồng. Hầu hết các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ đều sử
dụng công nghệ phân ủ phân compost để tái chế chất thải
và phụ phẩm nông nghiệp tại các cơ sở chăn nuôi của họ
nhằm sản xuất phân bón hữu cơ cho mục đích riêng. Các
cơ sở chăn nuôi quy mô lớn sản xuất khối lượng lớn phân
bón có thể làm phân ủ compost nhưng họ không làm vậy
vì thị trường phân ủ compost chưa phát triển.
Hệ thống Vườn - Ao - Chuồng. Sự lồng ghép giữa vườn,
ao, chuồng được gọi là hệ thống VAC tại Việt Nam. Hệ
thống chăn nuôi, trồng trọt này được các hộ gia đình quản
lý. Trong hệ thống này, nước ao được sử dụng để tưới cho
vườn; bùn ao thường được dọn đi hàng năm và sử dụng
làm phân bón cho cây ăn quả; và phân vật nuôi được sử
dụng để bón cho cây trồng và cho cá ăn. Hệ thống này chỉ
thích hợp cho sản xuất chăn nuôi quy mô nhỏ với một
lượng ít chất thải vật nuôi hàng ngày.
Nhiều loại công nghệ có sẵn tại địa phương đang được
người dân sử dụng. Tuy nhiên, mức độ áp dụng và tỷ lệ
áp dụng phụ thuộc vào khả năng tài chính, lao động và kỹ
năng của họ, quy mô cơ sở chăn nuôi, mức độ tập trung của
vật nuôi, và quan trọng nhất là năng lực thực thi quy định
về môi trường của chính quyền địa phương.
THIẾU HỤT KIẾN THỨC
VÀ DỮ LIỆU
8
8.1 Thiếu hụt về kiến thức
Cho đến nay chỉ có ít nghiên cứu về ô nhiễm do sản xuất chăn nuôi tại Việt Nam. Dựa trên
những kết quả các nghiên cứu gần đây, những thiếu hụt kiến thức về ô nhiễm do phát triển
chăn nuôi đã xác định được như sau.
Kỹ thuật
• Các loại chuồng trại cho vật nuôi có liên quan tới những thực hành quản lý chất thải
và các cấp độ ô nhiễm, trong đó có những thiết kế chuồng trại mới với bể chứa thả và
sàn bê tông.
• Những tác động môi trường theo các hệ thống chăn nuôi khác nhau, theo quy mô và
theo phân bố địa lý tập trung vào những tỉnh nuôi nhiều lợn và bò sữa.
• Lượng hóa hàm lượng chất gây ô nhiễm (các chất dinh dưỡng và mầm bệnh) xả ra từ
các cơ sở chăn nuôi, ngấm vào đất và những nơi chứa nước, nước ngầm.
• Tác động của ô nhiễm chất thải chăn nuôi tới sức khỏe người dân và sức khỏe môi
trường.
Kinh tế
• Phân tích chi phí-lợi ích của các phương án quản lý chất thải khác nhau (bao gồm khí
sinh học, phân sinh học, phân ủ compost…) theo vùng, các loại hình cơ sở chăn nuôi
(loài vật nuôi), và quy mô cơ sở chăn nuôi (quy mô nhỏ vừa và lớn).
34
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
Chính sách
8.3 Các điểm nóng nên
thực hiện nghiên cứu
điểm
• Những chiến lược để tăng cường một cách hiệu quả
sự tuân thủ với các chính sách hiện hành về bảo vệ
môi trường, đặc biệt là những chính sách có liên
quan đến chất lượng nước mặt, nước ngầm và mùi
hôi, và cấm các cơ sở chăn nuôi lợn và bò sữa quy mô
lớn hoạt động ở các khu vực đông dân cư.
8.2 Thiếu hụt về dữ liệu
• Cơ sở nuôi lợn tại huyện Thống Nhất và Trảng Bom,
tỉnh Đồng Nai. Đây là những khu vực chăn nuôi lợn
chính của tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, nhiều cơ sở nuôi
lợn tại xã Gia Tân xả chất thải của lợn vào các kênh
thủy lợi, gây thiệt hại cho cây ăn quả trong những
khu vườn gần đó. Tại xã Sông Trầu, phần lớn các cơ
sở nuôi lợn được đặt gần một con sông và xả chất thải
vào đó. Nhiều ruộng lúa, ao cá, và các khu vườn xung
quanh những cơ sở chăn nuôi đã bị bỏ hoang vì bị
ngập trong chất thải của lợn.
Những thiếu hụt dữ liệu sau đây đã được xác định:
• Lượng chất gây ô nhiễm xả vào môi trường và phân
theo từng loài vật, quy mô chăn nuôi và vùng.
• Dữ liệu định lượng về các cấp độ ô nhiễm nước, ô
nhiễm không khí, ô nhiễm đất và các sản phẩm
nhiễm độc do chăn nuôi
• Cơ sở chăn nuôi lợn tại huyện Bình Chánh TP.
HCM. Rất nhiều cơ sở chăn nuôi nuôi lợn ở xã Vĩnh
Lộc A Vinh và xã Vĩnh Lộc B xả trực tiếp vào kênh
rạch và hồ. Nó không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước
mà còn phát ra mùi hôi thối. Ruồi muỗi đã gây ảnh
hưởng đến cuộc sống của hàng ngàn người dân địa
phương.
• Dữ liệu về tác động kinh tế- xã hội của ô nhiễm chất
thải chăn nuôi (ốm đau, chết trẻ, vi phạm an toàn
thực phẩm, sản phẩm bị từ chối, mất doanh thu của
các nhà sản xuất…)
• Số liệu chính thức về số lượng vật nuôi theo hệ thống
chăn nuôi (có nghĩa là tính theo cơ sở chăn nuôi hộ
gia đình và công nghiệp)
• Số liệu chính thức về động thái và những thay đổi về
số lượng các sơ sở chăn nuôi và quy mô chăn nuôi6
• Giám sát một cách hệ thống dữ liệu về các cơ sở chăn
nuôi và các dữ liệu về môi trường liên quan trong các
tỉnh và vùng.
6 Lưu ý rằng phần lớn số liệu báo cáo trong tài liệu này chủ yếu là ước lượng mang tính học thuật.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN
NGHỊ
9
9.1 Những kết luận chính
1. Trong những thập kỷ qua, chăn nuôi là một trong những ngành nông nghiệp phát
triển nhanh nhất tại Việt Nam. Năm 2015, ngành này đóng góp khoảng 32% giá trị
sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi bán công nghiệp và công nghiệp chiếm 64,2%giá trị
sản xuất ngành chăn nuôi; các cơ sở chăn nuôi quảng canh và tận dụng chiếm phần
còn lại.
2.
Sản xuất chăn nuôi đã nhanh chóng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thịt, sữa và
trứng ở Việt Nam trong thập kỷ qua. Tính đến năm 2015, hơn một phần ba (36%)
của phân gia súc được thải trực tiếp vào môi trường không qua xử lý một cách thích
hợp (40 % các hộ và 16 % cơ sở chăn nuôi trang trại). Với xu hướng ngày càng tăng về
sản lượng và chăn nuôi thâm canh, các vấn đề quản lý chất thải sẽ tiếp tục phát sinh
và trở nên nghiêm trọng hơn nữa trong những thập kỷ tới nếu chính quyền các cấp
không thực hiện các chiến lược hiệu quả để quản lý tốt hơn các vấn đề này.
3. Ô nhiễm từ các cơ sở chăn nuôi chủ yếu đến từ phân, thức ăn, thuốc và hóa chất.
Khi thải ra môi trường, chúng gây ô nhiễm đất, nước mặt, nước ngầm và không khí.
Đã có bằng chứng địa phương về ô nhiễm môi trường do chất thải từ các cơ sở chăn
nuôi, mặc dù rất ít số liệu định lượng có sẵn về mức độ ô nhiễm của đất, nước mặt,
nước ngầm, và ô nhiễm không khí, hoặc tác động tới các hệ sinh thái và sức khỏe cộng
đồng.
4. Có mối quan tâm quan trọng là việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi. Hơn 45
loại kháng sinh được báo cáo là đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất chăn nuôi
ở Việt Nam. Khoảng 60% mẫu thức ăn chăn nuôi từ các cơ sở chăn nuôi lợn chứa ít
nhất một loại thuốc kháng sinh từ các nhóm tetracycline và tylosin. Có rất ít nghi
ngờ rằng việc lạm dụng thuốc kháng sinh sẽ làm tăng sức đề kháng của vi khuẩn. Thật
36
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
tiếc là cho đến nay chỉ có một vài nghiên cứu thực
nghiệm về vấn đề này ở Việt Nam.
5. Tổng khối lượng phân động vật được tạo ra trên toàn
quốc vào khoảng 80 triệu tấn mỗi năm. Lợn chiếm
30%, gia cầm 29%, bò 23%, trâu và các động vật khác
chiếm 18%. Về phân bố địa lý, khu vực tạo ra các chất
thải chăn nuôi nhiều nhất là đồng bằng sông Hồng,
tiếp đến là Đông Nam bộ, và Đồng bằng sông Cửu
Long. Một số tỉnh thải ra phân lợn nhiều nhất tính
theo km2 là Thái Bình (598 tấn/km2), Hà Nội (390
tấn/km2) và Đồng Nai (219 tấn/km2).
8. Có một khoảng cách lớn giữa những yêu cầu của tiêu
chuẩn quốc gia đối về chất thải và quản lý chất thải
đối với các cơ sở chăn nuôi so với thực tiễn đang diễn
ra. Năng lực thể chế cho việc giám sát và thực thi ở
cấp địa phương nói chung còn yếu. Áp lực xã hội yếu,
việc thực thi quy định còn hạn chế, chi phí đầu tư cao
và các ưu đãi chưa hợp lý là lý do chính cho việc hạn
chế áp dụng các biện pháp cải tiến về quản lý chất
thải, đặc biệt là trong các cơ sở chăn nuôi quy mô
nhỏ. Ngay cả đối với những cơ sở đã xây dựng hầm
khí sinh học, không có sự giám sát để xác định xem
liệu nước thải từ hầm khí sinh học đã đáp ứng các
tiêu chuẩn trước khi chúng được sử dụng làm phân
bón cho cây trồng hoặc thải vào môi trường chung
hay không.
6. Một số nỗ lực đã được thực hiện bởi chính quyền
trung ương để thúc đẩy việc thành lập các khu chăn
nuôi tập trung ở mỗi tỉnh. Mục đích chính của mô
hình này là để chuyển dịch sản xuất chăn nuôi từ
các khu vực đông dân cư tới những nơi dân cư thưa
thớt. Chính phủ đang tài trợ cho sự phát triển cơ sở
hạ tầng trong sản xuất và quản lý chất thải trong các
khu vực này. Trong khi về nguyên tắc đây là một cách
tiếp cận tốt, trên thực tế nông dân đang đối mặt với
một số khó khăn và chính những khó khăn này đã
cản trở việc triển khai cách tiếp cận này Những hạn
chế liên quan đến diện tích đất đai có sẵn, khả năng
tiếp cận (thấp) và chi phí lao động (cao), tiếp cận đầu
vào (thức ăn, vắc xin, và những thứ khác), giao thông
và các kênhtiêu thụ. Tại thời điểm báo cáo, việc xây
dựng các vùng chăn nuôi tập trung đang được triển
khai thí điểm tại một số tỉnh với sự hỗ trợ tài chính
ban đầu đến từ các dự án của chính phủ. Do vẫn đang
ở giai đoạn ban đầu và hiện vẫn chưa thực hiện đánh
giá nên chưa có kết quả đánh giá về cách tiếp cận này.
9. Chính sách của chính phủ để tăng cường sản xuất
chăn nuôi và khuyến khích chăn nuôi thâm canh
cũng mang một tình thế khó xử do khả năng hạn
chế của ngành trong lĩnh vực xử lý và quản lý chất
thải. Tuy nhiên, trong môi trường hiện nay không
có gì chắc chắn rằng quản lý chất thải sẽ được cải
thiện trong ngắn hạn. Những trở ngại bao gồm trách
nhiệm chồng chéo giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường
và BỘ NN&PTNT trong việc giám sát chất thải
chăn nuôi, thiếu năng lực kỹ thuật và tài chính để
giám sát hiệu quả ở các cấp địa phương và sự không
kịp thời xử phạt người vi phạm. Thực hành xử lý và
quản lý chất thải yếu sẽ không chỉ làm tăng ô nhiễm
nước, đất và không khí, đồng thời tạo ra các rủi ro
lớn hơn đối với sức khỏe cộng đồng mà còn làm giảm
khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam tại
các thị trường trong nước và quốc tế. Tác động này
là rất lớn và không thể bỏ qua vì chúng sẽ ảnh hưởng
đến tính bền vững của ngành trong dài hạn.
7. Cơ sở chăn nuôi lợn là nguồn gây ô nhiễm chất thải
lớn nhất ở khu vực đồng bằng sông Hồng, Đông
Nam bộ và ĐBSCL. Các cơ sở nuôi lợn quy mô lớn
có xu hướng được đặt gần những thành phố lớn
như Hà Nội, TP HCM, Đồng Nai, Thái Bình. Các
phương tiện truyền thông thường là nơi thông báo
về các điểm nóng ô nhiễm mà sự phát triển của phân
ngành này đã gây ra, trong khi công tác giám sát môi
trường công cộng và thực thi quy định môi trường
vẫn còn yếu. Cần có sự đầu tư đáng kể của chính phủ
để giải quyết các vấn đề ô nhiễm đất, nước và không
khí ở những nơi này. Sự hợp tác mạnh mẽ từ phía các
nhà sản xuất cũng sẽ là một yếu tố quan trọng.
37
9. Kết luận và khuyến nghị
9.2 Khuyến nghị
họ, trong khi vẫn cung cấp nhiều ưu đãi cho những
cơ sở có kết quả hoạt động môi trường tốt.
Sau đây là những khuyến nghị đưa ra dựa trên những phát
hiện nói trên:
1. BỘ NN&PTNT có thể điều phối với các viện
nghiên cứu và cơ quan kỹ thuật để thực hiện thêm
các nghiên cứu để bổ sung kiến thức và dữ liệu thiết
hụt đã xác định được trong phần 8 của báo cáo này.
2. BỘ NN&PTNT có thể phối hợp với Bộ Tài nguyên
và Môi trường xem xét và làm rõ trách nhiệm của
các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm cho công tác
giám sát môi trường và thực thi quy định tại các cấp.
Ngoài ra, họ cần nguồn nhân lực và tài chính phù
hợp để thực hiện có hiệu quả chức năng của mình.
Các vấn đề về thực thi đòi hỏi sự chú ý nhiều hơn
nữa và cần phải trở thành một phần không thể thiếu
trong các chương trình ưu đãi của chính phủ.
3. Trong quá trình cải thiện quản lý chất thải chăn nuôi,
phương pháp giám sát của chính phủ sẽ được hưởng
lợi từ việc cải cách. Thay vì giám sát từng hộ sản
xuất nhỏ, chính phủ có thể giúp họ tổ chức thành
các nhóm, tổ chức nông dân và giúp các nhóm/tổ
này trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch quản
lý chất thải dựa vào cộng đồng của chính họ, với sự
tham gia của cộng đồng trong việc giám sát và thực
thi. Cách tiếp cận này sẽ giúp tạo ra áp lực ngang
hàng trong dân nhằm mục đích áp dụng các thực
hành quản lý chất thải tốt. Khi thích hợp, chính phủ
có thể hỗ trợ cho các tổ chức này phát triển hạ tầng
tập trung để lưu trữ và xử lý chất thải chăn nuôi ở
cấp xã, hỗ trợ họ trong việc tiếp thị các sản phẩm đã
qua xử lý như phân bón hữu cơ. Trong một số trường
hợp, các hoạt động này có thể được liên kết với các
chương trình cải tạo đất của chính phủ.
4. Ngay cả khi tăng thêm ưu đãi cho người áp dụng,
chính quyền địa phương có thể nghiêm khắc hơn
với những người vi phạm. Tùy thuộc vào mức độ vi
phạm, các loại hình xử phạt hoặc các mức tiền phạt
khác nhau có thể được áp dụng để buộc tất cả những
cơ sở chăn nuôi thực hiện đúng pháp luật bảo vệ môi
trường. Chính quyền trung ương cũng có thể làm
nhiều hơn để quy định rõ trách nhiệm của chính
quyền địa phương đối với ô nhiễm trong khu vực của
TÀI LIỆU THAM KHẢO
ACE Europe. 2013. “Đánh giá Giữa kỳ chương trình SNV 2007–2015 Nghiên cứu
chuyên sâu về Chương trình Biogas VIệt Nam” http://www.iob-evaluatie.nl/
sites/iob-evaluatie.nl/files/In-depth%20report%20on%20SNV's%20biogas%20
programme%20in%20Vietnam.pdf.
Bản, tin lãnh đạo. 2013. Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp về thể chế, chính sách trong
quản lý môi trường chăn nuôi. http://xttm.Bộ NN&PTNT.gov.Việt Nam/Site/
vi-VN/76/tapchi/69/106/5580/Default.aspx.
Bunton, B., P. O’Shaughnessy, and S. Fitzsimmons, và các cộng sự. 2007.“Giám sát và Mô
hình Thải khí từ Hoạt động chăn nuôi tập trung: Tổng quan về các Phương pháp.”
Các quan điểm về sức khỏe môi trường 115: 303–307.
Burkholder, J., B. Libra, P. Weyer, S. Heathcote, D. Kolpin, P. S. Thorne, và M.
Wichman.2007.“ Tác động từ chất thải của hoạt động chăn nuôi tập trung đối với
chất lượng nước.”
Chau, L.H. 1998. “Chất thải từ Hầm khí sinh học với phân động vật, từ lợn hoặc bò, làm
phân bón cho bèo cám (Lemna spp.).”Nghiên cứu chăn nuôi cho Phát triển nông
nghiệp 10 (3), Bài #27. http://www.lrrd.org/lrrd10/3/chau2.htm.
Desvaux, S. E. 2008. "Tổng quan và mô tả về sản xuất gia cầm ở Việt Nam.
Đinh, Xuân Tùng. 2009a. Báo cáo điều tra quy mô, năng xuất và hiệu quả chăn nuôi lợn và
trâu bò. Cục Chăn Nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT.
———. 2009b. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò sữa nông hộ tại vùng đồng bằng sông
Hồng. Viện Chăn Nuôi, Bộ NN-PTNT.
Đinh, Xuân Tùng và các cộng sự. 2005. Thịt lợn và gia cầm ở Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam:
Viện Chăn nuôi
DLP-Bộ NN & PTNT (Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.2015a.
“Tổng quan về Chiến lược Phát triển và Kế hoạch Tái cơ cấu Ngành chăn nuôi”.
Hội thảo quốc tế “Ngành chăn nuôi Việt Nam trong Hội nhập Kinh tế: Chia sẻ
kinh nghiệm – Định hướng tương lai.” Hà Nội, 27/10.
———.2015b. Xử lý chất thải trong chăn nuôi, Hội thảo xử lý chất thải trong chăn nuôi,
thực trang và giải pháp, tháng 10, 2015, Hà Nội.
Dương, Thị Toan, và Nguyễn Văn Lưu.2015. Tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn
nuôi lợn thịt, gà thịt ở một số cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Tạp chí
Khoa học và Phát triển 2015, tập 13, số 5: 717-722.
Duteurtre, G., J.-D. Cesaro, H.M. Nguyen, K.D. Phạm, và L.Ng Nguyễn. 2015. "Công ty
sữa TH (Việt Nam): Là một đầu tư có quy mô lớn bền vững." BÁO CÁO Báo
cáo hoạt động dự án dựa trên một chuyến thăm thực hiện tại huyện Nghĩa Đàn
(Nghệ An). Trung tâm Phát triển Nông thôn CIRAD và Hà Nội, ngày 2 tháng
7. https://agritrop.cirad.fr/579403/1/Report%20visit%20to%20TH%20mega-
farm%20VF2.pdf
40
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
nghiệm. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Nông nghiệp
Hà Nội.
Lam, Vo.2011. “Sản xuất sữa tại các cơ sở chăn nuôi bò
sữa của chủ sở hữu nhỏ tại miền Nam Việt Nam”.
Luận án tiến sỹ, Swedish University of Agricultural
Sciences Uppsala.
Dũng, N.M.2013. Sản xuất và Tiếp thị tại Việt Nam. Viện
Khoa học động vật. www.agnet.org/file_view.
php?...%20Nguyen%20Manh%20Dung.
FBLI-Sổ tay.2015. “Phát triển sức khỏe sinh thái tịa Đông
Nam Á và Trung Quốc. Các bài học từ Sáng kiến
xây dựng năng lực lãnh đạo từ cơ sở.” Bản dự thảo.
Hoàng, Kim Giao.2012a. Tình hình chăn nuôi năm
2011 và định hướng phát triển trong những năm
tới. Báo cáo hội thảo triển vọng thị trường nông
nghiệp Việt Nam, Hà Nội tháng 3 năm 2012.
Lê, Văn Thực.2012. Kết quả bước đầu nghiên cứu về môi
trường trong chăn nuôi bò sữa quy mô nông hộ
tại Ba Vì. Báo cáo khoa học, Viện Chăn Nuôi, Bộ
NN-PTNT.
Hoàng, Vũ Quang.2012b. Cơ cấu và biến động phương
thức chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi.
Trường hợp lợn thịt. Báo cáo hội thảo triển vọng
thị trường nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội tháng
3 năm 2012.
LIFSAP.2015. “An toàn thực phẩm và hiệu quả sản xuất cao
hơn với những thực hành chăn nuôi tốt.” http://
www.worldbank.org/en/results/2016/04/14/
vietnam-better-food-safety-and-production-
efficiency-with-good-animal-husbandry
Mosquera, và các cộng sự.2012. “Các biện pháp quản lý
phân và các cơ hội.” Hội thảo GRA, Bangkok,
14–15/3.
Hribar, Carrie, và các cộng sự.2010. “Tìm hiểu về Sức khỏe
môi trường trong hoạt động chăn nuôi tập trung
và tác động của nó đối với các cộng đồng”. Hiệp
hội Quốc gia về Ban lãnh đạo y tế địa phương.
http://www.nalboh.org/.
Nguyen, Dang Vang.2015. Tổng quan chăn nuôi: 2012–
2014. Báo cáo tại Hội nghị Khoa học Chăn nuôi
- Thú y toàn quốc ngày 28-29 tháng 4 năm 2015
tại Đại học Cần Thơ.
Huong, Luu Quynh, Anita Forslund, Henry Madsen,
và Anders Dalsgaard. 2014a. “Sự sốt sót của
Salmonella spp. và Vi khuẩn chỉ thị phân trong
Hầm khí sinh học sử dụng chất thải của lợn tại
Việt Nam” NHật báo quốc tế về Sức khỏe môi
trường và Vệ sinh 217: 785–795.
Pham Kim, Dang, và các cộng sự.2013. “Khảo sát lần đầu
về sử dụng kháng sinh trong sản xuất lợn và gia
cầm tại Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Thực
phẩm và Sức khỏe công cộng 3(5): 247–256
Phùng, Đức Tiến, Nguyễn Duy Điều, Hoàng Văn Lộc,
and Bạch Thị Thanh Dân. 2009. Đánh giá thực
trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi. Tạp
chí chăn nuôi. Số 4 năm 2009.
Huong, L. Q., H. Madsen, Le X. Anh,P. T. Ngoc, và A.
Dalsgaard.2014b. “Khía cạnh vệ sinh của Quản
lý phân chăn nuôi và Các hệ thống Khí sinh học
của cơ sở chăn nuôi lợn quy mô nhỏ tại Việt
Nam.”Khoa học vè Môi trường tổng thể 470–
471:53–7. doi:10.1016/j.scitotenv.2013.09.023.
Phương, H. H., N. T. Kê, P. H. Vân, N. Đ. Phúc, N. T.
A.Đào, Trần Thị Ngọc,T. T. N.Phương.2008.
Khảo sát gen kháng sinh của mốt số vi khuẩn gây
bệnh phân lập từ thực phẩm. Y học thành phố
HCM. Tập 12. Số 4.
Huỳnh Trung Hải, và các cộng sự.2010. “Lợi ích từ Phương
thức 3 giảm đối với Quản lý chất thải nông nghiệp
tại Việt Nam.” Nghiên cứu chính sách quay vòng
nguồn lực Châu Á.
Porphyre, Nguyen Que Coi.2006. Phát triển sản xuất lợn,
Quản lý Chất thải động vật và Bảo vệ môi trường:
Nghiên cứu điểm tại tỉnh Thái Bình, miền bắc Việt
Nam. Pháp: Ấn phẩm PRISE.
Jaffee, Steven, Dang Kim Son, Nguyen Do Anh
Tuan, Emilie Cassou, Truong Thi Thu Trang,
Nguyen, Thi Thuy, Mateo Ambrosio, và Donald
Larson. 2016. Chuyển đổi Nông nghiệp Việt
Nam: đạt được nhiều hơn với hiệu quả ít hơn.
http://documents.worldbank.org/curated/
en/923211468310487558/text/VDR-report-
word-version.txt.
SATREPS (Đối tác Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ
cho Chương trình Phát triển Bền vững ).2012–
2017. “Dự án Xác định Cơ chế bùng phát và
Phát triển Hệ thống giám sát Quản lý thực phẩm
đối với Vi khuẩn kháng đa thuốc.”http://www.
satreps-mdrb.jp/english/about.html.
Khanh, Đ. B. 2010. Nghiên cứu tính mẫn cảm,tính kháng
thuốc của E.coli và Salmonella spp. phân lập từ
bệnh lợn con phân trắng, ứng dụng điều trị thử
Tổng Cục thống kê 2012.Kết quả Tổng điều tra nông thôn,
nông nghiệp và thủy sản năm 2011. Nhà xuất bản
Thống kê, Hà nội 2012.
41
Tài liệu tham khảo
Thi Dan, và các cộng sự.2003. “Quản lý chất thải động vật
tại Việt Nam – Vấn đề và Giải pháp. Quản lý Chất
thải hữu cơ Bền vững để Bảo vệ Môi trường và An
toàn Thực phẩm.”
Thi Thien Thu, Cu, etal. 2012. “Các thực hành Quản lý
phân đối với các cơ sở chăn nuôi lợn có dùng và
không dùng hầm khí sinh học tại các quốc gia
đang phát triển, sử dụng các cơ sở chăn nuôi tại
Việt Nam làm ví dụ.” Nhật báo Sản xuất Sạch hơn
27: 64-71.
Trịnh, Quang Tuyên.2010. Nghiên cứu lựa chọn một số
giải pháp khoa học công nghệ phù hợp nhằm
giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở một số vùng
chăn nuôi lợn trang trại tập trung. Báo cáo tổng kế
đề tài. Viện Chăn Nuôi, Bộ NN-PTNT.
Vũ, Chí Cương.2014. Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp
khoa học và công nghệ trong chăn nuôi lợn công
nghiệp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước. Viện Chăn
Nuôi, Bộ NN-PTNT.
Vu, T.K.V., M.T. Tran, và, T.T.S.Dang.2007. “Khảo sát về
Quản lý phân tại các cơ sở chăn nuôi lợn ở miền
Bắc Việt Nam.” Khoa học Chăn nuôi 112: 288–
297.
Vũ, Thị Khánh Vân.2013. Báo cáo điều tra đánh giá tác
động của biến đổi khí hậu toái chăn nuôi và phòng
trừ dịch bệnh, đề xuất các giải pháp thích ứng.
Viện Chăn Nuôi, Bộ NN-PTNT.
World Bank. 2016. Chỉ số Phát triển Thế giới 2016.
Washington, DC. World Bank.http://data.
worldbank.org/indicator/NY.GDP.PCAP.
CD?locations=VN.License: CC BY 3.0 IGO.
42
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
PHỤ LỤC
Bảng 4. Những văn bản pháp quy liên quan tới ô nhiễm chăn nuôi
No. Văn bản pháp quy Nội dung chính 1 Luật môi trường số 52/2005 /
QH11, ngày 29 tháng 11 2005
Quy định rõ ràng các nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đối với việc bảo vệ
môi trường. Điều 14: Đối tượng cần có báo cáo đánh giá chiến lược môi trường. Điều 18: Đối tượng cần
phải lập các báo cáo đánh giá tác động môi trường. Điều 19: Lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Điều 20: Nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường. Điều 24: Đối tượng cần cam kết bảo vệ môi
trường. Điều 25: Nội dung cam kết bảo vệ môi trường. Điều 26: Đăng ký cam kết bảo vệ môi trường. 2 Quyết định số 3065/QĐ-BNN-
NN ngày 7/11/2005 Quy định về điều kiện liên quan tới an toàn sinh thái trong những vùng chăn nuôi, ấp trứng, vận chuyển,
giết mổ, buôn bán gia cầm và sản phẩm gia cầm. 3 Cung cấp thông tin chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường. Đề cập tới các
hoạt động liên quan đến nông nghiệp, bao gồm EIA, quản lý chất thải, bảo vệ môi trường nông thôn. Nghị định số 80/2006 / NĐ-
CP của Thủ tướng Chính phủ,
ngày 09 tháng 8 năm 2006 4
Quyết định số 1504/QĐ-BNN-
KHCN ngày 15 tháng 5 năm
2008 BỘ NN&PTNT ban hành các thực hành chăn nuôi gia cầm tốt trong đó khuyến khích các nhà sản xuất gia
cầm, không phân biệt quy mô, áp dụng các thực hành tốt để phòng ngừa rủi ro từ bệnh tật và lây nhiễm,
để bảo vệ an toàn và chất lượng sản phẩm gia cầm cũng như sức khỏe con người và môi trường. 5
Nghị định số 21/2008 / NĐ-CP
của Thủ tướng Chính phủ,
ngày 28 tháng 2 năm 2008
Sửa đổi một số điều của Nghị định số 80/2006 / NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006. Theo các văn bản
pháp luật, các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn với hơn 1.000 con gia súc và 20.000 gia cầm phải thực hiện EIA
trước khi xây dựng để góp phần giảm nhẹ ô nhiễm môi trường từ hoạt động chăn nuôi. Đối với cơ sở chăn
nuôi quy mô nhỏ, các nông hộ, họ phải nộp một cam kết Bảo vệ môi trường, một hình thức đơn giản của
báo cáo EIA. Cam kết Bảo vệ môi trường được đăng ký và Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân
dân cấp xã được ủy quyền cung cấp loại "giấy chứng nhận" này. 6
Thông tư số 07/2007 / TT-
BTNMT của bộ TN&MT ngày
hành 03 tháng 7 năm 2007 Hướng dẫn việc phân loại các cơ sở để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường; hướng dẫn việc ra quyết
định liên quan đến danh sách các cơ sở gây ô nhiễm. Cơ sở sản xuất nông nghiệp gây ô nhiễm môi
trường là đối tượng của thông tư. 7
Thông tư số 12/2006 / TT-
BTNMT của MONROE ngày 26
Tháng 12 năm 2006 Cung cấp hướng dẫn về điều kiện và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép, và mã hóa trong quản lý
chuyên nghiệp chất thải nguy hại. Cơ sở sản xuất nông nghiệp tạo ra chất thải độc hại là đối tượng của
thông tư. Quy định về quản lý chất thải rắn và các quyền, nghĩa vụ của các đơn vị liên quan đến chất thải rắn 8 Nghị định số 59/2007 / NĐ-PC
Ngày 09 tháng 4 năm 2007 9 Nghị định số 79/2008 / NĐ-CP,
ngày 18 tháng 7 năm 2008 Hệ thống quy chế quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. Điều 8 Mục 2: Kiểm tra các nội
dung về an toàn thực phẩm trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. 10 QCVN 40/2011/BTNMT
Các tiêu chuẩn kỹ thuật cho nước thải động vật này liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật của Việt Nam về
nước thải công nghiệp (trước đây là QCVN 24/2009/BTNMT và sau này là QCVN 40/2011/ BTNMT). Theo các
tiêu chuẩn này quy định đối với nước thải BOD5 nên đạt 30mg / l và COD nên đạt đến 75 mg /l (rất thấp
so với các nước công nghiệp hóa và Thái Lan). Điều này không khuyến khích các cơ sở chăn nuôi áp dụng
các hệ thống xử lý. 11 QCVN năm 2010. BỘ NN&PTNT ban hành các điều kiện Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia Việt Nam cho an toàn
sinh học của cơ sở chăn nuôi lợn Thông tư 04/2010 / TT-
BNNPTNT ngày 15/01/2010 của
BỘ NN&PTNT 12 Chương 2 có quy định về điều kiện xử lý chất thải, bảo đảm vệ sinh môi trường tại các cơ sở chăn nuôi.
Thông tư 27/2011 / TT-
BNNPTNT ngày 13/4/2011 của
BỘ NN&PTNT Quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 13 Nghị định 179/2013 / NĐ-CP,
ngày 14 tháng 11 năm 2013 Quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. 14 Nghị định số 25/2013 / NĐ-CP,
ngày 29 tháng 3 năm 2013
43
Phụ lục
Bảng 4. Những văn bản pháp quy liên quan tới ô nhiễm chăn nuôi
No. Văn bản pháp quy Nội dung chính 15 Quyết định 985 / QĐ-BNN-CN
ngày 09 tháng 5 năm 2014 Sửa đổi, ban hành các văn bản quản lý nhà nước về giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, môi trường chăn
nuôi gắn với biến đổi khí hậu. Ban hành các quy định, tiêu chuẩn về vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, môi
trường chăn nuôi, phòng bệnh và vệ sinh thú y. 16 Luật Bảo vệ Môi trường
55/2014/QH13
Ngày 23 tháng sáu năm 2014. Điều 69.
Khu chăn nuôi tập trung phải có một kế hoạch bảo vệ môi trường và đáp ứng các yêu cầu sau đây:
(a) Đảm bảo vệ sinh môi trường cho các khu vực dân cư.
(b) Đảm bảo thu gom và xử lý nước thải và chất thải rắn; quy định về quản lý chất thải.
(c) Chuồng, trại phải được làm sạch định kỳ; đảm bảo phòng ngừa và ứng phó với dịch bệnh.
(d) Các bộ phận của động vật bị chết do bệnh phải được quản lý theo các quy định về quản lý chất thải
nguy hại và vệ sinh phòng bệnh. 17
Nguồn: Trang thông tin Chính phủ. http://congbao.chinhphu.Việt Nam/.
Thông tư số 50/2014 / TT-
BNNPTNT ngày 24 tháng 12
năm 2014 Sửa đổi Thông tư số 66/2011 / TT - BNNPTNT quy định chi tiết Nghị định số 08/2010 / NĐ-CP về quản lý
thức ăn chăn nuôi. Sửa đổi, ban hành các văn bản quản lý nhà nước về giống vật nuôi và thức ăn gia súc,
môi trường chăn nuôi gắn với biến đổi khí hậu. Ban hành các quy định, tiêu chuẩn về giống vật nuôi, thức
ăn chăn nuôi, môi trường chăn nuôi, phòng bệnh và vệ sinh thú y 18 Nghị định 18/2015 / NĐ-CP,
ngày 14 tháng 2 năm 2015. Quy định về việc lập kế hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, EIA, và kế hoạch bảo
vệ môi trường. 19 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường Nghị định 19/2015 / NĐ-CP,
ngày 14 tháng 2 năm 2015. 20 Nghị định 38/2015/NĐ-CP,
ngày 24 tháng 4 năm 2015 Quy định về quản lý chất thải và phế liệu, bao gồm cả chất thải nguy hại, chất thải sinh hoạt, chất thải
rắn công nghiệp, chất lỏng nói chung, nước thải, khí thải công nghiệp và chất thải đặc biệt, và bảo vệ môi
trường trong nhập khẩu phế liệu 21 Quy định về quản lý các sản phẩm sử dụng trong việc cải tạo môi trường trong chăn nuôi và nuôi trồng
thủy sản. Thông tư số 23/2015 / TT-
BNNPTNT ngày 22 tháng 6
năm 2015 22 Bổ sung các sản phẩm sinh học bao gồm đệm sinh học vào danh mục các sản phẩm có thể sử dụng để
cải thiện môi trường chăn nuôi Quyết định số 3194 / QĐ-
BNN-CN ngày 11 tháng 8 năm
2015 23 Cung cấp danh mục kháng sinh được phép sử dụng làm chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi gia
súc, gia cầm ở Việt Nam và các chất chứa trong đó tránh các thành phần gây hại cho môi trường Thông tư số 06/2016 / TT-
BNNPTNT ngày 31 tháng 5
năm 2016 24 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thức ăn chăn nuôi quy định mức tối đa độc tố độc tố, kim loại nặng và vi
sinh vật trong thức ăn hỗn hợp cho gia súc. Thông tư số 27/2016 / TT-
BNNPTNT ngày 26 tháng 7
năm 2016 25 Thông tư số 01/2017 / TT-
BNPTNT ngày 16/01/2017 Bổ sung danh mục hoá chất, kháng sinh cấm nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, sử dụng thức ăn gia súc,
gia cầm ở Việt Nam và bao gồm các hoá chất độc hại có ảnh hưởng bất lợi đến môi trường. 26 Quy định về các biện pháp bảo vệ môi trường bao gồm các biện pháp xử lý chất thải động vật; Xử lý chất
thải rắn; xử lý nước thải; Xử lý chất thải sinh học; Và tiếng ồn từ các trang trại chăn nuôi. Quyết định số 397 / QĐ-CN-
MTCN ngày 04 tháng 4 năm
2017
44
Tổng quan về ô nhiễm nông nghiệp tại Việt Nam: Ngành Chăn nuôi
Các thực hành quản lý chất thải
Hệ thống chăn nuôi lợn bán công nghiệp Cơ sở nuôi lợn thuộc chủ sở hữu nhỏ
Hệ thống thoát nước thôn Chất thải của lợn được xả thẳng vào môi trường xung quanh
Bò thuộc chủ sở hữu nhỏ Đàn gà thuộc chủ sở hữu nhỏ
Nguồn: Tác giả.
Tầng 8, Tòa nhà 63 Lý Thái Tổ
Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại:+84.2439346600