Tiểu luận

ĐÁNH THUẾ VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ

I. GIỚI THIỆU

1. Quan điểm Thuế hiệu quả:

+ Tính hiệu quả ở đây được so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra.

+ Thuế hiệu quả được xem xét trên 2 góc độ:

- Hiệu quả Hành thu: Thể hiện tính hiệu quả của thuế là tổng số thuế thu được

là lớn nhất với chi phí hành chính thuế là thấp nhất. Chi phí hành chính thuế bao

gồm các khoản chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và những chi phí gián tiếp

do người nộp thuế gánh chịu; các khoản chi phí này phụ thuộc vào: tính phức tạp

hay đơn giản của hệ thống thuế, số lượng và mức độ phân biệt của thuế suất đối với

người nộp thuế cũng như cơ sở tính thuế, sự lựa chọn các loại thuế. Nói chung các

loại thuế có cơ sở tính thuế phức tạp, yêu cầu quản lý cao thường có chi phí hành

chính lớn.

- Hiệu quả so với Xã hội (hiệu quả về góc độ xã hội): Tính hiệu quả của thuế

thể hiện ở chỗ gánh nặng phụ trội do thuế tạo ra phải ở mức thấp nhất. Gánh nặng

phụ trội ở đây là phần tổn thất phúc lợi xã hội vượt quá số thuế mà chính phủ thu

được, còn được gọi là chi phí phúc lợi xã hội hoặc phần mất trắng.

2. Mục tiêu:

Như quan điểm nêu trên về thuế hiệu quả, bài thuyết trình sẽ phân tích ở mức độ xã

hội: so sánh giữ thuế thu được và tổn thất xã hội mất đi do đánh thuế hay phần mất trắng.

Bài sẽ giúp các bạn phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố (thuế suất, độ co giãn của cung

cầu, tính chất thuế) trong từng loại thị trường (cạnh tranh và độc quyền) đến tốn thất xã hội

qua đó có thể định hướng việc điều chỉnh thuế hiệu quả.

Phạm vi phân tích thuế hiệu quả sẽ chủ yếu nhắm vào mức độ tổn thất của xã hội.

Về việc cân đối giữa tính hiệu quả của thuế và việc đảm bảo nguồn thu ngân sách sẽ được

phân tích rõ hơn trong phần thuế tối ưu của nhóm sau.

II. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ ĐỐI VỚI TỪNG LOẠI ĐỐI TƯỢNG

Việc đánh thuế của chính phủ không đơn giản chỉ là sự phân phối lại thu nhập từ các

đối tượng nộp thuế vào trong tay nhà nứớc mà còn gây ra những tác động phụ trội làm suy

giảm hiệu quả chung của nền kinh tế. muốn biết những tác động hiệu quả của thuế diễn ra

theo chiều hướng nào, cần thiết phải phân tích những tác động của thuế với từng loại đối

tượng sau:

1. Thị trường cạnh tranh:

a. Tính chất thuế

** Thuế trực thu: Tác động của thuế nhập khẩu đối với người tiêu dùng và

người sản xuất

- Giả sử Dd là đường cầu về vải trong nước, Sd là đường cung của vải trong

nước. Trong tình trạng tự cung tự cấp, cân bằng cung cầu diễn ra tại điểm E( tại đó

giá là 25/m vải)

- Giả sử giá vải thế giới chỉ ở mức 10 với mức cung không hạn chế- thể hiện

bằng đường cung co giãn vô hạn Sw

- Trong điều kiên mậu dịch tự do không có bảo hộ thuế quan thì giá vải trong

nước cũng phải ở mức 10, lúc này nhu cầu vải tiêu dùng là 150 triệu m. Sản lượng

vải trong nước có thể cung cấp là 30 triệu m. Số lượng vải nhập khẩu là 120 triệu m.

- Giả sử nhà nước ban hành 1 loại thuế nhập khẩu với thuế suất 50% vào giá

trị vải nhập khẩu. Mỗi đơn vị sản phẩm vải nhập khẩu tăng 5/m, giá vải nhập khẩu là

15/m.(Điều này được minh họa bằng sự dịch chuyển đường Sw lên phái trên 1 đoạn

bằng mức thuế nhập khẩu thành đường T).

- Lúc này nhu cầu tiêu thụ vải giảm xuông còn 125, sản lượng sản xuất trong

nước tăng lên 45 triệu m, lượng vải nhập khẩu giảm xuống còn 80 triệu m.

Hình:

Giá 40

Sd

E

F

T

15

1

3

2

4

Sw

10

7

C

C

Dd

Triệu m

30

45

125

150

- Thuế nhập khẩu có tác động chuyển thu nhập từ người tiêu dùng sang ng

sản xuất.

- Thặng dư của người tiêu dùng trước thuế là diện tích 40,C,10; sau thuế là:

40,F,15. Như vậy phần 1,2,3,4 là phần giảm sụt thặng dư của người tiêu

dùng.

Đối với người sản xuất, thặng dư trước thuế là (7), sau thuế là (7)+(1). Vậy

phần (1) là phần tặng thặng dư của người sản xuất.

Phần (3) là phần thuế nhập khẩu mà nhà nước thu được.

Như vậy sự giảm sút thặng dư của người tiêu dùng chỉ được chuyển thành

tặng dư của nhà sản xuất (1) + số thuế nhà nước thu là (3). Còn phần (2), (4) là phần

mất trắng do thuế nhập khẩu gây ra hay còn gọi là gánh nặng phụ trội của thuế nhập

khẩu. Phần (2) liên quan đén việc tăng sản lượng sản xuất trong nước, thể hiện

lượng chi phí tăng thêm mà xã hội phải chịu cho việc thay thế lượng vải nhập khẩu.

Phần (4) liên quan đến việc giảm mức tiêu thụ của xã hội đối với mặt hàng vải. Sự

thay đổi hành vi của người tiêu dùng gây ra 1 sự suy giảm chung về mức hữu dụng

gọi là gánh nặng phụ trội đối với người tiêu dùng. Nói cách khác, thuế nhập khảu

gây ra sự suy giảm về mặt phúc lợi của toàn xã hội xét trên góc độ hiệu quả kinh tế

cục bộ.

** Gián thu: Thuế lương sẽ được phân tích ở phần sau.

b. Thuế suất

Tổn thất xã hội không chỉ xảy ra đối với thuế đánh vào hàng hóa mà còn xảy

ra đối với thuế đánh vào thu nhập.

b.1. Thuế tỉ lệ đánh vào cung

 Không có sự khác biệt giữa thuế tuyệt đối và thuế tỉ lệ khi thuế đánh vào cung. Tổn

thất xã hội phụ thuộc vào số thuế và số giờ làm việc.

b.2. Thuế tỉ lệ đánh vào cầu

 Không có sự khác biệt giữa thuế tuyệt đối và thuế tỉ lệ khi thuế đánh vào cầu. Tổn

thất xã hội phụ thuộc vào số thuế và số giờ làm việc

 Tổn thất xã hội khi đánh thuế tỉ lệ vào cung hay cầu là như nhau.

b.3. Thuế tỉ lệ và cung không co giãn

b.4. Thuế tỉ lệ và cầu không co giãn

 Thuế tỉ lệ khi cung không co giãn hoặc cầu không co giãn chỉ khác nhau: người mua

hoặc người bán chịu thuế hoàn toàn.

b.5. Thuế tỉ lệ và thuế lũy tiến

Chuyển sang thuế suất lũy tiến nghĩa là làm thu hẹp cơ sở đánh thuế (phần thuế áp

dụng cho người giàu chỉ bị đánh thuế dựa vào cơ sở thu nhập hẹp của người giàu). Nói

chung đánh thuế vào tất cả đối tượng ở mức thuế suất bằng nhau (thuế tỉ lệ) hiệu quả hơn

so với việc loại trừ một vài cá nhân không đánh thuế và đánh thuế vào các cá nhân có thu

nhập cao hơn với thuế suất cao để bù lại sự mất nguồn thu thuế (thuế lũy tiến). Hiệu quả bị

mất đi bằng việc đánh thuế vào một nhóm cá nhân có cơ sở thuế lớn là lớn hơn hiệu quả

giành được bằng việc loại trừ không đánh thuế một vài cá nhân có cơ sở thuế nhỏ.

Giả sử có 2 công nhân: A có mức lương thấp, B mức lương cao.

Không có thuế, A làm việc H1 giờ và kiếm được tiền lương W1 như hình (a) trong

khi B có tiền lương cao cũng làm việc H1 giờ nhưng kiếm được W’1 như hình (b)

Giả sử chính phủ đánh thuế t1 vào tất cả tiền lương của người lao động (thuế tỉ lệ).

Thuế làm giảm thu nhập mà người lao động nhận được từ lao động, điều này làm giảm đi

tính sẵn lòng làm việc của họ. Đường cung lao động dịch chuyển từ S1 đến S2. Đối với A,

cung lao động giảm từ H1 đến H2, ở mức tiền lương trước thuế cao hơn W2, tạo ra tổn thất

xã hội bằng diện tích B+C. Tương tự đối với B, tổn thất xã hội là B’+C’.

Giả sử chính phủ chuyển sang áp dụng biểu thuế lũy tiến: thuế suất 0% với phần thu

nhập đầu tiên W1 và t2 (t2>t1) cho phần thu nhập tăng thêm.

Đối với A, do không có thuế, cung lao động sẽ dịch chuyển từ S2 về lại S1, tổn thất

xã hội = 0, tuy nhiên đối với B, do bị đánh thuế với mức thuế suất cao hơn ở phần thu nhập

>W1 nên cung lao động dịch chuyển đến S3, tổn thất xã hội lúc này là B’+C’+E’ lớn hơn

phần tổn thất được giảm B+C.

Ngoài ra, DWL=-1/2d*t2*W*H

Do đó, tổn thất xã gia tăng theo bình phương thuế.

Như vậy hệ thống thuế lũy tiến làm tăng tổn thất xã hội, không thúc đẩy người ta cố

gắng vươn lên để có thu nhập hợp pháp cao hơn, đồng thời tìm cách gian lận thuế giữa các

bậc để hưởng thuế suất thấp hơn. Thuế chỉ đánh vào một nguồn lực, thì tổn thất xã hội tăng

nhanh hơn. Bằng lôgíc này, hệ thống thuế hiệu quả nhất là hệ thống thuế trải dài gánh nặng

đánh thuế trên diện rộng, theo đó thuế suất và tổn thất xã hội được thu hẹp. Nguyên tắc

hướng dẫn cho đánh thuế hiệu quả là tạo ra “sân chơi rộng lớn” chứ không nên đánh thuế

cao vào một số nhóm người hoặc nhóm hàng hóa, còn một số đối tượng thì không.

Mặc dù việc đánh thuế lũy tiến vào thu nhập gây ra tổn thất xã hội lớn hơn, nó vẫn

được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới vì như thế sẽ giảm được sự phân hóa giàu

nghèo, người giàu sẽ đóng góp nhiều hơn cho người nghèo, tuy nhiên việc đánh giá hiệu

quả của nó tùy thuộc nhiều vào mức thuế suất.

c. Độ co giãn của cung cầu

Giống như co giãn theo giá cả của cung và cầu quyết định gánh nặng của thuế trong

số những người tham gia thị trường, thì chúng cũng quyết định tính không hiệu quả của

đánh thuế. Độ co dãn càng cao hàm ý những thay đổi càng lớn về số lượng và tổn thất xã

hội càng lớn .

Mọi người thường phản ứng với các kích thích. Khi chính phủ đánh thuế hàng hóa,

nó tạo ra kích thích người mua tiêu dùng ít hơn và người bán sản xuất ít hơn so với mức

cân bằng trong thị trường cạnh tranh. Khi mọi người phản ứng với các kích thích, làm cho

thị trường tái phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả và gây ra tổn thất xã hội.

Trường hợp 1: Cung ít co giãn

P

S

WL rất nhỏ

D1

D2

Q Khi cung ít co giãn, tổn thất gây ra bởi thuế nhỏ.

Trường hợp 2: Cung tương đối co giãn

S’

P

S

WL rất lớn

D

Q

 Khi cung tương đối co giãn, tổn thất gây ra bởi thuế lớn.

Trường hợp 3: Cầu ít co giãn:

P

S’

S

WL rất nhỏ

D

Q

 Với đường cầu không co dãn, có sự thay đổi lớn về giá cả thị trường

 người tiêu dùng gánh chịu thuế hoàn toàn, nhưng ít thay đổi về lượng .

Trường hợp 4: Cầu tương đối co giãn

P

S

WL rất lớn

D1

D2

Q

 Với đường cầu co dãn, giá cả thị trường thay đổi,  người cung gánh chịu thuế

nhiều hơn  giảm đi về mặt lượng tạo ra sự mất trắng.

2. Thị trường độc quyền:

a. Tính chất của thuế:

Các nhóm độc quyền là giữa hai thái cực độc quyền và cạnh tranh ví dụ như (thị

trường hàng không, thị trường cho thuê xe, thị trường đường sắt), mỗi nhóm này tác động

vào nhóm kia một cách có chiến lược. Nếu một nhóm thay đổi giá cả hay sản lượng của

nhóm mình, thì các nhóm khác cũng thay đổi giá cả và sản lượng của họ, nhưng rất khó

đoán các phản ứng này. Như vậy, nhóm độc quyền có những đường cầu mà chỉ có họ mới

có thể đoán được .

Không có lý thuyêt kinh tế nào hoàn hảo và được đông đảo các nhà khoa học chấp

nhận về hành vi của hãng trong nhóm độc quyền và như vậy khó có thể đưa ra những dự

đoán chính xác về phạm vi ảnh hưởng của việc đánh thuế trong trường hợp này. Nếu một

nhóm tăng giá sẽ lập tức mất thị phần, vì các nhóm đều có sách lược tăng giá thích hợp mỗi

khi có một loại thuế mới. Trong trường hợp này, tất cả đều tăng giá đồng loạt và như vậy

gánh nặng thuế sẽ chuyển sang cho người tiêu dùng.

b. Thuế suất

Trước khi Chính phủ đánh thuế: Do doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc

quyền tối đa hóa lợi nhuận tại MR= MC nên đã sản xuất ở mức sản lượng thấp hơn và giá

bán cao hơn so với trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tổn thất xã hội là phần diện tích

nằm dưới đường cầu, trên đường chi phí biên… Đây là phần tổn thất do độc quyền gây ra.

 Đối với các nhà độc quyền, ảnh hưởng của thuế tỉ lệ và thuế tuyệt đối khác nhau

hoàn toàn.

b.1. Thuế tuyệt đối đánh vào cầu

b.2. Thuế tỉ lệ đánh vào cầu

b.3. Thuế tương đối đánh vào cung

Khi chính phủ đánh thuế (theo sản lượng) làm cho đường chi phí trung bình và chi

phí biên tăng đúng bằng mức thuế. Khi đó, đường MC và AC đều dịch chuyển lên trên một

đoạn đúng bằng mức thuế, do đó, sản lượng cân bằng mới sẽ giảm, giá bán tăng lên -> điều

này làm trầm trọng hơn mức thiệt hại mà độc quyền gây ra cho xã hội. Như vậy, tổn thất xã

hội sau khi chính phủ đánh thuế gồm: tổn thất do độc quyền và tổn thất do thuế.

b.4. Thuế tỉ lệ:

c. Độ co giãn

Thứ nhất: Đường cung hay doanh thu biên (MR) càng dốc thì sự thay đổi giá và sản

lượng khi đánh thuế càng nhỏ. Nếu đường MR thẳng đứng thì không có sự thay đổi về sản

lượng và giá; lúc này người sản xuất chịu toàn bộ thuế.

Thứ hai: Nếu đường MR nằm ngang, thì mức độ chịu thuế của người sản xuất và

người tiêu dùng phụ thuộc vào dạng của đường cầu .

Kết luận:

Xét trong mối cân bằng toàn bộ, tác động của thuế về mặt hiệu quả không phải lúc

nào cũng diễn ra theo hướng tiêu cực.

Nếu sự phân bổ nguồn lực xã hội trước khi có thuế không đạt trạng thái cân bằng tối

ưu thì có thể nhờ tác động của thuế mà xã hội lại tiến gần hơn với điểm tối ưu. Trong

trường hợp này thuế thực chất không phải chỉ gây ra tác động tiêu cực mà còn có thể có tác

động tích cực đến tính hiệu quả chung của nền kinh tế.

Tổn thất xã hội đo lường sự không hiệu quả khi đánh thuế. Mức tổn thất được quyết

định bởi sự thay đổi về số lượng hàng hóa khi đánh thuế (mức thay đồi này phụ thuộc vào

độ co giãn theo giá của cung và cầu sẽ được phân tích trong mục sau), những thay đổi này

phản ánh số lượng hàng hóa lẽ ra mang lại hiệu quả cho xã hội (do lợi ích biên đem lại lúc

này vẫn lớn hơn chi phí biên phải bỏ ra) nhưng lại không được thực hiện.

3. Ai là người chịu gánh nặng thuế?

+ Gánh nặng thuế chính thức(quan điểm luật pháp): được đo bằng số thu thuế theo

luật định. Người chịu gánh nặng thuế chính thức là người nộp trực tiếp tiền thuế cho chính

phủ.

Ví dụ: đối với thuế thu nhập cá nhân thì chủ thể đóng thuế là người chịu gánh nặng

thuế theo quan điểm luật pháp

+ Gánh nặng thuế thực sự (quan điểm kinh tế): được đo bằng sự thay đổi nguồn lực

sẵn có của các tác nhân kinh tế dưới tác động của thuế. Gánh nặng thuế thực sự không tùy

thuộc ai là người chịu thuế theo luật định vì có sự chuyển dịch thuế, Người chịu gánh nặng

thuế theo quan điểm kinh tế là người không có khả năng dịch chuyển thuế.

Ví dụ: Trong điều kiện cầu co giãn đối với giá thì người tiêu dùng cuối cùng là một

trong những bên chịu thuế thực sự.

4. Chuyển dịch thuế:

Thuế có thể chuyển dịch vì nó làm thay đổi giá cả liên quan. Thuế sẽ chuyển dịch về

phía trước cho người tiêu dùng thông qua tăng giá. Thuế sẽ chuyển dịch về phía sau cho

chủ sở hữu các yếu tố sản xuất bằng cách giảm lương, lợi nhuận.

Có sự khác biệt khi đánh thuế vào phía cung hay vào phía cầu ?

 Kết luận: không có sự khác nhau khi đánh thuế vào cung hay vào cầu.

+ Yếu tố nào ảnh hưởng đến sự dịch chuyển thuế? Độ co giãn cung, cầu

ΔPD/T=ES/(ES-ED)

+ Khi cầu không co giãn đối với giá hoặc cung co giãn đối với giá thì người tiêu

dùng chịu gánh nặng thuế nhiều hơn.

+ Khi cầu co giãn đối với giá hoặc cung không co giãn đối với giá thì người sản xuất

chịu gánh nặng thuế nhiều hơn.

 Kết luận về phân bổ gánh nặng thuế:

 Gánh nặng thuế thực sự không phụ thuộc vào ai là người chịu thuế theo luật định.

 Việc đánh thuế vào phía cung hay phía cầu cho kết quả giống nhau về số thu thuế và

phân bổ gánh nặng thuế

 Phía nào (cung hay cầu) có độ co giãn nhỏ hơn sẽ chịu gánh nặng thuế nhiều hơn

 Phân chia gánh nặng thuế không phụ thuộc vào thuế suất

III. THIẾT KẾ HỆ THỐNG THUẾ HIỆU QUẢ

1. Các tiêu chí đánh giá hệ thống thuế hiệu quả :

Mục đích chính của chiến lược cải cách thuế phải là tối đa hóa nguồn thu, trong khi

vấn đề công bằng và phúc lợi xã hội còn được giải quyết thông qua chính sách chi tiêu của

chính phủ.

Để đánh giá một hệ thống thuế mới người ta thường đặt ra ba tiêu chí:

+ Hệ thống thuế có hiệu quả kinh tế hơn hay không?

+ Hệ thống thuế có công bằng về mặt xã hội hơn không?

+ Hệ thống thuế có tạo nhiều nguồn thu ngân sách ròng hơn không?

Trong khi những tiêu chí đánh giá vẫn không đổi thì điều gì là tốt nhất sẽ thay đổi

theo thời gian phụ thuộc vào cấu trúc thu chi ngân sách của quốc gia, tức là một hệ thống

thuế có tính động thay vì tĩnh.

Cụ thể hơn, các câu hỏi sau đây được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả của một hệ

thống thuế (theo nghiên cứu “Các nguyên tắc thuế: từ Adam Smith đến Barack

Obama“ của ACCA - Hiệp hội Kế toán Công chứng Vương quốc Anh):

+ Các doanh nghiệp được xem như một đơn vị độc lập trong việc khai thuế

GTGT và các loại thuế khác chỉ phải nộp tờ khai thuế một lần cho các loại thuế?

+ Người nộp thuế có phải giải trình về thuế cho nhiều cơ quan thuế ở các cấp

khác nhau?

+ Qui mô số lượng tờ khai thuế và số lượng các biểu mẫu mới, sửa đổi có hợp lý

không?

+ Người nộp thuế có thể lựa chọn khai thuế trên giấy và khai thuế điện tử

không?

Bên cạnh đó, tính hiệu quả của hệ thống thuế còn bị chi phối bởi sự bóp méo của thị

trường trước đó. Sự bóp méo trước đó nghĩa là sự thất bại của thị trường (ngoại tác, canh

tranh không hoàn hảo…) xảy ra trước khi chính phủ đánh thuế.

2. Thiết kế :

Dựa trên các tiêu chí đánh giá nêu trên mà định hướng chính sách thuế như sau :

 Đứng trên phương diện hiệu quả kinh tế, việc cải cách thuế phải dựa trên

nguyên tắc mức thuế suất thấp và cơ sở thuế rộng.

 Do mất mát xã hội vô ích tỷ lệ với bình phương thuế suất nên một mức thuế

suất thấp hơn sẽ làm giảm tổn thất phúc lợi xã hội.

 Thuế suất giảm còn làm giảm các hành vi trốn, tránh thuế thông qua các hoạt

động dịch chuyển thu nhập hay chuyển giá - những hành vi làm thất thu thuế, tăng chi

phí quản lý và tuân thủ thuế.

Đồng thời, còn có một số nguyên tắc như :

 Đánh thuế hiệu quả là tạo ra “sân chơi rộng lớn” chứ không nên đánh thuế

cao vào một nhóm người hoặc nhóm hàng hóa, còn một số đối tượng thì không . Tức

là : nên đánh thuế vào tất cả đối tượng ở múc thuế suất bằng nhau (theo tỷ lệ) hiệu

quả hơn so với việc loại trừ một vài cá nhân không đánh thuế và đánh thuế vào các

cá nhân có thu nhập cao hơn với thuế suất cao để bù lại sự mất nguồn thu thuế (thuế

lũy tiến)

 Một chính sách bằng phẳng hóa thuế sẽ tạo ra một hệ thống hiệu quả theo

nguyên lý: cố định tương thuế suất cố định thời gian chứ không nên tăng thuế cao

trong một khoảng thời gian va giảm thấp thuế trong một khoảng thời gian khác.

3. Cải cách thuế ở Việt Nam - Hướng tới một hệ thống hiệu quả và công bằng

Mục tiêu :

+ Phấn đấu trong giai đoạn 2011 - 2015 đạt tỷ lệ huy động thu ngân sách Nhà nước

khoảng 23 - 24% GDP, trong đó, tỷ lệ động viên từ thuế, phí, lệ phí khoảng 22 - 23% GDP;

tốc độ tăng trưởng số thu thuế, phí và lệ phí bình quân hàng năm từ 16% - 18%/năm.

+ Đến năm 2020 Việt Nam là một trong 4 nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á có

mức độ thuận lợi về thuế (thời gian thực hiện thủ tục hành chính thuế). Trong đó, phấn đấu

đạt 90% doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ thuế điện tử; 65% doanh nghiệp đăng ký thuế,

khai thuế qua mạng internet; 80% số người nộp thuế hài lòng với các dịch vụ mà cơ quan

thuế cung cấp…

+ Vấn đề thông tin tuyên truyền nội dung này sao cho đa dạng hơn và sâu rộng hơn

bằng nhiều giải pháp để các tuyên truyền viên cấp quận, phường, xã nắm chắc nội dung,

qua đó thông tin tuyên truyền sẽ dễ dàng hơn.

Cải cách chính sách thuế :

+ Giảm bớt số lượng nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng; giảm

bớt nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 5%. Nghiên cứu đến năm 2020 áp dụng cơ bản

một mức thuế suất GTGT (không kể mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ

xuất khẩu). Việc áp dụng nhiều mức thuế suất khác nhau hiện nay tuy có tạo một chút công

bằng nhưng nó lại gây phiền hà và tạo cơ hội phân loại sai các dịch vụ chịu thuế, dễ gây ra

tình trạng trốn thuế.

+ Đối với các mặt hàng thuộc diện nộp thuế tiêu thụ đặc biệt như rượu, bia, ô tô…sẽ

xây dựng lộ trình điều chỉnh thuế nhằm điều tiết tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc

tế. Đồng thời, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp để thu

hút đầu tư, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy; đơn

giản hóa chính sách ưu đãi thuế.

+ Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Luật thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực

thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Ban hành mới luật phí, lệ phí thay cho Pháp lệnh

phí, lệ phí hiện hành và thuế môn bài sẽ được chuyển thành lệ phí quản lý hoạt động kinh

doanh hàng năm.

Cải cách về quản lý thuế :

+ Đẩy mạnh, thực hiện nghiêm các nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hóa thủ

tục hành chính, trong đó có thủ tục hành chính thuế.

+ Chẳng hạn, hiện nay cục thuế đã áp dụng hình thức kê khai thuế qua mạng, điều

này giảm thiểu đáng kể thủ tục hành chính về thuế. Tuy nhiên, vì là hình thức còn mới và

chưa được phổ biến rộng rãi nên việc kê khai thuế qua mạng vẫn còn rất hạn chế.

+ Nâng cao năng lực kiểm toán thuế, cần tổ chức hoạt động kiểm toán thuế của

kiểm toán nhà nước một cách thống nhất, thường niên, có sự quản lý, chỉ đạo tập trung.

+ Cải cách tuyên truyền thuế .

+ Những nội dung cải cách về cả quản lý lẫn chính sách thuế nói trên là rất cần thiết

đối với sự phát triển của ngành thuế Việt Nam vốn còn đang gây ra nhiều khó khăn, bức

xúc cho Doanh nghiệp và người dân. Trong tương lai, việc thực hiện thành công những nội

dung cải cách sẽ góp phần đưa hệ thống thuế trở thành một trong những công cụ quản lý

kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước.

Về quản lý thu ngân sách từ thuế :

+ Ngân sách Nhà nước (NSNN) là công cụ thúc đẩy hoạt động sản xuất, tạo ra môi

trường kinh doanh thuận lợi cho các cá nhân, chủ thể trong nền kinh tế. Để đảm bảo nguồn

thu cho ngân sách nhà nước:

+ Cần có các qui định thể hiện sự phân cấp quản lý về ngân sách nhiều hơn, rộng

hơn cho các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là chính quyền cấp xã

+ Pháp luật cần qui định cụ thể phương thức bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân

sách cấp dưới theo nguyên tắc nhiệm vụ chi thuộc địa phương nào địa phương đó phải sắp

xếp kinh phí để thực hiện, nếu còn thiếu thì ngân sách cấp trên mới hỗ trợ để thực hiện mục

tiêu trên

+ Để thu hẹp khoảng cách thu - chi ngân sách, cần sửa đổi các luật thuế, cơ cấu lại

các nguồn thu, cải cách chế độ thu thuế, tránh tình trạng NSNN phụ thuộc quá nhiều vào

các nguồn thu không mang tính chất bền vững như thu từ hoạt động dầu mỏ, thuế nhập

khẩu

+ Qui định về thời hạn của NSNN là trung hạn (5 năm) thay vì một năm như hiện

nay.