
TIỂU LUẬN:
Quan điiểm toàn diện trong việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế

Lời mở đầu
Theo chủ trương của Đảng: Mục tiêu lâu dài của nước ta phải trở thành nước xã hội
chủ nghĩa (XHCN) có nền kinh tế phát triển, còn mục tiêu trước mắt là đến năm 2020
chuyển nước ta từ nước nông nghiệp cơ bản trở thành nước công nghiệp có nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta phải tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày nay,
viêc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không phải trong điều kiên đóng cửa, khép kín.
Bởi lẽ toàn cầu hoá đang là xu hướng khách quan, nền kinh tế thế giới đang trở thành nền
kinh tế thị trường thế giới thống nhất, mà nền kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc chỉ là một
bộ phận của nền kinh tế thị trường thế giới thống nhất đó. Nền kinh tế của mỗi quốc gia
không thể phát triển được nếu tách ra khỏi tiến trình chung của nền kinh tế thị trường thế
giới, mà đòi hỏi mỗi nước phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình toàn cầu
hoá, khu vực hoá
Việt Nam với bối cảnh “ chưa ra khỏi tình trạng kém phát triển và vẫn tồn tại nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nớc trong khu vực và thế giới” thì việc chủ động
hội nhập và phát triển kinh tế là tất yếu. Nó không chỉ tạo thêm nguồn lực , tạo ra sức
mạnh tổng hợp cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà còn là để đáp ứng yêu cầu
và lợi ích quốc gia cho quá trình phát triển theo hướng “ dân giàu, nớc mạnh, xã hội công
bằng,dân chủ , văn minh”
Với đề tài “Quan điiểm toàn diện trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”,

Chương I
Cơ sở lý luận của đề tàI
Đó là mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn diện
triết học Mác – LêNin
1. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến
Việc xem xét về mối liên hệ qua lại, tác động ,ảnh hưởng lẫn nhau hay tồn tại độc
lập, tách rời hẳn nhau của các sự vật , hiện tượng và các quá trình trong thế giới đã được
các nhà duy vật biện chứng giải thích dựa trên những nghiên cứu khoa học. Theo họ thì
các sự vật, hiện tượng , các quá trình khác nhau của thế giới vật chất vừa tồn tại độc lập,
vừa quy định vừa tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Đó là những mối quan hệ bề
ngoài mang tính ngẫu nhiên hay do các yếu tố bên trong, bản chất của sự vật , hiện tượng
quy định ? Để trả lời câu hỏi này, các nhà duy tâm đứng trên lập trường, tư tởng của mình
cho rằng nguyên nhân mối liên hệ ấy là một lực lượng siêu nhiên quy định (với các nhà
duy tâm khách quan ) hay do ý thức, cảm giác của con ngời (với các nhà duy tâm chủ
quan). Trong một chừng mực nhất định,một giai đoạn nhất định của lịch sử khi khoa học
,nhận thức của con người còn giới hạn thì những tư tưởng,lập trường ấy mới có thể tồn tại
.Vì thế khi hiểu biết ,nhận thức của con người về thế giới và các lĩnh vực tự nhiên cũng nh-
ư xã hội ngày càng sâu rộng ,đồng thời là sự xuất hiện các bộ môn khoa học ,các chuyên
nghành khác nhau để phân tích ,tìm hiểu ,giải thích về các sự vật ,hiện tượng của thế giới
khách quan thì các quan niệm, giải thích của các nhà duy tâm đã bộc lộ nhiều sai lầm
không đúng với thực tế .
Bởi vậy, đứng trên những nghiên cứu khoa học về các sự vật, hiện tượng và các quá
trình vật chất;trên những đặc điểm của quá trình thực tiễn thì các nhà duy tâm biện chứng
đã khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự
vật hiện tượng .Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giơí dù có đa dạng,phong phú và khác
nhau bao nhiêu thì chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất
,thống nhất –thế giới vật chất .Nhờ có tính thống nhất đó ,chúng không thể tồn tại biệt
lập,tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại ,chuyển hoá lẫn nhau theo những
quan hệ xác định.Triết học biện chứng dựa trên cơ sở đó đã khẳng định mối liên hệ là
pham trù dùng để chỉ sự quy định,sự tác động ,chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện t-

ượng hay giữa các mặt của một sự vật,hiện tượng trong thế giơí.
Các sự vật ,hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự
vận động ,tác động qua lại lẫn nhau .Bản chất, đặc điểm và quy luật của sự vật,hiện tượng
cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác
động của chúng với các sự vật ,hiện tượng khác .Chúng ta chỉ có thể đánh giá sự tồn tại
cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ,sự tác động của ngời đó
với ngời khác, với tự nhiên, xã hội và thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay cả tri
thức của con ngời cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động
cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và chính con người
Mối liên hệ tồn tại và tác động đến mọi sự vật, hiện tượng. Bất cứ sự vật, hiện t-
ượng nào dù đơn giản hay phức tạp cũng không thể nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật ,
hiện tượng khác. Dù là ở mức độ vĩ mô, một quốc gia trong thời đại ngày nay khó có thể
tồn tại mà không có quan hệ với các quốc gia khác, hay ở mức vi mô thì bất kỳ một con
người tồn tại trong xã hội đều có những mối liên hệ khác nhau với bạn bè, gia đình, công
việc…Tất cả các quan hệ là do tính thống nhất của vật chát của xã hội quy định. Vì thế mà
ta gọi mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng trong thế giới là mối liên hệ phổ biến
2 . Sự phân chia các mối liên hệ
Các sự vật , hiện tượng, quá trình tồn tại trong tự nhiên cũng như xã hội với nhiều
dạng vô cùng phong phú, từ đơn giản đến phức tạp, từ đồ sộ đến tinh vi nhỏ gọn. Do vậy,
mối liên hệ hình thành giữa chúng là vô cùng đa dạng. Dựa vào tính đa dạng đó có thể
phân chia thành các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp : mối liên hệ bên trong và bên
ngoài, mối liên hệ bản chất và ngẫu nhiên, mối liên hệ chung và riêng, mối liên hệ trực tiếp
và gián tiếp..v..v
Vì vậy, trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ chứ không chỉ có một
cặp mối liên hệ xác định. Ví dụ một con người vừa có mối liên hệ với các thành viên trong
gia đình, vừa có mối liên hệ với các đối tượng bên ngoài như nhà trường, bạn bè, xã hội.
Sự phân chia các cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại liên hệ chỉ là một
hình thức, một bộ phận, mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Các loại mối liên hệ có thể
chuyển hoá lẫn cho nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận
động và phát triển của chính sự vật , hiện tượng cũng như góc độ của người xem xét
Tuy sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối nhưng lại rất cần thiết.

Bởi vì mỗi loại mối liên hệ đều có vị trí , vai trò nhất định trong sự vận động, phát triển
của sự vật , hiên tượng. Trong từng giai đoạn , hoàn cảnh cụ thể thì vai trò, vị trí của từng
loại mối liên hệ là rát khác nhau. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có
cách tác động phù hợp nhằm đạt lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình
3. quan đIểm toàn diện trong việc nhận thức các sự vật, hiện tƯợng và các quá
trình vật chất của thế giới
Ta đã biết các sự vật, hiện tượng đều tồn tại cũng như thể hiện sự tồn tại của mình
trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Đó chính là quan điểm của mối liên hệ
phổ biến. Việc áp dụng quan điểm đó để rút ra phương pháp luận khoa học phục vụ cho
nhận thức và cải tạo hiện thực là yêu cầu tất yếu
Do sự tồn tại mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật , hiện tượng và các quá trình nên
khi nhận thức cũng như khi tác động vào các sự vật, hiện tượng ta cần phải có quan điểm
toàn diện. Tránh sự phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng
kết luận về bản chất hay tính quy luật của chúng
3.1 Trong quá trình nhận thức, việc áp dụng quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng
ta vừa phải nhận thức về sự vật từ mối quan hệ giữa các bộ phận và các yếu tố, các mặt
của chính sự vật; vừa trong sự tác động qua lại với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực
tiếp hay gián tiếp . Trong việc nghiên cứu và học tập môn triết học, ngoài việc nắm vững
các thành phần, quan điểm, nguyên lý và các quy luật cấu thành của bộ môn. Để việc học
tập đạt kết quả cao thì ngsời học cần phải biết áp dụng các nguyên lý, quy luật ấy vào các
môn khoa học khác nhau : các bộ môn khối kinh tế , khoa học kỹ thuật, nhân văn. Đồng
thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, chú ý tới
mối liên hệ bên trong, bản chất, mối liên hệ chủ yếu, tất nhiên,…từ đó có thể hiểu rõ bản
chất của sự vật, hiện tượng và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất trong hoạt động của bản thân. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta bỏ qua các đặc
tính không bản chất, sa vào việc tuyệt đối hoá cái bản chất , cái tất yếu. Trong quá trình
nhận thức cần phải biết chú trọng cái bản chất song cũng cần phải nắm được các đặc điểm
không bản chất
3.2.Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cũng phải áp dụng quan điểm toàn diện,
không những chỉ chú ý tới mối liên hệ nội tại của sự vật hiện tượng mà còn phải chú ý tới
mối liên hệ của chúng với các sự vật , hiện tượng khác. Từ đó sử dụng đồng bộ các biện

