Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
1
KHOA KINH TẾ ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HCM TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐỀ TÀI: DOLLAR HÓA NỀN KINH TẾ GVHD: LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO DSHV : 1. DƯƠNG THỊ THÙY DUNG 2. NGUYỄN THỊ HUỆ 3. NGUYỄN VŨ THÂN 4. PHAN TRẦN MINH HƯNG 5. NGUYỄN QUANG TRUNG 6. HOÀNG THỊ HẢI YẾN 7. TRƯƠNG THỊ KIM YẾN TPHCM tháng 06/2010
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................... 4
2
PHẦN 1 : TỔNG QUAN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA ................................. 1.1. Khái niệm ............................................................................................. 5 1.2. Các hình thức đô la hóa........................................................................... 5 1.3. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đô la hóa................................................ 8 1.4. Tác động của hiện tượng đô la hóa ........................................................... 9 1.4.1. Tác động tích cực .............................................................................. 9 1.4.2. Tác động tiêu cực .............................................................................11 PHẦN 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HÓA Ở VIỆT NAM ........................................................................................................14 2.1. Giai đoạn trước khi mở cửa (1988) ..........................................................14 2.2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính - khu vực ..........14 2.3. Giai đoạn từ khi khủng hoảng tài chính - khu vực đến nay .........................17 2.4. Đánh giá chung về tính chuyển đổi của VND và mức độ đô-la hóa ..............21 2.4.1 Tính chuyển đổi của VND ..................................................................21 2.4.2 Mức độ đô la hóa ..............................................................................21 2.4.3 Nguyên nhân của thực trạng trên .........................................................23 2.4.4 Ảnh hưởng của đô la hóa đến nền kinh tế nước ta ..................................31 PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA...........32 3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính phủ và ngân hàng nhà nước trong vấn đề đô la hóa ...............................................................................................32 3.2. Mục tiêu thực hiện đến năm 2010 ............................................................32 3.3. Các giải pháp ........................................................................................33 3.3.1 Giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ trong dân chúng........33 3.3.2 Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có .................................................................................................34 3.3.3 Các giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng ....................................34 3.3.4 Hạn chế dần đến xóa bỏ tự do sử dụng Đô-la hóa trên lãnh thổ Việt Nam .39
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
PHẦN MỞ ĐẦU
Tiền tệ phát triển qua các hình thái khác nhau và điểm bắt nguồn của tiền tệ là hàng hóa nhưng những hàng hóa này phải được ưa chuộng, dễ dàng chuyển đổi; sau đó, với sự phát triển không ngừng thì hình thái tiền tệ là bạc, vàng lần lượt ra đời.
Do kinh tế phát triển nhanh vượt ra khỏi quốc gia thì đòi hỏi cần có một đồng tiền mạnh để làm công cụ thanh toán trong xuất nhập khẩu. Cùng với quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và cùng với quá trình toàn cầu hóa hệ thống tài chính quốc tế đã làm cho hiện tượng Đô la hóa xuất hiện ngày càng sâu rộng tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi.
Đô la hóa cũng giống như những hiện tượng khác trong nền kinh tế vẫn có mặt tích cực như thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế… và mặt tiêu cực của nó của nó được thể hiện là trong chủ quyền tiền tệ quốc gia. Còn tại Việt Nam Đô la hóa bắt đầu xuất hiện vào năm 1988 khi đó với chính sách quản lý ngoại hối được nới lỏng, cho phép dân chúng gởi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng đã làm xuất hiện hiện tượng Đô la hóa, ngoài ra trong thời kỳ này thì chính sách mở cửa của nhà nước và kèm theo đó là chính sách tỷ giá và chính chính sách tỷ giá được tự do hóa kết hợp với tình hình kinh tế, tài chính thế giới có nhiều biến động cũng là một phần tất yếu của sự xuất hiện hiện tượng Đô la hóa.
Năm 2007, Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế giới và đây là cơ hội cho Việt Nam hội nhập nhanh và sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, điều này cũng nói lên rằng Việt Nam cũng phải chịu nhiều ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới và minh chứng rõ ràng nhất là ảnh hưởng của Việt Nam trong khủng hoảng tài chính toàn cầu đã nói lên được điều đó.
3
Như đã đề cập ở trên hiện tượng Đô la hóa có những mặt tiêu cực, tích cực riêng của nó vì vậy việc nhận định tác động của Đô la hóa đến nền kinh tế là vấn đề thiết thực và cần tìm ra những phương hướng để phát huy những mặt tiêu cực và hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Vì thế nhóm đã chọn đề tài “Đô la hóa trong nền kinh tế”
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Nhóm 7
Tài Chính Quốc Tế
Phần 1 :
TỔNG QUAN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA
1.1. KHÁI NIỆM
Đô-la hóa (dollarization) là việc sử dụng một ngoại tệ để thực hiện một số hay tất cả các chức năng của tiền tệ, quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và thay vào đó sử dụng đồng tiền của nước khác ổn định hơn làm phương tiện thanh toán. Nói cách khác, đô-la hóa xảy ra khi dân chúng trong một nước sử dụng rộng rãi ngoại tệ, song song hoặc thay thế cho đồng tiền nội tệ của mình. Tuy khái niệm này được gắn liền với đồng đô-la Mỹ, việc chuyển đổi ra bất kỳ ngoại tệ có tính ổn định nào khác, ví dụ như đồng Euro Châu Âu, đồng Yên Nhật, đồng Mác Đức - đều thường được gọi là đô-la hóa
1.2. CÁC HÌNH THỨC ĐÔ-LA HÓA:
Ngày nay, đô-la hóa là hiện tượng khá phổ biến, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô-la hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp đô-la hóa cao có 19 nước, trường hợp đô-la hóa cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4% có 35 nước; trong số đó có Việt Nam. Tính đến đầu năm 2000 đã có trên 60 nước thực hiện đô-la hóa (chính thức hoặc không chính thức) dù mức độ của mỗi nước là có khác nhau.
Tùy theo mục tiêu cách nhìn nhận khác nhau, thông thường các nhà phân tích
thường phân loại đô la hóa theo các tiêu chí sau: a)Tiêu chí về tính hợp pháp:
Căn cứ vào hình thức và mức độ đô-la hóa, người ta chia ra làm ba loại : đô la hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization) 1. Đô-la hóa không chính thức (đồng tiền thay thế) :
4
Đô-la hóa không chính thức xảy ra khi giá trị của đồng nội tệ dao động quá nhiều vì vậy đồng đô-la được sử dụng để giao dịch mua bán, tiết kiệm cá nhân và khi vay tiền vì nó đáng tin hơn. Do đó người dân cất trữ phần lớn tài sản của mình bằng ngoại tệ ngay cả khi ngoại tệ đó không phải là đồng tiền pháp định của nước mình. Trên thực tế, ở rất nhiều nước, đô-la hóa không chính thức mặc nhiên tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau bất chấp các quy định của luật pháp. Ở một số nước thì việc cất trữ tài sản nước ngoài là hợp pháp nhưng một số nước khác thì không cho phép dân chúng nắm giữ các tài sản nước ngoài, chẳng hạn cấm mở tài khoản bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Thuật ngữ đô-la hóa không chính thức được dùng bao gồm cho cả hai trường hợp, hợp pháp lẫn bất hợp pháp.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Hình thức đơn giản nhất của đô-la hóa không chính thức là việc dân chúng có thể gửi tiền ở ngân hàng bằng ngoại tệ hoặc cất trữ đô-la tiền mặt nhưng vẫn tiếp tục dùng đồng tiền nội tệ trong hoạt động mua bán hàng ngày. Giai đoạn này thường được gọi là “thay thế tài sản” bởi vì hành động này của dân chúng là nhắm đến việc bảo đảm an toàn tài sản của mình khi có lạm phát xảy ra với đồng tiền trong nước. Ở giai đoạn cao hơn, thường được gọi là “thay thế tiền tệ” đó là lúc người ta dùng đô-la trong các giao dịch có giá trị lớn như mua xe, mua nhà và sử dụng đô-la mặt như một phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Chỉ những giao dịch thông dụng, có giá trị nhỏ như tiền điện, nước, mua sắm các vật dụng hàng ngày hoặc những giao dịch mà chính phủ bắt buộc như nộp thuế, chi trả tiền lương mới sử dụng bằng nội tệ. Giai đoạn cuối của tiến trình đô-la hóa không chính thức là lúc dân chúng thường suy nghĩ và tính toán theo đô-la, giá của đồng tiền trong nước luôn được quy ra theo đô-la.
Như vậy, nhìn chung đô-la hóa không chính thức là việc dân chúng cất giữ
các tài sản dưới những hình thức sau :
Chứng khóan nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào khác (không phải là tiền tệ)
của nước ngoài.
Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Tiền gửi bằng ngoại tệ ở ngân hàng trong nước. Ngoại tệ mặt.
Việc đo lường mức độ đô-la hóa không chính thức rất khó khăn vì người ta không thể thống kê chính xác được lượng đô-la mặt mà dân chúng nắm giữ, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ ở trong nước và nước ngoài, giá trị của các tài sản nước ngoài do dân chúng nắm giữ do đó người ta chỉ có thể ước đoán mức độ lưu hành của đồng đô-la Mỹ và một số tiền tệ khác để đưa ra hình ảnh sơ bộ về sự phổ biến của việc đô-la hóa không chính thức. Theo tính toán của Cục dự trữ liên bang Mỹ thì người nước ngoài hiện đang nắm giữ khoảng 300 tỉ đô-la mặt tức là chiếm khoảng 55%-70% trong tổng số hơn 480 tỉ đô-la giấy đang được lưu hành.
Hầu hết các nghiên cứu về đô-la hóa được tập trung vào đô-la hóa không chính thức bởi vì lợi ích và thiệt hại từ việc đô-la hóa không chính thức là không rõ ràng, rất khó tính toán và rất khác nhau tùy thuộc vào đặc thù của từng nước.
Về ưu điểm, đô-la hóa không chính thức sẽ giúp chống được hiện tượng lạm phát đối với đồng nội tệ đồng thời góp phần làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động bền vững hơn. Khi chính phủ cho phép ngân hàng trong nước nhận tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ góp phần hạn chế được hiện tượng dân chúng đem tiền gửi ở nước ngoài và do vậy sẽ ít có nguy cơ dân chúng đổ xô đến ngân hàng rút tiền khi đồng nội tệ mất giá.
5
Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn đến bất lợi là rất dễ tạo nên tình trạng đồng nội tệ mất giá đột ngột khi dân chúng đồng loạt quay sang dùng ngoại tệ và điều này cũng sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ của mình.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
2. Đô-la hóa bán chính thức
Đô-la hóa bán chính thức xảy ra khi một nước sử dụng đồng ngoại tệ như là đồng tiền pháp định nhưng đóng vai trò thứ hai sau đồng nội tệ trong việc chi trả tiền lương, thuế và các chi tiêu hàng ngày như tiền đi chợ, tiền điện, nước .v.v.v. Không giống như các nước thực hiện đô-la hóa chính thức, những nước có đô-la hóa bán chính thức vẫn giữ một ngân hàng trung ương trong nước hoặc một hệ thống tiền tệ khác và có một khu vực riêng để thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Có hơn 12 quốc gia có hiện tượng này, tiêu biểu như: Brunei, Tajikistan, Liberia, Lào, Campuchia... 3. Đô-la hóa chính thức:
Đô-la hóa chính thức (hay còn gọi là đô-la hóa hoàn toàn) xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành Quá trình này diễn ra khi chính phủ của một nước không phát hành nội tệ mà thay vào đó sử dụng đô-la Mỹ hoặc một ngoại tệ khác như một tiền tệ chính thức (một số ít các nước đô-la hóa chính thức có phát hành tiền xu nhưng vì tiền xu có mệnh giá thấp và thường là một phần phụ trong cung tiền tệ nên có không ảnh hưởng đến đô-la hóa). Như vậy, ở những nước này, ngoại tệ không chỉ sử dụng trong trao đổi mua bán giữa các cá nhân mà còn là phương tiện thanh toán của chính phủ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô-la hóa chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Khi một nước thực hiện đô-la hóa chính thức thì mặc nhiên nó sẽ trở thành một bộ phận trong khu vực tiền tệ thống nhất cùng với nước có đồng tiền mà nó đang sử dụng. Và như vậy, nước đô-la hóa chính thức sẽ từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập của mình và áp dụng những chính sách tiền tệ của nước mà nó đang sử dụng đồng tiền. Vì vậy, nước thực hiện đô-la hóa chính thức sẽ không thể phản ứng lại những cú sốc kinh tế bằng cách thay đổi chính sách tỉ giá hối đoái của nước mình. Tuy nhiên, nước này vẫn có thể sử dụng những phương cách khác như điều chỉnh dòng vốn vào/ra, thay đổi chính sách giá, chính sách kinh tế...
Các quốc gia bị đô-la hóa đồng tiền đều không phát hành đồng nội tệ, trong khi đó cũng có một số nước, chẳng hạn như Panama, phát hành đồng nội tệ như là sự lựa chọn thứ 2 của mình.
6
Các nước bị đô-la hóa k hông hoàn toàn và bán đô-la hóa, năm 2002 Đô-la hóa không chính thức (đồng đô-la Mỹ): hầu hết các nước Mỹ Latin và Caribe, trong đó có : Argentina, Bolivia, Mexico, Peru, and Trung Mỹ; các nước thuộc Liên Xô cũ, như : Armenia, Azerbaijan, Georgia, Russia, and Ukraine; 1 vài nước khác, bao gồm : Mongolia, Mozambique, Romania, Turkey, and Vietnam. Bán đô-la hóa (đồng đô-la Mỹ): Bahamas, Cambodia, Haiti, Laos (cũng có đồng Thai baht), Liberia. Đô-la hóa không chính thức (các đồng tiền khác) : franc Pháp – vài thuộc địa cũ của Pháp ở châu Phi; mark Đức – các nước vùng Balkan; đô-la Hong Kong - Macau và miền Nam Trung Quốc; rúp Nga - Belarus.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Bán đô-la hóa (các đồng tiền khác) : Bhutan (rupee Ấn Độ); Bosnia (German mark, Croatian kuna, Yugoslav dinar); Brunei (dollar Singapore); Channel Islands, Isle of Man (bảng Anh); Lesotho (đồng rand Nam Phi); Luxembourg (franc Bỉ); Montenegro (German mark, Yugoslav dinar); Namibia (rand Nam Phi); Tajikistan (ruble Nga).
b)Tiêu chí về qui mô sử dụng ngoại tệ: Đô la hóa toàn phần (đô la hóa chính thức), đô la hóa một phần và không chính thức thường phản ánh mong ước của người dân muốn đa dạng hóa tài sản để đảm bảo tài sản của họ không bị mất giá khi có ảnh hưởng của nền kinh tế bất ổn định, trì trệ, lạm phát cao.
c)Dựa vào chức năng tiền tệ: Đô la hóa thay thế tài sản là hình thức đồng đô la thay thế đồng ngoại tệ thực hiện một trong những chức năng cơ bản của tiền tệ là chức năng dự trữ giá trị, khi đó không chỉ người dân mà còn cả doanh nghiệp cũng thực hiện chức năng này bằng cách mở tài khoản bằng ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng.
Khi một đồng tiền được dùng làm chức năng cất trữ thì yêu cầu đầu tiên thì đồng tiền đó phải ổn định về giá trị, ít có sự biến động các yếu tố bên ngoài. Khi đó thì tài sản tài chính bằng ngoại tệ được đảm bảo . Do vậy các chủ thể trong nền kinh tế thường qui đổi tài sản của mình theo đô la hóa khi có sự bất ổn kinh tế, biến động về kinh tế thì đồng nội tệ mất giá trị và sẽ ảnh hưởng đến giá trị của chủ thể nắm giữ đồng nội tệ.
Ngoài ra khi thực hiện đô la hóa thay thế tài sản thì các chủ thể này tín tưởng vào chính sách tiền tệ, chính sách phát triển kinh tế, ngân hàng trung ương, chính phủ của nước in tiền.
Đô la hóa thay thế thanh toán: Điều dễ thấy là Đô la hóa thay thế thanh toán có nguồn gốc từ đô la hóa thay thế tài sản, căn cứ vào điều kiện tiên quyết trong thời đại hiện đại ngày nay thì muốn thanh toán thông thường thì các chủ thể mở tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ và lúc này đây thì ngoại tệ đang thay thế đồng nội tệ thực hiện chức năng của tiền tệ.
Điều kiện để đồng ngoại tệ thực hiện chức năng thay thế đồng ngoại tệ trong chức năng thanh toán thì đồng này thuộc quốc gia sản xuất nhiều hàng hóa có giá trị được người dân quốc gia đó ưa chuộng và nhiều quốc gia ưu dùng. Ngoài ra còn có những trường hợp đồng tiền của quốc gia không phải mạnh, lãi suất không cao nhưng lại được các chủ thể trong nền kinh tế nắm giữ vì một lý do duy nhất là họ có thể thanh toán hàng hóa mà họ cần như khi thanh toán hàng hóa bằng đồng ngoại tệ tại các biên giới với các nước như Lào, Thái thì được gọi là Bath hóa; khi thanh toán hàng hóa bằng ngoại tệ tại biên giới trung quốc gọi là Nhân dân tệ hóa.
1.3 NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA:
Thứ nhất, một số quốc gia quyết định đô-la hóa một phần là do đất nước đang phải đối đầu với tỉ lệ lạm phát không thể kiểm soát nổi và phá giá đồng nội tệ 7 Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
sẽ đe doạ toàn bộ nền kinh tế. Những người đang có trong tay đồng nội tệ sẽ đòi một lãi suất rất cao để bù vào khoản trượt giá. Ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất để bảo vệ đồng nội tệ khỏi bị trượt giá quá nhanh. Trong hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy, rất nhiều nhà kinh doanh sẽ vay bằng ngoại tệ để được lãi suất thấp. Việc người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ và đổ xô mua đô-la sẽ làm cho đồng nội tệ càng mất giá hơn. Bất chấp lãi suất cao, người dân vẫn giảm gửi tiền tiết kiệm bằng nội tệ và nhiều nhà kinh doanh sẽ chuyển vốn của họ ra nước ngoài.
Thứ hai, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô-la hóa ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước.
Thứ ba, mức độ đô-la hóa ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô-la hóa càng cao.
Ngoài ra, nguyên nhân gây gia tăng hiện tượng đô la hóa còn do các yếu tố chủ quan như: Điều hành chính sách tiền tệ thiếu đồng bộ; Chính sách quản lý ngoại hối kém ; Điều hành chính sách kinh tế kém của chính phủ; Hệ thống thanh toán yếu kém…
Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng đô-la hóa là do ngân hàng trung ương đã không hoạt động có hiệu quả, do đó đô-la hóa dường như là phương cách hiệu quả để giữ cho tiền tệ ổn định. Thực tế cho thấy, ở những nước có đô-la hóa hay đô-la hóa ở mức độ cao thì nhìn chung là ngân hàng trung ương hoạt động kém hiệu quả hơn so với ngân hàng trung ương ở những nước không có đô-la hóa hoặc đô-la hóa mức thấp: lạm phát cao hơn, quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn, phá giá đồng tiền hơn và quốc hữu hóa tài sản của dân chúng nhiều hơn. Có thể nói rằng, bất kỳ một nước nào có đồng tiền ít nhất là không hoạt động mạnh bằng đô-la Mỹ thì có khả năng xảy ra đô-la hóa và đô-la hóa càng dễ dàng xuất hiện ở một nước khi lạm phát ở nước đó cao liên tục trong nhiều năm hoặc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối quá chặt chẽ.
1.4 TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA
1.4.1 Tác động tích cực
- Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô-la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hóa ở thị trường phi chính thức.
Ở các nước đô-la hóa chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, sẽ giúp duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp, làm tăng sự an toàn đối với tài 8 Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
Lợi ích thứ hai đến từ việc hạ thấp lạm phát hiện hành và hạ thấp rủi ro của lạm phát trong tương lai. Bằng việc sử dụng ngoại tệ, một nước đô-la hóa chính thức bảo đảm tỷ lệ lạm phát của nó gần hơn tỷ lệ lạm phát của nước phát hành. Sử dụng đô-la, euro, yên sẽ giảm lạm phát xuống một con số từ hai con số, mức mà những nước đang phát triển hiện đang gặp phải. Lạm phát ở mức thấp gia tăng sự an toàn của sở hữu tư nhân. Tiền là loại sở hữu phổ biến nhất. Lạm phát là một loại thuế đánh vào tiền, lạm phát càng thấp và càng ít thay đổi, quyền sở hữu tiền càng bảo đảm hơn. Bởi vì những tài sản thuộc về tài chính khác được gọi bằng tiền (đơn vị tiền tệ), lạm phát ở mức thấp cũng gia tăng sự an toàn của chúng,khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Panama là quốc gia Mỹ Latin độc lập duy nhất hiện có tỷ lệ thế chấp cho vay cố định trong 30 năm mà không có trợ cấp chính phủ bởi vì đó là quốc gia duy nhất không chịu lạm phát cao và sự mất giá tiền tệ trong 15 năm cuối. Lạm phát ỏ mức thấp cũng giúp những người nghỉ hưu, người có thu nhập cố định,và những người quá nghèo có tài khoản ngân hàng bằng việc bảo đảm rằng tiền tiết kiệm của họ giữ được giá trị.
- Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Đô-la hóa sẽ giúp cho một nước có lạm phát thấp và ít biến động và từ đó sẽ giúp giảm được lãi suất thực do vậy sẽ góp phần thúc đẩy phát triển tín dụng trung và dài hạn.
- Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô-la hóa chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Một nghiên cứu chỉ ra rằng ở Panama, đô-la hóa chính thức cho phép dự trữ ngân hàng là 5% GDP,thấp hơn lượng dự trữ nếu Panama có nội tệ riêng.
9
Đô-la hóa sẽ có thể giúp tạo ra đồng tiền có thể chuyển đổi hoàn toàn ở những nước mà tiền tệ chưa có khả năng chuyển đổi. Khi đô-la hóa kết hợp với một hệ thống ngân hàng quốc tế hóa tức là hoà nhập vào thị trường tài chính thế giới thì đô-la hóa sẽ giúp các nước chỉ cần dự trữ ngoại tệ thấp hơn các hệ thống tiền tệ khác. Không có rủi ro ngoại hối cũng sẽ giúp cho các ngân hàng hiện đang thiếu dự trữ có thể vay quỹ của thế giới với cùng một mức phí hoặc thấp hơn.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
- Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô-la hóa chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô-la hóa có thể được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. Đô-la hóa sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài, một khi họ biết là giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ không thay đổi, những điều này sẽ đưa đến tốc độ phát triển nhanh và đầu tư tăng. Về mặt tâm lý, đô-la hóa sẽ làm giảm các nỗi lo về nền kinh tế
- Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính
thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). 1.4.2. Tác động tiêu cực
Đô-la hóa có thể gây ra hàng loạt các bất lợi và những hệ lụy phức tạp mà các nước có đô-la hóa sẽ phải đối mặt. Đô-la hóa dù là không chính thức sẽ làm suy giảm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về tiền tệ, gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ của mình thông qua việc hạn chế và có thể “vô hiệu hóa” vai trò của lãi suất đồng nội tệ, tỉ giá hối đoái, đặc quyền phát hành tiền của ngân hàng trung ương đồng thời cũng sẽ khiến cho ngân hàng trung ương “đánh mất” vai trò là người cho vay sau cùng. Ở phương diện này có thể coi đô-la hóa là một cuộc tấn công tiền tệ
- Đô-la hóa ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.
- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ : Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời.
Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
10
Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô-la hóa có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô-la hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô-la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô-la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hóa sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Ở trong các nước đô-la hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô-la hóa cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô-la Mỹ. - Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô-la hóa chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Khi và nếu đồng đô-la dao động so với các đồng tiền khác trên thế giới đôi lúc khá mạnh, thì sẽ không có cách nào để đối phó với những cuộc khủng hoảng. Vì nước thực hiện đô-la hóa hoàn toàn trao quyền kiểm soát và quyền đưa ra một chính sách tiền tệ tập trung và độc lập cho ngân hàng trung ương của nước phát hành tiền. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chỉ đưa ra những quyết định có lợi cho Mỹ và không quan tâm mấy đến tình hình ở các nước thực hiện đô-la hóa. Cũng từ nguyên nhân trên, nước thực hiện đô-la hóa sẽ không thể đối phó với các cú sốc kinh tế; ví dụ như dao động của giá dầu trên thị trường thế giới, bằng cách thay đổi tỉ giá hối đoái. Đô-la hóa sẽ vô hiệu hóa phương thức sử dụng chính sách tỉ giá hối đoái. Các cú sốc ngoại biên, dao động của đồng đô-la chỉ là một trong số đó, sẽ không thể được đồng nội tệ hấp thụ bớt mà sẽ được truyền thẳng vào các hoạt động kinh tế.
- Đô-la hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô-la hóa hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song người dân vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô-la Mỹ. Đối với vác nước đô-la hóa hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
11
Bên cạnh đó, xét về khía cạnh chi phí thì khi xảy ra đô-la hóa, chính phủ sẽ mất đi chênh lệch giá phí tức là khoản chênh lệch giữa chi phí khi đưa đồng tiền
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
vào lưu thông và giá trị hàng hóa mà đồng tiền đó mua được (ở đây, khái niệm chênh lệch giá phí áp dụng cho toàn bộ cơ số tiền đang lưu hành cộng với dự trữ ngân hàng). Nghiên cứu của Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành của IMF vào năm 1982 đã chia chênh lệch giá phí từ đô-la hóa ra làm hai phần là “stock cost” và “flow cost”. Theo Fischer, “stock cost” là chi phí một lần ban đầu khi đưa một lượng tiền giấy, tiền xu đô-la cần thiết để thay cho đồng nội tệ đang lưu hành và Fischer ước tính chi phí này chiếm khoảng 8% GNP với nhận định rằng càng nhiều người thích sử dụng tiền giấy và tiền xu nhiều hơn séc và thẻ tín dụng thì “stock cost” càng cao. Còn “flow cost” là chi phí liên tục mất đi do tiền giấy và tiền xu không sinh lãi và tỉ lệ lạm phát càng cao thì “flow cost” càng cao với ước tính khoảng 0,75% đến 1% GNP mỗi năm. Ngoài ra, nước thực hiện đô-la hóa còn phải chịu các chi phí khác như chi phí cho một lần chuyển đổi giá cả, thay đổi chương trình máy tính, thay thế hệ thống máy bán hàng tự động, máy rút tiền và cả những chi phí do đánh mất sự độc lập và linh động trong chính sách tiền tệ khi phải bó buộc với chính sách tiền tệ của nước có đồng tiền sử dụng trong thời kỳ giá cả tăng vọt.
Ngoài việc đánh mất khả năng in tiền, là một trong những biện pháp tài chính cực kỳ quan trọng, nước thực hiện đô-la hóa sẽ mất ưu quyền tiền tệ. Về cơ bản ưu quyền tiền tệ là lợi nhuận thu được từ việc phát hành tiền. Đây là một hình thức kinh doanh rất có lãi, vì giá in tiền và phát hành tiền (thật ra chỉ là một mảnh giấy không có giá trị) thấp hơn rất nhiều so với giá trị những mặt hàng mà mảnh giấy này sẽ mua được. Chính phủ Mỹ thu được khoảng 25 tỉ USD/năm từ ưu quyền tiền tệ, và khi người dân các nước khác giữ tờ đô-la Mỹ trong tay- họ đã góp phần làm giàu cho Bộ Tài chính Mỹ.
12
Một nhược điểm nữa của đô-la hóa là lo sợ tiền giả. Rủi ro về chính trị cũng có thể xảy ra. Khi El Salvador tiến hành đô-la hóa, Đảng đối lập gọi đó là hành động bán mình cho đế quốc. Thuyết phục người dân bản xứ sử dụng một loại tiền không quen thuộc cũng không phải dễ. Một trong những khó khăn Argentina gặp phải khi quyết định đô-la hóa sẽ là văn hóa: đô-la hóa có thể được coi là thua chủ nghĩa thực dân, là dâng nộp biểu tượng niềm tự hào của đất nước.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Phần 2
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HÓA Ở VIỆT NAM Do đặc thù của cơ chế quản lý và biến động của kinh tế thế giới có ảnh hưởng đến Việt Nam, việc đánh giá tính chuyển đổi của VND và mức độ Đô-la hóa sẽ chia thành ba giai đoạn.
2.1. GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI MỞ CỬA (1988)
Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá (tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng Rúp chuyển nhượng và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá - lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ ĐLH là không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ.
2.2 . GIAI ĐOẠN BẮT ĐẦU MỞ CỬA ĐẾN TRƯỚC KHỦNG HOÀNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC (1988 - 1997)
13
2.2.1. Tính chuyển đổi của VND Tính chuyển đổi của VND đã được nâng cao đáng kể so với giai đoạn trước do vị thế của VND được phục hồi, chính sách quản lý ngoại hối có sự nới lỏng hơn và khả năng đáp ứng ngoại tệ được cải thiện một bước. Việt Nam chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước dần xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế tăng trưởng cao và khá ổn định, trung bình gần 8%/năm, lạm phát được kiểm soát ở mức trên dưới 10%, kinh tế đối ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập khẩu, đầu tư và vay nợ nước ngoài. Cùng với thắng lợi trong việc kiềm chế lạm phát, sự phát triển của hệ thống ngân hàng hai cấp đã khôi phục dần vị thế của VND. Hình thành Trung tâm giao dịch ngoại tệ và sau đó là Thị trường ngoại tệ
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển, VND được hỗ trợ bởi các ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn làm cho việc sử dụng thuận tiện hơn. Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát đã được kiềm chế nên mức lãi suất cao làm cho VND trở nên khá hấp dẫn. Trong giai đoạn này, Nghị định số 161-HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ quản lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành thay thế Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 07 năm 1963 của Chính phủ về Điều lệ quản lý ngoại hối với nội dung mọi hoạt động liên quan đến ngoại hối phải được quản lý bởi NHNN và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối; những Ngân hàng chuyên doanh, liên doanh với nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và tất cả các tổ chức kinh tế khác muốn kinh doanh ngoại hối và thực hiện thu đổi ngoại tệ phải được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngày 14/01/1991 NHNN ban hành quyết định số 08/NH/QĐ cho phép mọi thành phần trong nền kinh tế có thể gửi tiết kiệm tại bất cứ các tổ chức tín dụng nào được phép kinh doanh ngoại tệ mà không cần biết nguồn gốc của ngoại tệ. Ngày 16/08/1991 NHNN ra quyết định số 107/NH/QĐ về việc ban hành quy chế tổ chức cách thức hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ, NHNN đã ra quyết định này nhằm mục đích thể hiện được vai trò của thị trường ngoại hối trong nền kinh tế, sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý ngoại hối và từng bước hình thành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và quyết định số 48/QĐ-NH7 cho phép mọi thành phần kinh tế được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ và có thể rút ra bằng ngoại tệ hoặc VND. - Giao dịch vãng lai: tổ chức được mua ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu, trả lãi khoản vay nước ngoài hoặc chuyển lợi nhuận về nước của Nhà đầu tư nước ngoài theo tỷ giá giao dịch của Ngân hàng. Kiều hối được khuyến khích chuyển ngoại tệ về, được gửi vào ngân hàng và được rút ra bằng ngoại tệ. Công dân Việt Nam khi có nhu cầu về ngoại tệ để đi công tác, học tập, lao động, du lịch chữa bệnh ở nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem xét cấp phép cho mua số ngoại tệ cần thiết. - Giao dịch vốn: tổ chức kinh tế được vay nước ngoài và mua ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài được phép mua ngoại tệ trong một số trường hợp đặc biệt (xây dựng hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu). Tuy nhiên, còn nhiều hạn chế như: nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ tự cân đối ngoại tệ, việc tiếp cận ngoại tệ phải có giấy phép của NHNN, vay nợ nước ngoài phải được sự chấp thuận của NHNN, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không được vay ngoại tệ của ngân hàng. - Khả năng đáp ứng ngoại tệ: khả năng đáp ứng ngoại tệ của Hệ thống Ngân hàng được cải thiện hơn do xuất khẩu tăng và nguồn vốn dài hạn nước ngoài vào nhiều qua vay nợ và đầu tư trực tiếp. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu phát huy tác dụng. Tỷ giá chính thức vẫn do NHNN công bố nhưng linh hoạt hơn do đã áp dụng biên độ tỷ giá. Về cuối giai đoạn, khi khu vực bị khủng hoảng, vay
14
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
nợ và đầu tư nước ngoài giảm mạnh thì cung - cầu ngoại tệ mất cân đối nghiêm trọng. Mặt khác, do cơ chế tỷ giá còn thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ kém phát triển, công cụ thị trường còn hạn chế làm chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế bị ách tắc, khó mua được ngoại tệ nên các tổ chức kinh tế và ngân hàng cũng có xu hướng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ. 2.2.2 Mức độ đô-la hóa Nhìn chung mức độ ĐLH có xu hướng giảm mạnh. Năm 1991, tỷ lệ FCD/M2 lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ hợp pháp và bất hợp pháp tương đối nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng (kể cả đối với các giao dịch nhỏ) trong dân cư khá phổ biến. Nguyên nhân do ảnh hưởng của lạm phát phi mã giai đoạn trước (đến năm 1991 lạm phát vẫn còn tới 67,5 %). Người dân ưa thích sử dụng ngoại tệ còn do lợi ích thực tế của việc sử dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ thống thanh toán lại kém phát triển. Đến giai đoạn 1993 -1996, khi lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ ĐLH giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 còn 22,9%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất tiện khi sử dụng VND vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Các hoạt động ngoại hối trái phép tồn tại chủ yếu bởi chưa được xử lý một cách kiên quyết do thiếu chế tài, thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý. Bảng 2.2.2.1 : Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng lượng tiền gửi vào các ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 1989-1997
Đơn vị tính : %
1989 1990 1991 41,2 32,4 28,2 1992 1993 1994 1995 1996 1997 22,9 30,6 22,1 22,9 20,3 21
‘Nguồn : IMF : Staff Country Report No.00/116’ Năm Tỷ lệ FCD/M2
Bảng 2.2.2.2: Cơ cấu tiền gửi trong tổng huy động vốn của hệ thống ngân hàng từ 1991-1997 Đơn vị tính: %
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 31,4 33,1 61,8 50,3 41,1 38,9 33
38,2 49,7 58,9 61,1 67 68,6 66,9 Năm Ngoại tệ VND
15
‘Nguồn : IMF : Staff Country Report No.00/116’
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
2.3. GIAI ĐOẠN TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC ĐẾN NAY
Việc đánh giá khả năng chuyển đổi của VND và mức độ ĐLH trong giai đoạn này được chia thành 2 giai đoạn nhỏ hơn, đó là thời gian nền kinh tế chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và thời gian phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng.
2.3.1. Từ 1998 đến 2001
16
a) Tính chuyển đổi của VND Vị thế của VND tiếp tục được cải thiện tuy có bị ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực. Xét theo quy định về quản lý ngoại hối và cơ chế tỷ giá thì khả năng chuyển đổi của VND có bước nâng cao so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng ngoại tệ trên thực tế có những hạn chế nhất định do cơ chế tỷ giá vẫn còn thiếu linh hoạt, khó dự đoán, do chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bị ách tắc. Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, mức tăng GDP của Việt Nam giảm mạnh, trung bình chỉ còn 6%/năm. Năm 1998, lạm phát lên đến 9,2% (so với mức 3,6% năm 1997), sau đó rơi vào giảm phát mà thấp nhất vào năm 2000 (-0,6%). Trong giai đoạn này, tăng trưởng xuất nhập khẩu cũng biến động với mức độ lớn, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) suy giảm mạnh và vay nợ nước ngoài gặp khó khăn. Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp tích cực như đẩy mạnh tự do hóa thương mại, cải tổ chính sách thuế, ban hành các Luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại. Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, đồng thời thực hiện việc đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Hệ thống ngân hàng tiếp tục được củng cố sau khi ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các Tổ chức tín dụng. Tiến hành việc sắp xếp, cơ cấu lại các NHTM cổ phần và chuẩn bị các phương án củng cố NHTM Nhà nước. Hình thành thị trường chứng khóan với quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường. Để hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng và tiếp tục mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 17 tháng 8 năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối cùng với một loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quản lý ngoại hối. Các chính sách mới được ban hành là một tiến bộ về cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng chuyên nghiệp và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. - Giao dịch vãng lai: hình thành cơ bản xu hướng tự do hóa các giao dịch vãng lai so với quy định của IMF. Chỉ còn một số hạn chế liên quan đến thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của doanh nghiệp FDI, hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của các cá nhân.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
- Giao dịch vốn: có một số nới lỏng hơn về kiểm soát vay ngắn hạn nước ngoài và điều kiện vay nợ nước ngoài, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong việc thoả thuận, ký kết hợp đồng vay vốn nước ngoài, sau đó phải thực hiện đăng ký khoản vay với NHNN (trừ trường hợp là doanh nghiệp nhà nước). Xoá bỏ chế độ tự cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI. - Khả năng đáp ứng ngoại tệ: do ảnh hưởng của khủng hoảng và tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ nên khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Để điều hoà cung - cầu, Chính phủ đã phải áp dụng chế độ kết hối ngoại tệ với tỷ lệ rất cao, đồng thời phải áp dụng một số hình thức ưu tiên bán ngoại tệ, giấy phép mua ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI. Trong thời gian này, tỷ giá hối đoái của VND có biến động do ảnh hưởng của khủng hoảng. b) Mức độ Đô-la hóa Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001 đã tăng cao trở lại đến gần 30%. Nguyên nhân là trong suốt một thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn hơn các ngoại tệ khác. Mặt khác, các chính sách mới ban hành đã tạo sự tin tưởng của người dân, thu hút được một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào hệ thống ngân hàng. Tâm lý ĐLH trong giai đoạn này cũng một phần do tác động của khủng hoảng và kỳ vọng của thị trường vào sự phá giá của VND.
2.3.2. Từ 2002 đến nay :
a) Tính chuyển đổi của VND
17
Vị thế của VND được cải thiện mạnh mẽ qua sự đổi mới về mệnh giá, hình thức của đồng tiền, sự phát triển của hệ thống Tổ chức tín dụng (TCTD) với nhiều tiện ích và hệ thống thanh toán hiện đại. Điều hành Chính sách tiền tệ đã có sự thay đổi về chất và quy định quản lý ngoại hối tiếp tục được nới lỏng. Về cơ bản, các giao dịch vãng lai và một phần giao dịch vốn đã tự do hóa. Khả năng đáp ứng ngoại tệ tiếp tục được cải thiện, nhìn chung đã đáp ứng tương đối đầy đủ các giao dịch được phép. Kinh tế phục hồi và bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ trên 7%/năm, kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu tiên đạt gần 60 tỷ USD vào năm 2004. Đầu tư và vay nợ nước ngoài cũng tăng mạnh do sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, lạm phát đột ngột tăng cao trở lại với mức 9,5% năm 2004 do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là thiên tai, dịch cúm gia cầm và giá nguyên, nhiên liệu trên thế giới tăng. Đây là thời kỳ Nhà nước đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, Luật Cạnh tranh, xây dựng Luật Đầu tư chung để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Với sự biến đổi nhanh của nền kinh tế, Nghị định số 63/1998/NĐ-CP cũng như các văn bản khác liên quan đến quản lý ngoại hối đã tỏ ra bất cập cần phải bổ sung, sửa đổi. Đồng thời, để tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối theo một định hướng dài hạn hơn, Quốc hội đã chỉ đạo xây dựng và ban hành Pháp lệnh ngoại hối. Bên cạnh đó một số văn bản điều chỉnh chính sách quản lý ngoại hối đã được bổ sung nhằm phát triển thị trường ngoại hối qua việc hoàn thiện các công cụ phái sinh để tạo điều kiện tiến đến một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn.
- Giao dịch vãng lai: để thực hiện kế hoạch gia nhập WTO, Việt Nam đã thực
hiện tự do hóa giao dịch vãng lai và điều này đã được IMF công nhận. - Giao dịch vốn: đã bỏ quy định về thời hạn chuyển ngoại tệ sau 01 năm đối với đầu tư chứng khóan. Giao dịch vốn còn những hạn chế sau: + Doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến của NHNN trước khi ký Hợp đồng vay. + Doanh nghiệp FDI vẫn còn danh mục ưu tiên cân đối ngoại tệ. + Còn hạn chế tỷ lệ góp vốn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Chưa có quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. + Đầu tư của nước ngoài vào thị trường chứng khóan còn bị hạn chế về tỷ lệ mua và tỷ lệ nắm giữ. + Góp vốn mua cổ phần của Nhà đầu tư nước ngoài còn bị hạn chế. + Còn hạn chế các hình thức vay nước ngoài. - Khả năng đáp ứng ngoại tệ: quan hệ cung cầu ngoại tệ có sự cải thiện đáng kể do cơ chế tỷ giá đã có sự thay đổi cơ bản. Tuy NHNN vẫn công bố tỷ giá bình quân thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhưng biên độ đã nới rộng ra +/- 0,5%. Đồng thời đã mở rộng thời gian của giao dịch kỳ hạn (từ 3 ngày đến 365 ngày), bỏ các trần kỳ hạn cố định để xác định tỷ giá kỳ hạn theo mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Đặc biệt, NHNN đã cho áp dụng thí điểm giao dịch quyền chọn với mức phí theo thoả thuận. Với những quy định hiện hành, tỷ giá đã phản ánh tương đối sát với quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường cũng như kỳ vọng về giá trị đối ngoại của VND. Tuy đến nay chưa có một khiếu nại nào đối với việc không mua được ngoại tệ để đáp ứng các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn theo quy định nhưng thực tế khả năng đáp ứng ngoại tệ của các NHTM không cao qua việc nhiều Dự án FDI vẫn yêu cầu được Chính phủ đảm bảo cân đối ngoại tệ, vẫn tồn tại chế độ ưu tiên bán ngoại tệ để nhập khẩu xăng dầu. Hơn nữa, lạm phát cao và nhập siêu gia tăng trong khi Dự trữ ngoại hối Nhà nước còn hạn chế là những vấn đề đang và tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến tính chuyển đổi của VND.
b) Mức độ Đô la hóa
Tỷ lệ FCD/M2 liên tục giảm trong những năm gần đây, đến năm 2003 còn 23,6%. Thanh toán và kinh doanh ngoại tệ vẫn tiếp tục phát triển. Theo kết quả khảo sát năm 2002 của Đề tài nghiên cứu khoa học ngành Ngân hàng, hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do có quy mô từ 4 - 6 tỷ USD/năm, tương đương 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm đó; theo nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, số ngoại tệ trôi 18 Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
nổi ngoài thị trường tự do ước khoảng 5 tỷ USD. Đô-la hóa trong niêm yết, định giá bằng ngoại tệ còn phổ biến. Đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất USD trên thế giới tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm thì tỷ lệ FCD/M2 đang có biểu hiện gia tăng trở lại, đạt gần 24%.
Bảng 2 Các nước giao thương chính của Việt Nam
19
Biểu đồ 1 Tỉ lệ lạm phát hàng năm của VN
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA VND VÀ MỨC ĐỘ ĐÔ-LA HÓA 2.4.1. Tính chuyển đổi của VND So sánh với các giai đoạn trước, tính chuyển đổi trong nước của VND đã tăng rất nhiều do vị thế của VND liên tục được nâng lên, chính sách quản lý ngoại hối đã thực hiện tự do hóa các giao dịch vãng lai và tiếp tục tự do hóa có chọn lọc các giao dịch vốn. Khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng cũng liên tục được cải thiện qua việc đổi mới cơ chế tỷ giá và sự phát triển, hoàn thiện các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế, mức độ ĐLH, trình độ của Hệ thống Ngân hàng, dịch vụ thanh toán, quy mô và hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, sự bất tiện trong sử dụng, và đặc biệt sự gia tăng của chỉ số lạm phát thì có thể nói rằng, vị thế của VND chưa cao, chưa được thị trường thực sự tin tưởng và ưa thích; về tính chuyển đổi quốc tế thì VND hầu như vẫn chưa có khả năng chuyển đổi ở nước ngoài. Bên cạnh đó, chính sách quản lý ngoại hối vẫn còn nhiều hạn chế, cơ chế tỷ giá còn thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ (nhất là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng) còn kém phát triển, chu chuyển ngoại tệ chưa thông suốt làm giảm khả năng đáp ứng ngoại tệ. Các yếu tố trên đã hạn chế tính chuyển đổi của VND.
Biểu đồ 2 Tỉ giá giữa VND và USD
2.4.2. Mức độ ĐLH Căn cứ mức độ sử dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng của VND thì mức độ ĐLH trong nền kinh tế khá trầm trọng. Tỷ lệ FCD/M2 lúc lên cao, lúc hạ thấp, tuy nhiên, do tiết kiệm ngoại tệ được rút ra bằng ngoại tệ tiền mặt nên không phản ánh được mức độ ĐLH thực sự. Vấn đề gây hậu quả nhiều nhất là khối lượng ngoại tệ trôi nổi trong dân cư, không kiểm soát được, gây ra hiện tượng thanh toán, định 20 Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
giá và kinh doanh ngoại tệ trái phép. Nếu lấy lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong thời gian qua trừ đi số ngoại tệ các ngân hàng huy động được của dân cư thì ước tính số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường bằng khoảng 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm 2004.
Biểu đồ 3 Đô-la hóa trong lượng tiền gửi ngân hàng
21
Biểu đồ 4 Tỉ lệ M2 trong nền kinh tế VN
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Biểu đồ 5 Lãi suất tiền gửi bằng VND và USD 2.4.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997- 1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó.
Việc phá giá VND vào năm 1985 và những năm 1997 – 1998 đã làm cho người giữ tiền đồng cảm thấy bị thiệt hại hơn so với giữ ngoại tệ. Do nền kinh tế còn nằm trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu gặp phải những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế nhất là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở miền Bắc nên lạm phát tiếp tục gia tăng, từ chỗ giá trị đồng tiền (đồng NHNN VN được đổi ngày 2/5/1978) sát với sức mua của đô la Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng bị dãn ra, đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, tháng 9/1985 tỷ giá giữa tiền đồng và USD là 150đ/USD. Trước tình hình đó, 14/9/1985 Nhà nước tiến hành đổi tiền lần 4 theo tỷ lệ 10đ tiền NHNN cũ ăn 1đ tiền NHNN mới. Đây là cuộc cách mạng tiền tệ theo trật tự ngược Tiền – Lương – Giá. Sau đổi tiền tình trạng lạm phát càng tăng cao, 1986 lạm phát đạt 774%. Tháng 3 năm 1989 Việt Nam duy trì một hệ thống tỷ giá hối đoái có nhiều mức khác nhau đều có lợi cho nhập khẩu. Để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu (năm 1989 Việt Nam đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế nhằm mở rộng tự do hóa nền kinh tế và thay đổi sản xuất công nghiệp từ thay thế nhập khẩu sang định hướng 22 Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
xuất khẩu), tỷ giá VND so với USD được phá giá cho các giao dịch thương mại trong khuôn khổ các kế hoạch Trung ương. Biến động tỷ giá được thể hiện qua bảng sau:
Đvt: Đồng/USD
Năm Tỷ giá cũ Tỷ giá mới
Tháng 9/1988 225 900
1989 4.000
1992 11.500
1993 10.750
1994 10.800
1995 11.000
Ngay cả các Ngân hàng thương mại cũng có hiện tượng này. Hiện các Ngân hàng đang có cơ cấu dự trữ ngoại tệ bất hợp lý, trong khi thừa USD nhưng lại thiếu trầm trọng các ngoại tệ khác như Euro, Nhân dân tệ, Yên Nhật. Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản là những đối tác thương mại ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhưng khi doanh nghiệp có nhu cầu các ngoại tệ ngoài USD thì Ngân hàng lại hầu như không đáp ứng được. Hơn thế nữa, để tạo ra lợi nhuận, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn USD gửi ra các ngân hàng nước ngoài, nhất là Singapore và Hong Kong, để kiếm lãi suất cao. Điều này chỉ làm tình hình thêm xấu hơn vì những đồng USD đã không được đầu tư trong nước đồng thời phải gánh chịu rủi ro từ bên ngoài. Sau đó họ đã cho các doanh nghiệp trong nước vay. Mức tăng tín dụng ngoại tệ đạt mức cao điểm 41% vào năm 2003. Tính đến cuối năm 2003, khoản tiền được các ngân hàng cho vay bằng đô-la đã chiếm đến 28%. Điều này làm cho doanh nghiệp đi vay USD sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi VND bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng VND nhưng phải trả nợ bằng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỉ giá giữa USD và VND mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro.
Ngoài ra, do chênh lệch giữa tỷ giá ấn định của NHNN với tỷ giá thị trường tự do khá lớn. Trong khi tỷ giá công bố của NHNN chỉ dao động ở mức trên 16.000 VND/USD thì trên thị trường tự do, giá USD lên đến mức 18.000 VND/USD. Sự chênh lệch này đã góp phần làm xuất hiện nạn đầu cơ USD, làm cho thị trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái càng thêm phức tạp.
23
Mặt khác, đồng đô-la ở nước ta được sử dụng khá tự do. Mặc dù chính sách quản lý ngoại hối hiện hành không cho phép USD được sử dụng ngoài hệ thống
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
ngân hàng, nhưng lại cho phép người dân được nhận kiều hối bằng ngoại tệ, được gửi ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các ngân hàng và được rút cả gốc và lãi bằng ngoại tệ. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hóa đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hóa như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn... đã làm tăng quá trình đô-la hóa.
Ngoài ra một nguyên nhân khác cũng rất quan trọng, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán sử dụng ngoại tệ công khai. Hiện tượng niêm yết, quảng cáo sản phẩm bằng ngoại tệ vẫn còn phổ biến công khai tuy NHNN đã có quy định cấm niêm yết quảng cáo bằng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp không có thu bằng ngoại tệ (Số 985/NHNN-QLNH). Trong thời gian gần đây hoạt động niêm yết mua bán ngoại tệ tự do không còn công khai nhưng hoạt động mua bán ngọai tệ ngầm vẫn tiếp diễn. Các quầy thu đổi chính thức không kiếm chác được bao nhiêu nếu theo đúng nghĩa vụ với ngân hàng,do đó họ làm theo kiểu thỏa thuận với nhau, họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra không được đổi, bán cho những người lẽ ra không được bán. Bên cạnh đó, tâm lý người dân và các doanh nghiệp thích vẫn thích mua bán trên thị trường chợ đen, đã làm cho một số lớn ngoại tệ chui vào túi tư nhân. Ngân hàng muốn thu mua ngoại tệ mà không được vì ba lý do:
- Thứ nhất: Tỷ giá hối đoái của VND/USD cố định và biên độ giao động thấp khoảng 0.25%, điều này tạo một khoảng cách giữa thị trường ngoại tệ tự do và tỷ giá công bố của ngân hàng thương mại nên người dân có đôla thường đi đổi tại các nơi đổi tiền của tư nhân có lợi hơn là ra ngân hàng.
- Thứ hai: đổi tiền tại các địa điểm tư thường dễ dàng và nhanh chóng hơn và không bị các thủ tục hành chánh rườm rà chi phối. Theo quy định hiện nay của NHNN, ở các ngân hàng cánhân doanh nghiệp khi mua ngoại tệ phải có mục đích rõ ràng và có các chứng từ chứng minh cho mục đích hợp pháp.
24
- Thứ ba: Ngân hàng nhà nước hay những ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ thường không đủ đôla để cấp cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập cảng hàng hóa hay dịch vụ nên các cơ sở này phải mua đôla của tư nhân. Bên cạnh đó, ta phải nhận thức ra tâm lý thích sử dụng, cất trữ ngoại tệ đã ngấm sâu vào tư tưởng của một bộ phận tầng lớp dân cư. Có thể sử dụng ngoại tệ tiện lợi, gọn gàng hơn so với VND. Thực tế, nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng , thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ 100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng EUR chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được. Tình trạng tham nhũng cũng góp phần tạo nên hiện tượng đôla hóa xã hội nhất là khi đi phong bì bằng ngoại tệ vừa gọn vừa lịch sự. Đây chính là những nỗi nhức nhối bức xúc là vấn đề nan giải đối với nhà nước nếu muốn hạn chế “đôla hóa” xã hội.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Thêm vào đó, nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh,
Nguồn kiều hối của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các năm với tốc độ tăng trưởng rất nhanh lớn hơn 10% nhưng lại sụt giảm trong năm 2009; số liệu năm 1991 lượng kiều hối của Việt Nam là 35 triệu USD, năm 1992 đạt 136,6 triệu USD và đến năm 2008 đạt mức kỷ lục với 7.200 triệu USD. Lượng kiều hối của Việt Nam tăng dần từ năm 1991 đến năm 2008 do các yếu tố sau: i) Số lượng người Việt Nam sống và làm việc tại nước ngòai có xu hướng gia tăng qua các năm và tính đến năm 2008 thì số lượng này đạt khoảng 3 triệu người và sống tập trung chủ yếu trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau; ii) Với điều kiện làm ăn, sinh sống tốt tại các quốc gia mà cư dân Việt Nam sinh sống đó là điều kiện vô cùng tốt cho cư dân Việt Nam tạo ra thu nhập và gửi về Việt Nam; iii) Ngoài ra với nhiều chính sách tạo điều kiện vô cùng tốt của chính phủ các nước và chính phủ Việt Nam đã làm cho lượng kiều hối gia tăng mạnh từ năm 1991 đến 2008. Trong năm 2009 lượng kiều hối của Việt Nam giảm sút trong khi đó số lượng người Việt Nam sinh sống và làm việc tại nước ngoài có xu hướng gia tăng điều này được giải thích là do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến các quốc gia mà cư dân Việt Nam sinh sống và điều này làm cho lượng thất nghiệp gia tăng, hoạt động kinh doanh của người dân trì trệ dẫn tới lượng kiều hối giảm sút mạnh trong năm 2009; ngoài ra thì lượng kiều hối trong năm 2009 chuyển về nước qua các kênh không phải ngân hàng gia tăng theo số liệu không chính thức đã làm cho lương kiều hối trong năm 2009 giảm sút so với năm 2008. Theo các chuyên gia tài chính tại Việt Nam dự đoán trong năm 2010 lượng kiều hối khoảng hơn sáu tỷ đô la sau khi loại bỏ các yếu tố rủi ro và tính đến tháng 04 năm 2010 thì kiều hối về thông qua các ngân hàng trên địa bàn Tp.HCM là khoảng 1.700 triệu đô la.
đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Lượng kiều Năm Lượng kiều
25
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 hối 35 136,6 140,98 249,47 284,96 468,99 400 950 1.200 1.757 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 hối 1.820 2.150 2.580 3.800 4.400 5.200 6.700 7.200 6.283
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam, lượng du khách đến Việt Năm tăng dần đều qua các năm nhưng năm 2003 có giảm so với năm 2002 và năm 2004 được lý giải do đại dịch SARS đã làm cho ngành du lịch Việt Nam một năm đầy khó khăn; trong năm 2009 lượng khách du lịch đến Việt Nam có giảm so với năm 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho lượng khách giảm hẳn.
Đơn vị tính: ngàn người
Năm Số lượng khách du Năm Số lượng khách du
lịch lịch
1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 250 1351,3 1607,2 1715,6 1520,1 1781,8 2140,1 2330,8 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2628,2 2429,6 2927,9 3467,8 3583,5 4171,6 4253,7 3800
Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ.
Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.
Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, chính phủ các nước.
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp. Chỉ riêng số vốn FDI thu hút được trong năm 2007 đã lên đến hơn 20 tỷ USD, vượt chỉ tiêu đặt ra từ 6-7 tỷ USD, vốn FII vào Việt Nam lên tới 6,2 tỷ USD
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển
Nguồn: “Tổng cục Du lịch”
Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt
của nền kinh tế.
động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam
26
phải đứng trước tình trạng đô-la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Nguyên nhân chủ quan là do nước ta tăng trưởng kinh tế còn chưa bền vững, chưa thực sự dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả. Hệ thống ngân hàng - tài chính còn kém phát triển, chưa đạt trình độ tối thiểu của khu vực, các thị trường tài chính hoạt động chưa đồng bộ, thiếu hiệu quả và rủi ro cao.
Chính sách quản lý ngoại hối còn có những quy định chặt chẽ không cần thiết, không tương xứng với trình độ phát triển của nền kinh tế. Cơ chế tỷ giá chưa có tính thị trường cao. Chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bị ách tắc, nhất là việc sử dụng ngoại tệ trong chính sách tài chính công làm cho khả năng đáp ứng ngoại tệ bị hạn chế và không phản ánh đúng thực chất.
Trước thực trạng trên, chúng ta cần phải nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế. Chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực...
Mức tiết kiệm thấp và thời hạn tương đối ngắn của tiền gửi, trái phiếu, v.v... (kỳ hạn trung bình chưa tới một năm tại Việt Nam) đã buộc Nhà nước đi vay bên ngoài bằng đồng ngoại tệ, gây đô-la hoá các khoản nợ. Các chuyên gia kinh tế Eichengreen, Hausmann và Panizza đã mô tả hiện tượng này là ''''sai lầm đầu tiên'''', khiến quốc gia vay tiền phơi nhiễm với các cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế. Họ định nghĩa sai lầm đầu tiên là ''''việc một quốc gia mất khả năng đi vay ở bên ngoài bằng chính đồng nội tệ của nước đó''''.
Trong bối cảnh này, nỗ lực hiện nay của Việt Nam để chuẩn bị phát hành phiếu bằng đô-la ra thị trường quốc tế là "có vấn đề" vì nó sẽ đóng góp hơn nữa vào quá trình đô-la hoá nền kinh tế Việt Nam. Nói cách khác, mặc dù Ngân hàng nhà nước đã giảm thành công mức độ đô-la hoá trong hệ thống ngân hàng trong vài năm qua song kế hoạch phát hành trái phiếu bằng đồng đô-la sẽ kéo quốc gia theo hướng ngược lại và đóng góp vào quá trình đô-la hoá.
Kể từ năm 1998, các ngân hàng Việt Nam được phép huy động tiền gửi bằng ngoại tệ và trả lãi suất. Mặc dù đô-la hoá tiền gửi ngân hàng có tác động tích cực tới thâm hoá tài chính song cả tiền gửi bằng đô-la và VND đều có kỳ hạn ngắn, một năm hoặc thấp hơn. Do vậy, vấn đề kỳ hạn vẫn chưa được giải quyết. Ngoài ra, đô-la hoá tiền gửi ngân hàng còn làm tăng rủi ro đối với hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng Việt Nam có ba cơ hội lựa chọn để sử dụng đồng đôla
trong bảng cân đối tài sản.
27
Thứ nhất, các ngân hàng Việt Nam gửi đô-la Mỹ ở nước ngoài, chủ yếu là tại Hong Kong và Singapore. Tiền gửi của các ngân hàng Việt Nam tại nước ngoài đạt đỉnh vào đầu năm 2002 với gần năm tỷ đô-la Mỹ. Rõ ràng đây là cách an toàn nhất vì không xảy ra sự chênh lệch tiền tệ giữa nợ và tài sản trong bảng cân đối tài
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
sản của ngân hàng. Việc xuất khẩu ngoại tệ sẽ không có lợi khi lãi suất vay cao hơn lãi suất cho vay. Tuy nhiên, việc kiểm soát vốn chặt tại Việt Nam cho phép các ngân hàng trả lãi suất đối với tiền gửi bằng đồng đô-la trong nước thấp hơn so với thị trường thế giới. Do vậy, họ vẫn thu được lợi nhuận. Tác động vĩ mô này chính là sự tái phân bố giàu có từ người gửi đô-la trong nước tới các ngân hàng. Nói cách khác, đó là một loại thuế kiểm soát vốn, có lợi cho ngân hàng trong nước, đặc biệt là Ngân hàng nhà nước. Mặc dù vậy, lãi suất đô_la Mỹ giảm mạnh kể từ năm 2002 đã buộc các ngân hàng rút tiền gửi về nước và lượng ngoại tệ gửi ở nước ngoài đã giảm 50%, tính tới cuối năm 2003.
Thứ hai, các ngân hàng bán đô-la cho Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, sự lựa chọn này tạo ra chênh lệch tiền tệ trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Trong trường hợp người rút tài khoản bằng đô-la, các ngân hàng phải có sự bảo đảm rằng họ tiếp cận được với nguồn dự trữ quốc tế của ngân hàng trung ương. Nếu VND giảm giá so với đô-la, các ngân hàng phải gánh chịu thua lỗ hoặc ngân hàng trung ương bồi thường cho họ bằng cách bán đô-la cho các ngân hàng theo tỷ giá hối đoái cũ. Rủi ro về tỷ giá hối đoái trong lựa chọn này là không thể tránh khỏi. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các ngân hàng trung ương châu Âu dự trữ ngoại hối lớn nhằm bù trừ sự chênh lệch tiền tệ ở cấp vĩ mô. Tuy nhiên, ở Việt Nam, dự trữ ròng của Ngân hàng nhà nước chỉ bằng 20% GDP.
Cuối cùng, các ngân hàng có thể cho nền kinh tế trong nước vay đô-la. Trong năm 2004, cho vay bằng ngoại tệ tăng 41%. Vào mùa hè năm 2004, khối lượng cho vay trong nước bằng đồng đô-la đã vượt 28%. Mặc dù các ngân hàng tránh được sự chênh lệch tiền tệ giữa tài sản và nợ song nguy cơ vỡ nợ tăng mạnh vì rủi ro tỷ giá hối đoái được chuyển sang người vay cuối cùng. Do những người vay này có doanh thu bằng VND trong khi tiền đi vay lại là đô-la nên họ phải chịu rủi ro khi tỷ giá hối đoái đô-la/VND thay đổi và không có cách gì để bù trừ.
Tồi tệ hơn nữa là cho vay đô-la ở trong nước không chỉ làm tăng rủi ro của khu vực tài chính mà còn thúc đẩy tiến trình đô-la hoá bằng cách tính lãi suất bằng đô-la đối với những khoản vay này. Thanh toán lãi suất bằng đô-la tạo ra thêm cầu ngoại tệ và phá hoại ngầm sự ổn định dài hạn của đồng nội tệ.
28
Do vậy, một cuộc khủng hoảng kinh tế bên ngoài có thể ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tài chính của Việt Nam - hệ thống dựa trên hai đồng tiền. Nói cách khác, trong tình hình hiện nay, mọi sự thay đổi mạnh về tỷ giá giữa VND/USD đều làm mất tính ổn định của khu vực tài chính. Tỷ giá hối đoái hiện nay cũng có thể chịu áp lực khi lãi suất ở Mỹ tăng. Chỉ bằng cách nâng lãi suất VND nhiều hơn mới có thể tránh được sự gia tăng nhu cầu đô-la trong nước.Tất nhiên, chẳng có quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng nội tệ của mình. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước VN đã đặt ra mục tiêu, đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ “đô-la hoá” xuống dưới 15%. Hơn nữa, các chính phủ đều không muốn có tình trạng “đô-la hoá” trong nền tài chính tiền tệ vì không muốn đánh mất ưu quyền tiền tệ. Bên cạnh việc làm mất chủ quyền về tiền tệ, “đô-la hoá” còn làm cho
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
thị trường ngoại hối kém phát triển do các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ sẽ lấn át các quan hệ mua bán ngoại tệ. “Đô-la hoá” làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ, tạo điều kiện cho buôn lậu phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất trong nước. Nhà nước không những thất thu về thuế mà còn mất cả nguồn thu từ việc phát hành đồng nội tệ. Về dài hạn, “đô-la hoá” có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ thống ngân hàng. Một nền kinh tế bị “đô-la hoá” cao càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng ngoại tệ phụ thuộc trên thế giới, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu, thép… ngành xuất khẩu sẽ chịu tác động trực tiếp trước tiên. Chẳng hạn, giá cà phê giảm mạnh, xuất khẩu cũng giảm, kéo theo nền kinh tế phát triển chậm lại. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có hai mặt, không thể phủ nhận mặt tích cực của “đô- la hoá” trong nền kinh tế VN. Một trong số đó là giúp thu hút đầu tư nước ngoài, tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp VN giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng. “Đô-la hoá” có thể là yếu tố thu hút khách du lịch, kiều hối, tạo thuận lợi cho việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ. Mối quan hệ lãi suất giữa nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến đổi của tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng nói trên. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới: 1989 - 1992, lạm phát ở nước ta rất cao, Đồng Việt Nam mất giá mạnh so với USD, vàng tăng giá rất lớn. Do đó nhiều người lựa chọn USD để cất trữ và gửi ngân hàng. Trong các năm 1999 - 2001, lãi suất USD trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh điểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn USD lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về lãi suất cho cả người dân, cho nền kinh tế và cho cả hệ thống ngân hàng.
Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn USD bình quân chỉ có 3,0% - 4,0%/năm, thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn VND, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay USD, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay USD tăng lên. Bên cạnh việc nhiều người tin tưởng vào sự ổn định của VND và tính toán lợi ích kinh tế từ lãi suất, thì nhiều người khác vẫn có tâm lý lo sợ sự mất giá của VND, nên vẫn lựa chọn USD để gửi ngân hàng. Thực trạng đó còn do nguyên nhân, mệnh giá VND còn nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 đồng mới được đưa ra lưu thông cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với gần 1,6 triệu VND. Bởi vậy việc sử dụng USD tiện lợi trong giao dịch lớn như đất đai, nhà ở, ôtô,... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng USD tiện lợi hơn nhiều đối với họ, nhất là tình trạng buôn lậu, một số tiêu cực khác.
29
Ngoài ra còn có nguyên nhân về kinh tế và quản lý, đó là tình trạng bán hàng hoá và dịch vụ niêm yết giá, cũng như thu bằng USD ngày càng mở rộng và phát triển trái với quy định của Nghị định 63/NĐ - CP của Chính phủ.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
2.4.4. Ảnh hưởng của Đô-la hóa đối với nền kinh tế nước ta. 2..4.4.1 Tích cực
Đô-la hóa thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa theo chiều sâu và thúc đẩy chu chuyển hàng hóa quốc tế, khi được định giá bằng ngoại tệ thì hàng hóa và dịch vụ trong nước phải đạt tới chất lượng và giá cả cạnh tranh trên thị trường quốc tế,…
Một trong những điểm tích cực nữa của “đô-la hóa” là giúp thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cung ngoại tệ… do các nhà đầu tư biết rõ giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ không thay đổi. Đô-la hóa có thể còn là yếu tố thu hút khách du lịch, giúp việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ của khách du lịch nước ngoài được dễ dàng. 2.4.4.2 Tiêu cực
Về mặt điều hành tiền tệ, đô-la hóa có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ (do Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn định) giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ thống ngân hàng vì NHNN không thực hiện được vai trò “Người cho vay cuối cùng” của mình.
Tình trạng đô-la hóa gây khó khăn cho việc ổn định trở lại thị trường ngoại tệ do đô-la hóa làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ. Bên cạnh đó, đô-la hóa làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối, mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ phòng ngừa rủi ro khi đồng đô-la Mỹ biến động bất thường. Ngoài ra, việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán tiền mua hàng hóa do các cửa hàng áp dụng tỷ giá không thống nhất.
30
Nền kinh tế càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng đô-la trên thế giới, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu, thép… ngành xuất khẩu đã chịu tác động trực tiếp trước tiên, giá giảm dẫn đến xuất khẩu giảm kéo theo nền kinh tế phát triển chậm lại.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Phần 3
CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HÓA
3.1 QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, CHÍNH PHỦ VÀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC TRONG VẤN ĐỀ ĐÔ LA HÓA:
Đô-la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể xoá bỏ hay giảm triệt để ngay được.
Đảng, Chính phủ và ngân hàng Trung ương đã chủ trương phải xoá bỏ đô-la hóa trong nền kinh tế - xã hội nước ta, phải thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Xoá bỏ đô la hóa không có nghĩa là xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay, cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân vào hệ thống Ngân hàng, từ đó đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế xã hội, thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ vốn đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế.Nói như vậy, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hóa ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hóa, nhất quyết phải có các giải pháp hành chính – kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hóa. Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 8) trong phần đề cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam".
3.2 MỤC TIÊU THỰC HIỆN ĐẾN NĂM 2010
Căn cứ định hướng phát triển kinh tế của Đảng, yêu cầu của lộ trình hội nhập quốc tế trên cơ sở những yếu tố kinh tế cơ bản tương đối ổn định như tốc độ tăng trưởng, kiểm soát tỷ giá và lạm phát, dự trữ ngoại hối liên tục tăng, trong giai đoạn từ 2007 - 2010, chúng ta cần đề ra mục tiêu thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND trong nước, tạo cơ sở để nâng cao tính chuyển đổi quốc tế của VND và khắc phục việc sử dụng ngoại tệ ở trong nước. Cụ thể như sau: Nâng cao tính chuyển đổi của VND
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, việc nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế. Với xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư, đồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết kinh tế trong nước với quốc tế, hỗ trợ, thúc đẩy 31 Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
kinh tế đối ngoại phát triển, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như tạo vị thế cho quốc gia trên thị trường quốc tế. Đồng tiền có tính chuyển đổi cao cũng sẽ làm giảm hiện tượng đô la hóa, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.
Tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam. Tăng cường, nâng cao chất lượng dịch vụ , các tiện ích ngân hàng, đặc biệt là hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế. Thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND ở trong nước, tạo cơ sở để nâng
cao tính chuyển đổi quốc tế của VND trong tương lai, với các mục tiêu cụ thể là: - Tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, bước đầu xây dựng cơ chế để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu.
- Tiếp tục tự do hoá có lựa chọn các giao dịch vốn. Bước đầu cho VND tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Khắc phục từng bước tình trạng ĐLH
Do tình trạng ĐLH chưa thể khắc phục triệt để ngay trong thời gian ngắn, hơn nữa, trong giai đoạn này, ĐLH cũng còn phát huy được một số mặt tích cực của nó nên sẽ khắc phục từng bước hiện tượng ĐLH, cụ thể là: - Nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về quản lý ngoại hối. Thu hẹp tiến tới xoá bỏ việc niêm yết, định giá, thanh toán bằng ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ trái phép. - Xoá bỏ chế độ thanh toán bằng ngoại tệ trong nước. - Có biện pháp thu hút số ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng. - Xoá bỏ các chính sách gây tâm lý đô la hoá.
3.3 CÁC GIẢI PHÁP: 3.3.1 Giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ trong dân chúng
- Giải pháp cơ bản là nâng cao sức mạnh kinh tế, kiến tạo lòng tin đối với đồng nội tệ Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND từ đó chuyển từ tiền gửi bằng ngoại tệ sang VNĐ và giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ. Việc tạo lòng tin về một mức lạm phát ổn định và một tỷ giá ngoại hối linh hoạt là điều vô cùng quan trọng. Nếu không, với những biến động của lạm phát, sự kiểm soát tỷ giá tạo ra khoảng cách giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen sẽ làm cho công chúng luôn lo sở rủi ro về tỷ giá và lạm phát cao.
- Cần sử dụng các công cụ tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho VND hấp dẫn hơn USD. Ví dụ như làm cho lãi suất tiền gửi bằng đồng USD trở nên kém hấp dẫn, có thể thông qua việc đưa ra mức lãi suất trần. Bên cạnh đó là việc nâng lãi suất tiền gửi bằng VND. Chính phủ cần ban hành quy định VND là tiền tệ giao dịch hợp pháp duy nhất. Đồng thời áp dụng những biện pháp hành chính mạnh đối với những nơi vi phạm quy định yết giá...
32
Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp. Cần có quy chế rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là sở hữu ngoại tệ hợp
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
pháp chuyển từ nước ngoài vào; không cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ở chợ đen, rồi biến số đó thành sở hữu riêng. 3.3.2 Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có
Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực...
khuyến khích sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế.
Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng
hóa các danh mục đầu tư trong nước.
Phát triển thị trường trái phiếu bằng cách mở rộng phát hành trái phiếu ngoại
tệ ở trong nước, huy động vốn đô-la ở trong dân để thu hút ngoại tệ tiền mặt. 3.3.3 Các giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng.
- Nâng cao tính chuyển đổi của Việt Nam Đồng, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ tín dụng. Tháo gỡ một số rào cản giao dịch vãng lai như xoá bỏ giấy phép mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cá nhân khi đi học tập, du lịch, chữa bệnh; xoá bỏ giấy phép chuyển ngoại tệ mặt ra nước ngoài của các tổ chức tín dụng...
Ngày 4/7/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 98/2007/QĐ- TT phê duyệt Đề án Nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục hiện tượng Đô la hoá trong nền kinh tế. Đây là một chủ trương lớn của Chính phủ trong việc xử lý hai vấn đề quan trọng liên quan đến tăng trưởng kinh tế bền vững, đó là nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền và khắc phục hiện tượng Đô la hoá, nhằm từng bước thực hiện mục tiêu “Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam”.
33
Nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam (VND), khắc phục hiện tượng Đô la hoá là những nội dung có quan hệ mật thiết với phát triển kinh tế, trong đó, phát triển kinh tế vừa là nền tảng, vừa là mục đích chính, còn nâng cao tính chuyển đổi của VND và khắc phục hiện tượng Đôla hoá sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Mối quan hệ này đã được Đảng nhận thức và ghi vào các văn kiện Đại hội. Nghị quyết Đại hội VIII đề ra “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững”, đồng thời chỉ đạo “tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt nam, thu hẹp việc sử dụng ngoại tệ trong nước”. Nghị quyết Trung ương 4 Khoá VIII yêu cầu “Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng đồng Việt Nam”. Nghị quyết Đại hội IX xác định mục tiêu chiến lược “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” với quan điểm “coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm”, và tiếp tục yêu cầu “nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam”, cụ thể trong giai
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
đoạn 2001-2005 là “từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, trước hết là đối với những tài khoản vãng lai”.
Trước hết và quan trọng nhất, để người dân có niềm tin vào VND ở tầm vĩ
Có thể nói nâng cao khả năng chuyển đổi của VND và khắc phục đôla hóa là hai mặt của quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện hội nhập. Nâng cao tính chuyển đổi của VND ngay trong chính quốc gia để người dân, doanh nghiệp có lòng tin vào VND. Đây cũng là quá trình tiến tới mục tiêu chỉ sử dụng VND trên lãnh thổ Việt Nam, có thể đề xuất các giải pháp sau:
Thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ so với hiện nay, trừ trường hợp cho vay để nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên liệu, bán thành phẩm... phục vụ xuất khẩu. Hiện nay,việc cho vay ngoại tệ với những dự án thực chất chỉ cần VND không chỉ làm tăng mức độ đôla hóa mà còn gây rủi ro cho tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Khuyến khích các cá nhân tại Việt Nam nhận kiều hối bằng VND. NHNN
mô cần ổn định và phát triển kinh tế bền vững, tỷ lệ lạm phát thấp.
Kiểm soát chặt chẽ việc niêm yết quảng cáo bán hàng bằng ngoại tệ và dần
dự kiến tỷ lệ này dự kiến năm 2008 là 10% và năm 2010 là 30%.
Về lâu dài, cần nâng cao tỷ lệ dự trữ đối với tài khoản tiền gửi bằng đô la,
dần tiến tới cấm việc bán hàng và dịch vụ trong nước niêm yết giá và thu bằng ngoại tệ đối với tất cả mọi đối tượng trong nền kinh tế. Điều này muốn thực hiện được đòi hỏi phải có sự phối hợp tất c ả các ban ngành từ công an, bộ văn hóa thông tin đến ngân hàng nhà nước.
cũng như làm giảm hiện tượng đôla hóa dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng.
34
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, có những chuyển biến theo xu hướng hội nhập và liên tục đạt mức tăng trưởng khá cao. Đồng thời, Chính phủ cũng đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực để tăng tính chuyển đổi của VND và khắc phục hiện tượng Đôla hoá. Kết quả là niềm tin vào VND của người dân cũng như các nhà đầu tư nước ngoài đã được củng cố, quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường bớt căng thẳng, mục tiêu trên lãnh thổ Việt nam chỉ sử dụng đồng tiền Việt nam đã có những cơ sở hiện thực. Tuy nhiên, tính chuyển đổi của VND vẫn bị đánh giá là thấp và hiện tượng Đôla hoá còn chưa được khắc phục một cách cơ bản. Kinh nghiệm của các nước cho thấy giải quyết những vấn đề như vậy hoàn toàn không phải là công việc dễ dàng, có thể thực hiện trong một thời gian ngắn. Vì vậy việc đề ra một hệ thống các giải pháp tổng thể, có sự tham gia của các Bộ ngành liên quan dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ để thực hiện các mục tiêu đề ra là biện pháp khả thi nhất. Chính sách tiền tệ: Thực hiện từ năm 2007 đến năm 2010 .Chính sách tiền tệ phải đảm bảo ổn định tương đối giá trị của đồng tiền, lấy kiểm soát lạm phát làm mục tiêu. Xây dựng hệ thống lãi suất chủ đạo của Ngân Hàng Nhà Nước để định
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
hướng lãi suất thị trường. Chú trọng đến việc phối hợp giữa chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá để đảm bảo cân bằng lợi tức giữa việc nắm giữ VND và ngoại tệ. Chính sách tỷ giá: Thực hiện từ năm 2007 .Tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, tương đối ổn định theo một “Rổ tiền tệ”, hướng vào mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh 5 bước để tăng thêm tính linh hoạt của tỷ giá.Tự do hoá việc chuyển đổi giữa các ngoại tệ mạnh; Tự do hoá các điểm kỳ hạn; Cho phép áp dụng nghiệp vụ quyền chọn giữa VND với ngoại tệ; Nới rộng dần biên độ tỷ giá giao ngay; Tự do hoá mức phí trong nghiệp vụ quyền chọn giữa VND và ngoại tệ.Phát triển mạnh các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường ngoại hối phù hợp với thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân được tham gia thị trường ngoại tệ một cách công khai, dễ dàng nhằm thực hiện mục tiêu là dịch vụ hoá cao độ các nghiệp vụ hối đoái, bình thường hoá vai trò và ảnh hưởng của ngoại tệ.Đổi mới về chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá nhiều hơn.
Tỷ giá ngang giá nên gắn với 1 rổ tiền tệ bao gồm một số ngoại tệ mạnh thay vì chỉ gắn với USD nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào Đô la Mỹ.Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ, chính sách lãi suất phải nhằm mục đích tạo ra và duy trì được một chênh lệch lãi suất dương giữa tiền gửi VND và USD, qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ.
Phát triển mạnh lưới các mạng lưới các quầy thu đổi ngoại tệ rộng khắp. Từ năm 2003, chính phủ Việt Nam cũng đã bắt đầu huy động thu hút nguồn vốn ngoại tệ trong xã hội bằng cách phát hành trái phiếu ngoại tệ (Căn cứ vào Quyết định số 155 và 156/2003/QÐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ và đồng VN) để tập trung phát triển các công trình trọng điểm quốc gia. Đây có thể là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất thu hút lượng ngoại tệ tiền mặt trôi nổi không quản lý được trong dân cư, ngoài ra biện pháp này còn giúp nhà nước giảm việc đi vay vốn nước ngoài, chịu rủi ro về tỷ giá, làm gia tăng gánh nặng vay nợ nước ngoài của Việt Nam.
Thu hút tiền mặt ngoại tệ trong dân cư, thà chấp nhận đô la hóa tiền gửi và dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng, Nhà nước còn quản lý chặt chẽ được, còn hơn là để trôi nổi trong dân:
Giao dịch vãng lai: Thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai theo Điều khoản
Xoá bỏ hạn mức tuyệt đối trên một số khoản chuyển tiền vãng lai của cá
VIII Điều lệ IMF (đã thực hiện từ năm 2006):
Xoá bỏ hạn mức tuyệt đối đối với việc thoái hối của người không cư trú
nhân ra nước ngoài (2007).
Xoá bỏ giấy phép mua, chuyển, mang ngoại tệ của cá nhân ra nước ngoài
(2007).
35
với các mục đích học tập, du lịch, chữa bệnh... (2007).
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Xoá bỏ giấy phép chuyển ngoại tệ tiền mặt ra nước ngoài của Tổ chức tín
Tạo điều kiện cho VND tham gia quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu (2007). Giảm dần hạn chế mang VND ra, vào lãnh thổ (2007). Đảm bảo đáp ứng ngoại tệ đầy đủ cho các giao dịch được phép (2007 -
dụng (2007).
2010). Giao dịch vốn: Xoá bỏ quy định doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài phải
Nghiên cứu khả năng cho doanh nghiệp Việt Nam là người cư trú vay nước
có ý kiến trước của Ngân Hàng Nhà Nước (2007).
Cho phép cá nhân là người cư trú được vay trả nợ nước ngoài (2007). Xoá bỏ hạn chế về ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước
ngoài bằng VND (2007).
Đảm bảo đáp ứng ngoại tệ đầy đủ cho các giao dịch được phép (2007 -
ngoài (2007).
Nâng dần tỷ lệ được phép huy động VND của ngân hàng nước ngoài áp dụng chung tương tự với cam kết của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2007 - 2010).
Đa dạng hoá các hình thức vay nước ngoài (2007). Xem xét cho các doanh nghiệp được phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài khi
2010).
đủ điều kiện (2007).
Các biện pháp quản lý việc sử dụng ngoại tệ trong nước: Tăng cường thể chế pháp lý bằng cách luật hoá các quy định về quản lý
Xoá bỏ giấy phép hoạt động kiều hối và giấy phép lập bàn thu đổi ngoại tệ,
ngoại hối (đã thực hiện từ năm 2006).
Xoá bỏ chế độ thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam của các đối
chuyển sang kinh doanh có điều kiện (2007).
Thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ, chỉ cho vay phục vụ xuất khẩu
tượng (2007).
Tiếp tục thu hút ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống ngân hàng. Áp dụng các giải pháp kinh tế để chuyển dần quan hệ huy động - cho vay trong nước bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng sang quan hệ mua - bán ngoại tệ. Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hạ thấp dần tỷ lệ FCD/M2 (2007 - 2010)
Tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước: Hạn chế sử dụng dự trữ ngoại hối cho các nhu cầu chi của ngân sách nhà nước. Phấn đấu tăng dự trữ lên trên 18 - 20 tuần nhập khẩu (2006 - 2010).
(2007).
36
Các giải pháp bổ sung để tăng cường sự thuận lợi khi sử dụng VND Phối hợp với các cơ quan quản lý thực hiện nguyên tắc mọi giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam đều sử dụng VND, kể cả cửa hàng miễn thuế, trao giải thưởng,
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
các khoản thuế, phí và lệ phí, thu của các cơ quan ngoại giao và các người không cư trú khác (2007).
Tăng cường các dịch vụ, tiện ích ngân hàng sử dụng VND, đặc biệt là hệ
Nghiên cứu việc đổi mới mệnh giá của VND theo hướng tạo thuận tiện trong
thống thanh toán không dùng tiền mặt (2007 - 2010).
Áp dụng các giải pháp để phát triển thị trường vốn bằng VND (2007 - 2010). Tính toán lượng ngoại tệ cần giữ lại cho Quỹ ngoại tệ tập trung để chi tiêu phù hợp với Luật Ngân sách và xác định các nguyên tắc cơ bản trong việc bán ngoại tệ cho NHNN (Dự trữ ngoại hối Nhà nước) (2007).
Giảm và tiến tới xoá bỏ danh mục ưu tiên bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu trên cơ sở đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp (2008).
Cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND tham gia góp vốn đầu tư trực
sử dụng (2008).
Giảm và tiến tới xoá bỏ các quy định về cân đối ngoại tệ đối với doanh
tiếp tại Việt Nam để người nước ngoài chấp nhận VND trong thanh toán (2008).
Tăng cường công tác chống buôn lậu ở khu vực biên giới (2007).
nghiệp FDI (2008).
Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt được xác định trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nhằm giảm bớt khoảng cách tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường “chợ đen”.
Một khi đã thực hiện được nâng cao tính chuyển đổi của VND thì sẽ giảm lượng ngoại tệ trong xã hội do người dân tin tưởng vào VND hơn. Nhưng để nâng cao tính chuyển đổi của VND là việc làm không thể thực hiện một sớm một chiều. Và nếu thu hút vốn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng phát sinh mâu thuẫn đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa nguồn vốn cho vay của ngân hàng, điều này tạo ra rủi ro rất lớn trong hệ thống tài chính ngân hàng khi có biến động tỷ giá, lãi suất khủng hoảng kinh tế xảy ra. Do đó ở tầm vĩ mô vấn đề đặt ra là làm sao có thể thu hút tối đa vốn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng , vừa tận dụng tối đa nguồn ngoại tệ này để phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam chưa hoàn toàn tự do hóa tài chính, do đó Việt Nam cần tận dụng thời gian này để giảm đôla hóa xã hội, phát triển kinh tế và thiết lập dự trữ ngoại hối đủ mạnh.Với nguồn vốn ngọai tệ huy động được các tổ chức tài chính ngân hàng tiến hành cho vay đầu tư có hiệu quả cho các dự án trọng điểm, quan trọng của quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh xuất khẩu hiệu quả, điều này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế và tạo số đông việc làm cho người lao động
37
- Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Các doanh nghiệp trong nước khác vay ngân hàng thương mại trong nước đều thực hiện bằng đồng bản tệ, khi cần ngoại tệ để thanh toán quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
hối đoái để mở LC thanh toán. Nâng tỉ lệ vốn dự trữ bằng USD bắt buộc trong các ngân hàng. Đồng thời phải giảm số USD dự trữ và thay thế chúng bằng những đồng tiền khác mạnh hơn, như đồng euro hay nhân dân tệ, yên Nhật... Một số giao dịch vốn cũng cần được nới lỏng hoặc xoá bỏ, như: xoá bỏ quy định doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến trước của Ngân hàng nhà nước; xoá bỏ chế độ thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ tại Việt Nam. 3.3.4 Hạn chế dần đến xóa bỏ tự do sử dụng Đô-la hóa trên lãnh thổ Việt Nam - Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép, trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ.
Hạn chế việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động... bằng ngoại tệ tiền mặt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam.
Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đô-la Mỹ, niêm yết giá bằng đô-la Mỹ trên thị trường Việt Nam. Giá bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn... chỉ được niêm yết bằng VND.
Ở nước ta, kinh tế ngầm không thể kiểm soát như các nước khác thì tiền mặt bằng ngoại tệ được sử dụng để "bỏ phong bì" là một con số đáng kể. Do đó, giảm tham nhũng đôi khi lại là một giải pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng đô-la hóa của nền kinh tế.
38
***** Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô-la hóa thành công là một tiền để cần thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới. và sự tự do hóa giao dịch tài khoản vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô-la hóa là việc làm rất khó khăn. Để làm được cần phải có thời gian và quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô-la hóa trên thị trường Việt Nam không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô-la hóa thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ.
Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
Tài Chính Quốc Tế
Nhóm 7
Danh mục tài liệu tham khảo 1. Pháp lệnh Quản lý ngoại hối số 28/2005/PLUBTVQH11 ban hành ngày
13/12/2005.
2. Chính Phủ, Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về Quản lý ngoại hối ban
hành ngày 7/8/1999.
3. Chính phủ, Nghị định số 131/NĐ-CP về Quản lý ngoại hối ban hành
ngày 18/10/2005.
4. Hội đồng Chính phủ, Nghị định số 102/CP về Quản lý ngoại hối nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày 6/7/1963.
5. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 37/1998/QĐ-TTg về một số biện
pháp quản lý ngoại tệ ban hμnh ngμy 14/02/1998.
6. Hội đồng Bộ trưởng, Nghị dịnh số 161/HĐBT về quản lý ngoại hối ban
hành ngày 18/10/1988.
7. Lê Phan Thị Diệu Thảo (2002), Biện pháp góp phần nâng cao và hiệu
quả quản lý ngoại hối ở Việt Nam, luận án tiến sĩ.
8. Lê Văn Hải (2005), “Tình trạng Đô la hóa ở Việt Nam và những biện pháp cần khắc phục”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số tháng 03/2005, tr.36-41.
9. Hoàng Công Gia Khánh (2008) , “Đô la hóa và các vấn đề liên quan”, cập nhật ngày 09/05/2008, tại http://sinhviennganhang.com/dienda n/archive/index.php /t-7879.html.
10.Thủy Triều (2009), “Xu hướng tiền gửi ngoại tệ mạnh”, cập nhật ngày tại http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/ ngan
19/01/2009, hang/14530.
11.Tổng hợp tài liệu từ Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Sbv.gov.vn
39
12.Tài liệu tổng hợp từ Website Tổng cục Thống kê: Gso.gov.vn 13.Tổng hợp các tài liệu từ Website: Saga.vn