
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP.HCM
KHOA LUẬT KINH TẾ
----- -----
Bài tiểu luận môn Luật Kinh Tế
Tên đề tài:
GVHD : Dương Mỹ An
SVTH : Hồ Hoàng Yến (MSSV: 106204349)
Huỳnh Duy Tân (MSSV: 106209033)
Đồng Văn Tiến (MSSV: 106208242)
Lớp : CK2 - Khóa 32
Vai trò của Luật trong sự phát
triển của thị trường
CHỨNG KHOÁN

TP.HCM, tháng 6 năm 2008
Nhận xét của giáo viên:
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………
2

Trang
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT ĐỐI
VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN....................................................1
I. Sự ra đời của Luật Chứng khoán................................................................1
1) Nguyên nhân.............................................................................................1
2) Sự ra đời....................................................................................................1
II. Vai trò của Luật đối với thị trường Chứng khoán.....................................3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM...................................................................................................4
I. Yêu cầu của nền kinh tế đối với Luật Chứng khoán.............................5
II. Những tác động của Luật Chứng khoán đến thị trường sau một
năm thực hiện...............................................................................................5
III. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng Luật Chứng khoán..7
IV. Sự điều tiết của Chính phủ đối với thị trường Chứng khoán...................9
1) Các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá tính hiệu quả của Luật Chứng khoán 9
2) Quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Luật Chứng khoán.....................16
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ HIỆU QUẢ CỦA LUẬT ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN........................................................................................17
I. Một số thiếu sót..........................................................................................17
II. Dự thảo Luật.............................................................................................18
3

CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT
ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. Sự ra đời của Luật Chứng Khoán :
1) Nguyên nhân :
Báo cáo của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, thị trường chứng
khoán Việt Nam hiện nay đã có hơn 28.000 tài khoản chứng khoán, tăng hơn
8 lần so với năm đầu mở cửa thị trường, trong đó có 246 nhà đầu tư có tổ
chức và 251 nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những yếu tố tích cực, hoạt
động thị trường chứng khoán cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Nguyên nhân
chính là do các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở Nghị định,
chưa điều chỉnh được toàn diện hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì
vậy, nhất thiết phải có một văn bản pháp lý cao hơn để tạo cơ sở pháp lý cho
thị trường chứng khoán phát triển.
2) Sự ra đời :
Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức
Kiên, mục đích ban hành Luật Chứng khoán để tạo kênh huy động vốn trung
và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, cùng với việc tạo khung pháp lý đầy đủ
về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cũng phải bảo đảm sự
đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc
biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh
doanh bảo hiểm... Mặt khác, xây dựng Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho thị
trường chứng khoán phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các
tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán
và bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; giúp công chúng dễ dàng hiểu
biết về chứng khoán, thị trường chứng khoán và có cơ sở pháp lý để công
chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Đồng thời, giúp việc phân định rõ
vai trò của từng thị trường vốn trung hạn, dài hạn và ngắn hạn trong cơ cấu thị
trường tài chính; bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy
động vốn trên thị trường chứng khoán, giảm gánh nặng trong việc dùng vốn
ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay và góp phần tăng
4

cường tính công khai, minh bạch trong cộng đồng các doanh nghiệp và cả nền
kinh tế. Đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập,
đặc biệt là các cam kết về hệ thống pháp luật phục vụ quá trình đàm phán gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Uỷ ban Kinh tế và ngân sách cho rằng, hoạt động chứng khoán là hoạt
động kinh doanh có điều kiện; do vậy trên cơ sở Luật Doanh nghiệp, Luật
Chứng khoán phải quy định cụ thể các điều kiện để được cấp phép hoạt động.
Các điều kiện cơ bản phải có gồm: cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán; có vốn pháp định; người hoạt động kinh doanh
chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Về thủ tục thành lập mới, nội dung
giấy phép, nội dung điều lệ... cần dẫn chiếu Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng
khoán chỉ nên quy định những đặc thù riêng của hoạt động chứng khoán. Các
cụm từ sử dụng trong dự thảo Luật Chứng khoán như: đăng ký, chấp thuận,
xin phép thành lập... cần thể hiện rõ ràng dưới hình thức là văn bản và đều
phải có thời hạn, quy định rõ thời hạn tối đa phải trả lời. Trường hợp kéo dài
thì cần quy định không quá một thời gian nhất định. Cần rà soát lại các quy
định này theo nguyên tắc; phải cải cách hành chính mạnh mẽ nhưng đối với
lĩnh vực mới, hoạt động kinh doanh có điều kiện như lĩnh vực chứng khoán
thì phải bảo đảm các yêu cầu kiểm soát của Nhà nước.
Để thị trường chứng khoán hoạt động nề nếp, quy cũ... nhất thiết phải xác
định cụ thể địa vị pháp lý của Uỷ ban Chứng khoán ngay trong Luật. Việc xác
định rõ mô hình tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán là rất quan trọng, chi phối
nhiều quy định trong Luật. Có thể tóm gọn 3 loại mô hình cơ quan quản lý về
chứng khoán. Thứ nhất, Uỷ ban Chứng khoán là cơ quan của Chính phủ hay
tổ chức dưới dạng Hội đồng trực tiếp báo cáo lên Thủ tướng, hoàn toàn độc
lập trong chỉ đạo, điều hành hoạt động chứng khoán và thị trường chứng
khoán, có quyền thanh tra, giám sát thị trường, điều tra và xử lý các vi phạm.
Thứ hai, Uỷ ban Chứng khoán được tổ chức như một Hội đồng, có một số
thành viên gồm Bộ trưởng Bộ Tài chính, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước, Thứ trưởng Bộ Thương mại và một số chuyên gia kinh tế, tài chính...
Giúp việc cho Hội đồng này là một Văn phòng Uỷ ban Chứng khoán. Thứ ba,
Uỷ ban Chứng khoán trực thuộc Bộ Tài chính hoặc một Bộ nào đó. Nhìn từ
thực tiễn, mô hình tổ chức, hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ở
Việt Nam chia làm 2 giai đoạn: từ 1997 đến tháng 3/2004, Uỷ ban chứng
khoán nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ; từ tháng 3/2004 đến nay, Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính. Được sự hỗ trợ trực tiếp, thường
xuyên của Bộ Tài chính, cùng với việc kết hợp thực hiện chính sách cổ phần
5