intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu Tâm lý học phát triển

Chia sẻ: Physical Funny | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:272

1.129
lượt xem
379
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của cái cách giáo dục ở bậc đại học, tránh lặp lại những vấn đề đã được đề cập đến ở nhiều Tài liệu khác, cố gắng gợi mở cho sinh viên hướng suy nghĩ về vấn đề được đặt ra, đồng thời cung cấp khối lượng kiến thức tối thiểu cần thiết cho sinh viên về tâm lý học phát triển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu Tâm lý học phát triển

  1. TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN Tác giả: Vũ Thị Nho MỞ ĐẦU Mọi sự vật của tự nhiên, xã hội cùng với con người luôn luôn vận động, biến đổi. Đời sống tâm lý một con người, một nhóm hay một cộng đồng người cũng luôn luôn vận động, biến đổi, nghĩa là luôn luôn phát triển. Tâm lý học không thể không nghiên cứu quá trình đó của tâm lý con người trên cả bình diện cá thể cũng như các nhóm lứa tuổi từ lúc nảy sinh, hình thành, phát triển và tàn lụi. Do những đòi hỏi của thực tiễn giáo dục trẻ em, việc nghiên cứu sự phát triển tâm lý của con người ra đời khá sớm và cho đến nay nó đã tích lũy được những thành tựu về lý luận và thực tiễn khá phong phú. Nhờ đó Tâm lý học phát triển có ý nghĩa rất lớn trong quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ nói riêng cũng như đối với con người nói chung.
  2. Dựa trên những thành tựu cơ bản của tâm lý học phát triển mà thế giới đã thu được, giáo trình "Tâm lý học phát triển" này tổng hợp, hệ thống, khái quát những vấn đề về sự vận động, biến đổi, phát triển tâm lý của con người theo các giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Trên cơ sở đó tìm ra những đặc điểm, những động lực, những qui luật, những con đường hình thành và phát triển đặc thù của sự phát triển tâm lý con người. Từ đó cung cấp cho người học những tri thức khoa học cơ bản về tâm lý học phát triển, nhằm hiểu biết tâm lý con người và vận dụng sự hiểu biết đó vào mọi hoạt động của cuộc sống cá nhân cũng như cộng đồng theo phương châm "hiểu mình, biết người". Nhờ đó con người biết sống có tình, có lý, có văn hóa và hạnh phúc. Giáo trình này được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách giáo dục ở bậc đại học, tránh lặp lại những vấn đề đã được đề cập đến ở nhiều cuốn sách khác, cố gắng gợi mở cho sinh viên hướng suy nghĩ về vấn đề được đặt ra; đồng thời cung cấp khối lượng kiến thức tối thiểu cần thiết cho sinh viên về tâm lý học phát triển.
  3. Tâm lý con người rất đa dạng và phức tạp. Vì vậy, giáo trình này khó có thể tránh được những sai sót nhất định. Tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của độc giả xa gần để giáo trình này ngày càng hoàn thiện hơn. VŨ THỊ NHO Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN Chương 2: SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ EM TỪ 0 ĐẾN 6 TUỔI Chương 3: SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở TUỔI HỌC SINH NHỎ (Từ 7 đến 12 tuổi) Chương 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TUỔI THIẾU NIÊN Chương 5: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA HỌC SINH ĐẦU TUỔI THANH NIÊN Chương 6: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA THANH NIÊN SINH VIÊN (từ 19 đến 25 tuổi) Chương 7: NHỮNG NÉT TÂM LÝ ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH VÀ NGUỜI GIÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO Created by AM Word2CHM
  4. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN II. CÁC NHÂN TỐ VÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ IV. GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ V. SỰ PHÂN CHIA CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CÂU HỎI Created by AM Word2CHM
  5. I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN 1. Khái niệm phát triển tâm lý Nói đến phát triển, nhiều khi người ta chỉ quan tâm đến những kết quả cuối cùng của một giai đoạn hoặc một quá trình nào đó thể hiện ở hình thức bề ngoài hoặc hành vi cá nhân. Xem xét sự phát triển như vậy là thiếu biện chứng và phiến diện, dễ dẫn đến sai lầm. Trên thực tế, sự phát triển tâm lý của mỗi cá nhân hoặc một nhóm người nào đó bao giờ cũng diễn ra trong một quá trình: từ sự phát sinh, hình thành, phát triển đến tàn lụi; từ mức độ này đến mức độ khác; từ hình thái này đến hình thái khác. Đó là quá trình vận động, biến đổi của một thực thể. Nó bao hàm hàng loạt thay đổi có sự ràng buộc bên trong với nhau, có lúc từ từ, tiệm tiến, có lúc nhảy vọt, nhưng cũng có lúc dẫm chân tại chỗ, thậm chí thụt lùi lạm thời. Đó là một quá trình phức tạp như phép duy vật biện chứng đã khẳng định.
  6. V.I.Lênin viết: "Phát triển là sự giảm đi và tăng lên, là sự lặp đi, lặp lại, là sự thống nhất giữa các mặt đối lập" (cái thống nhất, gồm có 2 mặt: mặt đối lập loại trừ lẫn nhau và mặt quan hệ giữa chúng với nhau). Tuy nhiên tính chất chung của sự phát triển là một quá trình có chiều hướng tích cực, đi lên nhằm tạo ra cái mới ở mức độ ngày càng cao hơn, phức tạp hơn, phong phú và tinh tế hơn so với cái cũ. Quá trình phát triển tâm lý của con người đi từ cái chưa bị phân hóa đến cái bị phân hóa. Từ chỗ phân hóa rồi lại tích hợp lại thành các yếu tố, các bộ phận để tạo thành một cơ cấu mới với những phẩm chất, đặc điểm mới. Những phẩm chất và đặc điểm này qui định bộ mặt tâm lý của từng giai đoạn, từng độ tuổi trong quá trình phát triển. Tâm lý của mỗi cá thể, mỗi nhóm tuổi được phát triển như là một hệ thống phức tạp nhất của những cơ cấu khác nhau (nhận thức, tình cảm, trạng thái, hành vi, v.v...) có liên quan, tác động phụ thuộc lẫn nhau. Những cơ cấu đó được sắp xếp theo một thứ bậc để đảm bảo cho hoạt động bên trong và bên ngoài của con người. Ví dụ: lúc mới sinh, đứa trẻ hoạt động
  7. là do những nhu cầu sơ đẳng nhất của cơ thể đòi hỏi. Những nhu cầu đó được người lớn thỏa mãn nên không bao lâu sau những nhu cầu thứ cấp được hình thành. Tiếp đến là những tình cảm, hứng thứ, động cơ mới xuất hiện. Những nhu cầu, động cơ mới này một mặt thúc đẩy hoạt động của đứa trẻ, mặt khác ngày càng được phát triển trong nhân cách của nó. Nghĩa là đứa trẻ được phát triển theo chính những cơ chế phức tạp, đan xen, hòa quyện vào nhau một cách biện chứng. Phát triển tâm lý chính là sự phát triển các cơ chế ngày càng phức tạp, tinh vi của những nhu cầu, động cơ, hoạt động, hành động của con người từ mức độ này đến mức độ khác, phù hợp với những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Từ những phân tích trên chúng tôi định nghĩa: Phát triển tâm lí là một quá trình bao gồm từ sự phát sinh, hình thành. Phát triển của những yếu tố, những quá trình, những thuộc tính, những trạng thái tâm lí của mỗi cá thể, từ đơn giản đến phức tạp, từ chỗ chưa bị phân hóa đến chỗ bị phân hóa theo những qui luật có liên quan, tác động phụ thuộc lẫn nhau tạo thành những đặc điểm tâm lý khác nhau theo giai đoạn. Đó là một hoạt động có tính hệ thống được sắp xếp có
  8. tính thứ bậc và ngày càng tinh tế, tạo ra những đặc điểm đặc trưng cho mỗi thời kỳ, mỗi lứa tuổi khác nhau, đảm bảo cho con người sống, hoạt động và phát triển với tư cách là một chủ thể có ý thức của xã hội. Khi nói đến khái niệm phát triển, người ta thường hay đề cập đến các khái niệm có sự liên quan như tăng trưởng, chín muồi. Tăng trưởng là khái niệm đề cập đến sự gia tăng về số lượng (chiều dài, dung tích, khối lượng...) của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: sự gia tăng về chiều cao, cân nặng, sự tăng lên của tế bào thần kinh, sự tăng lên về số lượng tế bào cảm giác của trẻ em trong năm thứ nhất v.v... Còn chín muồi được dùng khi sự tăng trưởng đạt đến "độ". Ví dụ: "Trăng đến rằm trăng tròn". Ông cha ta thường nói: "Nữ thập tam, nam thập lục để chỉ sự chín muồi về mặt sinh học (sự dậy thì) của con người. Nói đến phát triển là nói đến sự thay đổi chuyển hóa về mặt chất lượng, nói đến một trình độ mới khác về chất so với cái cũ. Chẳng hạn sự phát triển tâm lý của con người, đi từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tư duy v.v... Tri giác là một trình độ khác về chất so với cảm giác; tư duy là trình độ mới khác về chất so với
  9. tri giác v.v... Quan hệ giữa tăng trưởng, chín muồi với phát triển là quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Tăng trưởng, chín muồi dẫn đến sự tăng trưởng về chất (phát triển); chất lượng mới lại tạo tiền đề cho sự tăng trưởng và chín muồi ở mức cao hơn. Đó là mối quan hệ biện chứng có tính nhân quả của sự vật, hiện tượng. Sự phát triển tâm lý của con người được vận động cũng không ngoài quy luật đó. 2. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học phát triển a. Đối tượng Tâm lý học phát triển là một trong những chuyên ngành cơ bản, quan trọng của tâm lý học. Đối tượng nghiên cứu của nó là những động lực, điều kiện, những qui luật phát triển, những sự biến đổi của các quá trình, các thuộc tính, các phẩm chất tâm lý trong sự hình thành nhân cách con người với tư cách là một thành viên của xã hội, theo sự trưởng thành của lứa tuổi. b. Tâm lý học phát triển bao gồm các ngành sau * Tâm lý học trong thời kỳ bào thai (còn gọi là
  10. thai giáo). Tâm lý học tuổi thơ (tuổi hài nhi). * Tâm lý học trước tuổi đi học (tuổi vườn trẻ). * Tâm lý học học sinh tiểu học. * Tâm lý học tuổi thiếu niên. * Tâm lý học người trưởng thành. * Tâm lý học người già. * Tâm lý học của những em phát triển không bình thường. Tâm lý học phát triển có mối liên quan với nhiều chuyên ngành tâm lý học khác như Tâm lí học đại cương, Tâm - sinh lý học, Tâm lý học nhân cách, Tâm lý học sư phạm... Trong đó mối liên quan giữa Tâm lý học phát triển và Tâm lý học sư phạm (gồm cả dạy học và giáo dục) là chặt chẽ nhất. Giữa hai ngành tâm lý học này có sự tác động qua lại và qui định lẫn nhau một cách rất biện chứng: Tâm lý học phát triển và Tâm lý học sư phạm giống hai đứa con sinh đôi khác trứng của một bào thai. Mối quan hệ giữa hai ngành tâm lý học này đều có chung khách thể nghiên cứu, đó là trẻ em các lứa tuổi. Bởi thế cả hai ngành lâm lý này
  11. tạo thành một thể thống nhất khó tách bạch, dẫn đến tình trạng nhiều khi ranh giới trình bày các vấn đề của Tâm lí học phát triển và Tâm lí học sư phạm trở nên có tính tương đối. Tuy nhiên Tâm lý học pháttriển chủ yếu nghiên cứu động lực, qui luật cũng như các đặc điểm phát triển của con người theo sự trưởng thành của từng giai đoạn. Còn Tâm lý họ (sư phạm ghiên cứu những con đường, những qui luật hình thành của nhận thức, nghiên cứu những vấn đề thuộc về dạy học và giáo dục con người. Theo nghĩa đầy đủ, nghiên cứu sự phát triển tâm lý không phải là nghiên cứu những cái gì đã có sẵn mà là nghiên cứu tâm lý trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng của nó. Blônxki, nhà tâm lý học Nga nổi tiếng đã viết: "Chỉ có thể hiểu được hành vi khi ta hiểu nó như lịch sử hành vi". Nếu Tâm lý học sư phạm nghiên cứu nhằm tìm ra những con đường, những quy luật, những điều kiện giúp con người lĩnh hội nhanh nhất, có chất lượng và hiệu quả nhất nền văn hóa nhân loại, thì Tâm lý học phát triển sẽ nghiên cứu quá trình phát sinh, hình thành, phát triển tâm lý con người trong sự vận động của chính sự tiếp thu, lĩnh hội đó. Ví dụ: chiến lược
  12. hướng vào người học của Tâm lý học sư phạm đề cao nguyên tắc tôn trọng đặc điểm và năng lực của chủ thể (người học) nhằm phát huy tốt nhất tính tích cực hoạt động của người học, giúp họ lĩnh hội một cách chủ động, tự giác hệ thống tri thức, kỹ năng, thái độ, chuẩn mực hành vi được xã hội loài người tích lũy được từ trước đến nay; Chiến lược này đã làm biến đổi, phát triển đời sống tâm lý của người học so với những chiến lược dạy học khác. Sự vận động, biến đổi và phát triển của chiến lược hướng vào người học diễn ra như thế nào, diễn biến ra sao, theo quy luật nào và nó đòi hỏi những điều kiện nào... thì Tâm lý học phát triển phải nghiên cứu. Song, như đã nói ở trên, hai chuyên ngành Tâm lý học sư phạm và Tâm lý học phát triển liên quan rất mật thiết với nhau, tác động qua lại một cách chặt chẽ, biện chứng và hỗ trợ đắc lực cho nhau trong tính độc lập tương đối của nó. Ra đời chủ yếu vào nửa sau thế kỷ XIX, Tâm lý học phát triển coi những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử về phát triển là điểm xuất phát, là kim chỉ nam cho việc nghiên cứu của mình. Chẳng hạn, các qui luật lượng đổi chất đổi, qui luật phủ định của phủ
  13. định, qui luật phát triển không đồng đều của sự vật, hiện tượng... của chủ nghĩa duy vật biện chứng có giá trị soi sáng khi xem xét, nghiên cứu những qui luật phát triển tâm lý trẻ em theo lứa tuổi. Các nhà tâm lý học, giáo dục học lỗi lạc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như K.Đ.Usinxki, I.M.Séchénôv, L.X.Vưgôtxki, X.L.Rubinstêin, A.N.Lêônchicv, J.Piagct, H.Walon v.v... đã có công lớn trong việc xây dựng nền Tâm lý học phát triển. Ngày nay, tâm lý học phát triển đã thu được những thành tựu đáng kể, đã thu thập được một khối lượng tư liệu phong phú. Sự trưởng thành của nó gắn liền với tên tuổi của nhiêu nhà tâm lý học hiện đại ở nhiều nước, đặc biệt nổi bật trong đó là những nhà tâm lý học Liên Xô như B.G.Ananhev, L.I.Bôzhôvic, L.N. Landa, N.A.Menchinskaja, Đ.B. Elkônin v.v... ở Tây âu có thể kể: Luyxiêng, Sevơ Febơrơ, J.Watson, D.Bruner, B.F.Skiner.v.v.... Có thể nêu ra đây vài quan điểm cơ bản mà tâm lý học phát triển lấy làm cơ sở nền tảng cho việc xây dựng và phát triển chuyên ngành của mình. Vào những năm 20, 30 của thế kỷ này,
  14. L.X.Vưgôtxki đã nêu ra nguyên tắc về tính gián tiếp của hoạt động tâm lý người, tính xã hội - lịch sử, tính có ý thức của tâm lý người là những nét khác về bản chất so với tâm lý động vật. Tiếp đó ông nêu ra quan điểm bản chất tâm lý người có nguồn gốc hoạt động. Ông cho rằng hoạt động tâm lý bên trong của trẻ em được xây dựng theo mẫu hoạt động bên ngoài. Kế cận những quan điểm của L.X.Vưgôtxki, X.L.Rubinstêin đã nêu: nguyên lý phát triển là sự thống nhất giữa cái bên ngoài (hiện thực khách quan) tác động thông qua những điều kiện bên trong. Nguyên lý này nêu bật quan điểm phản ánh tâm lý được thực hiện trong quá trình tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, trong đó hoạt động tích cực của chủ thể là khâu trung gian cho tác động của thế giới khách quan. - Phát triển những luận điểm của L.X.Vưgôtxki, A.N.Lêônchiev và các cộng sự đã đưa ra cấu trúc vĩ mô của hoạt động, đưa ra lý thuyết "chuyển vào trong", rồi đến P.Ia.Galperin, Đ.B.Elkônin đã tìm ra cơ chế của việc chuyển hoạt động bên ngoài của chủ thể thành hành động trí tuệ theo giai đoạn. - Những lý luận về phân chia lứa tuổi của
  15. II.Wallon và J.Piaget góp phần làm cơ sở nghiên cứu và làm phong phú cho tâm lý học phát triển mà ta nghiên cứu. Điều lý thú là mặc dù xuất phát điểm nghiên cứu khác nhau, nhiều nhà tâm lý học phát triển Âu, Mỹ cũng đi đến thừa nhận một thành tựu của tâm lý học hiện đại là mỗi hiện tượng tâm lý đều có nguồn gốc từ hành động, hoạt động của con người, đều chứa đựng yếu tố xã hội - lịch sử cao. c. Nhiệm vụ của tâm lý học phát triển Nhiệm vụ của tâm lý học phát triển là nghiên cứu những đặc điểm phát triển của các quá trình tâm lý, những thuộc tính, những phẩm chất nhân cách, những khả năng, điều kiện phát triển theo lứa tuổi cũng như qui luật, những con đường hình thành, phát triển của chúng. Mục đích của việc nghiên cứu đó nhằm phục vụ cho thực tiễn giáo dục trẻ em nói riêng, giáo dục con người nói chung, nhằm phát triển những nhân cách ngày càng hoàn thiện để sống và phát triển hài hòa trong xã hội hiện đại; đồng thời làm phong phú thêm kho tàng lý luận của khoa học giáo dục nói chung, khoa học tâm lý học phát triển nói riêng.
  16. d. Những phương pháp nghiên cứu cơ bản của Tâm lý học phát triển Để nghiên cứu sự phát triển tâm lý của con người, cần phối hợp nhiều phương pháp khác nhau, nhằm hỗ trợ, bổ sung cho nhau vì mỗi phương pháp đều có những điểm mạnh, điểm yếu nhất định. Các phương pháp nghiên cứu tâm lý học phát triển cũng không nằm ngoài những phương pháp nghiên cứu tâm lý học nói chung mà chúng ta đã biết. Có thể kể những phương pháp chủ yếu sau đây: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động. - Phương pháp trắc nghiệm. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp nghiên cứu lịch sử. - Phương pháp nghiên cứu trẻ em sinh đôi cùng trứng hoặc khác trứng v.v... Điều phải lưu ý trong khi sử dụng các phương pháp để nghiên cứu sự phát triển tâm lý con
  17. người là ở chỗ, nhà nghiên cứu phải đặt đối tượng, khách thể nghiên cứu của mình trong quá trình vận động và phát triển của nó. Những kết quả nghiên cứu có giá trị đối với tâm lý học phát triển thường được tiến hành một cách trường diễn, công phu theo cách nghiên cứu dọc trong một thời gian dài. Những quan sát, những thực nghiệm liên tục của J.Piaget trong nhiều năm, những thực nghiệm tâm lý - giáo dục kéo dài từ đầu đến cuối mỗi cấp học của nhiều nhà khoa học khác nhau trên thế giới là những dẫn chứng điển hình cho phương pháp nghiên cứu tâm lý học phát triển. Những công trình như vậy đã đóng góp những thành quả to lớn cho tâm lý học phát triển cũng như các chuyên ngành tâm lý học khác. Created by AM Word2CHM
  18. II. CÁC NHÂN TỐ VÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN à Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN Vấn đề nhân tố và động lực của sự phát triển tâm lý luôn luôn là vấn đề trung tâm của bất cứ ngành tâm lý học nào, đặc biệt là với tâm lý học phát triển. Trong lịch sử tâm lý học, đây là vấn đề thường xuyên được đề cập, bàn luận và có nhiều luận điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Tổng hợp, khái quát lại có thể nêu lên các trường phái điển hình sau đây về nguồn gốc, động lực phát triển tâm lý cá nhân. 1. Quan điểm của thuyết nguồn gốc sinh vật về phát triển Những người theo trường phái nguồn gốc sinh vật coi những đặc điểm bẩm sinh di truyền có sẵn của trẻ em là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển tâm lý cá thể. Theo họ, di truyền là yếu tố có tác dụng quyết định đến phát triển tâm lý trẻ, coi môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của tính di truyền.
  19. Xuất phát điểm của những người theo dòng phái nguồn gốc sinh vật về phát triển bắt nguồn từ qui luật tiến hóa nổi tiếng do Heackel đưa ra vào nửa đầu thế kỷ XIX. Qui luật này cho rằng: Sự phát triển cá thể là sự lặp lại sự phát triển của loài dưới dạng rút gọn, tương tự như bào thai người ở thời kỳ sống trong bụng mẹ, lặp lại tất cả những giai đoạn phát triển từ một thực thể đơn bào tới con người. Theo quan điểm này, trong quá trình phát triển, trẻ con cũng tái tạo lại tất cả những giai đoạn cơ bản của lịch sử loài người. Ví dụ người ta đã nêu ra 5 giai đoạn phát triển mà đứa trẻ bắt buộc phải trải qua: - Giai đoạn man rợ. - Giai đoạn săn bắn. - Giai đoạn chăn nuôi. - Giai đoạn trồng trọt. - Giai đoạn thương nghiệp - công nghiệp. Mỗi giai đoạn phát triển này được những người theo thuyết nguồn gốc sinh vật lý giải và chứng minh trong quá trình phát triển của mỗi trẻ em. Chẳng hạn khi mới ra đời, đứa trẻ là một sinh vật man rợ và
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2