
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 24, Số 2 (2024)
85
TÌNH HÌNH NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG BẰNG CÔNG NGHỆ VI SINH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ
Lê Công Tuấn
Trường Đại học khoa học, Đại học Huế
Email: lctuan@hueuni.edu.vn
Ngày nhận bài: 6/5/2024; ngày hoàn thành phản biện: 12/5/2024; ngày duyệt đăng: 14/5/2024
TÓM TẮT
Năm 2023, tỉnh Quảng Trị có 101,8 ha nuôi trồng thủy sản theo hướng công nghệ
cao, chủ yếu là tôm thẻ chân trắng. Ở vùng cát ven biển, 100% số hộ khảo sát nuôi
tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) và sử dụng hoàn toàn ao lót
bạt, trong đó 58,3% nuôi thâm canh với 44,4% áp dụng quy trình nuôi 2 giai đoạn;
tôm đạt 61,81 con/kg sau 4 tháng nuôi. Vùng cửa sông, 84,3% số hộ nuôi nuôi tôm
thẻ chân trắng, nuôi theo hình thức thâm canh trên ao đất (gần 80%); quy trình
nuôi tôm 2, 3 giai đoạn chưa được phổ biến ở vùng sinh thái này. Một số hộ nuôi
áp dụng công nghệ vi sinh mang lại hiệu quả về năng suất và lợi nhuận từ 500
triệu đồng đến 1 tỷ đồng trên diện tích 01 ha nuôi. Các loại men vi sinh trong đó tổ
hợp các vi sinh có lợi (EM - Effective Microorganisms), vi sinh công ty CP được các
hộ nuôi tôm thường dùng, tôm được ghi nhận tăng trưởng nhanh, cải thiện được
chất lượng nước và giảm lượng nước thay. Đây là cơ sở cho các nghiên cứu phát
triển công nghệ nuôi tôm phù hợp với điều kiện đặc trưng của địa phương.
Từ khoá: tôm thẻ chân trắng, công nghệ cao, công nghệ biofloc.
1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh ngành tôm Việt Nam có những biến động, năm 2022, xuất khẩu
tôm đạt 4,33 tỷ USD tăng trưởng 14% so với năm 2021. Trong đó, đóng góp chủ lực là
tôm thẻ chân trắng (73,3%) tương ứng mức sản lượng ghi nhận được 743,5 nghìn
tấn/năm [1, tr. 7, Phụ lục II], năm 2023 đạt 3,38 tỷ USD, giảm 21,7% và dự kiến phục
hồi tăng trưởng 10-15% vào năm 2024 [2, tr. 8]. Trước những cơ hội và thách thức đan
xen, các mô hình nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng hai cấp, áp dụng công nghệ
cao và thân thiện với môi trường được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thúc
đẩy nghiên cứu và chuyển giao [1, tr. 5; 2, tr. 4].

Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng bằng công nghệ vi sinh trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
86
Nuôi tôm theo hướng thâm canh, siêu thâm canh kết hợp biofloc đem lại giá trị
đồng lợi ích về mặt kinh tế và môi trường [3, tr. 1]. Hệ thống biofloc tuần hoàn được
lượng thức ăn dư thừa và chất hữu cơ do tôm thải ra thành nguyên liệu đầu vào cho
tôm tiêu thụ nhờ sự có mặt của hệ vi sinh vật. Do vậy, có thể tiết kiệm được chi phí bổ
sung nguồn thức ăn, đồng thời việc thay nước hoặc xả nước thải là không cần thiết [4,
tr. 429; 5, tr. 11]. Điều này giúp giảm thiểu nguy cơ xâm nhiễm của các vi khuẩn gây
bệnh như Vibrio [6, tr. 92-93]. Với công nghệ biofloc, năng suất nuôi tôm có thể tăng lên
gấp hai đến ba lần trong cùng một đơn vị diện tích [7, tr. 13].
Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng bằng công nghệ cao ứng dụng công nghệ vi
sinh như biofloc vẫn còn khá hạn chế ở Việt Nam [8, tr. 1; 9, tr. 1]. Tại tỉnh Quảng Trị,
theo số liệu từ Tổng cục thống kê năm 2022, sản lượng tôm nuôi đạt 5.425 tấn, tăng
0,33% so với năm 2021. Quảng Trị là khu vực thường xuyên chịu cảnh mưa bão, ngoài
ra địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng mạnh bởi gió Tây Nam khô nóng, nắng gắt kéo dài vào
mùa hè. Công nghệ vi sinh như công nghệ biofloc được đánh giá phù hợp cho địa
phương có điều kiện khan hiếm nước hoặc cần thâm canh tăng vụ nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất. Nghiên cứu này với mục đích khảo sát thực trạng ứng dụng công nghệ vi
sinh trong hoạt động nuôi tôm ở tỉnh Quảng Trị, qua đó có thể đánh giá tiềm năng
cũng như những bất cập còn tồn tại nhằm góp phần phát triển công nghệ vi sinh bền
vững và hiệu quả cho nghề nuôi tôm.
2 PHƯƠNG PHÁP
2.1 Phương pháp thu thập thông tin, số liệu thứ cấp
Thu thập thông tin từ các báo cáo, số liệu thống kê, các đề tài dự án đã triển
khai trên địa bàn thông qua làm việc với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Trung tâm khuyến nông tỉnh Quảng Trị. Bên cạnh đó, thu thập các nguồn báo cáo dự
án, báo cáo chuyên đề, số liệu đã đăng tải về tình hình nuôi tôm ở tỉnh Quảng Trị.
2.2 Phương pháp điều tra, phỏng vấn
Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn PRA bằng lập phiếu điều tra
và tổ chức phỏng vấn các đại diện của cơ sở nuôi tôm ở tỉnh Quảng Trị. Nội dung điều
tra được thiết kế gồm 04 phần chính: sơ lược về công trình trang trại nuôi tôm; chi tiết
về quy trình nuôi và chất lượng sản phẩm thu được; và thông tin về chế phẩm vi sinh
đang sử dụng. Tổng cỡ mẫu đã điều tra là 100 phiếu thuộc 04 huyện và 01 thành phố,
cụ thể được trình bày tại bảng 1.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 24, Số 2 (2024)
87
Bảng 1. Phân bố phiếu điều tra ở các vùng nuôi tỉnh Quảng Trị
STT
Vùng
Huyện
Xã
Số phiếu
1
Vùng nuôi bãi ngang ven biển
Triệu Phong
Triệu Vân
10
2
Triệu Lăng
10
3
Hải Lăng
Hải An
15
4
Hải Ba
1
5
Vùng nuôi ven sông
Vĩnh Linh
Vĩnh Lâm
15
6
Hiền Thành
15
7
Vĩnh Cương
1
8
Gio Linh
Trung Hải
7
9
Thành phố Đông Hà
10
Tổng số
100
Bên cạnh đó, kết hợp tham vấn lấy ý kiến chuyên gia và nhà quản lý về hoạt
động nuôi tôm ở địa phương.
2.3 Thời gian và địa điểm
Nghiên cứu được triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ tháng 1-
4/2023. Vị trị địa lý và các vùng khảo sát được mô phỏng tại hình 1.
Hình 1. Vị trí địa lý và các vùng khảo sát ở tỉnh Quảng Trị
Nguồn: UBND tỉnh Quảng Trị
2.4 Phương pháp xử lý số liệu
Thông tin và số liệu từ quá trình khảo sát, phiếu điều tra xã hội học được xử lý
bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.0.

Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng bằng công nghệ vi sinh trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
88
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Tình hình phát triển nuôi tôm ở tỉnh Quảng Trị
Ngành thủy sản ở tỉnh Quảng Trị được chọn làm ngành kinh tế mũi nhọn theo
Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XVII ngày 16-10-2020, chú trọng chuyển
đổi mô hình nuôi trồng cải tiến, đầu tư cơ sở hạ tầng và quản lý bền vững. Theo đó,
nghề nuôi tôm ngày càng phát triển khá nhanh cả về diện tích, năng suất và sản lượng
mang lại hiệu quả kinh tế ổn định cho người nuôi. Số liệu về tình hình nuôi tôm trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị được trình bày tại bảng 2.
Bảng 2. Tổng hợp tình hình nuôi tôm tỉnh Quảng Trị (Nguồn: Sở NN&PTNT Quảng Trị)
Năm
2021
2022
Năm 2023
Diện tích nuôi tôm (ha)
1374
1252,8
1009,75
Sản lượng tôm nuôi (tấn)
5407
5424,9
3617,11
Diện tích nuôi tôm sú (ha)
216
198,4
174,18
Sản lượng tôm sú (tấn)
-
475,9
368,31
Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng (ha)
1158
1054,4
835,57
Sản lượng tôm thẻ chân trắng (tấn)
-
4949
3248,80
Năng suất bình quân tôm thẻ chân trắng là 4,69 tấn/ha trong khi năng suất bình
quân nuôi tôm sú thấp hơn đáng kể với 2,39 tấn/ha. Qua điều tra, địa phương có diện
tích nuôi tôm thẻ chân trắng lớn nhất là huyện Triệu Phong (362,58 ha), chiếm 34,4%
diện tích nuôi tôm trên toàn tỉnh, ứng với sản lượng nuôi tôm cao nhất là 2.353,6 tấn.
Số cơ sở nuôi tôm năm 2022 là hơn 1.940 cơ sở, bình quân 01 cơ sở có diện tích là 0,65
ha, trong đó có hơn 180 cơ sở nuôi tôm có diện tích 01 ha trở lên. Năm 2023, diện tích
nuôi tôm cuả tỉnh đạt 1009,75 ha, trong đó tôm thẻ chân trắng đạt 835,57 ha, tôm sú đạt
174,18 ha; tổng sản lượng tôm nuôi đạt 3617 tấn, giảm 23% so với cùng kỳ năm trước,
sự biến động này cũng nằm trong xu hướng giảm chung của ngành nuôi tôm của cả
nước [2, tr. 4].
Nghề nuôi tôm ở Quảng Trị thường xuyên gặp nhiều bất lợi như môi trường
nước bị ô nhiễm, dịch bệnh diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài ảnh hưởng đến
năng suất nuôi trồng. Cụ thể dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi đã xảy
ra tại địa bàn 07 xã, phường của các huyện Triệu Phong, Vĩnh Linh, Gio Linh và thành
phố Đông Hà với tổng diện tích trên 37 ha tôm bị bệnh. Tại xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh
Linh có trên 170 ha ao, hồ nuôi tôm nhưng tôm đã chết đến 99% ngay đầu vụ thả nuôi
nguyên nhân điều tra được do chất lượng nguồn nước mặt sông Sa Lung liên quan đến
việc nguồn nước phục vụ vùng nuôi tôm ở huyện Vĩnh Linh có dấu hiệu bị ô nhiễm.
Kết quả phân tích mẫu nước công bố 3/5 mẫu nước có các thông số vượt giới hạn B1

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 24, Số 2 (2024)
89
của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt QCVN 08:2015/BTNMT [10,
tr. 1].
3.2 Tình hình áp dụng công nghệ cao và công nghệ biofloc trong nuôi tôm ở tỉnh
Quảng Trị
3.2.1. Tình hình áp dụng công nghệ vi sinh trong nuôi tôm
Việc áp dụng công nghệ vi sinh theo hướng công nghệ cao trong nuôi tôm thẻ
chân trắng gắn liền với việc đầu là tăng mức đầu tư trại nuôi, tăng đầu tư thiết bị
tương xứng, áp dụng lót bạt ao nuôi, hướng đến ứng dụng kỹ thuật biofloc, cho năng
suất cao, đồng thời giảm các rủi ro do dịch bệnh với tôm nuôi, hạn chế sử dụng kháng
sinh và ít tác động đến môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm nuôi. Trong
những năm qua, Trung tâm Khuyến nông đã thực hiện và chuyển giao nhiều mô hình
ứng dụng công nghệ cao vào nuôi tôm và khuyến khích chuyển đổi phương thức nuôi
truyền thống 1 giai đoạn sang 2-3 giai đoạn nhằm giúp giảm chi phí đầu tư xuống từ
15 – 20%, đồng thời hạn chế rủi ro dịch bệnh trong giai đoạn đầu đặc biệt là hội chứng
chết sớm (EMS – Early mortality syndrome) trên tôm, quản lý và kiểm soát tốt các yếu
tố môi trường, rút ngắn thời gian nuôi [11, tr. 1].
Trên địa bàn tỉnh, số cơ sở hộ cá nhân nuôi tôm 2, 3 giai đoạn theo hướng công
nghệ cao có 53 cơ sở với tổng diện tích hơn 50 ha, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm thẻ
chân trắng. Năm 2020, Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị hỗ trợ hộ ông Phan Thanh
Tôn ở xã Hải An, huyện Hải Lăng xây dựng mô hình nuôi tôm 03 giai đoạn. Hệ thống
ao nuôi gồm ao lắng 3.000 m², ao ương có diện tích 120 m³, ao nuôi giai đoạn 2 có diện
tích 1.800 m², ao nuôi giai đoạn 3 có diện tích 2.000 m², tăng cường đầu tư hệ thống
quạt nước, thổi oxy. Sau 30 ngày ương tôm đạt kích cỡ trung bình 900 con/kg, tiến
hành sang qua ao giai đoạn 2, nuôi tiếp trong 45 đạt kích cỡ trung bình 145 con/kg, sau
đó chuyển sang ao giai đoạn 3. Sau 4 tháng thả nuôi, tôm đạt tỉ lệ sống > 75%, kích cỡ
bình quân đạt 50 con/kg, sản lượng thu được trên 25 tấn/ha, ước tính lợi nhuận gần 1 tỉ
đồng/ha [12, tr. 1]. Huyện Gio Linh đã có 06 mô hình nuôi tôm hai giai đoạn trở lên với
diện tích 10 ha, tập trung ở Gio Mai, Trung Giang và Trung Hải. Trong Báo cáo về thực
trạng nuôi thủy sản của huyện Triệu Phong từ năm 2021 đến 6 tháng đầu năm 2023,
ghi nhận mô hình nuôi tôm công nghệ cao theo quy trình 03 giai đoạn được triển khai
tại hộ nuôi của ông Trần Khương Đằng với tổng diện tích 0,93 ha gồm 04 ao tròn có hệ
thống mái che bằng lưới, 01 ao chứa nước cấp và 01 ao chứa nước thải; do thời thời tiết
mưa lạnh, thời gian nuôi kéo dài nên sản lượng bước đầu thu được gần 9 tấn, lãi 170
triệu đồng. Trong 8 tháng đầu năm 2023, đã có 03 dự án nuôi tôm công nghệ cao được
thực hiện theo Nghị quyết số 162/2021/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 của HĐND tỉnh tại
huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Triệu Phong