Tình hình và triển vọng phát triển công
nghiệp hoá dầu thế giới
Công nghiệp hóa dầu châu Âu
Nửa đầu năm 2000, nhu cầu và sn lượng hóa dầu ở châu Âu vẫn tiếp tục duy trì ở mc
cao, tổng sản lượng quốc dân GDP) của các nước châu Âu vẫnmức ổn định. Nhưng
trong nửa sau của năm 2000, nhu cầu về polyme đã giảm đi, mt phần do các mi lo ngại
v triển vọng của kinh tế M và kinh tế toàn cầu. Vì nguyên nhân đó và vì một số nhà
máy mới bắt đầu đi vào hoạt đng mà t lệ sử dụng công suất của các nhà máy hóa dầu đã
giảm mạnh.
ở Trung Đông, nhiều nhà máy hóa dầu mới cũng bắt đầu đi vào hoạt động. Trong vài năm
tới, khu vực này sẽ tăng mạnh xuất khẩu các sản phẩm hóa dầu sang châu Âu và châu Á.
Giá dầu thô tăng cao đã được phản ánh trong việc tăng giá naphta và các nguyên liệu
hyđrocacbon khác. Giá khí thiên nhiên và khí hóa lỏng ở M tăng theo t t lệ tăng giá
dầu thô. Về mặt sản xuất etylen, hiện nay cu Âu đang ở thế cạnh tranh bất lợi hơn so
với Trung Đông nhưng lại có ưu thế về g thành so với vùng Gulf Coast của M.
Hiện nay, việc sản xuất mt vài sản phẩm hóa dầu chính ở châu Âu đang đạt hiệu quả tốt,
nhưng việc sản xuất một số sản phẩm khác lại gặp những khó khăn lớn. Những sản phẩm
gặp khó khăn lớn nhất trong quý IV năm 2000 là các hyđrocacbon thơm, polyeste,
polystyren (PS) v.v... Năm 1999, polyetylen (PE) là một trong những mặt hàng được sản
xut với hiệu quả cao nhất. Nhưng vào năm 2000, sản xuất PE li là một trong những lĩnh
vực gặp nhiều khó khăn nhất.
Vmặt sản lượng, mức tăng sản lượng olefin ở châu Âu trong năm 2000 rất thấp. Mức
tăng sản lượng polyme cũng nằm rất thấp dưới mức chung của tất cả các sản phẩm hóa
dầu.
ở châu Âu, số nhà máy hóa dầu mới
đi vào hot động trong năm 2000 nhiều hơn những năm trước. Yếu tố này, cng với nhu
cầu thị trường suy giảm, đã làm giảm mạnh t
Mấy năm gần đây, ở châu Âu xu hướng sáp nhập, mua bán công ty, hình thành liên minh
vẫn tiếp tục din ra. Việc cải cách cơ cấu trong nhiều nh vực sản xuất kinh doanh ở châu
Âu đã bt đầu có ảnh hưởng đến thị trường. Quy mô trung bình của các nhà máy vẫn tiếp
tục tăng nhằm mục đích giảm chi p sản xuất, nng số các công ty còn trụ lại trên th
trường đang gim đi.
Tuy nhiên, mt số công ty đang chia nhỏ thành các đơn vị nh hơn, còn mt s công ty
khác đang bán đi các bộ phận sản xuất kinh doanh không nòng ct của mình. Nhìn chung,
các công ty hóa cht đang trở nên đơn giản hơn và tập trung nhiều hơn vào các nh vực
then cht của họ.
Sự cải thin liên tục các hoạt đng nội b của công ty thể là một quá trình khó nhn
thấy, nhưng nó là cơ sở trong vic cải thiện lợi nhuận của công ty. Các công ty đang tiếp
tục cải thiện các quy trình sản xuất, tăng quy mô, cải thiện công nghệ và áp dụng các biện
pháp kiểm tra tiên tiến để tối ưu hóa quy trình sn xuất.
Công nghiệp hóa dầu Trung Đông
Trong vòng 15 năm qua, từ mt nền tảng hóa dầu rất nhỏ và là khu vực nhập các sản
phẩm hóa dầu, Trung Đông đã phát triển thành mt khu vực sản xuất hóa dầu, chiếm 7%
tổng sản lượng etylen toàn cầu. Sản xuất hóa dầu tập trung ở Arập Xêút và các nước vùng
Vịnh khác. Các nước này đang tiếp tục mở rộng sản xuất hóa dầu, còn Iran cũng dự định
sẽ đóng một vai trò quan trọng trong nh vực này.
Trong thời gian 1999 - 2003, by nhà máy sản xuất etylen quy mô quốc tế đã và sẽ đi vào
hoạt động ở khu vực Trung Đông. Cũng trong thời gian đó, ở châu Âu không có, còn
M chỉ có 3 nhà máy etylen mới.
Trong thời gian 2004 - 2007, người ta dự kiến sẽ có mt lànng đầu tư mới vào lĩnh vực
sản xuất hóa dầu ở Trung Đông. Việc này sẽ giúp duy trì tốc độ tăng công suất hóa dầu
của khu vực này. Xuất khẩu các sản phẩm hóa dầu, chủ yếu là các polyolefin, sẽ tiếp tục
tăng. Năm 2003, xuất khẩu polyolefin của Trung Đông sẽ tăng 2,5 triệu tấn, còn đến năm
2005 sẽ tăng 4 triệu tấn.
Hầu như toàn bộ nguyên liệu hóa dầu ở Trung Đông đều được sản xuất từ khí thiên
nhiên. Chiếm t llớn nhất trong các nguyên liệu hóa dầu là etan; giá của nó phn ánh
chi phí khai thácmứcthừa khí thiên nhiên từ trước đến nay.
Vào giữa thập niên 1990, Trung Đông là khu vực xuất khẩu quan trọng đối với PE và các
sản phẩm hóa dầu khác. Xuất khẩu của Trung Đông đang tiếp tục tăng mnh, đến năm
2005 khu vực này sẽ chiếm ưu thế hoàn toàn trong thương mi hóa dầu toàn cầu.
Công nghiệp hóa dầu Mỹ
Cuối năm 1999, do lo ngại sự cố Y2K sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt nguyên liệu, các nhà
sản xuất và chế biến cuối dòng đã dự trữ nhiều hàng tn kho. Nhưng sự cố Y2K đã không
xảy ra ở quy mô lớn, còn hàng tn kho đã góp phần giảm nhu cầu đối với các sản phẩm
hóa dầu và gim lợi nhuận của các nhà sản xuất của Mỹ. Đồng thi, do giá nguyên liệu
tăng nên lợi nhuận quý IV - 2000 của các nmáy crăcking bằng hơi nước ở Mỹ đã giảm
mạnh. Đến tháng 12, mt s nhà sản xuất đã bắt đầu đóng cửa nhà máy vì sản xuất không
lãi và vì các nhà sn xuất polyme cuối dòng đã gim đơn đặt hàng olefin.
Giá năng lượng trong năm 2000 cao hơn so với mức giá trung bình nhiều năm nhưng
đang giảm đi trong năm 2001. Sản lượng dầu tđã tăng, trữ lượng dầu mcủa Mỹ vẫn
đủ dùng cho tương lai gần, còn các biện pháp bảo tồn năng lượng đang góp phần giảm
mức tiêu thụ.
Tuy năng lượng chỉ đóng một vai trò không ln trong nền kinh tế Mỹ và Tây Âu, nhưng
nó lại một tác đng tâm rất lớn. Người dân Mỹ đặc biệt nhạy cảm với giá xăng. Giá
xăng cao sẽ làm giảm niềm tin của người tiêu dùng cũng như mức chi tiêu của h.
Trong thập niên 1990, giá khí thiên nhiên ở Mỹ khá thấp vì vậy nhiều người tiêu dùng
cũng như các cơ quan, xí nghiệp đã dùng k thiên nhiên để đốt lò sưởi thay cho dầu. Tuy
nhiên, do giá khí thiên nhiên thấp nên người ta không tập trung đầu tư o khai thác mà
lại đầu tư quá nhiều vào sản xuất các thiết bị sử dụng khí thiên nhiên.
Những yếu tố chính đang ảnh hưởng đến ngành công nghiệp hóa dầu Mỹ là:
- Kinh tế đang phát triển chậm lại.
- Giá nguyên liu, giá năng lượng cao.
- Giá tr của thị trường chứng khoán giảm khiến chi p đầu tư tăng.
Sản xuất PVC
Trong phần lớn thời gian của thập niên 1990, sản xuất PVC là mộtnh vực sản xuất
không đạt lợi nhuận cao. Điều này đã khiến nhiều công ty đóng cửa nhà máy, rút khỏi sản
xut PVC hoặc sáp nhập với nhau. Rất ít nhà máy mới được dự kiến xây dựng.
Tuy nhiên, nhu cầu PVC đã tăng mạnh vào cui thập niên, bất chấp nhng vấn đề môi
trường. Kết quả là, sau khi ảnh hưởng của cuộc khủng hong tài chính châu á giảm dần,
nhu cầu PVC đã tăng lên sít sao với mức cung và lợi nhuận đã tăng trở lại trong năm l
999.
Trong 5 năm tới, thị trường PVC toàn cầu với tổng khối lượng 26 triệu tấn sẽ tăng trưởng
khoảng 4,1%/năm. Châu á là th trường lớn nhất và cũng sẽ có t lệ tăng trưởng cao nhất
(trNhật Bản). Sản xuất PVC ở châu M Latinh và Trung Đông, châu Phi cũng sẽ tăng
nhanh nhưng với mức khởi điểm thấp, còn Bắc Mỹ có tim năng tăng trưởng khá chắc
chắn (khoảng 4%/năm).
Ngành xây dng là lĩnh vực sử dụng chủ yếu đối với các sản phẩm PVC. Trong lĩnh vực
hàng tiêu dùng và baođóng gói, các sản phẩm PVC đang mất dần thị phần vì được
thay thế bic sản phẩm khác thân môi trường hơn.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất PVC toàn cầu là:
- Sự tăng trưởng kinh tế sẽ kéo theo sự tăng nhu c ầu PVC.
- Giá năng lượng cao có thể làm gim tc độ tăng trưởng kinh tế.
- Các vấn đề về môi trường có thể không kìm hãm sự tăng trưởng sản xuất PVC, nhưng
có thế hạn chế việc xây dựng các nhà máy PVC mới.
Sản xuất propylen
Sản xuất propylen là lĩnh vực sản xuất quy mô lớn, có mức tăng trưởng nhanh. Propylen
là nguyên liệu cho nhiều sản phẩm hóa dầu quan trọng nhưng cho đến nay nó vẫn được
coi là sản phẩm phụ hoặc sản phẩm đồng hành của các nhà máy lc dầu và các nhà máy
sản xuất etylen. Các đặc đim chính của sản xuất propylen trong năm 2000 là :
- Nhu cầu nội địa của Mỹ đối vi propylen đã tăng 10,7% nhờ nhu cầu acrylonitril,
cumen và polypropylen (PP) tăng mạnh. Sản lượng propylen còn tăng cao hơn (10%) do
các nhà sn xuất tăng hàng dự trữ và tăng xuất khẩu.
- Trên thế giới, các nhà máy mới với tổng công suất 3,7 triệu tấn/năm đã đi vào hoạt
động. Giá propylen tiếp tục tăng cao, đạt mc k lục ở Mỹ. ở châu á và châu Âu, giá
propylen tăng đến mức cao nhất kể từ 1995.
- Lợi nhuận của sản xuất propylen giảm do giá dầu cao.
- Các vụ sáp nhập lớn giữa các công ty làm cho sản xuất propylen trở nên tập trung hơn.