Tổ chức thương mại thế giới WTO

và tác động của nó

đối với các nước đang phát triển.

2.2 Những cơ hội và thách thức đặt ra đối với các nền kinh tế đang phát triển trong

qúa trình thực hiện các hiệp định của WTO.

2.2.1 Hiệp định về tự do hàng nông sản.

2.2.1.1 Nội dung:

Hàng nông sản là mặt hàng tơng đối nhạy cảm, cho nên từ trớc đến nay vẫn đợc hởng

nhiều ngoại lệ. Mặc dù nông sản chỉ chiếm không quá 10% thơng mại thế giới và không

quá 5% GDP của nhiều nớc, đặc biệt là các nớc phát triển, nhng thơng mại hàng nông sản

vẫn luôn là đối tợng rất quan trọng trong đàm phán thơng mại quốc tế.

Thơng mại hàng nông sản là lĩnh vực đợc bảo hộ cao nhất trong chính sách thơng mại

của các nớc thành viên WTO. Trong thời kỳ GATT, thơng mại hàng nông sản đã đợc quy

định, điều chỉnh, nhng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chẳng hạn nh cho phép các nớc áp dụng

một số biện pháp phi thuế, hạn ngạch nhập khẩu... cho loại hàng hóa này. Mậu dịch nông

sản do đó trở nên méo mó cao độ. Nguyên nhân của vấn đề này chính là do hàng nông sản

là mặt hàng chịu thuế cao nhất, là đối tợng của chính sách bảo đảm an ninh lơng thực và

nông nghiệp của thế giới, đợc các nớc phát triển áp dụng trợ cấp với mức độ cao. Nông

nghiệp là lĩnh vực gây nhiều tranh chấp và thách thức đối với các nớc thành viên WTO,

đặc biệt là các nớc đang phát triển phải gánh chịu ảnh hởng và sức ép lớn nhất.

Nhằm tạo ra khuôn khổ cho thơng mại hàng nông sản thế giới và thúc đẩy trao đổi mặt

hàng này, tại vòng đàm phán Uruguay các nớc đã cùng nhau ký kết hiệp một hiệp định

mới : “Hiệp định nông nghiệp”. Thỏa thuận đạt đợc tại vòng đàm phán Uruguay là một

bớc tiến quan trọng dẫn đến sự cạnh tranh công bằng, có trật tự hơn và mậu dịch ít bị bóp

méo hơn. Hiệp định nông nghiệp đã đạt đợc những thoả thuận về mở cửa thị trờng nông

sản, thuế khoá và các biện pháp phi thuế quan; giảm trợ cấp cũng nh mức hỗ trợ trong nớc

của các nớc thành viên. Hiệp định vẫn cho phép chính phủ các nớc thành viên hỗ trợ cho

nền kinh tế nông thôn của mình phát triển, với hy vọng, sự hỗ trợ này sẽ đợc thực hiện

thông qua các chính sách làm cho thơng mại nông sản đợc thông thơng và ít bị lệch lạc

hơn. Hiệp định này cũng cho phép có linh hoạt về cách thức với mực độ mà các cam kết

thực hiện và chấp nhận đợc. Các nớc đang phát triển không phải cắt giảm các khoản trợ

cấp hay hạ thấp biểu thuế của họ với mức nh các nớc phát triển đang áp dụng và họ đợc

dành thêm thời gian để hoàn thành nghĩa vụ của mình.

* Tiếp cận thị trờng:

Tất cả thuế quan đối với hàng nông sản đều bị ràng buộc. Hầu hết các hạn chế khác

không phải dới dạng thuế đều đợc chuyển sang thuế - đây là quá trình mà nội dung thực

chất là “thuế hoá”. Mức độ thuế hoá dựa trên việc tính toán tác động bảo hộ của biện pháp

phi thuế quan đó, nhằm đa ra mức thuế quan có tác động bảo hộ tơng đơng.

Các nớc phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 36%, mức độ giảm tối thiểu đối với

mỗi dòng thuế không ít hơn 15% và đợc thực hiện trong thời gian 6 năm ,từ 1995-2000.

Các nớc đang phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 24% và mức giảm tối thiểu với

mỗi dòng thuế không ít hơn 10% và thực hiện trong vòng 10 năm, từ 1995-2004.

Các nớc chậm phát triển không phải cắt giảm biểu thuế của mình.

Đối với các sản phẩm mà hạn chế phi thuế đã đợc chuyển hoá thành thuế, chính phủ các

nớc thành viên đợc phép thực hiện các hành động khẩn cấp đặc biệt hay còn gọi là biện

pháp tự vệ, nhằm ngăn chặn không để tình hình giá trợt xuống nhanh hay giá hàng nhập

khẩu tăng vọt ảnh hởng xấu đến nông dân nớc họ. Có 4 nớc có vấn đề an ninh lơng thực

đặc biệt nhạy cảm (chủ yếu là với mặt hàng gạo) sử dụng điều khoản đối xử đặc biệt để

hạn chế hàng nhập khẩu nhng họ lại phải có nghĩa vụ đẩy nhanh mức độ mở cửa thị trờng

cho hàng nhập khẩu. Ví dụ với Nhật Bản: mở cửa thị trờng bắt đầu là 4% và lên đến 8%

vào năm 2000.

Các nớc cũng cam kết giữ mức mở cửa thị trờng tối thiểu không thấp hơn mức trung

bình của thời kỳ 1986-1990 và không đa ra thêm hàng rào phi thuế quan.

* Các biện pháp hỗ trợ trong nớc:

Các chính sách trong nớc có ảnh hởng trực tiếp đến sản xuất và thơng mại phải đợc cắt

giảm. Các nớc thành viên WTO đã tính toán đợc mức hỗ trợ toàn bộ hay “tổng AMS” cho

khu vực nông nghiệp trong mỗi năm tại các cơ sở, từ năm 1986-1988. Tổng AMS là giá

trị của toàn bộ các khoản trợ cấp nội địa và khoản trợ cấp cho từng mặt hàng nông sản.

Trong các cam kết, yêu cầu cắt giảm 20% của AMS toàn phần đối với các nớc phát triển

trong thời gian 6 năm; đối với các nớc đang phát triển, cam kết cắt giảm là 13% trong

vòng 10 năm, kể từ năm 1995; không có yêu cầu cắt giảm đối với những nớc chậm phát

triển.

* Giảm trợ cấp xuất khẩu hàng nông sản.

Hiệp định Nông nghiệp cấm trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp, trừ

phi các trợ cấp này đợc quy định rõ ràng trong danh mục các cam kết của một nớc. Đối

với các trợ cấp đã liệt kê này, hiệp định đòi hỏi các thành viên của WTO cắt giảm số tiền

sử dụng cho trợ cấp xuất khẩu lẫn số lợng xuất khẩu nhận trợ cấp.

Lấy mức bình quân trong các năm 1986-1990 làm cơ sở, các nớc phát triển thoả thuận

cắt giảm 36% nguồn ngân sách để trợ cấp xuất khẩu và 21% khối lợng xuất khẩu đợc

hởng trợ cấp trong vòng 6 năm tính từ năm 1995. Còn các nớc đang phát triển sẽ cắt giảm

24% nguồn ngân sách cho trợ cấp xuất khẩu; khối lợng hàng đợc hởng trợ cấp sẽ giảm

14% trong vòng 10 năm tính từ năm 1995. Các nớc chậm phát triển không phải đa ra các

cam kết cắt giảm.

* Các quy định đối với các sản phẩm động thực vật.

Có một hiệp định riêng về vấn đề an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn y tế về động thực

vật gọi tắt là: “Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch”, đặt ra các quy định cơ bản cho vấn đề

an toàn thực phẩm. Hiệp định cho phép các nớc đặt tiêu chuẩn cho riêng mình, nhng đồng

thời cũng quy định rằng các quy chế phải căn cứ trên cơ sở khoa học. Các nớc thành viên

WTO đợc khuyến khích sử dụng các tiêu chuẩn, hớng dẫn và gợi ý mang tính quốc tế.

Hiệp định cho phép các nớc đợc sử dụng những biện pháp khác nhau để giám định hàng

hoá; đồng thời hiệp định cũng có những điều khoản quy định về kiểm tra, giám định và

các thủ tục phê duyệt.

Bảng 2: Mục tiêu cắt giảm trợ cấp, bảo hộ trong thơng mại hàng nông sản.

Các nớc phát triển

Các nớc đang phát triển

( 6 năm )

( 10 năm )

1995 - 2000

1995 - 2000

Thuế quan cắt giảm trung bình

+Cho tất cả các nông phẩm

36 %

24 %

+Tối thiểu cho từng sản phẩm

15 %

10 %

Trợ cấp nội địa

Tổng mức cắt giảm AMS

20 %

13 %

( giai đoạn cơ sở : 1986 - 1988 )

Xuất khẩu

+Giá trị trợ cấp

36 %

24 %

+Khối lợng đợc trợ cấp

21 %

14 %

( gíai doạn cơ sở :1986 -1990 )

2.2.1.2 Những cơ hội.

Hiệp định về Nông nghiệp (AoA) đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1995. Hầu hết

các nhà đàm phán của các nớc đang phát triển nói chung đều muốn tham gia vào AoA.

Hiệp định về Nông nghiệp đã mang lại những cơ hội chắc chắn cho các nớc đang phát

triển.

Trớc hết, khả năng tiếp cận thị trờng của các nớc đang phát triển sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Theo quy định của AoA, các nớc dần dần phải loại bỏ các loại hạn chế thơng mại khác

nhau mà nhà xuất khẩu phải đối phó nh hạn ngạch, thuế quan và các hàng rào phi thuế

quan... Các nớc đang phát triển có thể xuất khẩu các mặt hàng nông sản không hạn chế

định lợng sang mọi thị trờng các nớc thành viên WTO, thị trờng xuất khẩu đợc bảo đảm

chắc chắn. Tất cả các thuế quan đối với hàng nông sản đều bị ràng buộc sẽ làm tăng độ ổn

định thị trờng cho các nhà kinh doanh xuất và nhập khẩu. Hầu nh tất cả các hạn chế không

phải dới dạng thuế đều đợc chuyển sang thuế dới hình thức thuế hoá, điều này khiến cho

các nhà xuất khẩu nông sản các nớc đang phát triển có thể xác định chính xác mức độ bảo

hộ của các thành viên khác.

Tiếp theo, các nớc đang phát triển có thời gian dài hơn (10 năm thay vì 4 năm đối với

các nớc phát triển) để cắt giảm thuế quan và trợ cấp xuất khẩu; trong những năm thực hiện,

các nớc này đều đợc phép sử dụng trợ cấp theo những điều kiện nhất định để giảm bớt chi

phí Marketting và vận chuyển hàng xuất khẩu. Ngoài ra, WTO còn cho phép chính phủ

các nớc đang phát triển hỗ trợ cho nền nông nghiệp nớc mình đợc hởng u đãi hơn so với

các nớc phát triển; các nớc đang phát triển không phải cắt giảm các khoản trợ cấp hay hạ

thấp biểu thuế của mình với mức nh của các nớc phát triển. Mặt hàng nông sản của các

nớc đang phát triển nhờ đó có cơ hội cạnh tranh nhiều hơn đối với hàng nông sản của các

nớc phát triển do có giá thành thấp hơn nhiều.

Tự do hoá mậu dịch hàng nông sản dẫn đến hàng nông sản của các nớc đang phát triển

không bị đối xử phân biệt theo các nguyên tắc của WTO (nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và

tối huệ quốc), khối lợng hàng xuất khẩu không bị hạn chế, các mặt hàng nông sản không

ngừng tăng lên cả về số lợng và chất lợng, thu nhập của nông dân đợc tăng lên, giảm đói

nghèo. Trình độ, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp tiến bộ rất đáng kể. Các nớc đang

phát triển có khả năng và điều kiện công nghiệp hóa nền nông nghiệp của mình, cải thiện

và nâng cao đời sống của ngời lao động, nâng cao chất lợng, hạ giá thành và đa dạng hóa

hàng nông sản, qua đó nâng cao đợc khả năng canh tranh của hàng hóa nông nghiệp trên

thị trờng quốc tế.

2.2.1.3 Những thách thức.

Bên cạnh những cơ hội đạt đợc trong Hiệp định Nông nghiệp AoA, các nớc đang phát

triển đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn trong lĩnh vực này. Trên thực tế,

AoA có lợi nhiều hơn cho các cờng quốc kinh tế, nhất là Mỹ và EU. Có nhiều nớc đang

phát triển đã cảm thấy rằng họ bị buộc phải ký vào Hiệp định này. Vấn đề cạnh tranh thị

trờng tiêu thụ cộng với việc phải trợ cấp cho nông dân quá cao đã khiến cho Mỹ và EU

thống nhất một ý tởng chung là cùng nỗ lực đa vấn đề nông nghiệp vào đàm phán tại

Uruguay nhằm củng cố thế cạnh tranh độc quyền và mỗi bên tìm kiếm lợi thế của mình

trong đó. (Vào cuối những năm 80, EU phải chi gần 80% ngân sách cho việc trợ cấp các

chơng trình nông nghiệp, còn Mỹ thì bắt tay vào một chơng trình tổng thế rất tốn kém để

dành lại thị trờng từ tay EU, nh thị trờng bột mì tại Tây Phi):

Thứ nhất, về quá trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định nông nghiệp: Do chính

phủ các nớc đang phát triển phải tiến hành chơng trình cắt giảm thuế quan, dần xoá bỏ hạn

ngạch và hàng rào phi thuế quan khác, ngành nông nghiệp sẽ không đợc bảo hộ nhiều nh

trớc. Khó khăn sẽ đến với các nhà sản xuất các mặt hàng cha có lợi thế cạnh tranh vốn vẫn

đợc nhà nớc bảo hộ, đặc biệt đối với những ngời nông dân sản xuất những mặt hàng mà

các nớc đang phát triển xuất khẩu nhiều nhất nh: gạo, cà phê, hạt điều, cọ dừa...vì thời

gian và điều kiện cha đủ để họ hiện đại hóa nền nông nghiệp. Thời gian cho quá trình cắt

giảm các chính sách là 10 năm, so với các nớc phát triển là 6 năm, tuy vậy ,đối với các

nớc đang phát triển thời gian đó là quá ngắn so với quảng đờng họ phải đi, vẫn cha đủ cho

nền nông nghiệp các nớc này thích ứng đợc với quá trình chuyển đổi. Những ngành sản

xuất nông sản chắc chắn gặp phải những khó khăn rất lớn, thậm chí có nhiều doanh

nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh các nông sản này cũng có thể bị phá sản, nhiều vùng

nông thôn đang nghèo đói sẽ trở nên đói nghèo hơn, nếu những ngành đó không có sự

chuẩn bị điều kiện thích ứng và thích ứng nhanh,không có kế hoạch điều chỉnh cơ cấu sản

xuất và đầu t thích hợp, xác định rõ mức độ cạnh tranh với nông sản nhập khẩu và cấu

trúc thị trờng trong từng thời kỳ.

Tự do hoá thơng mại hàng nông sản, có nghĩa là nền nông nghiệp các nớc đang phát

triển phải đối mặt với tình trạng hàng nhập khẩu tràn lan trên thị trờng nội địa với chất

lợng cao và giá thấp, điều này sẽ khiến cho các nhà sản xuất trong nớc mất đi thị phần,

ngay cả đối với những nông sản truyền thống. Một ví dụ về tình trạng nhập khẩu ngô tại

Mêhicô. Ngô là một trong những lơng thực chủ yếu của Mêhicô. Việc đột nhiên mở cửa

thị trờng cho nhập khẩu mặt hàng nông nghiệp vào, đã gây ra một cú sốc lớn cho các nhà

sản xuất nông nghiệp Mêhicô đặc biệt là ngô. Mỹ là nớc xuất khẩu ngô nhiều nhất vào

Mêhicô. Sau khi mở cửa, Mỹ xuất khẩu ngô ồ ạt vào Mêhicô, năm 1996 Mêhicô phải chi

ra 1,1 tỷ USD cho việc nhập khẩu mặt hàng này, hậu quả là ngô thừa mứa trên thị trờng,

đẩy giá nội địa tụt xuống 18-23% so với năm 1995. Nh vậy, nhập khẩu ngô của Mêhicô đã

làm giá ngô nội địa giảm kỷ lục, trong khi giá thế giới đang ở mức cao kỷ lục. Nhà nớc

phải chi một lợng tiền lớn trong khi nhng ngời nông dân và các doanh nghiệp sản xuất

hàng nông sản bị khốn đốn.

Giá cả các mặt hàng nông sản, đặc biệt là nông sản thô trên thị trờng thế giới biến động

rất mạnh, ngời nông dân khó có thể tự bảo vệ mình trớc sự biến động của giá cả. Vì vậy,

nhiều nông dân rất lo lắng ngay cả khi họ đợc mùa.

Thứ hai, về mặt trợ cấp. Các nớc phát triển trợ cấp cho nông dân của họ nh phụ cấp thu

nhập trực tiếp cho những ngời này để bù đắp cho sự bấp bênh của thị trờng. Tuy Hiệp

định AoA đã có hiệu lực hơn 5 năm, nhng nó lại chẳng có mấy hiệu lực đối với sự hạn chế

bảo hộ và trợ cấp cho nông dân tại các nớc phát triển. Việc đặt trợ cấp thu nhập trực tiếp

ra ngoài khuôn khổ quy định của GATT là một trong những đòn giáng nặng nề vào các

nớc đang phát triển, khi họ đang hy vọng Hiệp định Nông nghiệp sẽ đợc sử dụng nh một

cơ chế làm cho thơng mại quốc tế đợc thông thoáng hơn. Các phụ cấp trực tiếp đó đợc chi

trả cho nông dân với lý do là “không dính dáng đến sản xuất” và do đó không làm biến

dạng thị trờng. Mức độ trợ cấp của các nớc phát triển rất cao. Các nớc OECD, kể từ khi

hiệp định AoA có hiệu lực thực hiện trợ cấp trực tiếp cho ngời nông dân, từ trợ cấp 182 tỷ

USD năm 1995 đã lên đến hơn 300 tỷ USD vào năm 1998. Phần lớn số tiền này thuộc về

Mỹ và EU, trong khi đó, do các nớc đang phát triển không đủ tiền để trợ cấp, nông dân

của các nớc thành viên này chỉ nhận đợc rất ít trợ cấp của chính phủ, nếu có thì cũng cha

đạt đến tỷ lệ phần trăm của giá trị sản xuất mà AoA cho phép và không thể so sánh với

những khoản tiền mà ngời nông dân của nớc phát triển đợc trợ cấp. Thực tế các nớc đang

phát triển đã bị thua thiệt do các chính sách của AoA đã ảnh hởng tiêu cực cho nền nông

nghiệp của họ. Nông dân các nớc này đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của việc phải

điều chỉnh cho thích hợp với hệ thống nông nghiệp mới (giảm thuế quan, thay đổi hạn

ngạch...), vì với một mức trợ cấp ít ỏi của chính phủ cộng với việc họ phải mở cửa thị

trờng rộng hơn cho các nớc phát triển xuất khẩu hàng hoá d thừa của họ vào làm căng

thêm sợi dây thọng lọng thắt vào cổ chính họ. Việc trợ cấp cho các nhà sản xuất nông sản

ở các nớc phát triển đã biến tự do hoá toàn cầu thành việc giành giật thị trờng của các nớc

đang phát triển và bóp chết những ngời nông dân không đợc trợ cấp ở các nớc này.

Thứ ba, mức độ lệ thuộc vào lơng thực của các nớc đang phát triển có chiều hớng gia

tăng. Hiện nay, sản xuất lơng thực theo hớng xuất khẩu là sức ép buộc ngời nông dân làm

ăn theo lối tự cung tự cấp lâu nay phải bỏ mảnh đất của mình hoặc chuyển hớng sang sản

xuất hàng nông sản để xuất khẩu. Do vậy lơng thực cung cấp cho nội địa ngày một ít đi.

Chính vì vậy, mặc dù thế giới đã sản xuất đợc một lợng lơng thực dồi dào, nhng mức độ lệ

thuộc lơng thực và tình trạng nhập khẩu lơng thực tại các nớc đang phát triển ngày càng

tăng. Một số lợng khá lớn lao động nông nghiệp do năng suất lao động thấp và mức độ

cạnh tranh của hàng nhập khẩu rất cao so với hàng nội địa cùng loại đã phải rời bỏ khỏi

mảnh đất của mình, hy vọng tìm đợc việc làm có thu nhập khá hơn, dẫn đến tình trạng thất

nghiệp gia tăng.

Thứ t, trong quá trình phân phối sản phẩm, các nớc đang phát triển gặp phải những rào

cản lớn mà họ không thể vợt qua đợc khi muốn xâm nhập thị trờng của các nớc phát triển.

Phân phối phụ thuộc rất nhiều với yếu tố thị trờng và cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.

Tại các nớc đang phát triển hầu nh đều tồn tại tình trạng cơ sở hạ tầng vật chất yếu kém,

cũ kĩ, thiếu sự tân trang bảo dỡng. Do vậy vấn đề vận chuyển bị ảnh hởng rất nhiều, thời

gian vận chuyển dài, chi phí vận chuyển khá cao, điều này khiến cho việc nhập khẩu lơng

thực từ nớc ngoài vào có khi còn rẻ hơn việc vận chuyển và mua bán giữa các vùng trong

nớc.

Thứ năm, các nớc phát triển đặc biệt là Mỹ luôn kêu gọi các nớc đang phát triển mở

cửa tự do hàng nông sản, nhng lại bảo hộ thị trờng của mình gây nên sự bất bình đẳng và

ảnh hởng tiêu cực đến khu vực nông nghiệp của các nớc đang phát triển.

Thứ sáu, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng là một thách thức không

nhỏ đối với các nớc đang phát triển. Các nớc đang phát triển gặp khó khăn lớn trong việc

thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật do thiếu cơ sở kĩ thuật và

chuyên môn pháp lý,không đủ khả năng đầu t trong một thời gian quá ngắn. Nhiều nớc

phát triển đã dựa vào điểm yếu của các nớc đang phát triển là hàng nông sản của họ không

đủ điều kiện về an toàn lơng thực để hạn chế nhập hàng nông sản từ các nớc này.

Thách thức cuối cùng của hiệp định AoA đối với các nớc đang phát triển là: theo cam

kết của AoA, các nớc đang phát triển không đợc chi để hỗ trợ các nhà sản xuất trong nớc

quá 10% tổng giá trị của ngành nông nghiệp, còn các nớc phát triển là 5%. Tuy nhiên, trên

thực tế nhiều nớc phát triển đã chi quá 50% để hỗ trợ cho các nhà sản xuất của mình, các

khoản chi này lại đợc coi là hợp pháp theo cam kết của họ trong AoA. Còn các nớc đang

phát triển lại không đủ khả năng tài trợ ngay chỉ mức cho phép của AoA.

Hiệp định Nông nghiệp đã mang lại cho các nớc đang phát triển những cơ hội rất rõ rệt,

nhng các thách thức đặt ra với các nớc này cũng rất lớn. Chính vì vậy, chính phủ các nớc

đang phát triển cần phải có những chính sách thích ứng nhằm phát triển, củng cố và hiện

đại hóa nền nông nghiệp nội địa, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.

2.2.2 Hiệp định về hàng dệt may.

2.2.2.1 Nội dung.

Cũng giống nh hàng nông sản, hàng dệt may cũng là một vấn đề khó khăn nhất trong

WTO, cũng nh trong hệ thống GATT trớc đây. Trớc vòng đàm phán Uruguay, thơng mại

hàng dệt may đợc điều chỉnh bởi hiệp định đa sợi (MFA). Đây là khuôn khổ cho các thoả

thuận song phơng, cũng nh các hoạt động mang tính đơn phơng, thiết lập quota ,hạn chế

số lợng hàng nhập khẩu. Hệ thống này rất bất lợi cho các nớc đang phát triển vốn rất có

tiềm năng trong lĩnh vực này.

Kể từ năm 1995, Hiệp định thơng mại hàng dệt và may mặc (ATC) đã đợc ký kết và có

hiệu lực, thay thế cho hiệp định đa sợi (MFA). Hiện tại hàng dệt may đang trải qua một

quá trình thay đổi cơ bản kéo dài 10 năm, đợc các nớc chấp nhận tại vòng đàm phán

Uruguay.Theo đó đến năm 2005, hệ thống quota xuất khẩu đợc áp dụng rộng khắp trong

thơng mại hàng dệt may từ những năm 60 sẽ đợc bãi bỏ, các nớc nhập khẩu sẽ không đợc

phân biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu với nhau. Khi đó Hiệp định dệt may sẽ không tồn

tại nữa. ATC là hiệp định duy nhất của WTO tự đa ra thời hạn chấm dứt của mình.

Theo ATC, toàn bộ sản phẩm dệt may sẽ hoàn toàn đợc hoà nhập vào hệ thống chính

sách thơng mại đa biên, quay trở lại với các quy định của GATT.

Các sản phẩm dệt may sẽ trở lại khuôn khổ của GATT trong vòng 10 năm. Bất kỳ quota

nào tồn tại trớc 31/12/1994 sẽ đợc đa vào hiệp định và sẽ diễn ra quá trình loại bỏ hay còn

gọi là các sản phẩm đợc nhất thể hoá.

Nới lỏng các hạn chế số lợng đối với các sản phẩm còn lại, từ hạn mức cơ sở đợc xác

định (với mức tối thiểu quy định). Hiệp định cũng quy định tỷ lệ % số sản phẩm phải đa

vào khuôn khổ các quy định của GATT cho mỗi giai đoạn. Tỷ lệ này đợc tính theo số

lợng nhập khẩu hàng dệt may vào năm 1990. Hiệp định ATC cũng quy định khối lợng của

quota cũng phải đợc tăng dần hàng năm và tỷ lệ tăng này phải cao hơn cho các giai đoạn

sau.

Bảng 3: Các giai đoạn thực thi ATC

(áp dụng mức nhập khẩu năm 1990 làm cơ sở)

STT

Giai đoạn

% sản phẩm đợc đa vào

Tốc độ nới lỏng hiện

GATT (gồm cả việc dỡ bỏ

nay (nếu mức năm

hạn ngạch)

1996 là 6%)

1

Từ 1/1/1995

16%

6,69% /năm

đến 31/12/1997

2

Từ 1/1/1998

17 %

8,7% /năm

đến 31/12/2001

3

Từ 1/1/2002

18%

11,05% /năm

đến 31/12/2004

4

Từ 1/1/2005

đến 31/12/2004

49%

nhất thể hoá hoàn

( tối đa )

Không còn hạn ngạch

toàn vào WTO.

ATC chấm dứt.

Hiệp định cho phép trong thời kỳ chuyển tiếp đợc áp dụng các biện pháp tự vệ. Chỉ

những thành viên đã tiến hành chơng trình “nhất thể hoá” mới đợc áp dụng các biện pháp

này. Tuy nhiên các nớc nhập khẩu phải chứng minh đợc rằng có thiệt hại nghiêm trọng

hoặc có đe dọa về thiệt hại nghiêm trọng có thể xảy ra. Nớc đó cũng phải chứng minh

thiệt hại đó là kết quả của hai yếu tố: tăng nhập khẩu từ tất cả các nguồn và tăng đáng kể

từ nguồn một nớc xuất khẩu nhất định. Hiệp định cũng dự tính đối xử đặc biệt đối với một

số nhóm nớc: nớc mới tham gia thị trờng, nớc nhỏ và nớc chậm phát triển nhất. WTO có

một cơ quan giám sát hàng dệt (TMB), giám sát việc thực hiện hiệp định.

2.2.2.2 Những cơ hội.

Hàng dệt may là lĩnh vực các nớc đang phát triển có lợi thế và tiềm năng phát triển cao.

Hiệp định dệt may đợc ký kết đã thể hiện đợc lợi ích thiết thực đối với các nớc đang phát

triển. Nhiều nớc phát triển đã cho rằng: mở cửa lĩnh vực này là đem lại lợi ích nhất cho

các nớc đang phát triển.

Cũng giống nh mặt hàng nông sản, tự do hoá thơng mại hàng dệt may đã khiến cho thị

trờng xuất khẩu sản phẩm dệt may của các nớc đang phát triển đợc mở rộng. Khi hạn

ngạch đợc xoá bỏ, các nớc đang phát triển có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận thị

trờng thế giới, không còn bị hạn chế về khối lợng xuất khẩu, gia tăng đáng kể cơ hội xuất

khẩu mặt hàng này. Sản phẩm dệt may từ các nớc đang phát triển có thể tràn ngập thị

trờng thế giới, có thể cạnh tranh đợc với sản phẩm của các nớc phát triển.

Cạnh tranh giữa sản phẩm nội địa và nớc ngoài càng trở nên gay gắt, điều này đã khiến

cho các doanh nghiệp tại các nớc đang phát triển phải điều chỉnh lại quá trình hoạt động

sản xuất kinh doanh của mình để có thể đứng vững, cạnh tranh và giữ đợc thị phần của

mình trong nớc và mở rộng thị phần quốc tế. Chính trong quá trình chuyển đổi này, nền

công nghiệp dệt may của các nớc đang phát triển đã tiến bộ rất nhiều. Kinh nghiệm, trình

độ quản lí đợc nâng cao, công nghệ và thiết bị đợc hiện đại hóa, năng suất lao động tăng

lên, chất lợng sản phẩm dệt may ngày càng tốt hơn rất nhiều, giá thành hạ,tạo đợc thế

đứng vững hơn trong thị trờng.

Trong hiệp định ATC, các nớc phát triển đã phải ràng buộc những cam kết kỹ thuật của

họ, điều này tạo điều kiện cho các nớc đang phát triển có thể tìm hiểu trớc đợc yêu cầu

của các nớc phát triển, đối với từng loại hàng dệt may, để từ đó sản xuất và xuất khẩu sản

phẩm cho phù hợp với nhu cầu thị trờng.