intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1945 đến năm 1991

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án "Hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1945 đến năm 1991" nhằm phân tích thực trạng hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991, từ đó rút ra những nhận xét, đồng thời nêu ra những đóng góp của ĐCS Pháp đối với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế (PTCS,CNQT).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1945 đến năm 1991

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MINH THẢO HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN PHÁP TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1991 Ngành: Lịch sử Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc Mã số: 922 90 12 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÀ NỘI - 2021
  2. Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Thái Văn Long 2. TS Nguyễn Văn Du Phản biện 1: ………………………………. Phản biện 2: ……………………………… Phản biện 3: ………………………………. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi……giờ……..ngày…….tháng …. năm 202… Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Là một trong số những đảng cộng sản (ĐCS) được thành lập sớm ở châu Âu cũng như trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ĐCS Pháp đã luôn kiên trung trong cuộc đấu tranh bảo vệ các lợi ích thiết thực của giai cấp công nhân và của các tầng lớp nhân dân lao động; phấn đấu vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Qua nhiều thế hệ trưởng thành và phát triển từ cái nôi di sản cách mạng, vững vàng trong kháng chiến chống phát xít, luôn trung thành với cuộc đấu tranh vì công lý, tự do, đoàn kết, hòa bình, ĐCS Pháp đã tôi luyện nên một bản sắc cộng sản của riêng mình, luôn thể hiện mong muốn thúc đẩy và phát huy tiềm năng của người lao động trong xã hội. Hơn nữa từ năm 1945 đến năm 1991, ĐCS Pháp là một trong số những tổ chức đảng ở châu Âu đã trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân (PTCN) đấu tranh chống lại giới chủ tư bản nhằm bảo vệ những lợi ích thiết thực của người lao động, phấn đấu vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, ĐCS Pháp đã giành được vị trí đứng đầu trong lực lượng cánh tả và có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của PTCN Pháp nói riêng, PTCN châu Âu nói chung. Có thể nói rằng, những điều chỉnh của giới chủ tư bản đối với người lao động tại các nước châu Âu nói chung, ở Pháp nói riêng từ năm 1945 đến năm 1991 có một phần nguyên nhân từ cuộc đấu tranh không mệt mỏi của nhân dân lao động ở đây và sự đóng góp của ĐCS Pháp. Do đó, việc nghiên cứu hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991 sẽ góp phần làm giàu thêm nhận thức và kinh nghiệm lãnh đạo của ĐCS trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (GCCN) trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc và nhân loại. Thực tiễn đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng theo hướng đa phương của Việt Nam cho thấy, việc nghiên cứu về hệ thống chính trị, về đảng chính trị… của các nước trên thế giới, nhất là một đảng chính trị như ĐCS Pháp (ra đời ở đất nước đã áp đặt chế độ thực dân tại Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ), nhằm có cách nhìn khách quan và nhận thức đúng đắn về bản chất của các nhà nước tư sản hiện đại, của hệ thống chính trị cũng như các đảng chính trị ở các nước tư bản phương Tây… để từ đó đúc rút kinh nghiệm nhằm vận dụng trong quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một việc làm cần thiết.
  4. 2 Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài "Hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1945 đến năm 1991" để viết luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích của luận án Phân tích thực trạng hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991, từ đó rút ra những nhận xét, đồng thời nêu ra những đóng góp của ĐCS Pháp đối với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế (PTCS,CNQT). 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Phân tích những nhân tố chủ yếu tác động đến hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. - Phân tích hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. - Nhận xét về hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. - Phân tích những đóng góp của ĐCS Pháp đối với PTCS,CNQT thể hiện trước hết và trực tiếp nhất qua những đóng góp đối với phong trào cộng sản, công nhân (PTCS,CN) Tây Âu, đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với ĐCS Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quá trình hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991 trên ba nội dung chính: hoạt động lý luận, hoạt động tổ chức và các hoạt động khác (bao gồm: đấu tranh nghị trường, hoạt động trong phong trào công nhân và công đoàn, đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ xã hội, giải phóng dân tộc; những đóng góp đối với PTCS,CNQT (thể hiện qua đóng góp đối với PTCS,CN Tây Âu và rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với ĐCS Việt Nam) Về không gian: ĐCS Pháp là đảng chính trị có ảnh hưởng lớn trong PTCS,CN Tây Âu, luôn chủ trương ủng hộ, đoàn kết, mở rộng hợp tác với GCCN và nhân dân lao động ở các nước Tây Âu và thế giới trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập, giải phóng dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991,
  5. 3 luận án tập trung trọng điểm nghiên cứu ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) Tây Âu và mở rộng vào hai quốc gia thuộc địa cũ của đế quốc Pháp là Việt Nam, Angiêri, trong đó tập trung một dung lượng nhất định cho mối quan hệ của ĐCS Pháp với ĐCS Việt Nam thời kỳ này. Về thời gian: Luận án giới hạn sự nghiên cứu từ năm 1945 (là thời điểm kết thúc Chiến tranh thế giới thứ Hai) đến năm 1991 (là thời điểm ĐCS Liên Xô giải tán và PTCS,CNQT lâm vào khủng hoảng trầm trọng). Tuy nhiên, luận án cũng khái quát hoạt động của ĐCS Pháp từ khi ra đời (năm 1920) đến trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ Hai (năm 1945) làm cơ sở phân tích cho thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1991. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, những nhận định đánh giá của ĐCS Việt Nam về PTCS,CNQT; các chủ trương, chính sách nêu trong cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết và các phát biểu của lãnh đạo ĐCS Pháp. Tác giả coi đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý luận, khoa học và thực tiễn giúp cho việc định hướng tư tưởng khi nghiên cứu đề tài luận án Mọi nhận định, đánh giá trong luận án sẽ được xây dựng trên cơ sở phân tích, khái quát những dữ kiện thực tế, những văn kiện, tư liệu gốc và tư liệu từ các nguồn trích dẫn tin cậy, đồng thời luận án kế thừa một cách có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài luận án. - Về phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; hệ thống phương pháp luận sử học mác xít, thống nhất giữa phương pháp nghiên cứu lịch sử và lôgíc. Các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, đối chiếu, thống kê được vận dụng thích hợp đối với việc nghiên cứu từng nội dung cụ thể để trình bày nội dung luận án. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án trình bày có hệ thống quá trình hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991, đặt trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp ảnh hưởng mạnh mẽ đến PTCN và hoạt động của các lực lượng cánh tả Pháp. Tuân theo phương pháp tiếp cận của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với lịch sử PTCS,CNQT, nghiên cứu sinh tập trung phân tích sự tác động qua lại của các nhân tố quốc tế và trong nước đối với hoạt
  6. 4 động phát triển lý luận và quan điểm chính trị cũng như đối với hoạt động thực tiễn của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. - Trên cơ sở những dữ liệu khoa học được thực hiện thời kỳ này và các nghiên cứu mới của các nhà sử học mácxít cũng như của các nhà lãnh đạo và các nhà lý luận, các nhà sử học của ĐCS Pháp, nghiên cứu sinh tập trung phân tích và đưa ra nhận xét về quá trình hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. Thông qua đó, luận án khẳng định rằng, mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức lớn và còn những hạn chế chưa được khắc phục, song ĐCS Pháp đã chứng tỏ là lực lượng đi đầu tất cả các lực lượng dân chủ và yêu nước thời kỳ này trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ các quyền lợi của GCCN và nhân dân lao động, kiên trì giữ vững nguyên tắc quốc tế vô sản ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử. Luận án hệ thống và làm rõ một số đóng góp quan trọng của ĐCS Pháp vào PTCS,CNQT (thể hiện trực tiếp và trước hết qua đóng góp của ĐCS Pháp đối với PTCS,CN Tây Âu) từ năm 1945 đến năm 1991. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Tính chất đa dạng của những yếu tố tác động vào cuộc đấu tranh của GCCN, những điều kiện không giống nhau ở mỗi nước, sự đan xen giữa các tình huống khác nhau ở trong nước và quốc tế, tất cả những điều đó đã tác động sâu sắc đến PTCS,CN Tây Âu nói chung và quá trình phát triển của ĐCS Pháp nói riêng từ năm 1945 đến năm 1991. Thông qua nghiên cứu của mình, tác giả phân tích quá trình hoạt động của ĐCS Pháp, chỉ ra những khuynh hướng chính yếu, quyết định nhất trong hoạt động của đảng cũng như những đóng góp của đảng đối với PTCS,CN ở Tây Âu thời kỳ này. Kết quả nghiên cứu đạt được của luận án là đóng góp vào việc tìm hiểu một cách cơ bản, hệ thống về hoạt động của ĐCS Pháp, trên cơ sở đó thấy rõ hơn vai trò động lực của ĐCS Pháp trong PTCN Pháp, ảnh hưởng và vị thế của đảng trong lực lượng cánh tả Pháp nói riêng và lực lượng cộng sản, cánh tả Tây Âu nói chung từ năm 1945 đến năm 1991. Luận án góp phần khẳng định mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa ĐCS Pháp và ĐCS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về PTCS,CNQT, trong nghiên cứu hệ thống đảng chính trị phương Tây và quan hệ của ĐCS Việt Nam với ĐCS các nước tư bản phát triển Tây Âu nói chung, với ĐCS Pháp nói riêng.
  7. 5 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án có kết cấu gồm 4 chương, 11 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và nước ngoài với số lượng đông đảo, đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến nhiều nội dung của đề tài luận án. Tựu chung, có những nội dung sau đây: Đối với các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, luận án tập trung khai thác có chọn lọc các công trình liên quan đến hệ thống chính trị nước Pháp, lịch sử Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động của ĐCS Pháp trong PTCN Pháp và PTCS châu Âu. Có thể khái quát các đóng góp của các công trình nêu trên ở một số nội dung chủ yếu sau đây: Thứ nhất, đưa ra bức tranh toàn cảnh về nền chính trị đương đại Pháp và các chính đảng của nó dưới tác động của bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế đặc thù từ năm 1945 đến năm 1991. Thứ hai, phân tích ảnh hưởng của Hiến pháp năm 1958 và sự ra đời của nền Cộng hòa thứ Năm đối với cục diện chính trị nước Pháp và tương quan cạnh tranh quyền lực giữa các đảng chính trị của Pháp. Thứ ba, mặc dù các tác giả đều thừa nhận tính dân chủ của hệ thống đảng chính trị Pháp song lại chưa phân tích rõ mối liên quan của các đảng chính trị với lợi ích của các tầng lớp xã hội hay vấn đề mâu thuẫn lợi về lợi ích giữa các đảng chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Thứ tư, tính giai cấp của ĐCS Pháp có được đề cập đến nhưng chưa được phân tích sâu sắc. Thứ năm, số liệu thống kê của các tài liệu đôi lúc còn có sự khác biệt, do đó, khi sử dụng tác giả lựa chọn sử dụng số liệu từ các ấn phẩm của các nhà xuất bản có uy tín. Đối với các công trình nghiên cứu ở trong nước, luận án tập trung khai thác các công trình khoa học theo hai mảng nội dung chính sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã khắc họa những nét chủ yếu nhất, khái quát nhất về sự phát triển của PTCS,CN ở Tây Âu và trên toàn thế giới, trong đó có đề cập đến hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. Tuy nhiên các công trình này chủ yếu chỉ mới đề cập đến ĐCS Pháp như một nhân tố trong một tổng thể chung của tình hình PTCS,CN ở các nước tư bản
  8. 6 Tây Âu, chưa có công trình nghiên cứu về ĐCS Pháp như một đối tượng nghiên cứu trung tâm, độc lập. Thứ hai, chưa có công trình nghiên cứu thực sự sâu sắc và có hệ thống về vấn đề tương quan lực lượng giữa các chính đảng trong hệ thống chính trị và mối quan hệ tác động qua lại giữa hệ thống đảng phái và chính quyền mà vấn đề này chỉ được đề cập sơ qua khi giải thích một sự kiện chính trị cụ thể. 1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU Luận án tiếp tục nghiên cứu về những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, phân tích những nhân tố chủ yếu tác động đến hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991 bao gồm các nhân tố quốc tế và nhân tố trong nước. Về những nhân tố quốc tế, luận án tập trung phân tích sự thay đổi của cục diện thế giới và khu vực Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, ảnh hưởng của các nhân tố như CNTB độc quyền nhà nước, trào lưu dân chủ xã hội, cách mạng khoa học kỹ thuật, hệ thống XHCN, PTCSQT và Tây Âu, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mỹ latinh đối với hoạt động của ĐCS Pháp. Về những nhân tố trong nước, luận án khái quát hoạt động của ĐCS Pháp trước năm 1945, vị thế và ảnh hưởng của Đảng Xã hội Pháp trong đời sống chính trị và PTCN Pháp, ảnh hưởng của Nền Cộng hòa thứ Năm. Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991 trên 3 lĩnh vực chủ yếu là: Hoạt động lý luận, Hoạt động tổ chức và Các hoạt động khác (đấu tranh nghị trường; hoạt động trong phong trào công nhân và công đoàn; đấu tranh cho hoà bình, tiến bộ xã hội, giải phóng dân tộc). Thứ ba, nhận xét về hoạt động của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991 trên hai nội dung: điểm mạnh và điểm hạn chế. Thứ tư, phân tích những đóng góp của ĐCS Pháp đối với PTCS,CNQT từ năm 1945 đến năm 1991 trên hai mặt lý luận và thực tiễn, được thể hiện tập trung và trước hết qua những đóng góp đối với PTCS,CN Tây Âu; đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với ĐCS Việt Nam trong công tác xây dựng đảng, trong việc chăm lo đến hoạt động của tổ chức công đoàn cũng như trong việc gương mẫu thực hiện các nghĩa vụ quốc tế vô sản.
  9. 7 Chương 2 MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN PHÁP TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1991 2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 2.1.1. Khái niệm về chính đảng Các học giả Việt Nam khi nghiên cứu về đảng chính trị đa phần đồng tình với khái niệm: “chính đảng (political party) biểu thị một đoàn thể chính trị được tổ chức nên nhằm tranh đoạt quyền lực nhà nước thông qua bầu cử hoặc các phương thức chính trị khác”. Khái niệm này chỉ ra được bản chất then chốt của chính đảng. 2.1.2. Khái niệm về đảng cộng sản, hoạt động của đảng cộng sản Đúc kết từ thực tiễn của PTCS,CNQT, lý luận của chủ nghĩa Mác, luận án thống nhất khái niệm ĐCS như sau: Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và hành động của Đảng. Hoạt động của các đảng cộng sản tập trung chủ yếu vào hoạt động xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. ĐCS Pháp quan niệm rằng: "ĐCS là một liên hiệp tự nguyện của những người nam nữ muốn can thiệp vào đời sống xã hội và chính trị để tự bảo vệ mình, để chống lại bất công, để góp phần cải tạo xã hội mà mục tiêu của nó là con người; để tiến hành một sự nghiệp có ích cho tình đoàn kết và cho hòa bình; và muốn tạo cho ý chí đó có quy mô toàn quốc. ĐCS Pháp hành động trong triển vọng của một CNCS có tính chất giải phóng nhân loại. Để làm cho những chủ trương của mình thắng thế, Đảng tham gia vào việc thể hiện mong muốn qua phổ thông đầu phiếu và Đảng có thiên hướng tham gia vào các thể chế, vào cả việc lãnh đạo các công việc của đất nước. Trong hành động của mình, ĐCS tự nuôi dưỡng bằng những gì tiến bộ mà tư duy và hành động của nhân loại sản sinh ra, bằng những truyền thống cách mạng của nhân dân Pháp. Đảng mở cửa không có điều kiện tiên quyết nào đối với tất cả những người nam nữ muốn hành động vì những mối quan hệ xã hội xứng đáng với con người. Là đảng viên ĐCS Pháp không đòi hỏi bất kỳ một sự từ
  10. 8 bỏ nào đối với niềm tin triết học hay tín ngưỡng của mình. Trong ĐCS hoàn toàn có đầy đủ tự do về tư tưởng và ngôn luận". 2.1.3. Quan niệm cánh tả, cánh hữu Ở Pháp, cho đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, hệ thống đảng phái vẫn mang đặc trưng được gọi là cặp đôi lưỡng cực. Cánh tả (gồm những người theo quan điểm CNXH và những người cộng sản) do ĐCS (tên viết tắt tiếng Pháp: PCF) và từ đầu thập niên 80 là Đảng Xã hội (tên viết tắt tiếng Pháp: PS) chiếm vị trí chi phối. Còn cánh hữu (gồm những người theo phái Charles de Gaulle, những người trung dung và những người theo chủ nghĩa tự do) bị chi phối bởi đảng Liên minh những người dân chủ vì nền cộng hòa (UDR) và tiếp sau đó là đảng Tập hợp vì nền cộng hòa (RPR). 2.2. NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN PHÁP TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1991 2.2.1. Nhân tố quốc tế Một là, sự thay đổi của cục diện thế giới và khu vực Tây Âu: sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc, cục diện thế giới nói chung, khu vực Tây Âu nói riêng có những thay đổi cơ bản và sâu sắc, bị chi phối bởi vai trò to lớn của hai cường quốc Xô - Mỹ (tiêu biểu cho hai con đường phát triển của lịch sử: XHCN và TBCN). Thế giới vận hành theo trật tự hai cực trong gần nửa thế kỷ, từ năm 1945 đến cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ XX - và thời kỳ này còn được gọi dưới cái tên "thời kỳ Chiến tranh Lạnh". Hai là, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước: sự phát triển của CNTB độc quyền nhà nước mang tính liên tục, bao trùm lên tất cả các nước TBCN và đã dẫn tới những biến động cơ bản trong hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc của xã hội tư bản. Tình hình trên buộc các ĐCS Tây Âu nói chung, ĐCS Pháp nói riêng phải đề ra chủ trương, chiến lược, cương lĩnh cụ thể cho cuộc đấu tranh chung chống lại cách chính sách phản động của CNTB độc quyền nhà nước. Ba là, trào lưu dân chủ xã hội: Từ năm 1945 đến năm 1991, PTCN ở các nước Tây Âu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hai trào lưu: dân chủ xã hội và cộng sản chủ nghĩa. Lịch sử đã minh chứng việc thiết lập được mối liên minh giữa hai lực lượng này có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của lực lượng cánh tả và PTCN Tây Âu và điều này chỉ đạt được khi khuynh hướng thiên tả chiếm ưu thế trong các đảng dân chủ xã hội.
  11. 9 Bốn là, cách mạng khoa học công nghệ: cách mạng khoa học công nghệ đã đem lại những thay đổi mang tính bước ngoặt tác động đến kết cấu xã hội của các nước TBCN Tây Âu: thành phần lao động thuộc tầng lớp trung gian cũng tăng lên, trong khi đó số lượng công nhân công nghiệp truyền thống lại giảm sút. Cách mạng khoa học công nghệ không chỉ tạo ra những chuyển biến quan trọng trong sản xuất, xã hội của CNTB mà còn là cơ sở khách quan cho sự phát triển về lý luận, nhận thức và hành động của các ĐCS; đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy về cơ sở quần chúng, cơ sở giai cấp của ĐCS cho phù hợp với những thay đổi trong kết cấu kinh tế của xã hội. Năm là, hệ thống xã hội chủ nghĩa: Sự ra đời và phát triển lớn mạnh của hệ thống XHCN sau Chiến tranh thế giới thứ Hai đã làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng trên thế giới theo hướng có lợi cho các lực lượng cách mạng, dân chủ trong cuộc đấu tranh chống lại trật tự TBCN đang cản trở sự phát triển tiến bộ của xã hội và sự giải phóng con người. Nhân dân thế giới nói chung, nhân dân Pháp nói riêng nhận thức rõ hơn những khả năng mà các cuộc cải cách XHCN có thể mang lại những thay đổi căn bản về kinh tế, chính trị, xã hội và điều này đã tạo nên xung lực mới cho các ĐCS trên toàn thế giới nói chung, cho ĐCS Pháp nói riêng trong công cuộc lãnh đạo GCCN và các lực lượng tiến bộ đấu tranh bảo vệ các quyền lợi của dân tộc và của giai cấp. Cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc của CNXH trong thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX khiến cho toàn bộ PTCN, phong trào giải phóng dân tộc quốc tế lâm vào bước thoái trào, nhiều ĐCS đã tự giải tán, bị chia tách, đổi tên, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tình hình trên đã đặt ra cho các ĐCS Tây Âu nói chung, ĐCS Pháp nói riêng nhiệm vụ phải tìm câu trả lời cho một loạt vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn Sáu là, sự phát triển của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào cộng sản, công nhân ở các nước tư bản phát triển Tây Âu: Từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, PTCS,CNQT nói chung, ở Tây Âu nói riêng có bước phát triển mới, trở thành lực lượng chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ. Sự phát triển và đổi mới về chiến lược và sách lược của PTCSQT, thể hiện qua những văn kiện mang tính cương lĩnh được thông qua tại các hội nghị quốc tế của các ĐCS và công nhân (năm 1957, 1960, 1969), có tác dụng định hướng hoạt động của các ĐCS nói chung, ĐCS Pháp nói riêng.
  12. 10 Bảy là, phong trào giải phóng dân tộc ở Á, Phi, Mỹ latinh: Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và sự hình thành hệ thống XHCN thế giới đã mở rộng tiền đề để phong trào giải phóng dân tộc phát triển một cách sâu rộng và có tổ chức hơn. Những thành tựu mà các lực lượng XHCN và phong trào giải phóng dân tộc đạt được góp phần quan trọng củng cố vị trí của các lực lượng cộng sản nói chung, của ĐCS Pháp nói riêng. 2.2.2. Nhân tố trong nước Thứ nhất, khái quát hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp trước năm 1945: Ngay từ khi thành lập (12/1920), ĐCS Pháp nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, đóng vai trò quan trọng nhất trong phong trào kháng chiến chống phát xít. Vị thế và uy tín mà ĐCS Pháp đạt được trước năm 1945 là tiền đề cho ĐCS Pháp trở thành lực lượng hàng đầu trong chính trường Pháp từ năm 1945 đến năm 1991. Thứ hai, nền Cộng hòa thứ Năm và tình hình nước Pháp: Hệ thống chính đảng ở Pháp là hệ thống đa đảng. Nền Cộng hòa thứ Năm là thể chế chính trị có ảnh hưởng lớn mang tính bước ngoặt đến đời sống chính trị của Pháp và vẫn còn tồn tại cho đến nay. Trong nền Cộng hòa thứ Năm, hệ thống bầu cử theo đa số khiến cho các đảng buộc phải cạnh tranh trong sự liên minh nhằm giành được nhiều ghế trong Quốc hội. Vì thế, ở Pháp, việc dàn xếp liên minh được làm trước chứ không phải sau các cuộc bầu cử. Thực tế này đòi hỏi ĐCS Pháp phải tìm cách liên minh với Đảng Xã hội hay một số đảng cánh tả khác để đủ điều kiện chiếm đa số trong Nghị viện và được tham gia vào nắm giữ bộ máy quyền lực của đất nước. - Tình hình của nước Pháp luôn là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ĐCS Pháp. Từ năm 1945 đến cuối thập niên 50 của thế kỷ XX, trong nội bộ nước Pháp, tương quan lực lượng thay đổi theo hướng có lợi cho GCCN và lực lượng tiên phong của nó là ĐCS. Trong thập niên 60 và nửa đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, tình hình chính trị nội bộ ở Pháp trở nên phức tạp và đầy mâu thuẫn. Trong khi đó, sự chia rẽ sâu sắc trong GCCN (đặc biệt là xu hướng thiên hữu của bộ phận những người xã hội và cánh tả) đã ngăn cản việc sử dụng một cách có hiệu quả toàn bộ tiềm năng chiến đấu của GCCN được thể hiện ở sức mạnh và ảnh hưởng của ĐCS Pháp. Tình hình chính trị - xã hội trong nước đặt ra cho ĐCS Pháp nhiệm vụ phải đề ra phương hướng hoạt động đáp ứng được nguyện vọng và mong muốn của đại đa số quần chúng nhân dân trước những biến chuyển nhanh chóng của tình
  13. 11 hình trong nước và quốc tế. Điều này cũng lý giải cho cuộc tranh luận gay gắt trong nội bộ Đảng trước những vấn đề mang tính lý luận cốt yếu về con đường đi lên CNXH. Những thay đổi của tình hình nước Pháp nửa cuối thập niên 70 và trong thập niên 80 của thế kỷ XX trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã tác động mạnh mẽ đến ĐCS Pháp trên cả lĩnh vực tư tưởng, tổ chức và thực tiễn hoạt động; gây khó khăn nghiêm trọng cho ĐCS Pháp trong việc triển khai các phong trào đấu tranh của GCCN cũng như việc phát triển đảng viên và mở rộng ảnh hưởng. Thứ ba, vị thế và ảnh hưởng của Đảng Xã hội trong đời sống chính trị và phong trào công nhân Pháp: Đảng Xã hội cùng với Đảng Cộng sản là hai đảng mạnh nhất trong cánh tả Pháp, có uy tín và giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt trong PTCN Pháp. Đảng Xã hội chủ trương chính sách cải lương, chỉ tiến hành cải cách trong khuôn khổ trật tự tư sản. Trong tiến trình phát triển các đảng cánh tả Pháp, Đảng Xã hội được coi là đồng minh chính trị truyền thống của ĐCS. Thực tiễn phát triển của PTCN Pháp từ năm 1945 đến năm 1991 đã minh chứng việc thiết lập được sự hợp tác, liên minh chặt chẽ với Đảng Xã hội đem lại cho ĐCS đủ sức mạnh đấu tranh giành thắng lợi trên chính trường. Do đó, một trong những vấn đề quan trọng mà ĐCS Pháp thường xuyên phải giải quyết trong suốt quá trình hoạt động của mình thời kỳ này là tìm cách thiết lập liên minh với các lực lượng cánh tả, mà trước hết là với Đảng Xã hội Pháp và phải làm sao để trong liên minh đó ĐCS giữ được vị trí ưu thế và vai trò mang tính dẫn dắt, quyết định. Chương 3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN PHÁP TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1991 3.1. HOẠT ĐỘNG LÝ LUẬN Hoạt động trên lĩnh vực lý luận của ĐCS Pháp từ năm 1945 đến năm 1991 có những thay đổi cùng với biến động của thời cuộc và tình hình bên trong nước Pháp. Nếu trong giai đoạn 1945-1975, quan điểm, tư tưởng chủ đạo, dẫn dắt việc hoạch định đường lối, chính sách của ĐCS Pháp là đoàn kết, thống nhất trong PTCS, CNQT, hướng tới mục tiêu xây dựng CNXH theo mô hình Liên Xô; thì sang giai đoạn 1976-1991, ĐCS Pháp ngả sang lập trường của CNCS châu Âu, chính thức tuyên bố từ bỏ chuyên chính vô sản, chủ trương xây dựng "CNXH mang màu sắc Pháp".
  14. 12 3.1.1. Giai đoạn 1945 - 1975 3.1.1.1. Luận điểm về hệ thống XHCN và con đường đi lên CNXH Trong giai đoạn này, các nhà lãnh đạo cấp cao ĐCS Pháp luôn bày tỏ sự khâm phục đối với những tiến bộ về dân chủ mà Chính quyền Xô viết đạt được, ca ngợi công cuộc hiện thực hóa CNXH của Liên Xô cũng như tình bạn giữa những người cộng sản và nhân dân tiến bộ hai nước. ĐCS Pháp khẳng định hệ thống XHCN là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Về con đường đi lên CNXH, ĐCS Pháp chỉ rõ sự quá độ lên CNXH nhất thiết phải thông qua cách mạng XHCN, hủy bỏ bộ máy nhà nước cũ, thiết lập nền chuyên chính vô sản. Nhưng sự quá độ ấy không nhất thiết phải thông qua nội chiến. Về con đường đi lên CNXH “mang bản sắc riêng của nước Pháp": Trong hoạt động lý luận, ngay tại thời điểm mà những thành công của cuộc cách mạng XHCN ở Liên Xô đang có ảnh hưởng rất lớn, các nhà lãnh đạo ĐCS Pháp cũng đã sớm biểu lộ quan điểm riêng của mình về "con đường đi lên CNXH của nước Pháp" thông qua việc áp dụng một chương trình dân chủ, việc “thống nhất các lực lượng công nhân và các lực lượng cộng hòa”, việc tạo lập Đảng công nhân Pháp bằng việc hợp nhất các đảng cộng sản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa nhằm hướng đến “một nền dân chủ mới và mang tính nhân dân”. 3.1.1.2. Luận điểm về tập hợp lực lượng: ĐCS Pháp khẳng định đấu tranh cho việc thống nhất lực lượng chống chính sách phản động của Chính phủ Pháp, chống âm mưu gây chiến là việc cấp bách. ĐCS Pháp chỉ rõ nhiệm vụ trung tâm là phải thống nhất lực lượng GCCN và đoàn kết đông đảo quần chúng nhân dân Pháp thành một Mặt trận dân tộc thống nhất chung quanh GCCN. Về mối quan hệ với Đảng Xã hội, ĐCS Pháp đã tích cực vận động cho ý tưởng về việc hợp nhất các ĐCS với các đảng xã hội, vạch ra chương trình chi tiết để chuẩn bị hợp nhất hai đảng trên nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong việc tập hợp mặt trận thống nhất đấu tranh cho dân chủ, ĐCS Pháp nêu phương châm “gạt bỏ tất cả những cái chia rẽ, chỉ quan tâm đến những cái gì đoàn kết!” và đề nghị một hiệp nghị hành động chung giữa
  15. 13 ĐCS, Đảng Xã hội, Đảng Xã hội thống nhất và các tổ chức khác đấu tranh đòi dân chủ. 3.1.2. Giai đoạn 1976 - 1991 3.1.2.1. Luận điểm về hệ thống XHCN và con đường đi lên CNXH Trong giai đoạn này, trước những biến động phân liệt của PTCS, CNQT, những thay đổi trong nội bộ các ĐCS ở Liên Xô và Đông Âu đã khiến cho ĐCS Pháp thay đổi lập trường tư tưởng, sang lập trường CNCS châu Âu. ĐCS Pháp cho rằng chỉ có tự đổi mới bản thân mới có thể phát triển, nếu không sẽ khó tiếp tục tồn tại, phát triển. Có hai nguyên nhân chính khiến ĐCS Pháp chuyển sang lập trường chủ nghĩa cộng sản châu Âu: Một là, sức ép từ tâm lý cải lương trong xã hội. Hai là, sức ép từ chủ nghĩa đế quốc. Tại Đại hội XXII (tháng 2/1976), ĐCS Pháp chính thức tuyên bố từ bỏ chuyên chính vô sản và chủ trương phấn đấu xây dựng "CNXH mang màu sắc Pháp" thông qua con đường dân chủ, thể hiện bước ngoặt cơ bản trong tư tưởng nhận thức về con đường đi lên CNXH của ĐCS Pháp. Đồng thời, ĐCS Pháp cũng trở thành một trong những nước khởi xướng khái niệm về "chủ nghĩa cộng sản châu Âu" (eurocommunisme), quan niệm rằng CNXH có nhiều mô hình khác nhau ở những nước khác nhau, chủ trương xây dựng “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, bác bỏ con đường bạo lực cách mạng, thông qua con đường nghị trường cải biến “dân chủ” chế độ TBCN (tức là con đường thứ ba). Về mô hình XHCN ở Liên Xô: giai đoạn này trong nội bộ ĐCS Pháp diễn ra cuộc khủng hoảng về lý luận: một mặt, những người cộng sản không nhận thức rõ được sự thay đổi đang diễn ra trong xã hội và trong tính chất xung đột xã hội; mặt khác, họ không biết phải làm gì với mô hình xô viết mà họ ngày càng nhận thức rõ hơn những hạn chế của nó nhưng lại không tìm ra được mô hình để thay thế nó. Ban lãnh đạo ĐCS Pháp dần để tình huống vượt ra khỏi tầm tay và họ phản ứng một cách thực dụng và dao động, chạy theo những "nguy cơ" đối lập. Làn sóng chỉ trích Liên Xô nổi lên ngày càng mạnh mẽ. Về chủ trương xây dựng CNXH "mang màu sắc Pháp: Tại Đại hội XXIII (năm 1979), ĐCS Pháp đã đưa đưa ra luận thuyết về "CNXH tự quản", trong đó tổ chức xã hội sẽ là một "cấu trúc hài hòa gồm những tập thể tự quản và phụ thuộc lẫn nhau", còn việc quản lý xã hội thì sẽ được thực hiện "bởi chính những người lao động, chính những công dân", đồng thời tuyên bố từ bỏ
  16. 14 khái niệm "giai đoạn quá độ". Và đến Đại hội lần thứ XXVI (năm 1987) thì khái niệm “vượt qua CNTB” đã chính thức được sử dụng. 3.1.2.2. Luận điểm về tập hợp lực lượng ĐCS Pháp nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn 1976-1991 là phải cảnh giác nhằm chống lại các âm mưu phục hồi chủ nghĩa cải lương xã hội - dân chủ và phá hoại sự liên minh sẵn có giữa các lực lượng cánh tả. Theo ý kiến của ĐCS thì việc củng cố và mở rộng liên minh giữa các lực lượng cánh tả phải dẫn tới sự thành lập khối thống nhất không chỉ của GCCN, mà của tất cả các lực lượng chống tư bản độc quyền - liên minh nhân dân Pháp. Tuy nhiên, ĐCS Pháp cũng đã chú ý đến những giới hạn và những mâu thuẫn trong chiến lược liên minh quần chúng và ở một vài khía cạnh đã bắt đầu né tránh vấn đề này. Về mối quan hệ giữa ĐCS với các phong trào xã hội mới: giai đoạn 1975-1991, những người cộng sản Pháp bắt đầu nhìn nhận các phong trào xã hội mới (phong trào dân chủ, phong trào bảo vệ môi trường, phong trào chống chiến tranh, phong trào chống phân biệt chủng tộc, phong trào của người tiêu dùng, của sinh viên, phụ nữ,…) như là bộ phận cấu thành trong liên minh dân chủ rộng rãi các lực lượng chống tư bản độc quyền, chống đế quốc. ĐCS Pháp cho rằng việc phát triển quan hệ với các phong trào xã hội mới sẽ cho phép khắc phục hạn chế của việc chỉ coi trọng liên minh "ở bên trên" (liên minh với Đảng Xã hội trong chính phủ cánh tả) và do đó hạ thấp vai trò của “liên minh ở bên dưới” (quan hệ với các tổ chức xã hội), coi “liên minh ở bên dưới” chỉ là "công cụ gây áp lực" đối với bên trên. 3.2. HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC 3.2.1. Về xây dựng đảng 3.2.1.1. Giai đoạn 1945 - 1975 Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, ĐCS Pháp chủ trương tiến hành tái tổ chức, một mặt nhằm đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ và mặt khác nhằm cấu trúc lại bộ máy. Từ việc xác định nhiệm vụ quan trọng là phải tạo được sự đồng thuận và đoàn kết trong đội ngũ, ĐCS Pháp tập trung thực hiện các biện pháp chủ yếu sau: (1) Hướng dẫn, giáo dục đội ngũ đảng viên (nhất là các đảng viên mới) về quan điểm chính trị và tư tưởng của Đảng; về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản; về cách mạng Liên Xô và học thuyết của Stalin; (2) Giáo dục truyền thống lịch sử của Đảng; (3) Tích cực truyền bá hình ảnh về công cuộc xây dựng CNCS ở Liên Xô như là một hình
  17. 15 mẫu của dân chủ, công bằng xã hội nhằm gián tiếp góp phần nâng cao uy tín của ĐCS trong nhân dân nước Pháp (4) Đề ra dự án tổng thể về chính trị, kinh tế và xã hội góp phần làm cho ĐCS Pháp trở thành một đảng có sức lôi cuốn và năng động. Về đấu tranh phê và tự phê bình trong đảng: ĐCS Pháp coi đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và chỉnh đốn đảng, khẳng định "sức mạnh và khả năng chiến đấu của ĐCS là do sự áp dụng đúng đắn nguyên tắc tổ chức của Lê-nin, nguyên tắc lãnh đạo tập thể và do sự phát triển phê bình và tự phê bình quyết định". Về lực lượng đảng viên: Vào thời điểm ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, hàng ngũ ĐCS Pháp có sự giảm sút đáng kể. Từ năm 1945 đến cuối thập niên 50, số lượng đảng viên sụt giảm gần một nửa (từ 785.292 xuống còn 300.000), một mặt là do nhiều đảng viên hy sinh trong cuộc chiến đấu ác liệt đánh đuổi phát xít Đức và mặt khác là do một số lượng đảng viên từ bỏ hàng ngũ cộng sản. Tuy vậy, thời kỳ này ĐCS cũng được đón nhận rất nhiều đảng viên mới, là những người đến với đảng bằng lòng nhiệt tình tham gia đóng góp sức mình vào công cuộc kháng chiến và giải phóng đất nước. Từ đầu thập niên 60 đến năm 1975, số lượng đảng viên không ngừng gia tăng (từ 300.000 lên 491.000). Thành phần công nhân vẫn chiếm đa số trong cơ cấu xã hội của ĐCS Pháp, song đồng thời Đảng cũng ngày càng bổ sung thêm vào hàng ngũ của mình những đại diện thuộc các thành phần khác trong xã hội (viên chức, sinh viên, trí thức, đại diện các tầng lớp trung lưu,…). Điều này phản ánh sự mở rộng mối liên hệ của những người cộng sản với các tầng lớp trong xã hội có hoàn cảnh và thiên hướng chính trị gần gũi với GCCN. 3.2.1.2. Giai đoạn 1976-1991 Những diễn biến của tình hình chính trị trong nước và quốc tế đặt ra cho ĐCS Pháp nhiệm vụ phải xúc tiến quá trình đổi mới, được đánh dấu khởi đầu từ Đại hội XXII (1976) và tiếp tục kéo dài sang thập niên tiếp theo, đó là: "xây dựng quan niệm về ĐCS kiểu mới thoát khỏi sự trói buộc của chủ nghĩa giáo điều, để cho mỗi cá nhân (không phải là quần chúng nhân dân như trước kia thường nói) ở vào vị trí trung tâm trong chính trị, vì vậy mà mới có đất phát triển ở Pháp". Về lực lượng đảng viên: Số lượng đảng viên của ĐCS Pháp dần dần suy giảm(từ 520.000 đảng viên vào năm 1978 xuống còn 330.000 đảng viên vào 1987) và quá trình sụt giảm này vẫn tiếp tục trong những năm sau. Việc tăng
  18. 16 đội ngũ đảng viên về số lượng, việc mở rộng mối liên hệ với quần chúng thực sự trở thành một trong những nhiệm vụ bức bách nhất của ĐCS Pháp. 3.2.2. Về tập hợp lực lượng 3.2.2.1. Giai đoạn 1945-1975 Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp và dân chủ trong nước, những hoạt động mạnh mẽ về lý luận và chính trị của ĐCS đã mở rộng thêm những tiền đề để tăng cường sự thống nhất của các lực lượng dân chủ. Năm 1972, ĐCS Pháp ký với Đảng Xã hội và Phong trào cấp tiến cánh tả Chương trình cầm quyền chung (còn được gọi là Cương lĩnh cầm quyền chung) của cánh tả, chính thức tung ra Chiến lược Thống nhất cánh tả. Trên thực tế, cho dù hai bên đã xích lại gần nhau một cách đáng kể, mối quan hệ giữa ĐCS và Đảng Xã hội thời kỳ này cũng có nhiều diễn biến phức tạp. ĐCS Pháp cũng chủ trương phát triển liên minh với tầng lớp tiểu tư sản thành thị trong cuộc đấu tranh vì những lợi ích chung, cũng như nhằm bảo vệ những yêu sách đặc thù của từng nhóm xã hội và từng tầng lớp xã hội nếu những yêu sách ấy không đi ngược lại lợi ích của GCCN. 3.2.2.2. Giai đoạn 1976 - 1991 Trong giai đoạn này, cùng với việc số lượng đảng viên sụt giảm, số lượng cử tri ủng hộ ĐCS Pháp cũng ngày một giảm đi. Mặc dù vậy, trong thời điểm khó khăn này, những người cộng sản Pháp vẫn kiên trì hoạt động trong các tổ chức công đoàn, trong nhân dân lao động và các tầng lớp nhân dân, nhất là giới sinh viên, tri thức, nhằm mục tiêu tranh thủ sự ủng hộ và huy động được sự tham gia tích cực của lực lượng này vào các phong trào mang tính chất quần chúng. Về mối quan hệ giữa ĐCS và Đảng Xã hội: từ cuối thập niên 70 trở đi, mối quan hệ giữa hai đảng hàng đầu cánh tả ngày càng trở nên xa cách. ĐCS Pháp dù khẳng định "vẫn kiên quyết ủng hộ liên minh các lực lượng cánh tả" song đã chuyển hướng sang nhiệm vụ xây dựng "liên minh mới của đa số nhân dân" thông qua việc tăng cường quan hệ với các phong trào xã hội mới 3.3. CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC 3.3.1. Đấu tranh nghị trường 3.3.1.1. Giai đoạn 1945 - 1975 Từ sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc đến cuối thập niên 50 của thế kỷ XX, trên cơ sở uy tín vững chắc đã tạo dựng được trong xã hội Pháp, ĐCS Pháp nỗ lực thực hiện mục tiêu tham gia vào Chính phủ, thể hiện
  19. 17 qua 3 nội dung nổi bật: (1) Đảng Cộng sản Pháp chủ trương xích lại gần lực lượng của Chính phủ De Gaulle; (2) Đảng Cộng sản Pháp giành được những thắng lợi lớn trong bầu cử (năm 1945 và năm 1946); (3) các bộ trưởng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp bị gạt khỏi Chính quyền (năm 1947). Từ thập niên 60 đến nửa đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, quá trình xích lại gần nhau giữa những người cộng sản và những người xã hội chủ nghĩa đã chững lại và trở nên phức tạp. Mặc dù quan hệ chính trị giữa ĐCS và Đảng Xã hội có những bước tiến triển tuy nhiên sự xích lại gần nhau giữa những người cộng sản và những người xã hội chưa thật trọn vẹn và không vững chắc. 3.3.1.2. Giai đoạn 1976 - 1991 Những thắng lợi lớn của sự nghiệp thống nhất GCCN Pháp đã mau chóng bị phá vỡ bởi cuộc khủng hoảng trong liên minh các lực lượng cánh tả. Sau những thất bại của lực lượng cánh tả tại cuộc bầu cử nghị viện năm 1978, cuộc đấu khẩu trong phe tả càng trở nên khốc liệt hơn liên quan đến những bất đồng về hàng loạt vấn đề đối nội, đối ngoại và nhận định khác nhau về nguyên nhân dẫn tới kết cục bất thuận lợi của cuộc bầu cử lại khiến cho quan hệ giữa các đảng cánh tả càng thêm xấu đi. Thất bại trong bầu cử nghị viên năm 1978 cũng khiến cho quyền lãnh đạo cánh tả hoàn toàn trượt khỏi tay của ĐCS Pháp: Đảng Xã hội của F. Mitterrand đảm nhận vai trò lãnh đạo cánh tả. Tuy nhiên, là một trong hai lực lượng chủ chốt của phái tả và nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của mình trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện các yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân lao động, ĐCS Pháp vẫn tích cực dồn phiếu ủng hộ cho ứng cử viên F. Mitterrand của Đảng Xã hội trong cuộc bầu cử tổng thống Pháp năm 1981, góp phần quan trọng vào việc F. Mitterrand được bầu làm Tổng thống Pháp theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Trong năm đầu tiên của "cuộc thử nghiệm của cánh tả" ở Pháp (1981-1982), chính phủ với tuyệt đại đa số thành viên là đảng viên xã hội và 4 bộ trưởng thuộc ĐCS Pháp đã thực hiện đường lối tiến hành những cải cách tiến bộ, phục vụ quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên, hiệu quả của chính sách cải cách này bị hạn chế do thiếu kiên quyết và triệt để trong việc chống lại tư bản độc quyền, và vì vậy còn mang tính cải lương và không thể chống lại sự kháng cự của các thế lực tư bản độc quyền Pháp. Ngay trong năm hoạt động thứ hai, Chính phủ cánh tả bắt đầu nhượng bộ trước áp lực của các lực lượng tư bản độc quyền: Đa số thành viên ban lãnh đạo của Đảng Xã hội ngả về quan điểm cho rằng việc thực hiện
  20. 18 không thể thực hiện đường lối hướng đến những cải cách xã hội do điều kiện quốc tế và khu vực không thuận lợi. Bước ngoặt này được củng cố vào năm 1984 bằng việc cải tổ nội các và việc ban hành chính sách mới với những mục tiêu khác hẳn với những mục tiêu đề ra vào thời điểm đầu nhiệm kỳ. Điều này đánh dấu sự thất bại của Chính phủ cánh tả trong việc thực hiện "đoạn tuyệt với CNTB" khi mà về cả phương diện kinh tế và chính trị vẫn không thoát ra khỏi khuôn khổ hệ thống TBCN và do đó không thể chống lại sự phản công của các lực lượng phản động. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho các đại diện của ĐCS Pháp thấy cần thiết phải từ bỏ tham gia Chính phủ và cũng là yếu tố làm suy giảm uy tín của các lực lượng cánh tả trong đời sống chính trị - xã hội Pháp. Sự suy giảm vai trò của ĐCS trong các lực lượng cánh tả nói riêng và trên chính trường còn được thể hiện qua các kết quả liên tục sụt giảm trong các cuộc bầu cử nghị viện châu Âu các năm 1979, 1984 và 1989. Kết quả nói trên cũng phản ánh cuộc khủng hoảng sâu rộng trong nội bộ ĐCS Pháp. Thất bại liên tiếp trong các cuộc bầu cử các cấp đã làm dấy lên một làn sóng chỉ trích và những yêu cầu đòi phải tiến hành đổi mới trong Đảng. Dù vẫn đạt được những thành công trong phong trào công đoàn và trong sự tham gia của những người cộng sản vào Chính phủ song trong suốt thập kỷ 80 của thế kỷ XX, ĐCS Pháp phải đối mặt với một thời kỳ suy sụp nghiêm trọng và phải tìm cách vượt qua những khó khăn, cản trở vô cùng lớn để xây dựng nên một đường lối chính trị thỏa mãn đồng thời cả yêu cầu lưu giữ truyền thống của Đảng, yêu cầu giải quyết các cuộc xung đột trong nội bộ Đảng và yêu cầu phục hồi vị thế của Đảng trước nguy cơ bị gạt ra ngoài lề của đời sống chính trị xã hội Pháp. 3.3.2. Hoạt động trong phong trào công nhân và công đoàn 3.3.2.1. Giai đoạn 1945 - 1975 Từ năm 1945 đến cuối thập niên 50, với vị thế và ảnh hưởng trong Quốc hội và Chính quyền, ĐCS Pháp tập trung triển khai các chính sách nhằm thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội và kiến thiết đất nước, đặc biệt là việc phát động “trận chiến vì sản xuất” để tái thiết đất nước và nêu cao khẩu hiệu đòi quốc hữu hóa các công ty độc quyền. Trong thập niên 60 và nửa đầu thập niên 70, ĐCS Pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh quần chúng, đoàn kết GCCN và củng cố hàng ngũ của GCCN, tỏ rõ quyết tâm phấn đấu cho sự thống nhất tất cả các lực lượng chính trị chủ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2