
Thuật ngữ “tín dụng- credit” ở đây được dùng theo nghĩa rộng, nghĩa là “tín
nhiệm”, chứ không phải để chỉ “một khoản cho vay” theo nghĩa thông thường.
Điều này được thể hiện rõ trong trường hợp khi người NK ký quỹ 100% giá trị của
L/C, thì thực chất ngân hàng không cấp bất cứ một khoản tín dụng nào,mà chỉ cho
người NK “vay” sự tín nhiệm của mình. Ngay cả trong trường hợp nhà NK không
hề ký quỹ, thì một khoản tín dụng thực sự chỉ có thể xảy ra khi ngân hàng phát
hành L/C tiến hành trả tiền cho nhà XK và ghi nợ nhà NK. Như vậy, thuật ngữ “tín
dụng” trong phương thức TDCT chỉ thể hiện khoản “tín dụng trừu tượng” bằng lời
hứa trả tiền của ngân hàng thay cho lời hứa trả tiền của nhà NK, vì ngân hàng có
tín nhiệm hơn nhà NK.
Như vậy, trong phương thức TDCT, ngân hàng không chỉ là người trung gian thu
hộ, chi hộ, mà còn là người đại diện cho nhà NK thanh toán tiền hàng cho nhà XK,
bảo đảm cho nhà XK nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ đã cung
ứng. Đồng thời, ngân hàng còn là người đảm bảo cho nhà NK nhận được số lượng
và chất lượng hàng hoá phù hợp với bộ chứng từ và số tiền mình bỏ ra.
Rõ ràng là, nhà NK có cơ sở để tin chắc rằng, ngân hàng sẽ không trả tiền trước khi
nhà XK giao hàng, bởi vì điều này đòi hỏi nhà XK phải xuất trình bộ chừng từ gửi
hàng.Trong khi đó, nhà XK tin chắc rằng sẽ nhận được tiền hàng XK nếu anh ta