
Trẻ tự kỷ có thể câm suốt đời
Theo thống kê của thế giới, 50% trẻ tự kỷ có thể không
bao giờ biết nói và cần được giáo dục cách giao tiếp
không qua lời nói và khoảng 80% kèm theo chậm phát
triển trí tuệ. Hằng ngày đơn vị tâm lý của bệnh viện Nhi
Đồng 1 vẫn thường xuyên tiếp nhận nhiều trẻ đến khám
rối loạn tự kỷ với nhiều mức độ khác nhau.
Bệnh tự kỷ ảnh hưởng rất lớn đến sự giao tiếp của trẻ.

Tự kỷ không phải là tự kỷ ám thị. Tự kỷ còn được gọi là
“rối loạn phát triển lan toả” có nghĩa là rối loạn này ảnh
hưởng trên sự phát triển của trẻ bằng nhiều cách. Trẻ khó
giao tiếp và tương tác với người khác. Đặc biệt hay có
những hành vi lặp đi lặp lại, thích sống một mình, kèm theo
chậm phát triển trí tuệ và chậm nói.
Dấu hiệu trẻ bị tự kỷ
Cho đến nay chưa ai tìm ra được nguyên nhân của tự kỷ,
mặc dù thế giới không ngừng nghiên cứu về loại rối loạn
này. Có những yếu tố góp phần trong rối loạn tự kỷ như di
truyền hoặc một số tổn thương não. Tuy nhiên tự kỷ không
phải do lỗi của cha mẹ thiếu chăm sóc hoặc do phản ứng
vắcxin tiêm chủng. Những dấu hiệu tự kỷ đầu tiên thường
xuất hiện trước ba tuổi. Bằng giáo dục và thực hành, một số
nhà lâm sàng có khả năng xác định những dấu hiệu báo
động ở trẻ dưới một tuổi. Tuy nhiên thường từ 15 đến 18
tháng tuổi là thời gian các bậc phụ huynh cần lưu ý sự
chậm hoặc mất một số kỹ năng trong sự phát triển của trẻ.

Nếu thấy trẻ có những dấu hiệu dưới đây nên đưa ngay đến
khám với một chuyên viên tâm lý tại các bệnh viện nhi
hoặc tâm thần nhi:
Chậm phát triển ngôn ngữ và xã hội: trẻ có vẻ sống trong
thế giới riêng tư, kém tiếp xúc mắt và không đáp ứng khi
được gọi tên. Lúc đầu phụ huynh có thể nghĩ trẻ có vấn đề
về thính lực. Ngoài ra, trẻ không dùng ngón trỏ để chỉ các
đồ vật trẻ cần hoặc quan tâm và không nói những từ đơn
giản như gọi “ba, mẹ” lúc một tuổi. Trẻ chậm hoặc không
nói. Cũng có một số ít trẻ nói được và có triệu chứng nhẹ
hơn, được gọi là hội chứng Asperger.
Hành vi rập khuôn, lặp đi lặp lại: trẻ không khởi xướng
hoạt động, không biết luân phiên, không có khả năng chia
sẻ vui thích… Cách dùng bàn tay và ngón tay cũng bất
thường (không chỉ bằng ngón trỏ một đồ vật để người khác
nhìn) hoặc rập khuôn, không phản ứng với kích thích giác
quan, ít hoặc không tưởng tượng. Trẻ không thích chơi giả
bộ (thay vì đút cho búp bê hoặc gấu bông uống sữa thì trẻ
thích xếp đồ chơi như ôtô thành hàng dài thật ngay ngắn).

Trẻ khó thay đổi thói quen hằng ngày như chỉ thích ăn vài
loại thức ăn, từ nhà đến trường qua con đường quen thuộc.
Nếu thay đổi thói quen đó trẻ dễ nổi cáu, la hét để phản
đối…
Giảm trí thông minh: các khó
khăn giao tiếp sẽ làm cho trẻ khó
theo học trong các trường bình
thường. Khả năng tiếp nhận kiến
thức cũng chậm. Trẻ thường tập
trung vào các chi tiết nhỏ như
quan tâm đến bánh xe thay vì
toàn xe ôtô. Một số trẻ có biệt tài
như vẽ tranh, thuộc lòng một số nhãn hiệu xe, đếm số giỏi,
tự biết đọc rất sớm, chơi một nhạc cụ sau khi nghe tiếng
đàn. Trẻ cũng khó kiểm soát cơn giận, kháng cự với sự thay
đổi và quá hoặc kém nhạy cảm với một số đồ vật, âm
thanh…
Ngoài những khiếm khuyết trên, trẻ tự kỷ có biểu hiện lo
lắng như hốt hoảng và bấn loạn khi bị tách lìa khỏi cha mẹ
“Hiện trên thế giới có
hàng trăm phương pháp
điều trị tự kỷ. Tuy nhiên
chúng ta cần biết rằng
các phương pháp này
giúp chăm sóc trẻ hơn là
chữa lành trẻ”.

và nhà cửa; không chịu đến nhà trẻ hay trường mẫu giáo;
bồn chồn và dễ bực bội; ngủ không yên và có ác mộng;…
Điều trị sớm sẽ cứu được trẻ
Trẻ tự kỷ sẽ phát triển tốt nhất nếu được phát hiện sớm và
can thiệp một cách phù hợp. Cũng giống như trẻ bình
thường, phụ huynh có thể hỗ trợ trẻ tự kỷ bằng cách trở
thành một người chăm sóc trẻ đầy yêu thương, tích cực,
sáng tạo với sự tôn trọng những sở thích và hiểu biết những
điểm mạnh (để giúp trẻ phát huy) cũng như những thách
thức (để giúp trẻ vượt qua). Hiện trên thế giới có hàng trăm
phương pháp điều trị tự kỷ. Tuy nhiên chúng ta cần biết
rằng các phương pháp này giúp chăm sóc trẻ hơn là chữa
lành trẻ. Mỗi trẻ tự kỷ có cách phát triển phức tạp và đa
dạng, vì thế cần được tiếp cận khác nhau. Phụ huynh cần
tham khảo ý kiến của nhà chuyên môn để biết những
phương pháp nào có chứng cớ khoa học đáng tin cậy và
không tác hại đến sức khoẻ của trẻ.
Phương pháp can thiệp có chứng cớ khoa học là phương