
Triệu chứng học bệnh của hệ
thống thân-tiết niệu – Phần 1
1. Triệu chứng lâm sàng.
1.1. Triệu chứng cơ năng:
1.1.1. Đau:
Có thể gặp đau ở vùng thắt lưng, đau ở vùng niệu quản, đau ở vùng bàng quang.
1.1.1.1. Đau ở vùng thắt lưng:
* Cơn đau quặn thân:
+ Cơn đau quặn thân là cơn đau điển hình trong một số bệnh của thân và đường
niệu, cơn đau có đặc điểm:
. Khởi phát đau: thường xuất hiện sau vận động mạnh, sau chấn thương vùng thắt
lưng, tuy nhiên cũng có thể xuất hiện cả lúc nghỉ ngơi.

. Cường độ đau: đau thường dữ dội thành từng cơn, cơn có thể ngắn 20-30phút có
thể kéo dài nhiều giờ hoặc cả ngày. Không có tư thế giảm đau.
. Vị trí và hướng lan của đau: đau thường xuất phát ở vùng thắt lưng, lan ra phía
trước xuống vùng bàng quang, xuống bìu (ở nam) hoặc bộ phận sinh dục ngoài (ở
nữ). Thông thường chỉ đau một bên, trong cơn đau có thể có buồn nôn hoặc nôn.
ấn điểm sườn-thắt lưng và vỗ hố thắt lưng bệnh nhân rất đau.
. Diễn biến của cơn đau: cơn đau thường kết thúc từ từ, nhưng cũng có khi kết
thúc đột ngột. Sau cơn đau thường có đái ra máu đại thể hay vi thể, có thể có rối
loạn tiểu tiện như: đái khó, đái rắt, đái buốt. Cơn đau quặn thân thường hay tái
phát.
Trên đây là cơn đau điển hình, trong lâm sàng có những thể không điển hình, chỉ
đau thoáng qua hoặc ngược lại đau kéo rất dài từ một ngày đến 2-3 ngày.
+ Chẩn đoán cơn đau quặn thân dựa vào: đau đột ngột dữ dội vùng thắt lưng lan
xuống bìu và bộ phận sinh dục ngoài; đái ra máu đại thể hoặc vi thể; có các điểm
đau vùng thân và niệu quản; tiền sử có thể đã có những cơn đau quặn thân hoặc
đái ra sỏi.
+ Chẩn đoán phân biệt: chẩn đoán cơn đau quặn thân điển hình thường dễ nhưng
cũng cần chẩn đoán phân biệt với các trường hợp:
- ở bên phải hay nhầm với:

. Cơn đau quặn gan: đau ở vùng hạ sườn phải lan lên vai, sau cơn đau có sốt, vàng
da; khám vùng gan và túi mật đau, dấu hiệu Murphy (+).
. Đau ruột thừa: đau vùng hố chậu phải, có sốt, có bạch cầu trong máu tăng, ấn
điểm
Macburney đau.
- ở bên trái hay nhầm với:
. Cơn đau thắt ngực: cơn đau thắt ngực không điển hình không lan lên vai và cánh
tay mà lan xuống bụng; điện tim trong cơn có hình ảnh thiếu máu cơ tim; cho
ngậm nitroglyxerin thì cơn đau hết nhanh.
- Chung cho cả hai bên có thể nhầm với:
. Cơn đau do loét dạ dày, thủng dạ dày: đau ở vùng thượng vị không lan xuống
dưới, có thể lan ra sau lưng, ấn điểm thượng vị đau. Nếu thủng dạ dày thì có phản
ứng thành bụng, bụng cứng như gỗ, gõ vang vùng trước gan. Tiền sử có thể có hội
chứng loét dạ dày- hành tá tràng; chụp X quang ổ bụng thấy có liềm hơi.
. Viêm tuỵ chảy máu, hoại tử: đau rất dữ dội vùng thượng vị, buồn nôn, nôn; điểm
thượng vị và điểm sườn-cột sống đau; người bệnh trong tình trạng sốc: vã mồ hôi,
mặt tái, huyết áp hạ; nồng độ amylaza trong máu tăng rất cao.

. Tắc ruột: đau bụng, nôn, bí trung tiện, bí đại tiện, bụng chướng hơi, có triệu
chứng rắn bò, X quang có mức nước-mức hơi.
+ Cơ chế của cơn đau quặn thân: tắc đường dẫn nước tiểu đột ngột do sỏi di
chuyển, hoặc do sỏi kích thích gây co thắt niệu quản, làm ứ nước tiểu ở đài-bể
thân, gây tăng áp lực trong thân vì thân được bao bọc một vỏ xơ. Khi đường dẫn
nước tiểu lưu thông (chẳng hạn sỏi di chuyển làm nước tiểu có thể lọt qua được,
áp lực trong bể thân giảm xuống), cơn đau giảm hoặc hết.
+ Nguyên nhân: chẩn đoán nguyên nhân cơn đau quặn thân đôi khi khó, các
nguyên nhân thường gặp là:
. Sỏi thân và đường niệu: sỏi ở đài-bể thân ít khi gây cơn đau quặn thân; sỏi niệu
quản thường gây cơn đau quặn thân điển hình. Đây là nguyên nhân thường gặp
nhất của cơn đau quặn thân.
. Lao thân: có tới 20% trường hợp lao thân có cơn đau quặn thân do các mảnh tổ
chức, tổ chức bã đậu trôi theo dòng nước tiểu xuống gây tắc niệu quản. Cũng có
thể do lao niệu quản gây chít hẹp niệu quản,
. Các nguyên nhân gây hẹp niệu quản khác như: thân di động dễ dàng gây gập
niệu quản, u vùng bể thân-niệu quản, u trong ổ bụng đè ép vào niệu quản đều có
thể gây ra cơn đau quặn thân.

* Đau âm ỉ vùng hố thắt lưng:
Đau vùng hố thắt lưng âm ỉ, không thành cơn hoặc chỉ có cảm giác nặng tức vùng
hố thắt lưng. Loại đau này thường là đặc điểm của các bệnh thân hai bên như
viêm cầu thân cấp, viêm cầu thân mạn, hội chứng thân hư, viêm tấy tổ chức quanh
thân. Viêm thân-bể thân cấp hoặc đợt tiến triển của viêm thân-bể thân mạn
thường chỉ đau âm ỉ một bên, nhưng cũng có thể đau cả hai bên. Đau thường
không lan xuyên, chỉ khu trú tại chỗ.
Nếu viêm mủ quanh thân thì đau có thể kèm theo nóng, đỏ, phù nề vùng hố thắt
lưng.
1.1.1.2. Đau ở các điểm niệu quản:
Ngoài nguyên nhân do cơn đau quặn thân, đau ở các điểm niệu quản còn có thể
gặp khi có sỏi niệu quản, viêm niệu quản, lao niệu quản và thường liên quan với
các quá trình bệnh lý ở thân và bàng quang.
1.1.1.3. Đau ở vùng bàng quang:
Đau ở vùng bàng quang thường gặp do sỏi bàng quang, viêm bàng quang, lao
bàng quang, bệnh lý của tuyến tiền liệt. Đau ở vùng bàng quang thường kèm theo
các rối loạn bài niệu: đái rắt, đái buốt.

