TRIỆU CHỨNG HỌC

BỆNH CỦA HỆ THỐNG THÂN-TIẾT NIỆU –

PHẦN 2

1.2. Triệu chứng thực thể:

1.2.1. Phù do thân:

Phù là triệu chứng sớm và thường gặp của các bệnh cầu thân. Phù do thân có

đặc điểm là xuất hiện đầu tiên ở mi mắt (vì mi mắt có nhiều tổ chức lỏng lẻo, áp

lực trong tổ chức thấp), mặt rồi mới phù toàn thân. Phù nặng hơn vào buổi sáng,

phù trắng, mềm, ấn lõm, tăng lên khi ăn mặn và giảm khi ăn nhạt.

Tuỳ theo từng bệnh thân, phù có thể có những biểu hiện khác nhau. Viêm cầu

thân cấp hoặc mạn thì phù thường ở mức độ trung bình. Trong hội chứng thân hư

thì phù tiến triển nhanh và nặng, có thể có tràn dịch màng bụng, màng phổi, màng

tinh hoàn, màng tim. Bệnh của ống-kẽ thân thường không có phù, phù chỉ xuất

hiện khi có suy thân nặng hoặc suy tim do tăng huyết áp.

1.2.2. Thân to:

+ Chẩn đoán thân to khi có khối u ở vùng thân, dấu hiệu chạm thắt lưng dương

tính, bập bềnh thân dương tính. Thân to thường kèm theo các triệu chứng khác

như: đái ra máu, đái ra mủ, đau vùng hố thắt lưng.

+ Để chẩn đoán xác định thân to cần làm các xét nghiệm cận lâm sàng như:

siêu âm thân, chụp bơm hơi sau phúc mạc, chụp thân có tiêm thuốc cản quang vào

tĩnh mạch (UIV), chụp bể thân có bơm thuốc cản quang ngược dòng, chụp CT-

scanner, chụp MRI.

+ Nguyên nhân thân to có thể do:

- Ứ nước, ứ mủ bể thân: nguyên nhân của ứ nước, ứ mủ bể thân có thể do sỏi

đài-bể thân, sỏi niệu quản, khối u của niệu quản hay u trong ổ bụng đè ép vào niệu

quản, lao bể thân-niệu quản gây chít hẹp niệu quản.

- Thân nang: có thể nang đơn một bên hoặc cả hai bên, có thể thân đa nang,

bệnh nang tuỷ thân... Sờ thấy bề mặt thân lổn nhổn không đều. Siêu âm là phương

pháp rất có giá trị để chẩn đoán các bệnh thân có nang.

- Ung thư thân: thường gặp ở người già; thân to, cứng, thường kèm theo đái ra

máu.

1.2.3. Thay đổi số lượng nước tiểu:

Ở người lớn bình thường, khi uống lượng nước trung bình theo nhu cầu của cơ

thể thì số lượng nước tiểu trung bình một ngày khoảng 800-1800ml. Thay đổi số

lượng nước tiểu tuỳ theo mức độ như sau:

+ Vô niệu:

- Khi số lượng nước tiểu < 100ml/24giờ thì được gọi là vô niệu. Chỉ có vô

niệu bệnh lý, không có vô niệu sinh lý. Vô niệu là trạng thái bệnh lý rất nặng, gây

ra nhiều rối loạn nội môi và đe doạ tính mạng bệnh nhân.

- Nguyên nhân: có thể gặp vô niệu do suy thân cấp, đợt tiến triển của suy thân

mạn, giai đoạn cuối của suy thân mạn.

+ Đái ít (thiểu niệu):

Khi số lượng nước tiểu từ 100 đến < 500ml/24giờ thì được gọi là đái ít. Đái ít

có thể do sinh lý hay do các bệnh lý ngoài thân hoặc các bệnh lý của thân. Người

ta chia đái ít ra làm hai loại:

- Đái ít, nước tiểu có nồng độ các chất hoà tan cao: nước tiểu thường xẫm

màu; tỉ trọng nước tiểu cao trên 1,020; độ thẩm thấu nước tiểu cao trên

600mOsm/kg H2O; nồng độ urê trong nước tiểu cao. Nguyên nhân thường do

uống ít nước, do tình trạng mất nước của cơ thể, do suy thân chức năng...

- Đái ít, nước tiểu có nồng độ các chất hoà tan thấp: nước tiểu thường nhạt

màu; tỉ trọng nước tiểu thấp; độ thẩm thấu nước tiểu thấp; nồng độ urê trong nước

tiểu thấp. Nguyên nhân thường do suy thân cấp thực thể hay suy thân mạn.

+ Đái nhiều (đa niệu):

Khi lượng nước tiểu lớn hơn 2000ml/24giờ thì được gọi là đái nhiều.

Nguyên nhân của đái nhiều thường là do uống quá nhiều nước; giai đoạn hồi

phục của một số bệnh nhiễm trùng (như viêm gan virut cấp); là triệu chứng của

một số bệnh nội tiết (như đái tháo nhạt, đái tháo đường); do một số bệnh thân có

giảm khả năng cô đặc nước tiểu của thân (như: giai đoạn đái trở lại của suy thân

cấp), các bệnh của ống-kẽ thân (như viêm thân-bể thân mạn); một số bệnh nhân

suy thân mạn...

1.2.4. Thay đổi màu sắc nước tiểu:

1.2.4.1. Nước tiểu màu đỏ đến nâu thẫm:

* Đái ra máu đại thể:

- Đái ra máu đại thể là đái ra máu với số lượng nhiều, đủ để làm thay đổi màu

sắc nước tiểu. Nước tiểu có màu hồng cho đến màu đỏ, khi để lâu thì hồng cầu sẽ

lắng xuống dưới. Lượng máu tối thiểu bắt đầu làm thay đổi màu sắc nước tiểu vào

khoảng 1ml máu cho 1lít nước tiểu.

+ Để chẩn đoán vị trí chảy máu có thể nhận định sơ bộ bằng nghiệm pháp 3

cốc.

Cách làm nghiệm pháp 3 cốc như sau: cho bệnh nhân đái một bãi chia làm 3

phần tương đối bằng nhau, lần lượt vào 3 cốc thuỷ tinh. Nếu lượng máu nhiều nhất

ở cốc đầu tiên thì thường là chảy máu ở niệu đạo. Lượng máu nhiều nhất ở cốc thứ

3 thì thường là chảy máu ở bàng quang. Lượng máu tương đương nhau ở cả 3 cốc

thì thường chảy máu từ thân hoặc niệu quản. Tuy nhiên, nghiệm pháp này chỉ có

tính chất tương đối, vì nếu chảy máu nhiều ở bàng quang hay niệu đạo đều có thể

gây đái ra máu toàn bãi, cả 3 cốc có màu đỏ tương đương nhau.

+ Muốn xác định chính xác vị trí chảy máu, có thể soi bàng quang trong thời

gian bệnh nhân đái ra máu. Khi soi bàng quang có thể thấy máu đang chảy từ

thành bàng quang, hoặc thấy dòng nước tiểu có màu đỏ phụt từng đợt từ lỗ niệu

quản xuống bàng quang theo nhịp co bóp của niệu quản.

+ Nguyên nhân đái ra máu có thể do các bệnh của thân (như viêm cầu thân

cấp, bệnh thân IgA, ung thư thân, chấn thương thân); có thể do bệnh của đường

niệu (như sỏi đài bể thân, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang, viêm bàng quang, ung

thư bàng quang...); có thể do các bệnh toàn thân (như bệnh của hệ thống tạo máu,

do rối loạn quá trình đông máu). Có thể gặp (khoảng 1% số bệnh nhân) đái ra máu

không xác định được nguyên nhân.

* Cần phải chẩn đoán phân biệt đái ra máu với đái ra hemoglobin, đái ra

myoglobin và đái ra porphyrin.

+ Đái ra hemoglobin:

- Đái ra hemoglobin còn gọi là đái ra huyết cầu tố. Nước tiểu có màu đỏ hoặc

xẫm đen, khi để lâu hoặc ly tâm không có lắng cặn hồng cầu. Soi dưới kính hiển vi

không có hồng cầu trong nước tiểu.

- Đái ra hemoglobin không phải do bệnh lý tại thân mà do tan máu. Bình

thường chỉ có 1-4mg hemoglobin/100ml huyết thanh, trong nước tiểu không có

hemoglobin. Khi có tan máu cấp, hemoglobin từ hồng cầu giải phóng vào huyết

tương với số lượng lớn, gan không chuyển hoá kịp thành bilirubin, nó được đào

thải nguyên dạng ra nước tiểu.

- Nguyên nhân đái ra hemoglobin:

. Sốt rét ác tính đái ra huyết cầu tố (thường do Plasmodium falciparum).

. Nhiễm khuẩn (thường do Clostridium perfringens).

. Nhiễm độc hoá chất (như asenic), nọc độc các loại rắn, một số thuốc (như

amphotericin...).

. Truyền nhầm nhóm máu gây tan máu cấp.

. Đái ra hemoglobin kịch phát do lạnh (hiếm gặp): sau nhiễm lạnh, bệnh

nhân thấy rét run, đau bụng, đau vùng thắt lưng, đau các bắp cơ và đái ra

hemoglobin.

. Đái ra hemoglobin kịch phát ban đêm: gặp ở bệnh nhân có hội chứng

Marchiafara-Micheli với biểu hiện từng đợt đái ra hemoglobin kịch phát ban đêm,

thường gặp ở tuổi 30-40.

. Đái ra hemoglobin do vận động: vận động bất thường kéo dài như chạy

xa ở người chưa quen luyện tập. Sau luyện tập thấy đái ra hemoglobin; hồng cầu

trong máu có hình thể bình thường.

. Đái ra hemoglobin do thuốc có thể gặp ở người thiếu men G6PD.

+ Đái ra myoglobin:

Giống như đái ra hemoglobin, nước tiểu có màu đỏ hoặc xẫm đen, khi để lâu

hoặc ly tâm không có lắng cặn hồng cầu. Soi dưới kính hiển vi không có hồng cầu

trong nước tiểu.

Myoglobin là sản phẩm thoái biến của cơ. Đái ra myoglobin xảy ra khi dập nát

cơ nhiều (như trong hội chứng vùi lấp). Đái ra myoglobin nguyên phát, bẩm sinh

đôi khi có tính chất gia đình. Bệnh nhân thấy đau cơ, có protein niệu ít, có hồng

cầu niệu, có myoglobin niệu, có thể có vô niệu.

+ Đái ra porphyrin:

- Lúc đầu nước tiểu có màu đỏ xẫm giống như đái ra máu, nhưng sau vài giờ

nước tiểu xẫm lại do bị oxy hoá. Khi để lâu hoặc quay ly tâm, không thấy có lắng

cặn hồng cầu. Xét nghiệm nước tiểu có porphyrin.

- Porphyrin được tạo ra trong cơ thể chủ yếu do tổng hợp từ glucocol và axít

sucinic, một phần được tạo ra do phân huỷ hemoglobin và myoglobin. Porphyrin

được đào thải qua nước tiểu dưới dạng porphyrinogen, sau đó bị ôxy hoá để tạo

thành porphyrin. Bình thường ở người lớn mỗi ngày đào thải khoảng 75 mg

porphyrin, với số lượng này không đủ làm thay đổi màu sắc nước tiểu.

- Chứng porphyrin niệu có những đợt cấp tính trở thành một cấp cứu, vì có thể

gây tử vong do liệt hô hấp. Biểu hiện lâm sàng là có cơn đau bụng cấp, liệt vận

động, đôi khi có cả liệt hô hấp xuất hiện sau cơn đau bụng vài ba ngày. Chứng

porphyrin niệu là biểu hiện của một số bệnh gia truyền về rối loạn chuyển hoá làm

sản xuất ra nhiều porphyrin và các chất tiền thân của porphyrin trong cơ thể.

- Cơ chế bệnh là do thiếu một trong các enzym (có khoảng 8 enzym) tham gia

vào tổng hợp Hem trong quá trình tạo hồng cầu. Thiếu một trong các enzym này

sẽ gây ra một trong 3 chứng porphyrin sau: chứng porphyrin gan, chứng porphyrin

do rối loạn tạo hồng cầu, chứng porphyrin phối hợp.

1.2.4.2. Nước tiểu có màu đục:

+ Đái ra mủ:

- Nếu mủ nhiều có thể nhận thấy bằng mắt thường, nước tiểu có màu đục bẩn,

có nhiều sợi mủ, để lâu mủ lắng xuống thành một lớp ở dưới. Nếu mủ ít thì nước

tiểu đục trắng, có các dây mủ lởn vởn. Xét nghiệm nước tiểu thấy có nhiều tế bào

mủ là các bạch cầu đa nhân thoái hoá.

- Để phân biệt với đái đục do cặn phosphat, cho vào nước tiểu vài giọt axít

acetic hoặc đem đun sôi nước tiểu. Nếu đái ra mủ thì nước tiểu vẫn giữ nguyên

màu đục, nếu đái ra cặn phosphat thì cặn phosphat tan và nước tiểu trở nên trong.

- Nguyên nhân: do nhiễm khuẩn thân hoặc đường niệu, có thể chia thành hai

nhóm:

. Nhiễm khuẩn thân và bể thân: viêm mủ bể thân, lao thân, thân đa nang bị

bội nhiễm, ung thư thân bị bội nhiễm.

. Nhiễm khuẩn đường niệu: viêm niệu đạo do lậu hoặc do các vi khuẩn

khác, viêm hoặc áp xe tiền liệt tuyến, viêm bàng quang.

Nếu số lượng mủ trong nước tiểu ít thì không làm đục được nước tiểu, chỉ phát

hiện được khi soi dưới kính hiển vi gọi là đái ra mủ vi thể. Để phát hiện đái ra mủ

vi thể, tốt nhất là làm xét nghiệm căn Addis.

+ Đái ra phosphat:

- Nước tiểu đục, nếu để lâu thì cặn phosphat lắng xuống. Nhỏ vài giọt axít

acetic vào thì nước tiểu trở nên trong. Nếu nước tiểu vẫn đục thì có thể là đái ra

mủ, đái ra dưỡng chấp hoặc các muối khác (như oxalat hay urat). Xét nghiệm

nước tiểu thấy có nhiều cặn phosphat.

- Nguyên nhân: sốt cao kéo dài, sau các căng thẳng về thần kinh, sau động

kinh, suy nhược thần kinh. Nếu đái ra phosphat kéo dài thường do rối loạn chuyển

hoá.

- Bình thường cơ thể bài tiết khoảng 30mg phosphat/1lít nước tiểu, nếu trên

50mg/lít nước tiểu là có đái ra phosphat. Nếu đái ra phosphat kéo dài có thể dẫn

đến sỏi đường niệu.

+ Đái ra dưỡng chấp:

- Nước tiểu đục như sữa hoặc như nước vo gạo, nếu kèm theo đái ra máu thì

nước tiểu có màu chocolat. Khi để lâu thì nước tiểu sẽ tạo thành 3 lớp: lớp trên

đông như thạch, lớp giữa có màu trắng sữa, lớp cuối là cặn (gồm những hạt mỡ, tế

bào biểu mô, bạch cầu). Khi nhỏ ether vào thì dưỡng chấp tan làm nước tiểu trong

lại. Xét nghiệm sinh hoá thấy có nhiều lipit, một phần protein và fibrin.

- Nước tiểu bình thường không có dưỡng chấp, chỉ đái ra dưỡng chấp khi có

một lỗ dò từ bạch mạch vào đường niệu, thường là vào vùng đài-bể thân, ít khi ở

niệu quản hay bàng quang. Có thể thấy được đường thông giữa bạch mạch với

đường niệu bằng cách chụp X quang hệ bạch mạch, hoặc chụp bể thân có bơm

thuốc cản quang ngược dòng.

- Nguyên nhân: có thể do giun chỉ W. bancrofti, nhưng thực tế hiếm khi tìm

thấy ấu trùng giun chỉ ở người đái ra dưỡng chấp. Có thể do giun đũa, sán

Echinococcose, do viêm nhiễm, do khối u gây chèn ép làm tăng áp lực hệ bạch

mạch, do chấn thương.

- Đái ra dưỡng chấp có thể xuất hiện sau một gắng sức mạnh, nhưng cũng có

thể tự phát không liên quan với vận động. Sau khi ăn vài giờ, nhất là các bữa ăn có

nhiều mỡ sẽ thấy nước tiểu đục tăng lên do lượng dưỡng chấp trong nước tiểu tăng.

- Đái ra dưỡng chấp nói chung là lành tính, ít ảnh hưởng đến sức khoẻ. Bệnh

có thể kéo dài vài tháng rồi tự mất đi một cách đột ngột.