
553
Nguyễn Đức Khiêm
Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc
Đinh Thị Thúy Hường
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt: Thế giới đương đại đang có những bước tiến chậm trước sự tác động
khó lường của đại dịch Covid-19. Cùng với đó, sự phát triển nhảy vọt của công nghệ
thông tin do cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại đang tác động đa chiều,
ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực, đến cơ hội tìm kiếm việc làm của người lao
động,..Trước thực tế đó, các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà giáo dục và các cơ quan
hoạch định chính sách về giáo dục đang hướng đến nền giáo dục số, xem đó là một giải
pháp an toàn, chắc chắn trong giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển của nền kinh tế số và quá trình số hóa trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ khóa: Nguồn nhân lực, kỷ nguyên số, cao đẳng địa phương.
1. Đặt vấn đề
Thành tựu mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay còn gọi là cuộc cách
mạng số đã đặt nền tảng vững chắc cho khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin và truyền thông phát triển nhảy vọt, mở ra mô hình giáo dục mới:
Mô hình giáo dục 4.0, đã, đang và sẽ thay đổi hoàn toàn cách giáo dục truyền
thống trên phạm vi toàn cầu bằng cách tạo ra công cụ học tập mới, sinh viên có
thể học trực tuyến tại nhà trên thiết bị điện tử thông minh thay vì phải đến lớp
học trực tiếp...Sự phát triển của công nghệ đã tạo điều kiện và mang đến cơ hội
giúp sinh viên học tập theo những cách thức hoàn toàn mới, dễ dàng ứng dụng
và cá nhân hóa kiến thức nhờ những cộng đồng học tập trực tuyến khổng lồ khắp
thế giới. Điều này, đã làm thay đổi vai trò, vị trí của giáo viên và mở ra không
gian học tập, trải nghiệm mới mẻ, thú vị giúp tối ưu hóa đối đa quá trình dạy -
học, mang lại những trải nghiệm sáng tạo cho cả người dạy và người học. Đồng
thời, xóa nhòa khoảng cách trong việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục giữa các
nước phát triển với các nước đang và chậm phát triển.

554
2. Nội dung
2.1. Nhân lực và nguồn nhân lực
Nói đến nguồn nhân lực là nói đến nguồn lực con người - vấn đề quan
trọng bậc nhất và là mối quan tâm hàng đầu trong Chiến lược phát triển của
cộng đồng quốc tế, bởi đây là nguồn lực nội sinh quyết định sức mạnh của
quốc gia. Điều này, càng được thể hiện rõ nét trong bối cảnh hiện nay, khi nền
kinh tế dựa nhiều vào tri thức thì quốc gia nào có nguồn nhân lực trình độ cao
càng có nhiều cơ hội để phát triển, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
ổn định, bền vững và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Các lý thuyết
về tăng trưởng gần đây đều khẳng định: động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng, phát triển ổn định và bền vững là yếu tố con người, là chất lượng
nguồn nhân lực. Nhà tương lai học người Mỹ Alvintoffler có lý khi cho rằng:
“Mọi nguồn nhân lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt chỉ riêng có trí
tuệ là vô tận, bởi tri thức có tính chất không bao giờ hết”
3
.
Khái niệm nguồn nhân lực được tiếp cận trên nhiều bình diện khác nhau,
theo từ điển Tiếng Việt, nhân lực là: “Sức người về mặt dùng trong lao động sản
xuất. Huy động nhân lực. Nguồn nhân lực dồi dào”
4
. Dưới góc độ kinh tế nhân
lực, các nhà khoa học cho rằng: “Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi
con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng
với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ
điều kiện tham gia vào quá trình lao động - con người có sức lao động”
5
. Khái
niệm này nhấn mạnh khả năng đảm đương lao động chính của xã hội. Theo quan
niệm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Nguồn nhân lực của một quốc gia là
toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”
6
. Khái niệm
này, được hiểu theo hai khía cạnh: (1). Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho
phát triển, do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình
thường; (2).Nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, bao gồm các nhóm
dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất, tức
là toàn bộ các cá nhân có thể tham gia vào các quá trình lao động, là tổng thể các
yếu tố về thể lực và trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Quan
niệm này, về nguồn nhân lực được các ngành khoa học xã hội sử dụng khá phổ
biến trong các lý thuyết về lao động xã hội và trong các cuộc điều tra lao động,
3
. Nguyễn Văn Đễ (Chủ biên - 2004), Nhân lực Việt Nam trong chiến lược kinh tế 2001 - 2010, Nxb Hà
Nội, tr.151.
4
.Trung tâm từ điển học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.710.
5
. Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (2009), Giáo trình: Kinh tế nguồn nhân lực, Nxb Đại học Kinh tế
quốc dân, tr.12.
6
. Phạm Ngọc Phú (2010), Thực trạng nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước hiện nay: Những vấn đề đặt
ra - Giải pháp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,tr.61.

555
việc làm ở nhiều quốc gia trên thế gới. Theo cơ quan phát triển của Liên hợp
quốc (UNDP): “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ với sự phát triển của mỗi cá
nhân và đất nước”
7
. Như vậy, khái niệm nguồn nhân lực được tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau nhưng đều có chung dấu hiệu bản chất trong nội hàm: Nguồn
nhân lực là nguồn lực lao động. Bộ Luật lao động nước ta quy định: “Người lao
động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng
lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao
động”
8
. Nguồn nhân lực cần được xem xét trên ba khía cạnh: Số lượng thể hiện
quy mô nguồn nhân lực; Chất lượng biểu hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu
thành bản chất nguồn nhân lực được thể hiện thông qua các tiêu chí: sức khỏe,
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và cơ cấu nguồn nhân lực. Ba yếu tố này
quan hệ biện chứng với nhau tạo thành thể thống nhất trong sự phát triển của
nhân lực.
Trên cơ sở các quan niệm và cách tiếp cận trên, ta có thể hiểu: Nguồn nhân
lực gồm tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người và cộng đồng xã
hội, là toàn bộ những người đang và sẽ tham gia vào lực lượng lao động, với tất
cả những năng lực thể chất, tinh thần có thể huy động vào phát triển kinh tế - xã
hội và có mối quan hệ với sự phát triển của mỗi cá nhân, quốc gia đó. Từ quan
niệm trên, ta thấy nguồn nhân lực có đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Nguồn nhân lực là một nguồn lực sống, đóng vai trò là động lực
trong sự phát triển của nền kinh tế, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên
của mọi tài nguyên. Trong tổng thể các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội
của các quốc gia thì nguồn nhân lực là quan trọng nhất, tạo động lực cho sự phát
triển các nguồn lực khác: Vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, thể
chế chính trị,..muốn phát huy được hiệu quả phải thông qua nguồn nhân lực. Nhà
kinh tế học tư sản cổ điển William Petty đã khẳng định: “Lao động là cha, còn
đất đai là mẹ của mọi của cải”
9
. C.Mác đã khẳng định: “Tư bản là lao động chết,
nó giống như con quỷ hút máu chỉ sống nhờ hút được lao động sống và nó càng
hút được nhiều lao động sống bao nhiêu thì nó lại càng sống được bấy nhiêu”
10
,
điều này đồng nghĩa tất cả các nguồn lực của mọi quốc gia đều phụ thuộc vào sự
tác, điều chỉnh, khả năng khai thác của nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn
7
. Viện nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, tr.8.
8
. Nguồn:http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?mode=detail&docu-
ment_id=163542. Cập nhật ngày 16/04/2021.
9
. Trần Bình Trọng (2008), Giáo trình: Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Đại học kinh tế quốc dân Hà
Nội, tr.68.
10
. C.Mác (1973), Tư Bản - Phê phán khoa kinh tế chính trị, Quyển thứ nhất: “Quá trình sản xuất của tư
bản”, Tập 1, Nxb Sự thật, tr.432.

556
nhân lực có trình độ cao, nguồn nhân lực là nguồn lực lâu bền và quan trong nhất
trong sự phát triển. Do đó, các ngành kinh tế, luôn cần nguồn nhân lực có sức
khỏe, tinh thần chủ động làm việc với ý thức sáng tạo, có khả năng thích ứng
nhanh với sự biến động của nhu cầu và yêu cầu sản xuất kinh doanh, thích ứng
với môi trường văn hóa và tổ chức của doanh nghiệp mang tính toàn cầu. Nguồn
nhân lực là nhân tố chủ yếu và đóng vai trò quyết định tạo ra lợi nhuận cho nền
kinh tế. Về cơ bản, phần giá trị gia tăng của sản phẩm là do lao động sống, lao
động sáng tạo của người công nhân tạo ra. Giá trị gia tăng của sản phẩm càng
cao thì lợi nhuận thu về càng lớn, để có giá trị gia tăng lớn tất yếu phải dựa vào
chất lượng và kết quả đào tạo nguồn nhân lực.
Thứ hai, Nguồn nhân lực là nguồn lực mang tính chiến lược, vô tận và là
yếu tố cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Con người làm ra lịch sử, song,
muốn làm ra lịch sử, trước hết con người phải sống, để sống con người cần tiêu
dùng tư liệu sinh hoạt hàng ngày: ăn, mặc, ở...Muốn thỏa dụng các nhu cầu tự
nhiên đó, con người phải sản xuất ra của cải vật chất. Do đó, sản xuất vật chất là
yêu cầu khách quan, là cơ sở tồn tại cho quá trình vận động, phát triển của xã
hội. Ph.Ăngghen viết: “Mác đã phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội loài
người, nghĩa là tìm ra sự thật giản đơn là: trước hết con người phải ăn, uống, ở
và mặc, trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn
giáo,..”
11
. Tuy nhiên, đó không phải là quá trình lao động tùy tiện, vô thức mà có
cách thức tổ chức lao động - phương thức sản xuất. Con người chế tạo ra công
cụ lao động, công cụ sản xuất và sử dụng các công cụ đó tác động vào giới tự
nhiên vừa để chế ngự giới tự nhiên, vừa cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của
cải vật chất thỏa mãn nhu cầu của mình và xã hội. Vì thế, con người là chủ thể,
là động lực của lịch sử, nguồn nhân lực là động lực cơ bản của sự phát triển kinh
tế - xã hội. Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có hiểu biết về tri thức
khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, hiểu biết đa văn hóa, đa ngôn ngữ, linh
hoạt, thích ứng nhanh trong nền sản xuất mang tính toàn cầu có ý nghĩa chiến
lược không chỉ trong xã hội đương đại mà còn trong những thế kỷ tiếp theo. Xã
hội không ngừng vận động, phát triển, nền kinh tế luôn có xu hướng mở rộng sản
xuất kinh doanh, ứng dụng thành tựu công nghệ vào sản xuất nhằm tạo năng suất
lao động cao, chi phí đầu tư cho sức lao động giảm nhằm tối đa hóa lợi nhuận,..Để
giải quyết mâu thuẫn của bài này, cần cải tiến và áp dụng thành tựu mới nhất của
khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh là yêu cầu tất yếu khách
quan. Đáp án hay nhất, ngắn nhất cho bài toán này là nguồn nhân lực có chất
lượng cao, chu trình sáng tạo cái mới thông qua lao động trí óc ngày càng được
rút ngắn do sự phát triển của tri thức là vô tận nên vấn đề khai thác nguồn nhân
11
. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập II, Nxb Sự thật, tr.499-500.

557
lực có trình độ cho phép người lao động khai thác được vô hạn. Ph.Ăngghen đã
viết:“Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát triển hơn
mười trường đại học”
12
. Do đó, đầu tư vào con người và nguồn lực con người
thông qua hoạt động giáo dục và đào tạo nhằm đảm bảo việc làm, thỏa mãn yêu
cầu tiêu dùng về vật chất và tinh thần, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm an sinh xã
hội,..được xem là đầu tư có hiệu quả nhất cho sự phát triển bền vững của xã hội.
2.2. Trường cao đẳng địa phương trong kỷ nguyên số
Cách mạng 4.0 tạo ra sự phát triển mang tính đột phá trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống. Do đó, tác động của cuộc cách mạng này không chỉ thúc đẩy
sự phát triển của khoa học công nghệ mà còn thúc đẩy sự phát triển của nhân tố
con người. C.Mác đã khẳng định: “Tiền tệ chỉ trở thành tư bản thông qua sức lao
động của người công nhân và nhờ vậy tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu”
13
.
Đồng quan điểm với C.Mác, V.I.Lênin chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là người công nhân, là người lao động”
14
. Điều này cho thấy
khi hàm lượng chất xám kết tinh trong giá trị hàng hóa càng cao thì vai trò của
người lao động qua đào tạo càng quan trọng trong lực lượng sản xuất, Đảng ta
khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống và năng lực làm
việc,..”
15
, đây được coi là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống
chính trị trong giai đoạn hiện nay. Trước thời cơ và vận hội mà cuộc cách mạng
4.0 mang lại, cần: “Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp
giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu
thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa
học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo
dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại học,..Biến thách thức dân số cùng giá trị dân
số vàng thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao động quốc tế”
16
. Do đó,
việc quan tâm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng là đòi hỏi của thực tiễn và
là nhiệm vụ cấp bách của các cơ sở giáo dục đại học hiện nay. Tri thức trong kỷ
nguyên số không chỉ là nguồn nguyên liệu đầu vào của mọi quá trình sản xuất
mà còn có thể thay thế tài nguyên, xóa nhòa ranh giới về khoảng cách địa lý, là
chất men kết dính giá trị văn hóa của nhiều nền văn minh: “Tri thức với tư cách
là nguồn tài nguyên chủ chốt sẽ thay đổi về cơ bản kết cấu xã hội, sáng tạo ra
12
. C.Mác - Ph.Ăngghen (1984), Toàn tập, tập I, Nxb Sự thật, tr.788.
13
. Trung tâm thông tin Focotech (2004), Nguồn nhân lực Việt Nam trong Chiến lược kinh tế 2001 - 2010,
Nxb Hà Nội, tr.151.
14
. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, tr.430.
15
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội, tr.219.
16
. Nguồn:https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Dau-tu/Chi-thi-16-CT-TTg-tang-cuong-nang-luc-
tiep-can-cuoc-Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-4-2017-348297.aspx.

