intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ung thư vú – Phần 2

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

85
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sàng lọc và chẩn đoán Sàng lọc xem xét bằng chứng của bệnh trước khi xuất hiện triệu chứng là rất quan trọng để phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm, có thể điều trị được. Tùy theo tuổi và yếu tố nguy cơ, việc sàng lọc có thể bao gồm tự khám vú, y tá hoặc bác sĩ khám (khám vú lâm sàng), chụp X-quang vú hoặc các xét nghiệm khác. Tự khám vú Trong nhiều năm, phụ nữ được khuyên khám vú hằng tháng từ khi bắt đầu 20 tuổi. Hy vọng là bằng cách trở...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ung thư vú – Phần 2

  1. Ung thư vú – Phần 2 Sàng lọc và chẩn đoán Sàng lọc xem xét bằng chứng của bệnh trước khi xuất hiện triệu chứng là rất quan trọng để phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm, có thể điều trị được. Tùy theo tuổi và yếu tố nguy cơ, việc sàng lọc có thể bao gồm tự khám vú, y tá hoặc bác sĩ khám (khám vú lâm sàng), chụp X-quang vú hoặc các xét nghiệm khác. Tự khám vú Trong nhiều năm, phụ nữ được khuyên khám vú hằng tháng từ khi bắt đầu 20 tuổi. Hy vọng là bằng cách trở thành chuyên gia tự khám vú và quen thuộc với những biểu hiện và cảm giác bình thường của vú, phụ nữ có thể phát hiện các dấu hiệu sớm của ung thư. Nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy hướng dẫn phụ nữ thực hiện tự khám vú có thể không hoàn thành được mục đích này. Ví dụ, một nghiên cứu lâm sàng lớn, ngẫu hóa tại Thượng Hải đã kết luận tự khám vú thực sự
  2. không làm giảm số ca tử vong do ung thư vú. Thêm vào đó, nghiên c ứu cho thấy phụ nữ tự khám vú thường xuyên có thể dễ phải sinh thiết không cần thiết hơn sau khi thấy nổi cục ở vú. Đây là một trong những nguyên nhân đầu tiên khiến tháng 5/2003 Hội Ung thư Mỹ đã thay đổi khuyến nghị về việc tự khám vú, thủ thuật này được coi là một sự lựa chọn, hơn là một thủ tục, đối với phần lớn phụ nữ. Những hướng dẫn mới nhấn mạnh nhận thức sức khỏe vú thay cho hàng loạt các thủ tục tự khám hằng tháng nghiêm ngặt. Mặc dù những hướng dẫn này không nói rằng bạn không nên khám, tầm quan trọng của việc tự khám thay cho nhu cầu thông thường để trở nên quen thuộc hơn với vú của bạn. Nếu bạn muốn tiếp tục tự khám vú, hãy nói với bác sĩ để xem xét kỹ thuật. Chụp X-quang vú Chụp X-quang vú, dùng hàng loạt tia X để đem lại hình ảnh mô vú, gần đây nó là kỹ thuật hình ảnh tốt nhất trong việc phát hiện khối u trước khi bạn và bác sĩ có thể có cảm giác về chúng. Với lý do đó, Hội Ung thư Mỹ từ lâu đã khuyên chụp X-quang vú sàng lọc cho tất cả phụ nữ trên 40 tuổi.
  3. Song chụp X-quang vú vẫn chưa hoàn hảo. Khoảng 10-15% số ca ung thư vú, đôi khi ngay cả những khối u bạn có cảm giác không có biểu hiện trên X-quang (kết quả âm tính giả). Tỷ lệ này cao hơn, khoảng 25% ở phụ nữ tuổi 40. Lý do là phụ nữ ở lứa tuổi này và trẻ hơn thường có vú chắc hơn, làm khó phân biệt bất thường từ mô bình thường. Vào thời điểm khác, chụp X-quang vú có thể phát hiện bệnh khi không có bệnh (kết quả dương tính giả). Điều này có thể dẫn tới sinh thiết, lo lắng và lo âu, cũng như làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe không cần thiết. Dù vậy, đồng ý rằng nếu chụp X -quang vú cứu được tính mạng, thì tất cả những phụ nữ thích hợp sẽ được sàng lọc. Điều này đã bị thách thức trong những năm gần đây. Đặc biệt, phân tích năm 2001 của một vài nghiên cứu lớn, dài ngày cho thấy tăng thêm những câu hỏi về lợi ích của việc chụp X-quang vú sàng lọc ung thư vú. Báo cáo kết luận rằng một số nghiên cứu trước đây rõ ràng không thấy chụp X- quang vú làm cho số ca tử vong do ung thư vú giảm đi. Điều này gây những nhầm lẫn về chụp X-quang vú ở cả phụ nữ và bác sĩ. Nhưng một nghiên cứu được công bố vào tháng 4/2003, trong đó các nhà nghiên cứu đã theo dõi 200.000 phụ nữ trong 20 năm, hy vọng kết thúc nhầm lẫn này. Nghiên cứu đó cho thấy chụp X-quang vú sàng lọc thực sự đã
  4. làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú ở phụ nữ 40-69 tuổi là khoảng 28%. Hơn nữa, tác giả cho rằng chụp X-quang vú sàng lọc cùng với điều trị cải thiện có thể giảm một nửa số ca tử vong do ung thư vú. Vào tháng 5/2003, Hội Ung thư Mỹ đã công bố những hướng dẫn được cập nhật về sàng lọc ung thư vú, xác nhận một lần nữa khuyến nghị cho rằng phụ nữ từ 40 tuổi trở lên phải được chụp X-quang vú hằng năm. Hướng dẫn sàng lọc của Hội Ung thư Mỹ bao gồm: Nếu bạn ở độ tuổi 20-30, khám vú lâm sàng 3 năm/lần và 1 lần/năm nếu bạn từ 40 tuổi trở lên. Biết vú của bạn bình thường có cảm giác như thế nào và báo bất kỳ thay đổi nào cho bác sĩ. Bắt đầu từ lứa tuổi 20, tự khám vú là một lựa chọn. Nếu có nguy cơ cao ung thư vú do tiền sử gia đình, cấu trúc gen hoặc đã từng bị ung thư vú, hãy nói cho bác sĩ. Bạn có thể có lợi từ việc khám thường xuyên hơn, chụp X-quang vú sớm hơn hoặc làm thêm các xét nghiệm. Khi chụp X-quang vú, vú bị ép giữa các tấm chất dẻo khi kỹ thuật viên X-quang chụp. Toàn bộ thủ thuật này kéo dài ít nhất 30 phút. Có thể chụp X-quang vú hơi khó chịu một chút. Nếu quá khó chịu, hãy báo cho kỹ
  5. thuật viên. Nếu thấy vú mềm hơn, lịch trình chụp X-quang vú vào thời điểm sau chu kỳ kinh. Tránh dùng cà phê trong 2 ngày trước khi khám cũng giúp giảm độ mềm của vú. Tại một số trung tâm chụp X-quang vú hiệu quả, miếng lót mềm, dùng một lần, xốp có thể được đặt trên bề mặt các miếng ép của máy chụp X-quang vú, làm cho xét nghiệm dễ chịu và nhẹ nhàng hơn. Miếng lót không làm cản trở chất lượng hình ảnh của chụp X-quang vú. Nếu có thể, làm lịch trình chụp X-quang vú gần với khoảng thời gian khám lâm sàng hàng năm của bạn. Bằng cách này, các bác sĩ X-quang có thể xem xét một cách cụ thể bất cứ thay đổi nào mà bác sĩ có thể phát hiện được. Quan trọng nhất, không thiếu bảo hiểm y tế giúp bạn chụp X -quang vú thường xuyên. Nhiều phòng khám sức khỏe và các phòng khám Cha mẹ theo kế hoạch có xét nghiệm sàng lọc giá rẻ hoặc miễn phí. Các xét nghiệm sàng lọc khác Phát hiện với trợ giúp của máy tính (CAD). Trong chụp X -quang vú thông thường, phim chụp X-quang được đọc bởi bác sĩ X-quang, là người có kỹ năng và giữ một vai trò to lớn trong việc xác định chính xác kết quả xét nghiệm. Trong CAD, máy tính quét phim chụp X-quang vú sau khi bác s ĩ X-
  6. quang đã đọc. CAD phát hiện nhiều vùng nghi ngờ hơn trên chụp X-quang vú, nhưng nhiều vùng có thể được xác nhận chậm hơn bình thường. Ngoài ra, chụp X-quang vú cùng với CAD có thể làm tăng gần 20% tỷ lệ phát hiện ung thư. Chụp X-quang vú kỹ thuật số. Trong thủ thuật này, quy trình  điện tử được dùng để thu thập và hiển thị các hình ảnh X-quang trên màn hình vi tính. Kỹ thuật này cho phép bác s ĩ X-quang thay đổi độ tương phản và mầu tối, giúp dễ phát hiện những khác biệt khó thấy của mô. Thêm vào đó, hình ảnh có thể chuyển qua thư điện tử, vì vậy, phụ nữ sống ở những vùng hẻo lánh có thể được các chuyên gia ở bất cứ đâu đọc phim chụp X- quang vú. Vì chưa biết liệu chụp X-quang vú kỹ thuật số có chính xác và hiệu quả hơn chụp X-quang vú thông thường, thủ thuật này sẽ được nghiên cứu thêm. Chụp cộng hưởng từ (MRI). Kỹ thuật này dùng nam châm nối  với một máy tính để lấy các bức ảnh phía trong vú. Mặc dù không dùng trong sàng lọc thông thường, MRI có thể phát hiện các khối u quá nhỏ được phát hiện qua khám thực thể hoặc khó nhìn thấy trên chụp X-quang vú thông thường. Kỹ thuật này được dùng ở một số trung tâm để sàng lọc những phụ nữ có nguy cơ cao ung thư vú như một xét nghiệm bổ sung cho chụp X -
  7. quang vú. MRI không được khuyến nghị trong sàng lọc thông thường vì nó có tỷ lệ kết quả dương tính giả cao, có thể gây lo âu hoặc làm sinh thiết không cần thiết. Rửa ống dẫn sữa. Trong thủ thuật này, bác sĩ luồn một ống nhỏ,  mềm (catheter) vào trong lớp trong của ống dẫn sữa là vị trí bắt nguồn của phần lớn khối ung thư và rút một mẫu tế bào. Sau đó các tế bào này được kiểm tra về những biến đổi tiền ung thư mà sau này có thể gây bệnh. Những biến đổi này xuất hiện nhiều trước khi có thể phát hiện được khối u trên chụp X-quang vú. Nhưng vì rửa ống dẫn sữa là thủ thuật mới, nhiều điều vẫn chưa được biết, bao gồm tỷ lệ kết quả âm tính giả và liệu các tế bào bất thường có nhất thiết gây ung thư hay không. Các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành để tìm câu trả lời những câu hỏi này. Trong khi chờ đợi, một số bác sĩ khuyên rửa ống dẫn sữa cho những phụ nữ có nguy cơ ung thư vú cao nếu họ là người bị bệnh hay có tiền sử gia đình bị bệnh hoặc họ có khuyết tật gen làm cho họ dễ ung thư hơn. Rửa ống dẫn sữa vẫn được coi là thử nghiệm, vì vậy, nhiều công ty bảo hiểm không bảo hiểm cho thủ thuật này. Nếu bạn quan tâm hoặc có những câu hỏi về thủ thuật, hãy nói chuyện với bác sĩ.
  8. Siêu âm vú. Bác sĩ có thể dùng kỹ thuật này để đánh giá bất  thường trên phim chụp X-quang vú hoặc được phát hiện khi khám lâm sàng. Siêu âm dùng sóng âm thanh để tạo những hình ảnh về cấu trúc sâu bên trong cơ thể. Vì không dùng tia X-quang, siêu âm là một công cụ chẩn đoán an toàn có thể giúp xác định liệu một vùng có nang hoặc mô rắn hay không. Nhưng siêu âm vú không được dùng trong sàng lọc thông thường vì nó có tỷ lệ kết quả dương tính giả cao, phát hiện bệnh ở nơi không có bệnh. Các thủ thuật chẩn đoán Nếu bạn, bác sĩ hoặc chụp X-quang vú phát hiện khối u ở vú, bạn sẽ được làm 1 hoặc nhiều thủ thuật để xác định liệu khối u có phải là ung thư hay không, bao gồm: Siêu âm Thông thường, bác sĩ sẽ làm một thủ thuật ít xâm lấn hơn, như siêu âm, trước khi quyết định sinh thiết. Siêu âm là một thủ thuật dùng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh vú trên màn hình vi tính. Bằng cách phân tích hình ảnh này, bác sĩ có thể biết liệu khối u là nang hay là khối rắn. Nang, là những túi dịch, thường không phải là ung thư, mặc dù bạn có thể dẫn lưu nang không đau bằng một kim tiêm.
  9. Sinh thiết Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể lấy một mẫu mô nhỏ (sinh thiết) để phân tích trong phòng thí nghiệm. Để làm việc này, bác sĩ có thể dùng 1 trong các thủ thuật sau: Sinh thiết bằng kim hút nhỏ. Kiểu sinh thiết đơn giản nhất, kỹ thuật này thường dùng cho những khối u mà bạn và bác sĩ có thể cảm thấy. Trong thủ thuật, bác sĩ dùng một kim tiêm nhỏ, rỗng để hút tế bào từ khối u. Sau đó bác sĩ gửi những tế bào này tới phòng thí nghiệm để phân tích. Thủ thuật này không gây khó chịu, mất khoảng 30 phút và giống như lấy máu. Thủ thuật khác, hút bằng kim nhỏ, chủ yếu được dùng để lấy dịch từ nang không đau, nhưng cũng có thể giúp phân biệt nang hoặc khối rắn. Sinh thiết bằng kim lấy nhân. Trong thủ thuật này, bác sĩ X-  quang hoặc bác sĩ ngoại khoa dùng một kim rỗng để lấy mẫu mô từ khối u vú. Có thể lấy 15 mẫu, mỗi mẫu lấy với kích thước bằng hạt thóc và sau đó bác sĩ X-quang phân tích chúng với các tế bào ác tính. Ưu điểm của sinh thiết bằng kim lấy nhân là nó lấy mô, hơn là chỉ lấy tế bào, để phân tích. Đôi khi bác sĩ X-quang hoặc bác sĩ ngoại khoa có thể d ùng siêu âm để giúp chỉ dẫn vị trí của kim.
  10. Sinh thiết khối rắn. Kỹ thuật này được dùng để đánh giá vùng  lo ngại có thể thấy trên chụp X-quang vú nhưng không thể cảm giác hoặc thấy trên siêu âm. Trong thủ thuật, bác sĩ X-quang sinh thiết bằng kim lấy nhân, dùng phim chụp X-quang vú như một chỉ dẫn. Sinh thiết khối rắn thường mất khoảng 1 giờ và được thực hiện với gây tê tại chỗ. Định vị bằng dây. Bác sĩ có thể khuyên dùng kỹ thuật này khi  thấy khối u đáng lo ngại trên phim chụp X-quang vú nhưng không thể cảm giác hoặc đánh giá được bằng sinh thiết khối rắn. Dùng phim chụp X-quang vú như một chỉ dẫn, một dây nhỏ được đặt trên vú và đầu của nó chỉ vào khối u. Định vị bằng dây thường được thực hiện ngay trước khi sinh thiết phẫu thuật, và là một cách chỉ dẫn cho bác sĩ ngoại khoa tới vùng cần cắt bỏ hoặc xét nghiệm. Sinh thiết phẫu thuật. Đây vẫn là một trong các phương pháp  chính xác nhất để xác định liệu những biến đổi ở vú có phải là ung thư không. Trong thủ thuật này, phẫu thuật viên cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần khối u vú. Nói chung, khối u nhỏ sẽ được cắt bỏ hoàn toàn (sinh thiết cắt bỏ). Nếu khối u lớn hơn, chỉ lấy một mẫu (sinh thiết rạch). Cách sinh thiết này thường được dùng trên bệnh nhân ngoại trú ở phòng khám hoặc bệnh viện.
  11. Xét nghiệm thụ thể estrogen và progesteron Nếu sinh thiết phát hiện tế bào ác tính, bác sĩ sẽ khuyên làm thêm các xét nghiệm như xét nghiệm thụ thể estrogen và progesteron trên tế bào ác tính. Xét nghiệ m này giúp xác định liệu các hormon nữ có tác động tới tiến triển ung thư hay không. Nếu tế bào ung thư có các thụ thể estrogen hoặc progesteron hay cả hai, bác sĩ có thể khuyên điều trị bằng thuốc như tamoxifen để ngăn cản estrogen gắn với các vị trí này. Xét nghiệm theo giai đoạn Xét nghiệm theo giai đoạn giúp xác định kích thước và vị trí khối ung thư, và liệu nó có di căn không. Chúng cũng giúp bác sĩ xác định cách điều trị tốt nhất đối với bạn. Khối ung thư được phân theo giai đoạn từ 0 đến IV. Ung thư giai đoạn 0 cũng được gọi là ung thư không xâm lấn hoặc đứng yên (ở 1 vị trí). Mặc dù chúng không có khả năng di căn sang các phần khác của cơ thể hoặc xâm lấn sang mô vú bình thường, cắt bỏ khối u là rất quan trọng vì sau này chúng có thể trở thành ung thư xâm lấn. Phát hiện và điều trị khối ung thư vào giai đoạn này tạo cơ hội tốt nhất để hồi phục hoàn toàn.
  12. Ung thư giai đoạn I đến IV là những khối u xâm lấn có khả năng di căn sang các vùng khác. Ung thư giai đoạn I là khối u nhỏ và được khoanh vùng tốt, có tỷ lệ điều trị rất thành công. Nhưng những khối u ở giai đoạn muộn hơn, cơ hội chữa khỏi thấp hơn. Ở giai đoạn IV, ung thư di căn vượt khỏi vú tới các tạng khác, như xương, phổi hoặc gan. Mặc dù không thể loại bỏ khối ung thư vào giai đoạn này, có thể kiểm soát di căn ung thư bằng chiếu xạ, hóa trị liệu hoặc cả hai. Xét nghiệm di truyền Phát hiện gen BRCA1, BRCA2 và các gen khác có thể tăng rõ rệt nguy cơ ung thư vú đưa ra nhiều câu hỏi xúc cảm và luật pháp về xét nghiệm di truyền. Xét nghiệm máu đơn giản có thể phát hiện các gen BRCA khuyết tật, nhưng chỉ chính xác 85%, và phần lớn các chuyên gia cho rằng chỉ những phụ nữ có nguy cơ ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng di truyền nên làm xét nghiệm này. Nếu bạn là một trong những phụ nữ này, hiểu được có gen BBRCA khuyết tật không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư vú là điều quan trọng. Ngoài ra, các kết quả xét nghiệm không thể xác định được nguy cơ cao như thế nào, tuổi nào có thể bị ung thư, ung thư có thể tấn công theo tiến trình nào hoặc có thể có nguy cơ tử vong không.
  13. Nói chung, xét nghiệm phần lớn là có lợi nếu kết quả xét nghiệm giúp bạn quyết định cách tốt nhất để giảm nguy cơ ung thư vú. Sự lựa chọn từ thay đổi lối sống, sàng lọc chặt chẽ hơn và điều trị bằng thuốc như tamoxifen để đánh giá xa như cắt vú một bên phòng ngừa (dự phòng) hoặc cắt bỏ buồng trứng. Những việc này có thể sẽ làm trệch quyết định đối với bất cứ phụ nữ nào thực hiện. Chắc chắn thảo luận kỹ lưỡng về tất cả những lựa chọn của bạn với một nhà cố vấn di truyền học, là người có thể giải thích về nguy cơ, lợi ích, hạn chế của các xét nghiệm di truyền. Cũng có thể giúp nói với những phụ nữ khác có quyết định tương tự.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2