intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945

Chia sẻ: ViLisbon2711 ViLisbon2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

34
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

An Khê trong những năm 1877 đến 1945, kinh tế nông nghiệp luôn gắn với quá trình trồng trọt và chăn nuôi, nhất là tư bản Pháp đầu tư lập đồn điền trồng cây công nghiệp và xây dựng trang trại chăn nuôi gia súc. Bên cạnh, còn có hoạt động hái lượm, săn bắn ở vùng đồng bào Bahnar.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945

KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 11<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SỐ 02 NĂM 2019<br /> Vài nét về kinh tế vùng đất An Khê<br /> từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945<br /> ThS. NGUYỄN VĂN NGUYÊN<br /> Trường THPT Nguyễn Trãi, thị xã An Khê, Gia Lai<br /> <br /> An Khê trong những năm 1877 đến 1945, kinh tế nông nghiệp luôn gắn<br /> với quá trình trồng trọt và chăn nuôi, nhất là tư bản Pháp đầu tư lập đồn điền<br /> trồng cây công nghiệp và xây dựng trang trại chăn nuôi gia súc. Bên cạnh, còn<br /> có hoạt động hái lượm, săn bắn ở vùng đồng bào Bahnar. Là nơi sớm chịu ách<br /> thống trị thực dân, phong kiến khá nặng nề, người dân phải đóng nhiều loại<br /> thuế. Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, có nhiều bước tiến đáng kể, trong đó<br /> tập trung phát triển thủ công nghiệp truyền thống. Thương nghiệp thời kỳ này<br /> có sự tiến bộ rõ rệt, đó là sự giao lưu buôn bán giữa người Kinh và dân tộc thiểu<br /> số thông qua các phiên chợ đầu mối. Là thời điểm thiết lập trao đổi, buôn bán<br /> giữa đồng bằng và vùng cao An Khê. Do chính sách của chính quyền cai trị ở<br /> đây và việc lưu thông hàng hóa còn gặp khó khăn, đã hạn chế thúc đẩy thương<br /> nghiệp phát triển.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> A<br /> n Khê là cửa ngõ lên Tây Nguyên tiếp giáp 1945, trên vùng đất An Khê người Kinh và các<br /> với đồng bằng thông qua quốc lộ chiến dân tộc ít người đã chung sức đóng góp trong<br /> lược 19. Từ khi triều Nguyễn được thành công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội<br /> lập (1802), nhằm xóa đi tiềm thức của nhân dân làm thay đổi bộ mặt quê hương.<br /> đối với nhà Tây Sơn, vua Gia Long đổi tên An 1. Về kinh tế nông nghiệp<br /> Sơn thành An Tây (thế kỷ XVIII, gọi là Tây Sơn<br /> Đối với trồng trọt, An Khê có điều kiện tự<br /> thượng đạo). Từ khi nhà Nguyễn lập Nha Kinh<br /> nhiên tương đối thuận lợi. Núi rừng trùng điệp,<br /> lí An Khê năm 1877, những dòng người Kinh di<br /> xen kẽ là đất đai bằng phẳng và sông suối. Nên<br /> cư đến, nên các làng người Kinh ở đây lần lược<br /> phù hợp cho phát triển kinh tế nông nghiệp như:<br /> được hình thành dọc Nam Sông Ba. Đầu thế kỷ<br /> XX, nhà Nguyễn lập ra đơn vị hành chính cấp Trồng trọt và chăn nuôi, săn bắn thú rừng, khai<br /> Tổng, với hai Tổng An Khê và Tân Phong (thuộc thác các nguồn lâm thổ sản quí hiếm nên sớm<br /> cao nguyên An Khê, huyện Bình Khê - tỉnh Bình thu hút cư dân từ đồng bằng lên lập nghiệp.<br /> Định). Năm 1917, An Khê thuộc tỉnh Kon Tum, Ở vùng An Khê, kinh tế nông nghiệp của<br /> đến năm 1943 được sáp nhập vào tỉnh Pleiku và người Kinh gắn liền với quá trình khai hoang, lập<br /> được nâng cấp thành Địa lý hành chính. Trong ấp. Năm Tự Đức thứ 30 (1877), Bố chánh tỉnh Bình<br /> xã hội An Khê, sự phân hóa giai cấp, địa vị xã hội Định là Phan Văn Điển dâng sớ xin khai hoang,<br /> và thái độ chính trị khác nhau, các giai cấp: nông lập ấp ở An Khê. Đến năm 1878, Trần Văn Thiều<br /> dân, công nhân, tiểu tư sản và một bộ phận tư đến vùng đất An Khê mộ dân khẩn điền. “Ông<br /> sản dân tộc có tinh thần yêu nước chống thực Trần Văn Thiều về Nha Kinh lí An Khê, cùng Bố<br /> dân, phong kiến. Từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm chánh tỉnh Bình Định là Phan Văn Điển thực hiện<br /> 12 KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN<br /> công tác khẩn hoang” [4, tr.18]. Trong 3 năm khai Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> khẩn, biến rừng hoang thành ruộng vườn trồng nhất (1897 - 1914), thực dân Pháp đề ra kế<br /> lúa nước và lúa rẫy, phá đồi núi làm làng mạc và hoạch trồng cây công nghiệp, nhằm thu nhiều<br /> lập 28 thôn hai bên bờ sông Ba. Cùng với đồng lãi mà ít chi phí. Họ cướp nương rẫy, ruộng lúa<br /> bào thiểu số và người Kinh đã dốc toàn lực, bất của nhân dân để lập các đồn điền, biến một bộ<br /> kể rừng thiên nước độc, chiêu dân từ đồng bằng phận nhân dân địa phương cùng với phu mộ từ<br /> khai phá, nên vùng An Khê trở thành mảnh đất đồng bằng trở thành công nhân. Số công nhân<br /> trù phú, dân cư đông đúc, nông lâm sản dồi dào. này vừa trồng cây công nghiệp (chè, cà phê, cao<br /> Từ đó, nhiều khu vườn mọc lên như: Trồng cam, su), cấy lúa, trồng cây lương thực..., nhân lực lao<br /> quít, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc lá, rau cải. động chủ yếu là cư dân bản địa làm thuê cho<br /> các đồn điền.<br /> Từ giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, vùng đất<br /> An Khê đã tiếp nhận những dòng người Kinh từ Từ năm 1898 đến trước năm 1945, ở tỉnh<br /> Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế lên Gia Lai - Kon Tum theo thống kê có 14 đồn điền<br /> lập nghiệp, làm nông nhất là trồng lúa nước và lớn nhỏ. Ở An Khê là nơi thực dân Pháp sớm tiến<br /> lúa rẫy. Các vạn, trại, làng như vạn An Lợi, làng hành khai thác, tiêu biểu là công ty Delignon<br /> An Hội, làng An Dân gắn với tên tuổi của những và Paris “chiếm 531,6 ha đất ở Đak Jappau (Đăk<br /> người có công khai phá, được dân làng sùng kính Chầu Bầu) - An Khê để trồng chè, cao su, cam”<br /> [6, tr.31]. Ngoài ra, còn trồng nhiều loại cà phê<br /> (như Chín Vác ở làng An Dân).<br /> (Libéria, Arabica, Môka), tre, cau, hạt tiêu. Từ<br /> Khoảng năm 1910, người dân Cửu An đã năm 1905 còn trồng dâu và diện tích trồng dâu<br /> tiến về phía tây khai khẩn đất hoang (nay là tăng lên nhằm phục vụ cho Sở Tơ tằm ở Bình<br /> An Xuân 2) để làm ruộng, vài năm sau cư dân Định. Qua những lần kiểm nghiệm, các loại cây<br /> từ đồng bằng lên (chủ yếu từ Bình Định, Huế) trồng mới đòi hỏi nhiều vốn, nhiều công chăm<br /> và lập làng An Xuân. Họ đến đây đem theo cây, sóc và sự kén đất của giống mới, nên chưa đưa<br /> con giống và các công cụ sản xuất, với thói quen lại kết quả cao.<br /> canh tác và kinh nghiệm sản xuất được áp dụng<br /> Việc khai phá đất đai canh tác được đẩy<br /> vào vùng đất mới, nên năng suất lao động có<br /> mạnh, “huyện Tân An có 1.079 mẫu 9 ruộng và<br /> bước phát triển hơn. Tuy nhiên, sự tiến bộ này<br /> đất trồng 2.956 mẫu 8” [10, tr.7]. Ngoài trồng<br /> chỉ ảnh hưởng nhiều nhất đến vùng người Kinh.<br /> lạc, mía, mít, bưởi, ngô, măng, cầu xiêm ..., nhất<br /> Đặc trưng của kinh tế nông nghiệp truyền là trồng chè ở Tân Phong. Các loại rau, cây trồng<br /> thống là làm rẫy - một hình thức trồng trọt chủ làm thức ăn và làm thuốc trị bệnh được trồng<br /> yếu và thu nhập chính của cư dân An Khê (sản như: rau cần, thơm tàu, cải, rau răm, dền gai, rau<br /> xuất theo phương thức du canh). Nó không chỉ má, lá lốt, me đất, rau muốn, lá é, khóm, ngải<br /> có ý nghĩa về kinh tế mà cả trong đời sống văn cứu, sắn, cau.<br /> hóa tâm linh, mặt dù có sự hiện diện ở mức độ Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914 -<br /> nhất định của ruộng nước và vườn. Nhìn chung, 1918), dưới hình thức “đoạn trưng” và “tạm trưng”<br /> trước khi thực dân Pháp xâm lược, kinh tế truyền thực dân Pháp đã cướp 25.540 ha đất để lập các<br /> thống của họ còn mang tính tự cấp, tự túc. đồn điền rộng lớn trồng cây công nghiệp. Từ<br /> Ngày 20/7/1898, Toàn quyền Đông Dương năm 1925 - 1926, ở An Khê các nhà tư bản Pháp<br /> ra Nghị định và treo giải thưởng cho các chủ đồn tiếp tục đua nhau chiếm đất và lập đồn điền, tiêu<br /> điền trồng cà phê, chè, thuốc lá nhằm khuyến biểu là đồn điền M. Ymatz trồng cà phê, thuốc<br /> khích tư bản Pháp đẩy mạnh việc khai thác đồn lá, cau, đậu phộng.<br /> điền trồng cây công nghiệp và An Khê nằm Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 -<br /> trong chủ trương đó, nên quyền sở hữu tập thể 1933, thực dân Pháp đẩy mạnh chiếm đất lập<br /> và đất đai của cộng đồng không còn được tôn đồn điền. Nhiều công trình trồng thử nghiệm<br /> trọng như trước. cà phê và cao su được tiến hành ở Chợ Đồn. Tại<br /> KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 13<br /> đồn Bà Bạc (thuộc Đak Jappau) chuyên trồng cây Ngoài ra, tại An Khê các sản phẩm từ chăn nuôi<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SỐ 02 NĂM 2019<br /> lương thực và cây công nghiệp. Đối với đồn điền gia súc, gia cầm được chở xuống Quy Nhơn để<br /> trồng cây công nghiệp ở An Khê, tư bản Pháp xuất khẩu hoặc tiêu thụ. Trong quý 2 năm 1933,<br /> thuê mướn công nhân tập trung có sử dụng máy chở xuống Quy Nhơn để gửi qua Hồng Kông<br /> móc, kỹ thuật mới và mang dáng dấp của nền 227 con gà, 15 con trâu và 10,437 tấn da trâu, bò.<br /> kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên, về cơ bản vẫn Tư bản Pháp còn chiếm ruộng đất của nông<br /> là một ngành trồng trọt chủ yếu dựa vào sức lao dân lập các trang trại chăn nuôi cừu, ngựa, làm<br /> động của công nhân. vườn ươm và các trại thực nghiệm. Theo Công<br /> Do tác động của chính sách trên, người văn ngày 16/11/1907 của Công sứ Quy Nhơn gửi<br /> dân An khê mất đất canh tác, nhất là đất trồng Khâm sứ Trung Kỳ báo cáo về các giống ngựa<br /> lúa và các loại cây hoa màu khác. Trong thời kỳ đực tại Bình Định, trong đó có 3 giống thuộc trại<br /> Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 - 1918), để ngựa An Khê là: Cao Bang, Mauvezin, Yunnam.<br /> khắc phục phần nào tình trạng thiếu đói ở An Đây là những giống ngựa khá quý hiếm có nhiều<br /> Khê và trước yêu cầu đóng góp lương thực của khả năng phát triển ở vùng khí hậu An Khê.<br /> chính quyền thực dân, công ty L.Delignon gửi Để đẩy mạnh quy mô phát triển chăn nuôi,<br /> thư cho Công sứ Quy Nhơn ngày 12/12/1918, từ đầu thế kỷ XX thực dân Pháp chiếm hơn 1.000<br /> để được hỗ trợ gạo cho nhân dân An Khê trong ha đất ở An Khê lập cơ sở chăn nuôi bò, ngựa<br /> năm 1919 là “3.900 kg gạo và sẵn sàng cung cấp và lai giống ngựa. Theo Nghị định 997 ngày<br /> lúa” [7, tr.127]. 5/8/1916 của Khâm sứ Trung Kỳ đã trưng dụng<br /> Trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ cho Sở thú y Trung Kỳ mảnh đất thuộc công sản<br /> hai của thực dân Pháp. Các Tổng người Kinh ở Trung Kỳ nằm trong khu vực trại ngựa An Khê,<br /> Tân Phong và An Khê dựa vào vùng trũng đất Quy Nhơn. Ngoài ra, Sở thú y nuôi bò, cừu và đặt<br /> đai màu mỡ, người dân trồng lúa trên nương dưới sự theo dõi, giám sát việc chăn nuôi của<br /> rẫy (có cả giống lúa đỏ) và làm ruộng nhưng Thanh tra thú y Le Louet.<br /> khá bấp bên. Những năm 30 của thế kỷ XX, ở An Từ năm 1932, chăn nuôi đem lại lợi nhuận<br /> Khê nhất là vùng An Điền, An Thạch (Cửu An) đất khá cao. Theo Công báo Trung Kỳ, tại Sở chăn<br /> đai rộng nhiều chỗ bỏ hoang, những người có nuôi An Khê tiến hành bán bò, trâu, ngựa, cừu<br /> năng lực mộ dân khai phá lập thêm nhiều làng gồm: “10 con bò cái giống Anamit, 3 con bò<br /> mới trong vùng An Xuân, Cửu Đạo, Tú Thủy (xã mộng, 1 con trâu, 1 con ngựa cái, 1 con ngựa<br /> Tú An) và chịu mức thuế khá nhẹ. Lệ nhà nước non, 5 con cừu cái Kelantan” [5, tr.1094]. Tại cao<br /> định: “Thuế đinh phải nộp liền mỗi người 4đ 0,5, nguyên An Khê Pháp lập một số khu chăn nuôi<br /> thuế thân là 3đ 0,5 và thuế tư ích là 1đ 00, thuế ngựa, trâu, bò, cừu dưới sự trông coi của Quan<br /> đất thì đợi 3 năm sau mới nộp” [2, tr.143]. Những thú y người Pháp và người Việt. Năm 1933, tại<br /> người nghèo lên làm ăn muốn nhập tịch thì xin đây nuôi được 20 con ngựa, 441 con bò, 20 con<br /> Lý trưởng và thông qua đó trình lên quan Quản trâu và 116 con cừu.<br /> đạo. Người dân có cuộc sống tương đối no ấm Từ năm 1939 đến năm 1945, tại An Khê bên<br /> với những món ăn đậm chất vùng miền: thịt heo, cạnh chăn nuôi trâu, ngựa, dê, cừu và gà, chính<br /> gà, bò, khoai, đậu, bắp, rau cải; trồng các loại cây quyền thực dân chú trọng bảo quản và duy trì<br /> ăn trái trong vườn, nhà ở làm bằng ngói, sạch sẽ. các loại con giống. Chăn nuôi bò ở đây đạt hiệu<br /> Đối với chăn nuôi, cuối thế kỷ XIX, ở hai tổng quả cao là nhờ áp dụng kỹ thuật lai tạo giống<br /> Tân Phong và An Khê, người dân chú trọng chăn từ châu Âu. Vùng rừng núi có nhiều động vật và<br /> nuôi trâu, ngựa: “Khoảng 1.000 con trâu và gần thực vật, nên các hoạt động săn bắn và hái lượm<br /> 2.000 con ngựa” [3, tr.34]. Riêng đồn điền Đak giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế của<br /> Jappau (An Khê) được lập vào tháng 6/1898 đã hầu hết các tộc người An Khê.<br /> tiến hành nuôi 200 con bò và 90 con ngựa. Đồn Đối với thuế khóa, từ nửa cuối thế kỷ XVIII,<br /> điền M. Ymatz còn nuôi trâu, bò, gà các loại. bộ máy chính quyền chúa Nguyễn mục nát, xã<br /> 14 KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN<br /> hội chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Ở An Khê tầng Bảng 1. Thống kê việc đánh thuế đối với<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> lớp quan lại địa phương bóc lột nông dân đến người Kinh huyện Tân An (An Khê) từ năm<br /> tột cùng với hàng trăm thứ thuế như: Thuế thổ 1929 - 1933<br /> sản, ruộng đất, chăn nuôi, buôn bán, thuế chợ, Đơn vị Năm Thuế đinh Thuế điền thổ<br /> thuế thân và thuế đinh; đánh thuế đến cả những 1929 5322,00đ 211,33đ<br /> vật phẩm vụn vặt. 1930 5168,00đ 204,31đ<br /> Từ cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, nơi Huyện 1931 5370,00đ 2206,33đ<br /> đây thực dân Pháp bắt người dân địa phương Tân An 1932 5337,00đ 215,87đ<br /> phải đi xâu 1 năm là 20 ngày (10 ngày công ích, 1933 5465,00đ 2849,89đ<br /> 10 ngày tư ích). Ngoài ra, phải nộp thuế đốt rẫy, Năm 1933, chính quyền thực dân thu thuế<br /> thuế đầu thú; việc nộp thuế là nghĩa vụ của đinh tại các làng thuộc Tổng An Khê như sau:<br /> người dân dưới chế độ thực dân phong kiến. “Cửu An (1.134,60 đồng), Thượng An (256,20<br /> Theo đó, mỗi người Bahnar phải nộp thuế cho đồng), An Thượng (344,25 đồng), Cửu Định<br /> Chánh tổng An Khê một gùi lúa, một số làng (250,10 đồng), An Mỹ (64,05 đồng), Gia Hội<br /> phải nộp bằng trầu và mây. (79,30 đồng), Cửu Đạo (231,80 đồng), An Bình<br /> Nhưng việc đánh thuế thường xuyên của (122,00 đồng), Tú Thủy (183,00 đồng), An Quý<br /> chính quyền bảo hộ rất khó, vì những vật phẩm (70,15 đồng)” [1, tr.31]. Thực dân Pháp còn quy<br /> đó thường rơi vào tay các quan lại nhà Nguyễn. định lại số mẫu ruộng phải bán lúa, nộp lúa. Với<br /> mức thu đó làm cho nhiều gia đình không có khả<br /> Chúng thiết lập bộ máy cai trị khá chặt chẽ, khu<br /> năng đóng các loại thuế theo quy định, nông<br /> thứ nhất có Nha huyện Tân An, Nha đại lý, đồn<br /> dân bỏ sản xuất, thiếu lượng thực, đời sống các<br /> khố xanh, lập đồn phòng giữ nghiêm ngặt, việc<br /> tầng lớp nhân dân trở nên cơ cực.<br /> xét xử tội phạm ở hạt An Khê được giao về tòa<br /> án Kon Tum xét xử. Trong những năm Chiến tranh Thế giới thứ<br /> hai (1939 - 1945), nhất là từ khi Nhật vào Đông<br /> Từ năm 1929 - 1933, thực dân Pháp tăng<br /> Dương thì sưu thuế tăng lên một cách vô lý. Ở An<br /> cường bóc lột, trong đó chủ yếu là tăng thuế.<br /> Khê chúng bắt các chủ doanh nghiệp, công ty,<br /> Ngày 8/11/1928, Toàn quyền Đông Dương ra các điền chủ kê khai tài sản nhất là lương thực.<br /> Chỉ thị sửa đổi thuế ở Trung Kỳ, theo đó từ ngày Lập hệ thống tổ chức “Liên nông thương đoàn”<br /> 1/1/1929, tất cả dân Trung Kỳ từ 16 tuổi đến 60 để kiểm soát và độc quyền vơ vét nông sản phẩm<br /> tuổi đều phải chịu mức thuế thân là 2,5đ. Ngoài của nông dân, cưỡng bức nhân dân quyên góp<br /> ra họ còn phải đóng thêm một khoảng phụ thu mua công trái, trưng thu, trưng mua thóc gạo.<br /> theo tỉ lệ từng vùng. Ở An Khê người dân phải Đối với vùng đồng bào Kinh thì căn cứ vào diện<br /> nộp phụ thu là 20%, tức thêm 0,5đ thành 3đ/ tích đất đai trồng trọt để nộp thuế. Vùng dân tộc<br /> người, đến năm 1940 tăng thêm 3,2đ. Riêng thiểu số mỗi người nộp 50 kg, thực chất là trắng<br /> năm 1933, huyện Tân An có 3 tổng, 29 làng và số trợn cướp bóc tài lực, vật lực của nhân dân, là<br /> tiền thu từ thuế như sau: “tổng An Khê: 3.739đ nguyên nhân gây ra nạn đói khủng khiếp.<br /> 30 thuế đinh và 1.461đ 08 thuế điền thổ, tổng 2. Về tiểu thủ công nghiệp và thương<br /> Tân Phong: 1.387đ 35 thuế đinh và 748đ 72 thuế nghiệp.<br /> điền thổ” [10, tr. 5].<br /> Đối với tiểu thủ công nghiệp, từ cuối thế<br /> Ngoài ra, thuế ruộng đất cũng rất nặng, An kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, người Bahnar ở<br /> Khê là vùng đất mới khai phá nhưng vẫn áp dụng vùng An Khê tiếp tục duy trì việc làm lưới đánh<br /> biểu thức như đồng bằng, năm 1929 thực dân cá, làm các bẫy thú, đặc biệt là nghề làm chiêng<br /> Pháp thu được 1221,33đ, đến năm 1933 tăng lên đồng, dệt vải truyền thống. Người Kinh phát<br /> 2844,89đ. Nhất là thuế đinh và thuế điền thổ ở huy nghề làm rựa, cuốc, rèn sắt để làm các vật<br /> huyện Tân An (1929 - 1933). dụng phục vụ sản xuất, làm nồi đồng, biết làm<br /> KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 15<br /> áo bằng da trâu, đan lát (rổ, rá, rổ sấy bằng tre). Những năm đầu thế kỷ XX, cao nguyên An<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> SỐ 02 NĂM 2019<br /> Nghề làm đồ gốm có trang trí hoa văn, nghề dệt, Khê được người Pháp kinh doanh nuôi gia súc<br /> nghề mộc khá phát triển. Ở An Khê, do tính chất mang lại nguồn lợi lớn và trở thành nguồn cung<br /> lao động còn mang tính tự nhiên, sản phẩm thủ cấp ra thị trường như: Trâu, bò, ngựa cho các địa<br /> công làm ra chủ yếu dựa vào cơ bắp chứ không phương khác và thường xuất vào Nam Kỳ bằng<br /> bằng máy móc. Dù lao động tự giác, nhưng ở đường bộ. Việc buôn bán với người Bahnar được<br /> trình độ kỹ thuật rất thấp như: Nghề rèn kém nhiều lái buôn ở đồng bằng lên trao đổi, trước<br /> phát triển, gốm không làm bằng bàn xoay, đan tiên là chợ Trạm Gò (nay là xã Cửu An). Đó là chợ<br /> lát theo mẫu đơn giản, nghề dệt đúng hơn là người Kinh được người Bahnar lui tới trao đổi,<br /> đan sợi, chưa có khung cửi. Khu vực Cửu An (An mua bán hàng hóa, đã tạo điều kiện cho thương<br /> Khê), đến đầu thế kỷ XX có các lò gốm của ông mại phát triển. Nhiều đoàn người Bahnar theo<br /> Nguyễn Ảnh, Phan Gia chuyên làm các sản phẩm ngựa hoặc voi xuống huyện Bình Khê mua muối<br /> như: gạch thẻ, ngói, nồi, trã, bọng giếng, muỗng hoặc các hàng hóa khác.<br /> đường. Đã cung cấp một khối lượng tương đối Người Kinh thường mang hàng hóa đi trao<br /> lớn cho địa phương và vùng lân cận. đổi hoặc dẫn các đoàn ngựa thồ chở nhiều<br /> Từ năm 1941, ở An Khê xây dựng lò gạch để muối. Những trung tâm mua bán nhỏ tiếp tục<br /> sản xuất vật liệu xây dựng, làm xe kéo để chuyên hình thành trong vùng thu hút sự buôn bán từ<br /> chở. Năm 1943 tư bản Anh, Pháp, Nhật cấu kết đồng bằng nhất là từ Bình Khê lên. Ở hai Tổng<br /> với nhau chiếm 200 ha đất ở ngã ba Đồng Găng Tân Phong và An Khê chủ yếu sống bằng nghề<br /> mở cơ sở sản xuất và chế biến thuốc lá MIC. buôn bán và họ vào tận các làng để trao đổi sản<br /> Đối với thương nghiệp, từ cuối thế kỷ XVIII phẩm. Khu vực từ cầu Sông Ba trở xuống diễn ra<br /> - nửa đầu thế kỷ XIX, vùng An Khê với nguồn cảnh buôn bán nhộn nhịp, giàu sức sống: Khu<br /> Cầu Bông (nay là khu vực Chợ Đồn, phường thứ nhì (khu thứ nhất là Tân An) có phố xá, chợ<br /> An Bình) trở thành nơi giao dịch, trao đổi, buôn búa buôn bán phồn thịnh, người Kinh và người<br /> bán. Sau đó chuyển xuống nguồn Phương Kiệu Bahnar thường đến trao đổi sản vật.<br /> (tức là An Lũy, hiện nay thuộc phường Tây Sơn). Những năm 20 của thế kỷ XX, hình thành<br /> Đây cũng là nơi trao đổi các sản phẩm thủ công nhiều chợ khá nổi tiếng ở An Khê như: Chợ An<br /> nghiệp, mua bán hàng nông lâm thổ sản. An Khê, chợ Đồn, chợ Tú Thủy. Với những hoạt động<br /> Sơn là chợ trung gian tiếp nhận và phân phối giao thương này, nghề buôn bán trở nên phổ<br /> hàng hóa chủ yếu của người Kinh, nhưng trong biến đối với người Kinh, họ trao đổi với đồng<br /> hoạt động buôn bán với người Bahnar bị nhà bào các dân tộc thiểu số mà hồi đầu thế kỷ trước<br /> Nguyễn cấm đoán. thường được gọi là nghề buôn thượng.<br /> Ngoài ra, chè ở Tân Phong là mặt hàng nổi Từ năm 1932 - 1939, theo Công báo Trung<br /> tiếng của người Kinh dùng để xuất khẩu đi các Kỳ ngày 27/8/1932, chính quyền thực dân đã<br /> nước nhất là các nước thuộc địa của Pháp. Cau xuất đi các giống bò, ngựa, cừu thuộc Sở chăn<br /> và sắn ở đây thông qua mua bán, trao đổi giữa nuôi An Khê: 12 con bò cái giống Anamit, 2<br /> các vùng ít nhiều tạo ra thu nhập kinh tế cho con ngựa non và 9 con cừu cái Kelantan. Ngày<br /> người dân địa phương. Ở An Khê, sáp ong là đặc 13/10/1932, tại An Khê chính quyền thực dân<br /> sản vùng miền được đem bán ở các chợ và chịu đã thành lập một Ủy ban điều tra để kiểm soát<br /> thuế, “sáp ong có thuế mỗi năm phải nộp đối khâu buôn bán trâu và bò.<br /> với Nguồn Phương Kiệu là 340 cân lĩnh” [9, tr.59]. Tại chợ An Khê và chợ Đồn việc buôn bán<br /> Những giống cây trồng dài ngày và ngắn ngày thường xuyên thay phiên bán các mặt hàng:<br /> như: cam, quít, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc, rau Muối, vòng đồng, hạt cườm, vải, dây nịt, dù<br /> cải..., được các nhà buôn thu mua xuống bán ở trắng, chiêng. Còn “những chợ kia thì mỗi tháng<br /> chợ Quy Nhơn. 6 phiên, người dân tộc ít người về đây buôn bán.<br /> 16 KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN<br /> Tú Thủy vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 Âm lịch; trồng cây công nghiệp mang yếu tố kinh tế tư<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Cửu An là ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28 Âm lịch” [11, bản chủ nghĩa.<br /> tr.541]. Chính quyền nơi đây cho các nhà buôn Tại An Khê, tư bản Pháp tiến hành xây dựng<br /> các nơi được phép tới lui buôn bán ở An Khê, việc các trại chăn nuôi trâu, bò, ngựa, cừu với nhiều<br /> lập phố xá bán các sản phẩm thủ công nghiệp giống quý hiếm. Là đặc trưng mang tính qui<br /> như: Hàng xén, quần áo, nông cụ. Thuốc lá là mặt mô hơn so với chăn nuôi truyền thống và khác<br /> hàng thường xuất khẩu đi nơi khác: Năm 1934, với các vùng ở Gia Lai. Sản phẩm từ chăn nuôi<br /> thuốc hạng nhất được bán với giá từ 17 xu - 18 được tiêu thụ trong nước và xuất đi thị trường<br /> xu/kg, các tiểu thương từ Quy Nhơn lên mua các nước. Thủ công nghiệp truyền thống có sự<br /> thuốc lá bán cho xưởng thuốc điếu Sài Gòn. Từ phát triển đáng kể, bên cạnh còn có công ty tư<br /> 1941, cơ sở chế biến thuốc lá MIC với mục đích bản đầu tư vào lĩnh vực này. Thương mại có sự<br /> xuất khẩu, nhưng với giá cả không cao. chuyển mình, thực dân Pháp cho các nhà buôn<br /> Khi chế độ thực dân được xác lập từ cuối thế đến đây, nguồn hàng hóa từ các nơi được đưa<br /> kỷ XIX đến năm 1930, người dân phải chịu nhiều đến các chợ (trong đó chủ yếu hàng hóa từ Bình<br /> thứ thuế đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thủ Định đưa lên) nhất là vùng thị trấn An Khê để<br /> công nghiệp và thương nghiệp: Thuế chợ, thuế buôn bán.<br /> muối, thuế môn bài..., riêng thuế môn bài được Nhìn chung, nông nghiệp, thủ công nghiệp<br /> áp dụng đối với người kinh ở huyện Tân An (An và thương nghiệp trong thời kỳ này còn nhiều<br /> Khê) từ năm 1930 - 1933 như sau: “Năm 1930: hạn chế, mang tính nhỏ lẻ. Đó là do kỹ thuật canh<br /> 658,17 đồng, năm 1931: 658,17 đồng, năm 1932: tác còn lạc hậu ở một số vùng, chính sách thuế<br /> 634,57 đồng, năm 1933: 593,28 đồng” [8, tr.49]. hà khắc của chính quyền thực dân, phong kiến<br /> Với mức thuế đó làm cho người dân địa phương đã đẩy các tầng lớp nhân dân An Khê chủ yếu<br /> rơi vào cảnh kiệt quệ. là nông dân rơi vào cảnh khó khăn thiếu thốn,<br /> Ở An Khê, do hậu quả chiến tranh đã làm nhất là trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai<br /> rối loạn kinh tế (thủ công nghiệp và thương (1939 - 1945)./.<br /> nghiệp trong thời kỳ thực dân, phong kiến còn<br /> mang tính chất nhỏ bé, lạc hậu). Do nạn đầu cơ TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> tích trữ, thị trường khan hiếm, giá cả tăng vọt và 1. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã An Khê (2015), Lịch sử<br /> truyền thống cách mạng xã Cửu An (1945 - 2015), (NXB Chính<br /> sinh hoạt đắt đỏ nên nhân dân phải gánh chịu trị quốc gia).<br /> mọi nỗi khổ. Từ đó, họ đấu tranh bằng hình thức 2. Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi (2011), Người<br /> Ba-Na ở Kon Tum, (NXB Tri thức).<br /> giấu diện tích sản xuất, vốn kinh doanh; chống 3. Ch. Trinquet (1905), Le Plateau đ’ An Khê Province đe<br /> bắt lính, nộp thuế thân, thuế môn bài. Kinh tế Bình Định (người dịch: Nguyễn Mại), lưu Thư viện tỉnh Bình Định.<br /> 4. Lộc Xuyên Đặng Quý Địch, Ai đã khai lập đất An Khê,<br /> An Khê bị thực dân Pháp kiểm soát trong các Tạp chí xưa và nay, tháng 11/2009, số (343), trang 17 - 18.<br /> ngành, mang bản chất chèn ép bóc lột và phục 5. Etablissements d’Elevage d’An Khe (Kon Tum), Huế, ngày<br /> 10/8/1932, 13/10/1932, 25/10/1932, phông Công báo/hồ sơ<br /> vụ lợi ích cho tư bản Pháp. J.1309, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. (Người dịch: TS.Nguyễn<br /> Thị Ái Quỳnh, khoa Ngoại ngữ, Trường ĐH Quy Nhơn).<br /> Trên vùng đất An Khê từ nửa sau thế kỷ XIX<br /> 6. Kon Tum tỉnh chí, Tạp chí Nam Phong, năm 1934, số<br /> đến năm 1945, nền kinh tế nông nghiệp gắn (193), trang 31.<br /> liền với trồng lúa nước gần sông suối và lúa rẫy. 7. Lettre de l’ Établissements L.Delignon Mensieur le<br /> Résident de France à Qui Nhơn, 12/12/1918, phông Tòa khâm<br /> Những người Kinh từ đồng bằng đến đây đã sứ Trung Kỳ SRA/hồ sơ 4200, Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV.<br /> áp dụng phương thức canh tác và kỹ thuật mới 8. Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai (2006), Lịch sử<br /> mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai, (NXB Chính trị quốc gia).<br /> tiến bộ rõ rệt, nên năng suất lao động tăng lên. 9. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất<br /> Nhưng trình trạng bị chiếm đoạt ruộng đất của thống chí, tập 3, quyển IX, tỉnh Bình Định, (NXB Khoa học xã hội).<br /> 10. Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum, Chính sách nô dịch của Pháp<br /> thực dân phong kiến, nên nông dân mất đất ở Gia Lai - Kon Tum trước cách mạng tháng Tám năm 1945, TL<br /> canh tác. Ngoài kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, Ban tuyên giáo tỉnh Gia Lai, ký hiệu: số 2 - tập 1.<br /> 11. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (1999), Địa chí Gia Lai,<br /> săn bắn và hái lượm truyền thống của nhân (NXB Văn hóa dân tộc).<br /> dân, chính quyền thực dân lập các đồn điền<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2