Vai trò của hócmôn leptin trong nuôi cấy

phôi trong ống nghiệm

I. Đặt vấn đề

Leptin là một mạch peptide gồm 167 axit amin và có trọng lượng

phân tử 16 kD. Leptin là một hócmôn do mô mỡ tiết ra và do Zhang và cs

phát hiện ra năm 1994. Khi mới được phát hiện, hócmôn leptin được coi là

có ảnh hưởng đến cân bằng năng lượng bằng cách tác động lên thần kinh

trung ương để ức chế lượng thức ăn thu nhận. Receptor của hocmôn leptin

được tìm thấy ở não, tuyến yên, buồng trứng, nhau thai cũng như ở mô mỡ.

Leptin ảnh hưởng lên trao đổi năng lượng bằng cách tăng mức tiêu thụ

ôxy, tăng vận động và tăng nhiệt độ cơ thể. Leptin cũng được chứng minh là

có nhiều vai trò trong sinh sản. Điều trị leptin có thể phục hồi sinh sản ở

chuột. Leptin được coi là làm tăng chức năng sinh sản, thành thục sinh dục

sớm ở chuột. Trong quá trình chửa của người, leptin được chứng minh là có

liên quan vào điều khiển sự phát triển của thai, nhau thai và sinh tổng hợp

hócmôn. ở lợn, leptin ở nhau thai nhiều thì thai phát triển bình thường còn

leptin ít thì lợn chậm phát triển.

Dựa trên những phát hiện trên đây, chúng tôi giả thiết rằng leptin có

thể có vai trò trong sự phát triển của phôi nuôi cấy trong ống nghiệm. Để

kiểm tra giả thuyết này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của

các nồng độ leptin khác nhau lên sự phát triển của phôi trong ống nghiệm.

Ngoài ra chúng tôi cũng nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ thu phôi lên sự

phát triển của phôi trong ống nghiệm.

II. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu

1. Phôi

Phôi hai tế bào được thu ở ngày thứ 2 sau khi phối giốngbằng phương

pháp phẫu thuật

2. Nuôi cấy phôi trong ống nghiệm

Chuẩn bị môi trường dịch ống dẫn trứng tổng hợp (mSOF) có thay đổi

theo công thức của Tervit và cs (1972).

Đầu tiên phôi được nuôi cấy trong mSOF có bổ xung axit amin không

thay thế trong 48 giờ. Sau đó phôi được chuyển sang môi trường mSOF có

bổ xung axit amin không thay thế, axit amin thay thế và Albumin huyết

thanh bò thêm 3 ngày nữa. Độ pH của môi trường được điều chỉnh để đạt tới

7,4. áp xuất thẩm thấu được duy trì ở 270-300 mOsmol. Thành phần chi tiết

của môi trường được trình bày ở bảng 1.

Bảng 1: Thành phần môi trường mSOF

Thành phần g/100ml

NaCL 5.830

KCL 0.534

0.162 KH2PO4

0.100 MgCL2.H2O

Na Lactate 0.616

Glucose 0.270

Penicillin 0,060

Streptomicin 0.050

2.102 NaHCO3

Phenol Red 0.010

Pyruvate 0.360

2.520 CaCL2.2H2O

Gluthamine 1.460

Axit Amin không 1.0 ml

thay thế 2.0 ml

Axit Amin thay thế 0.8

Albumin huyết thanh

Sau khi phân loại, hợp tử được rửa 3 lần trong mSOF trước khi đặt

vào đĩa nuôi cấy. Mỗi nhóm 5-10 phôi được nuôi cấy trong 50ml ở 4 môi

trường khác nhau (mSOF, SOF+1,0ng/ml leptin, mSOF+10,0ng/ml leptin và

mSOF+100,0ng/ml leptin) và phủ dầu khoáng. Phôi được nuôi cấy trong tủ

nuôi cấy có 5% CO2, 5%O2 và 90%N2 trong 5 ngày ở 38,80C. Tất cả môi

trường được để cân bằng trong đĩa nuôi cấy trong 5% CO2, 5%O2 và 90%N2

trong 1 đêm trước khi được đưa ra dùng.

3. Đánh giá chất lượng phôi

Sau 5 ngày nuôi cấy, phôi được đánh giá theo hình thái và chất lượng

theo phương pháp của Lindner và Wright (1983). Phôi được phân loại theo

giai đoạn phát triển gồm 8 tế bào, phôi dâu, phôi nang và phôi nang thoát

màng

4. Sử lý số liệu

Số liệu được sử lý theo chương trình thống kê REG, Version 90.12

của Gilmour 1990.

III. Kết quả

ảnh hưởng của mùa vụ thu phôi

ảnh hưởng của mùa thu phôi lên sự phát triển của phôi nuôi cấy trong

ống nghiệm được trình bày ở bảng 2

Bảng 2: ảnh hưởng của mùa thu phôi lên sự phát triển của phôi nuôi

cấy trong ống nghiệm

Tỷ lệ phôi phát triển đến 4 giai đoạn nuôi

cấy(%) Mùa N

8 tế Phôi Phôi Phôi

bào dâu nang thoát màng

Mùa 47 94,6b 62,2 43,2 8,1

xuân

Mùa 51 96,2a 47,1 27,5 5,9

thu

ab: Các chữ cái khác nhau chỉ sự khác nhau có nghĩa, p<0,05

Bảng 2 cho thấy tỷ lệ phôi nuôi cấy ở mùa thu phát triển đến giai

đoạn 8 tế bào cao hơn so với mùa xuân (96,1% so với 94,6%,p<0,05) nhưng

không có sự khác nhau về tỷ lệ phôi phát triển trong 3 giai đoạn còn lại

(P>0,05).

ảnh hưởng của các nồng độ leptin

ảnh hưởng của nồng độ lepin trong môi trường nuôi cấy lên sự phát

triển của phôi được trình bày ở bảng 3 và hình 1. Qua bảng 3 và hình 1 ta

thấy có sự giảm nhanh chóng của phôi phát triển ở giai đoạn 8 tế bào đến

giai đoạn thoát màng (từ 95,5% đến 0,8%, P<0,05). Tỷ lệ phôi phát triển đến

3 giai đoạn cao nhất (8 tế bào, phôi dâu, phôi nang) là ở môi trường nuôi cấy

có bổ xung 10ng/ml leptin. ở giai đoạn 8 tế bào, sự phát triển ở môi trường

đối chứng, 1ng/ml và 10ng/ml sai khác không có ý nghĩa (p>0,05).Tuy nhiên

có sự sai khác có ý nghĩa về tỷ lệ phôi phát triển của các nhóm này và so với

phôi nuôi cấy trong môi trường có bổ xung 100ng/ml leptin (100% so với

77,8%, P<0,05).Tỷ lệ phôi phát triển đến phôi dâu cao nhất ở môi trường có

10ng/ml leptin (77,8%), tiếp theo là nhóm đối chứng và 1ng/ml (54,5 và

55,6%, tương ứng).

Tỷ lệ phôi phát triển đến giai đoạn phôi dâu thấp nhất được quan sát

thấy ở môi trường nuôi cấy có bổ xung 100ng/ml leptin(16,7%). Tỷ lệ phôi

phát triển đến giai đoạn phôi nang cao nhất là ở môi trường có bổ xung

10ng/ml leptin(50,0%), tiếp theo là môi trường có bổ xung 1ng/ml leptin

(44,4%). Phôi phát triển đên giai đoạn phôi nang thấp nhất ở trong môi

trường có bổ xung 100ng/ml leptin (0,7%). Tỷ lệ phôi phát triển đến giai

đoạn thoát màng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các môi trường nuôi

cấy (p>0,05).

Bảng 3: ảnh hưởng của nồng độ leptin trong môi trường nuôi cấy lên

sự phát triển của phôi trong ống nghiệm

Tỷ lệ phôi phát triển sau 5 ngày nuôi cấy

trong ống nghiệm Xử lý N

8 tế Phôi Phôi Phôi

bào dâu nang thoát màng

Đối 33 100a 54,5b 27,3c 15,2a

chứng 19 100a 55,6b 44,4b 0b

1ng/ml 28 100a 71,4b 50,0a 0,1b

10ng/ml 18 77,8b 16,7c 0,7d 0b

100ng/ml

IV. Thảo luận

Trong nghiên cứu của chúng tôi, một đặc điểm nổi bật là tỷ lệ hợp tử

phát triển đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang cao nhất là ở môi trường có

bổ xung 10ng/ml leptin. Tuy nhiên khi nuôi cấy trong môi trường có bổ

xung 1ng/ml leptin, không có sự khác nhau có ý nghĩa trong sự phát triển

của phôi đến giai đoạn 8 tế bào và phôi dâu, nhưng có sự khác nhau ở giai

đoạn phôi nang so với môi trường đối chứng. Ngược lai, thêm 100ng/ml

leptin vào môi trường nuôi cấy dường như ức chế sự phát triển của phôi. Kết

quả này cũng phu hợp với kết quả của Herris và McFarlane báo cáo rằng

phôi chuột phát triển đến giai đoạn phôi nang trương nở trong môi trường bổ

xung 10ng/ml cao hơn 22% so với môi trường đối chứng và cao hơn 48% so

với môi trường có bổ xung 100ng/ml leptin. Trong nghiên cứu của họ mức

100ng/ml leptin trong môi trường cũng ức chế sự phát triển của phôi trong

ống nghiệm.

Một điều rất rõ là trong hệ thống chăn nuôi gia súc những con vật gầy

(thể trạng cơ thể kếm) sinh sản kém hơn so với gia súc có thể trạng trung

bình (Selk và cs, 1988). Vì nồng độ leptin trong huyết tương tỷ lệ thuận với

lượng mỡ của cơ thể, người ta giả thuyết rằng leptin có thể hoạt động như

một dấu hiệu đối với hệ thống sinh sản, nếu cơ thể có đủ một lượng mỡ cần

thiết thì sẽ giúp cho gia súc chửa và có thai thành công (Hossner,1998). Tuy

nhiên, đa số phụ nữ có u nang buồng trứng đều là những người béo phì và

không rụng trứng (Holte và cs, 1994) đã gợi ý rằng leptin cũng có thể có ảnh

hưởng âm tính lên hệ thống sinh sản. Spicer và Franciso (1997) nhận thấy

rằng leptin ở mức độ sinh lý (2-10ng/ml) đã ảnh hưởng trực tiếp lên tế bào

hạt tiết hócmôn Steroid. Các tác giả này gợi ý rằng nồng độ dao động bình

thường của leptin trong máu có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự liên

hệ của trình trạng trao đổi chất và hệ thống sinh sản. Nhũng gợi ý đó đã

được khẳng định bằng kết quả nghiên cứu của chúng tôi rằng nồng độ leptin

ở múc sinh lý bình thường (10ng/ml) thúc đẩy sự phát triển của phôi trong

ống nghiệm, nhưng ở mức cao (100ng/ml) ức chế sự phát triển của phôi

trong ống nghiệm. Cơ chế thúc đẩy hay ức chế sự phát triển của phôi nuôi

cấy trong ống nghiệm cần phải được nghiên cứu thêm.

Những thông tin về sự phát triển của phôi trong ống nghiệm không

sãn có. Một điều rõ ràng rằng những thay đổi lớn nhất mà phôi trước khi làm

tổ phải trải qua là năng lượng của chúng. Nghiên cứu in-vivo cho thấy leptin

có thể điều hoà tiết insulin dẫn đến thu nhận glucose tăng, đó là một yếu tố

điều hoà sự có mặt của glucose (Foster và Nagatani, 1999) và tăng trao đổi

đường dẫn đến tăng sự phát triển của phôi. Dựa trên phát hiện này, chúng tôi

giả thuyết rằng nồng độ leptin ở mức sinh lý trong môi trường nuôi cấy phôi

trong ống nghiệm đã thúc đẩy sự phát triển của phôi bằng cách tăng trao đổi

đường của phôi. Cần phải nghiên cứu thêm về trao đổi đường của phôi trong

ống nghiệm để khẳng định giả thuyết này.

ở môi trường nuôi cấy không có leptin, 54,5% hợp tử phát triển đến

giai đoạn phôi dâu, 27,3%phát triển đến phôi nang và 15,2% phát triển đến

giai đoạn thoát màng. Kết quả này thấp hơn nhiều so với kết quả đã báo cáo

của Walker và cs (1989). Kết quả của họ là 85,2% hợp tử phát triển thành

phôi nang và 74,1% phát triển đến giai đoạn thoát màng. Gardner và cs

(1994) cũng báo cáo một tỷ lệ phôi phát triển thành phôi nang và phôi thoát

màng cao hơn (71% và 60%, tương ứng); nhưng tỷ lệ phôi phát triển đến

giai đoạn 16 tế bào và phôi dâu trong kết quả của họ thấp (11% và 18%

tương ứng). Tuy nhiên, những tác giả này nuôi cấy phôi trong ống nghiệm 6

ngày chứ không phải 5 ngày như trong thí nghẹm của chúng tôi, và đây cũng

có thể là một lý do về tỷ lệ phôi nang thấp trong thí nghiệm của chúng tôi.

Đã có báo cáo cho rằng thay mới môi trường 48giờ một lần trong khi

nuôi cấy phôi trong ống nghiệm là cần thiết để tránh độc hại của amoniac

khi môi trường nuôi cấy được bổ xung axit amin (Gardner, 1994). Tuy

nhiên, thay mới môi trường nuôi cấy có thể rất ảnh hưởng đến sự phát triển

của phôi do lấy đi từ môi truường nuôi cấy các yếu tố sinh trưởng, thay đổi

pH và áp suất (Fukui, 1996). Có thể đây cũng là một yếu tố làm thấp tỷ lệ

phôi phát triển đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang sau khi thay mới môi

trường trong thí nghiệm của chúng tôi.

Đến bây giờ, chưa có báo cáo nào nói về ảnh hưởng của mùa vụ lên

sự phát triển của phôi trong ống nghiệm. ở kết quả của chúng tôi, mùa vụ

nuôi cấy có ảnh hưởng lên sự phát triển của phôi đến giai đoạn 8 tế bào,

nhưng không có ảnh hưởng ở các giai sau (phôi dâu, phôi nang và phôi thoát

màng). Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi trong cơ thể và

trong ống nghiệm có thể là do dinh dưỡng và yếu tố con đực. ở thí nghiệm

của chúng tôi, tất cả con cho phôi đều được nuôi dưỡng cùng điều kiện dinh

dưỡng. Hơn nữa, phôi thu được được nuôi cấy trong ống nghiệm cùng điều

kiện. Đây là những lý do chính để vượt qua sự khác biệt về mùa vụ trong sự

phát triển của phôi nuôi cấy trong ống nghiệm.

V. Kết luận

-Mùa vụ thu phôi không ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi trong

ống nghiệm

-Bổ xung 10ng/ml leptin vào môi trường nuôi cấy (mSOF) làm tăng tỷ

lệ phát triển của phôi trong ống nghiệm. Ngược lai, bổ xung 100ng/ml leptin

ức chế sự phát triển của phôi trong ống nghiệm, còn bổ xung 1ng/ml leptin ít

ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi.