VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -------------------
NGUYỄN QUỲNH TRÂM
VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG
THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số
: 62 31 03 02
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS, TS Phạm Quang Hoan
2. TS. Đậu Tuấn Nam
HÀ NỘI- 2016
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận án
Nguyễn Quỳnh Trâm
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành bản luận án này,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cơ quan, tập thể, cá nhân.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS, TS Phạm
Quang Hoan và TS Đậu Tuấn Nam – người Thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ
tôi trong việc lựa chọn đề tài, tiếp cận các phương pháp nghiên cứu, định
hướng các nội dung nghiên cứu và sửa chửa bản luận án này để tôi hoàn thành
nhiệm vụ học tập của một nghiên cứu sinh.
Tôi trân trọng cảm ơn Khoa Dân tộc học, Học viện Khoa hộc xã hội
thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; khoa Dân tộc và Tôn giáo –
Học viện Chính trị khu vực I nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi
để tôi hoàn thành khóa học nghiên cứu sinh 2012-1025.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Tôn giáo Chính phủ, Sở Nội vụ
tỉnh Lào Cai, Ban Dân vận Tỉnh ủy Lào Cai, cùng cấp ủy đảng, chính quyền,
các cơ quan chức năng huyện Sa pa, Bảo Thắng, Bắc Hà,... đã tạo điều kiện
giúp đỡ trong quá trình điền dã thu thập tư liệu để viết luận án.
Với tinh thần cầu thị, học hỏi, tôi mong nhận được sự giúp đỡ, đóng
góp của mọi người để nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 29 tháng 7 năm 2015
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Quỳnh Trâm
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... v DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ................................................................ vi MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ............................................. 5 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 5 1.2. Một số khái niệm, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ............. 15 1.3. Địa bàn và đối tượng nghiên cứu ........................................................... 27 Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 31 CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 33 QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HMÔNG Ở TỈNH LÀO CAI .............. 33 2.1 Đạo Tin lành ở Việt Nam và quá trình theo đạo Tin lành của người Hmông tại Lào Cai ....................................................................................... 33 2.2. Tình hình hoạt động của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai ..................................................................................................................... 41 2.3. Nguyên nhân người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành ...................... 46 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 55 CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 57 THỰC TRẠNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI ......................................................................... 57 3.1. Văn hóa vật chất .................................................................................... 57 3.2. Văn hóa xã hội ...................................................................................... 67 3.3. Văn hóa tâm linh và tôn giáo của người Hmông theo Tin lành .............. 88 3.4. Văn hóa lối sống của người Hmông theo Tin lành ............................... 113 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 119 CHƯƠNG 4 .............................................................................................. 121 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN HÓA HMÔNG ................ 121 THEO TIN LÀNH Ở LÀO CAI .............................................................. 121 4.1. Những ảnh hưởng của việc truyền đạo và theo đạo Tin lành ............... 121 iii
4.2. Xu hướng phát triển của đạo Tin lành trong người Hmông ở Lào Cai 133 4.3. Một số nhận thức mới qua việc biến đổi văn hóa của người Hmông theo Tin lành ...................................................................................................... 136 4.4. Một số giải pháp đối với văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai................................................................................................ 140 Tiểu kết chương 4 ..................................................................................... 145 KẾT LUẬN ............................................................................................... 146 CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG BỐ ............................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 152
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
Ban chấp hành trung ương
BCHTW
The Christian and Missionary Alliance
CMA
Far East Broadcasting Company
FEBC
Giáo sư, tiến sỹ
GS, TS
Phó giáo sư, Tiến sỹ
PGS, TS
Hội đồng nhân dân
HĐND
Hội thánh Tin lành miền Bắc
HTTLMB
Hội thánh Phúc Âm Việt Nam
HTPAVN
HTLHCĐVN
Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam
HTTLTLVN
Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam
MNPB
Miền núi phía Bắc
Nxb
Nhà xuất bản
NCS
Nghiên cứu sinh
Tp
Thành phố
TS
Tiến sỹ
Tr
Trang
v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Tỷ lệ dân số Hmông ở Lào Cai ..................................................... 30 Bảng 1.2: Cư trú của người Hmông ở Lào Cai ............................................. 31 Bảng 2.1. Phân bố tín đồ đạo Tin lành ở Lào Cai ......................................... 41 Bảng 2.2: Số lượng tín đồ người Hmông ở các hệ phái tại Lào Cai .............. 43 Bảng 2.3: Lý do theo Tin lành của người Hmông ......................................... 47 Biểu 3.1. Kiểu trang phục của người Hmông theo ........................................ 63 Bảng 3.1. Kiểu nhà của dân tộc Hmông ....................................................... 67 Bảng 3.2 : Số hộ có thành viên theo đạo Tin lành ......................................... 77 Bảng 3.3: Tên Họ của người Hmông ở Lào Cai ............................................ 79 Bảng 3.4: Số lượng phụ nữ/đàn ông Hmông theo Tin Lành ở 9 huyện ......... 84 của Lào Cai (năm 2012) ............................................................................... 84 Bảng 3.5: Số lượng người Hmông tham dự lớp tập huấn Sinh hoạt đạo Tin lành theo pháp luật ở Lào Cai (tháng 3/2013) ............................................... 85 Bảng 3.6 :Số lượng phụ nữ Hmông tham gia tổ chức xã hội ......................... 85 Biểu đồ 3.2. : Tỷ lệ nam/nữ người Hmông tham dự lớp tập huấn sinh hoạt đạo Tin lành theoi pháp luật ở Lào Cai ............................................................... 85 3.3. Văn hóa tâm linh và tôn giáo của người Hmông theo Tin lành .............. 88 Bảng 3.7: Các dạng thức trong tín ngưỡng truyền thống của người Hmông ......................................................................................................... 89 Bảng 3.8: Thay đổi trong tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông theo đạo Tin lành ....................................................................................................... 94 Bảng 3.9. Lễ, lễ hội truyền thống của người Hmông .................................... 95 Bảng 3.10. Ứng xử của người Hmông theo đạo Tin lành với lễ hội truyền thống ............................................................................................................ 96 Bảng 3.11. Các ngày lễ của người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai ....... 96 Bảng 3.13. So sánh giữa đám tang của người Hmông truyền thống và người Hmông theo Tin lành .................................................................................. 112 Biểu đồ 3.3. Thực trạng khám chữa bệnh của người Hmông ở Lào Cai ...... 116 Bảng 3.4. Chi phí trong cưới xin, tang ma của người Hmông ở Lào Cai .... 118 Bảng 4.1: Tình hình di cư của người Hmông ở tỉnh Lào Cai ...................... 125 Bảng 4.2: Điểm nhóm Tin lành đã đăng ký tại Lào Cai năm 2014 .............. 133
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
So với một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, người Hmông ở Việt
Nam chiếm một số lượng khá đông với dân số là 1.068.189 người [3, tr.134], đứng
hàng thứ sáu trong tổng số 54 dân tộc. Ở Việt Nam, người Hmông cư trú chủ yếu ở
vùng núi các tỉnh phía Bắc dọc biên giới Việt - Trung, Việt - Lào; đây là những khu
vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh và cũng là địa bàn khó khăn trong phát triển
kinh tế - xã hội.
Cùng với các dân tộc anh em khác, dân tộc Hmông có những nét đặc sắc về
văn hóa mưu sinh, tập quán, lối sống, ý thức cộng đồng, tâm lý tộc người, tín
ngưỡng truyền thống,… tạo nên một nền văn hóa phong phú, đạt được nhiều thành
tựu. Bên cạnh sự tương đồng văn hoá với các tộc người thiểu số khác, người
Hmông ở Việt Nam còn có những đặc điểm văn hóa riêng biệt, có giá trị nhân văn
sâu sắc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay, đặc biệt là dưới tác động
của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đã ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế, xã hội và
văn hóa. Không nằm ngoài quy luật, văn hóa của các tộc người, trong đó có văn hóa
của người Hmông đã, đang chịu sự tác động và có những biến đổi nhất định. Ngoài
ra, văn hóa của người Hmông cũng chịu tác động bởi văn hóa tôn giáo, đó là đạo
Tin lành. Đạo Tin lành thâm nhập vào đồng bào Hmông năm 1985 dưới tên gọi là
Vàng Chứ, chỉ trong một thời gian ngắn, đến năm 2014 số người Hmông theo Tin
lành đã tăng lên rất nhanh, với tổng số 210.000 người, chiến hơn 20% số người
Hmông [7; tr. 5].
Dưới sự tác động của Tin lành, văn hóa truyền thống của người Hmông đã
có sự chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Nó được thể hiện trên các mặt như mối quan hệ
gia đình, dòng họ, xã hội; vai trò của những người có uy tín; niềm tin tôn giáo; lễ
thức trong hôn nhân, hay tang ma; văn hóa, lối sống,... Những biến đổi đó, bên cạnh
những mặt tích cực đối với xã hội như xóa bỏ một số hủ tục lạc hậu trong việc thực
1
hành các nghi lễ, làm giảm bớt đi những tệ nạn xã hội,… vẫn có cả mặt hạn chế,
như làm mai một đặc trưng văn hóa tộc người, gây mất đoàn kết trong xã hội, bị các
đối tượng xấu lợi dụng,… Vấn đề hiện nay là làm sao có thể bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của tộc người Hmông góp phần vào công cuộc xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII và tiếp tục triển khai theo Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước.
Lào Cai là địa phương có vị trí địa chính trị, địa văn hóa khá đặc trưng ở
các tỉnh miền núi phía Bắc. Ở Lào Cai, người Hmông có số lượng dân là 137.469
người, đứng thứ hai sau người Kinh. Người Hmông ở Lào Cai bắt đầu theo đạo Tin
lành từ năm 1989. Sau 25 năm, tính đến năm 2014, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có
24.166 người Hmông theo Tin lành của 6 tổ chức ở 8 huyện, thành phố; 64 xã, thị
trấn; với 133 điểm nhóm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt [7; tr.5].
Người Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai đã chịu tác động mạnh mẽ của đạo Tin
lành làm cho văn hóa truyền thống đã có sự biến đổi quan trọng. Điều đó đã ảnh
hưởng đến sự ổn định và phát triển văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của địa
phương và khu vực.
Với mong muốn đóng góp thêm vào sự hiểu biết về văn hóa dân tộc Hmông
đã thay đổi theo Tin lành tại Lào Cai, từ đó cung cấp những tư liệu khoa học giúp
Đảng và Nhà nước ta có những chính sách phù hợp trong việc phát huy những giá
trị văn hóa của tộc người Hmông theo Tin lành và hạn chế những yếu tố tiêu cực
nảy sinh góp phần phát triển bền vững tỉnh Lào Cai.
Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề: Văn hóa của người Hmông theo đạo Tin
lành ở tỉnh Lào Cai làm nội dung đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Nhân học.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành trong người
Hmông ở tỉnh Lào Cai, quá trình biển đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin
lành ở Lào Cai. Từ đó, đề xuất các kiến nghị và giải pháp trong chính sách dân tộc,
chính sách tôn tôn giáo nhằm vừa bảo tồn được những nét văn hóa truyền thống, 2
vừa phát huy những giá trị tích cực của văn hóa, lối sống của đạo Tin lành, góp
phần giữ vững ổn định xã hội trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình truyền bá đạo Tin lành trong vùng đồng bào Hmông
ở Lào Cai, cùng những nguyên nhân của việc một bộ phận người Hmông theo đạo
Tin lành.
- Nghiên cứu quá trình chuyển đổi từ văn hóa tín ngưỡng truyền thống sang
đạo Tin lành trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những tác động tích cực và
tiêu cực của việc người Hmông theo Tin lành đối với văn hóa, xã hội.
- Nghiên cứu những vấn đề đặt ra và xu hướng vận động của việc theo đạo
Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những đề xuất, kiến nghị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa truyền thống của người Hmông, văn
hóa của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các thành tố của văn hóa của cộng
đồng người Hmông tỉnh Lào Cai theo đạo Tin lành, như: Văn hóa vật chất gồm ẩm
thực,trang phục, nhà cửa; Văn hóa xã hội với các mối quan hệ gia đình, dòng họ, xã
hội, vai trò của người phụ nữ, người có uy tín; Văn hóa tâm linh và tôn giáo với sự
biến đổi tín ngưỡng tôn giáo, thay đổi trong nghi thức cưới xin, tang ma; và văn hóa
lối sống. Đây là những yếu tố mà trong quá trình khảo sát (về định lượng và định
tính) cho thấy sự biến đổi khi theo đạo Tin lành so với yếu tố truyền thống.
Luận án xác định mốc 03 mốc thời gian nghiên cứu: (1) Chỉ thị 01/2005/CT-
TTg, Về một số công tác đối với đạo Tin lành, đánh dấu công tác đối với đạo Tin
lành được triển khai thực hiện ở tỉnh Lào Cai được qua việc đăng ký sinh hoạt các
điểm nhóm theo bản (làng) đưa đạo Tin lành hoạt động theo pháp luật; (2) năm
2012 là thời gian tôi bắt đầu nghiên cứu theo đề tài của luận án với số liệu về Tin
lành đã ổn định, ít biến động; (3) năm 2014 là thời mốc luận án hoàn thành việc
khảo sát và viết các chuyên đề.
3.3 Địa bàn nghiên cứu: Lựa chọn nghiên cứu một số điểm ở tỉnh Lào Cai
đáp ứng các tiêu chí là điểm có đa số đồng bào đã theo Tin lành; điểm có một bộ 3
phận theo Tin lành và một bộ phận vẫn giữ văn hóa truyền thống để tiến hành
nghiên cứu, so sánh, khai thác thu thập thông tin tư liệu.
4. Nguồn tư liệu, tài liệu
- Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ; đề án và đề tài nghiên cứu khoa học;
các sách, bài viết liên quan đến đề tài của các tác giả trong và ngoài nước đã được
công bố.
- Các văn bản của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo.
- Báo cáo về tình hình và công tác dân tộc, tôn giáo của cơ quan chức năng
ở địa bàn nghiên cứu.
- Tư liệu điền dã của tác giả.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình truyền bá đạo Tin lành trong
người Hmông ở tỉnh Lào Cai; làm rõ quá trình chuyển đổi văn hóa của người
Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai.
- Cung cấp thêm nguồn tư liệu làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải
pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người Hmông trước bối
cảnh mới; đồng thời góp phần thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo đối với cộng
đồng người Hmông theo Tin lành.
- Làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề
dân tộc học, tôn giáo học.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các bài viết của tác giả được công
bố, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được kết cấu làm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu.
Chương 2: Quá trình du nhập và phát triển của đạo Tin lành trong cộng đồng người
Hmông ở tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Thực trạng văn hóa của người Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai.
4
Chương 4: Những vấn đề đặt ra đối với văn hóa Hmông theo Tin lành ở Lào Cai
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về người Hmông và văn hóa Hmông
Trong các tài liệu khoa học viết về người Hmông và văn hóa Hmông có
những cuốn sách có giá trị trực tiếp và tiêu biểu là Dân tộc Mông ở Việt Nam của
hai tác giả Cư Hoà Vần và Hoàng Nam [106]; Văn hoá Hmông của Tiến sĩ Trần
Hữu Sơn [78]; Người Hmông của Chu Thái Sơn [81]; Văn hóa người Mông ở Nghệ
An của Hoàng Xuân Lương [52].
Cuốn Dân tộc Mông ở Việt Nam của Cư Hoà Vần và Hoàng Nam được xuất
bản năm 1994 [106] đã cung cấp cho người đọc những tư liệu bổ ích về lịch sử cư
trú, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội và bước đầu cho thấy nét đặc trưng trong bản
sắc văn hóa của tộc người Hmông. Tuy nhiên, hai tác giả mới chỉ dừng lại ở góc độ
mô tả dân tộc học về một số nét văn hóa của tộc người này mà chưa lý giải, làm rõ
việc thực hành các văn hóa đó cùng với sự biến đổi văn hóa của người Hmông.
Năm 1996, tác giả Trần Hữu Sơn đã cho ra mắt cuốn sách Văn hóa Hmông.
Đây được coi là một chuyên khảo dân tộc học đầu tiên viết về văn hóa tinh thần
của người Hmông ở tỉnh Lào Cai. Trong cuốn sách này, tác giả Trần Hữu Sơn đã
giới thiệu những khái quát về điều kiện tự nhiên, dân cư, dân số, những đặc điểm
kinh tế - xã hội cũng như lịch sử tộc người và truyền thống đấu tranh của người
Hmông nhằm đặt cơ sở cho việc phân tích, đánh giá những yếu tố cơ bản trong quá
trình hình thành và phát triển văn hóa tộc người, văn hóa địa phương. Nội dung cơ
bản của cuốn sách được tập trung ở chương ba Những yếu tố mới trong đời sống
văn hóa tinh thần của người Hmông ở Lào Cai và những vấn đề đặt ra. Ở đây, bên
cạnh việc miêu tả những nét văn hóa truyền thống của người Hmông, tác giả cuốn
sách đã bước đầu đề cập đến đạo Công giáo và đạo Tin lành trong đồng bào
5
Hmông, quá trình chuyển tín ngưỡng truyền thống sang Tin lành và xác định Tin
lành là yếu tố văn hóa mới xuất hiện trong đời sống văn hóa tinh thần người Hmông
[78, tr.178].
Cũng viết về người Hmông và văn hóa của người Hmông, tác giả Hoàng
Xuân Lương lại chọn cho mình địa bàn cụ thể là tỉnh Nghệ An, một nơi giáp với
Lào và có nhiều người Hmông sinh sống để làm điểm nghiên cứu. Bằng nguồn tư
liệu có được, năm 2000 tác giả Hoàng Xuân Lương đã xuất bản cuốn Văn hóa
người Mông ở Nghệ An [52]. Cuốn sách làm sáng tỏ nguồn gốc lịch sử, các đặc
trưng văn hóa của tộc người Hmông tại Nghệ An. Những nội dung trong cuốn sách
được coi là nguồn tư liệu quý, góp phần quan trọng giúp Đảng và Nhà nước, đặc
biệt là tỉnh Nghệ An trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
phát huy các giá trị tích cực của văn hóa tộc người vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Nội dung cuốn sách gồm ba chương, chương một và chương hai đề cập
đến điều kiện tự nhiên, lịch sử và sinh hoạt vật chất, văn hóa của người Hmông ở
Nghệ An; chương ba cung cấp cho bạn đọc những giải pháp nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa của người Hmông ở Nghệ An, từ việc nhận thức đúng đắn
văn hóa truyền thống của người Hmông đến việc đưa ra các biện pháp trên lĩnh vực
kinh tế - xã hội - chính trị - văn hóa. Ở đây tác giả đã đề cập vấn đề truyền đạo Tin
lành gắn với khối đại đoàn kết dân tộc, tiếp cận Tin lành ở góc độ chính trị, nêu lên
hệ quả mà Tin lành - Vàng Chứ gây ra đó là Vàng Chứ phát triển tới đâu, cộng đồng
người Mông bị chia cắt tới đó [52,tr. 191].
Cuốn Văn hóa Hmông của Trần Hữu Sơn và Văn hóa người Mông ở Nghệ
An của Hoàng Xuân Lương nói trên là hai cuốn sách viết về người Hmông ở địa
phương cụ thể là Lào Cai và Nghệ An với những thông tin về nguồn gốc lịch sử,
đặc trưng văn hóa của tộc người. Cả hai tác giả cũng đã đề cập đến hiện tượng
người Hmông từ bỏ văn hóa tín ngưỡng truyền thống tạo nên sự biến đổi văn hóa
với yếu tố văn hoá ngoại lai là Tin lành hay Công giáo.
1.1.2. Nghiên cứu về người Hmông theo Tin lành
Trong những năm trở lại đây, vấn đề Tin lành và truyền đạo Tin lành vào
6
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng người Hmông đang nổi lên. Vấn đề
này có tác động không nhỏ đến chính trị, văn hóa, xã hội của đồng bào dân tộc thiểu
số, vì thế có rất nhiều nhà khoa học chú ý nghiên cứu đến hiện tượng này.
Nghiên cứu tộc người Hmông đặt trong mối quan hệ với đạo Tin lành có hai
cuốn sách mà tác giả thấy rất cần thiết và gần sát với đề tài nghiên cứu của luận án
đó là Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam - truyền thống và hiện đại
xuất bản năm 2005 của Vương Duy Quang [71] và Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”,
bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với
ảnh hưởng của đạo Tin lành xuất bản năm 2009 của Nguyễn Văn Thắng [93].
Cuốn Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam - truyền thống và
hiện đại của Vương Duy Quang, đã bàn về bản chất và trình bày những nguyên
nhân của việc một bộ phận đồng bào Hmông theo tôn giáo mới - đạo Tin lành, cũng
như đã nêu lên những tác động đến xã hội, cộng đồng của người Hmông. Cuốn sách
có bốn chương, ngoài phần giới thiệu Đôi nét về người Hmông ở Việt Nam ở
chương một và phần viết về Văn hóa tâm linh truyền thống của người Hmông ở
Việt Nam ở chương hai là những tư liệu quý về dân tộc học. Phần sáng tạo, đóng
góp giá trị về phát hiện mới về Những biến đổi trong văn hóa tâm linh của người
Hmông ở Việt nam hiện nay được thể hiện rõ ở chương ba. Những trang viết trong
chương ba đã cung cấp những thông tin phong phú, sống động về những biến đổi
trong đời sống văn hóa tâm linh ở một bộ phận người Hmông tại các tỉnh miền núi
phía Bắc (đặc biệt trong giai đoạn 1987-1998). Chương bốn là Một số nhận xét và
những vấn đề đặt ra, Vương Duy Quang cho rằng: “Dù trong quá khứ hay hiện tại,
sự cải đạo của người Hmông đã cho thấy dân tộc này đã và đang trải qua những
thay đổi quyết liệt nhất trong văn hóa và tôn giáo của họ. Hành động tiếp nhận Kitô
giáo của người Hmông trong suốt thế kỷ qua đã chứng tỏ một bộ phận của cộng
đồng này mong muốn đổi đời, cảm nhận sự tự do bằng sự cải đạo thực sự… Tổn
thương trong mối quan hệ cộng đồng giữa người cải đạo và không cải đạo là điều
không thể tránh khỏi bởi cả hai phía đều cho đức tin của mình là chính thống”
7
[71, tr.269].
Cuốn sách Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”, bản chất của những cách phản
ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành của
Nguyễn Văn Thắng đã đề cập đến những nội dung: (1). Tín ngưỡng truyền thống
của người Hmông, từ quan niệm đến lý do tại sao người Hmông phải “làm cúng”,
“làm ma” và nêu lên vai trò của tín ngưỡng truyền thống đối với xã hội và văn hóa
Hmông; Tín ngưỡng truyền thống của người Hmông là một phần của văn hóa. Nó
phản ánh thế giới quan tôn giáo và hệ thống nghi lễ kèm theo và đóng vai trò như
dấu hiệu để cố kết người Hmông lại. (2). Quá trình thay đổi theo Tin lành của người
Hmông; Mối quan hệ của Tin lành với Ki tô giáo; việc truyền đạo vào các tộc người
thiểu số ở Việt Nam và người Hmông ở các nước khác. (3). Ảnh hưởng của sự thay
đổi theo Tin lành tới văn hóa, kinh tế- xã hội và an ninh, quốc phòng ở vùng biên
giới; Ảnh hưởng tiêu cực: Làm mất đi các chức năng của tín ngưỡng truyền thống;
gây ra sự phân chia, đối lập và sự căng thẳng trong nội bộ người Hmông; gây khó
khăn trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa - xã hội truyền thống; gây ra tình trạng di
cư tự do, vượt biên trái phép. Song việc theo đạo Tin lành của người Hmông cũng
có những ảnh hưởng tích cực, khắc phục những bất cập của tín ngưỡng truyền
thống. (4). Nguyên nhân, bản chất của sự thay đổi từ tín ngưỡng truyền thống
sang đạo Tin lành của người Hmông. Và nội hàm văn hóa truyền thống của
người Hmông đã xuất hiện những yếu tố suy thoái đến sự lôi cuốn, lôi kéo của
Tin lành [93].
Viết về người Hmông, văn hóa Hmông và người Hmông theo Tin lành còn
phải nói đến công trình Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng
tôn giáo hiện nay do Thào Xuân Sùng chủ biên, xuất bản năm 2009 [84]. Thào
Xuân Sùng và các tác giả nhìn vấn đề người Hmông và tôn giáo từ góc độ của nhà
quản lý, đề cập đến thực tế người Hmông ở Sơn La và đưa ra nguyên nhân của việc
đạo Công giáo và Tin lành thâm nhập và phát triển trong đời sống của người
Hmông tại địa phương này, từ đó đã nêu ra những kinh nghiệm, giải pháp và
phương hướng giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong dân tộc Mông ở Sơn La
8
[84,tr.98].
Cùng với các công trình được xuất bản, viết về người Hmông và văn hóa
Hmông, còn có những bài viết đăng trên các tạp chí. Nhà nghiên cứu Vương Duy
Quang đã có hàng loạt bài viết về đạo Vàng Chứ mà ông gọi là hiện tượng tôn giáo
mới ở người Hmông ở Việt Nam, về truyền thống văn hóa dân tộc trước các hiện
tượng tôn giáo mới. Ông đặt các hiện tượng tôn giáo mới trong phong trào cải đạo
theo Kitô giáo của người Hmông từ cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX trong tổng thể
cả khu vực Đông Nam Á như Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan - những nơi mà
cộng đồng người Hmông ở Việt Nam có quan hệ đồng tộc, thân tộc.
Các bài nghiên cứu của Vương Duy Quang trên Tạp chí chuyên ngành có
thể điểm lại như: (1). Hiện tượng xưng vua ở người Hmông [69] những năm gần
đây phát triển không chỉ ở Việt Nam mà còn ở cả khu vực Đông Nam Á. Bắt đầu
của phong trào này là hiện tượng “xưng vua”. Ở bài viết này, tác giả đã phân tích,
giải thích hiện tương xưng vua ở người Hmông, cũng như sự liên quan giữa xưng
vua và bạo loạn và vấn đề Vàng Chứ hiện nay. (2). Người Hmông và những hiện
tượng tôn giáo liên quan đến sự phản ứng của họ ở Đông Nam Á: Quá khứ và hiện
tại [70] điểm lại những sự kiện tôn giáo liên quan đến động thái phản ứng của người
Hmông trong quá khứ và hiện tại, từ đó làm sáng tổ bản chất và thực trạng vấn đề
tôn giáo và dân tộc ở người Hmông trong khu vực Đông Nam Á lục địa; đưa ra
nhận xét và kết luận về người Hmông. (3). Sự cải đạo theo Ki tô giáo của một bộ
phận người Hmông ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á từ cuối thế kỷ XIX đến nay
[72] đã phân tích quá trình cải đạo từ truyền thống sang đạo Ki-tô giáo của người
Hmông ở Việt Nam, Lào, Thái Lan. Do bị mất đất, người Hmông phải thiên di, ly
tán, bị chèn ép, bị đe dọa diệt vong. Điều kiện sống khó khăn đã tạo nên sự khủng
hoảng niềm tin trong một bộ phận người Hmông, dẫn đến trông chờ và mong đợi vị
cứu tinh. Chính điều này đã trở thành một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận
lợi để Ki tô giáo thâm nhập vào người Hmông.
Nguyễn Văn Thắng có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề được đăng trên các
tạp chí chuyên ngành này như: Về động thái ứng xử với bệnh tật của người Hmông
9
[92], bài viết được cơ cấu thành ba phần chính gồm: (i). Cách ứng xử truyền thống
với bệnh tật của người Hmông, (ii). Sự biến đổi cách ứng xử truyền thống với bệnh
tật và bản sắc của người Hmông, (iii). Tác động của hiện đại hóa/toàn cầu hóa tới sự
biến đổi cách ứng xử của người Hmông với bệnh tật. Sự biến đổi trong cách ứng xử
truyền thống với bệnh tật của người Hmông ít nhiều có liên quan đến tôn giáo, biến
thể theo các nhóm tôn giáo, như Công giáo, Tin lành (Vàng chứ). Ứng xử với bệnh
tật của người Hmông được chế định bởi văn hóa Hmông, trong đó tôn giáo là một
trong những yếu tố quan trọng và làm thành một phần bản sắc riêng của họ. Vì vậy,
việc sử dụng hệ thống y học cổ truyền là chính thì người Hmông sẽ bảo lưu được cơ
bản bản sắc riêng trong văn hóa, nhưng hạn chế trong việc kiểm soát bệnh tật. Trái
lại, khi áp dụng hệ thống y học hiện đại là chính, người Hmông theo Ki-tô giáo
kiểm soát được bệnh tật, nhưng lại làm mờ nhạt dần bản sắc riêng trong cách ứng
xử với bệnh tật của họ.
Những bài nghiên cứu khác như: Một số vấn đề thực tiễn về đạo Tin Lành ở
các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Minh và Hồ Ly
Giang [57] gồm ba nội dung chính: Nội dung thứ nhất giới thiệu về tình hình đạo
Tin lành ở Tây Bắc; nội dung thứ hai đưa ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
việc đạo Tin lành phát triển ở vùng Tây Bắc, từ nguyên nhân chủ quan (như đường
lối chính sách, cán bộ đảng viên tại địa phương, tổ chức hệ thống chính trị) đến
nguyên nhân khách quan (như điểm lợi thế từ bản thân của đạo Tin lành); Nội
dung thứ ba trình bày những ảnh hưởng của sự phát triển Tin lành ở Tây Bắc, từ
ảnh hưởng trên lĩnh vực phát triển kinh tế đến sự ảnh hưởng trong đời sống xã hội,
văn hóa.
Về bài Vài nét về phương thức truyền giáo của đạo Tin lành vào vùng dân
tộc Mông ở Lào Cai [51] Nguyễn Đình Lợi đã tập trung trình bày khá chi tiết vào
hai phần chính. Đó là Phương thức truyền giáo của đạo Tin lành vào vùng người
Hmông ở Lào Cai và nguyên nhân phát triển đạo Tin lành trong cộng đồng người
Hmông ở Lào Cai. Trong phần đầu bài nghiên cứu, tác giả đã giới thiệu khái quát về
cộng đồng người Hmông ở Lào Cai với nền văn hóa đặc sắc cả về vật chất lẫn tinh
thần, người Hmông có đời sống tín ngưỡng phong phú [51,tr.44]. Quá trình xâm 10
nhập, phát triển của đạo Tin lành trong cộng đồng người Hmông ở Lào Cai được
chia làm bốn giai đoạn, ở mỗi thời điểm khác nhau, hoạt động truyền đạo của tôn
giáo này cũng khác nhau, khi âm thầm phát triển, lúc bùng phát thành phong trào
[51, tr.45]. Ở hai nội dung chính trình bày về phương thức truyền giáo của đạo Tin
lành có đưa ra các phương tiện truyền giáo từ nghe đài phát thanh FEBC, nghe băng
casette, thông qua khách du lịch, các hoạt động nghiên cứu khoa học như văn hóa
học, dân tộc học và phương thức truyền miệng,… cùng với các phương pháp truyền
giáo đã đánh trúng tâm lý người Hmông, từ đó nhiều đồng bào đã tin tưởng và theo
đạo Tin lành một cách tự nguyện [51, tr. 47]. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu đã đưa ra
năm nguyên nhân dẫn đến đạo Tin lành phát triển trong cộng đồng người Hmông tại
Lào Cai, có thể kể đến như: chủ trương truyền giáo của đạo Tin lành, đặc điểm lịch
sử- văn hóa, đời sống khó khăn của dân tộc Hmông, nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo
của đồng bào và do hệ thống chính trị cơ sở còn yếu kém. Như vậy, việc một bộ
phận không nhỏ đồng bào Hmông chuyển từ tín ngưỡng truyền thống sang Tin lành
có thể coi là một sự thay đổi niềm tin tôn giáo hay một sự cải đạo theo Ki-tô giáo
[51, tr.44] và đạo Tin lành thực sự đã có chỗ đứng trong đời sống tinh thần của một
bộ phận người Hmông [51, tr. 45].
Trong bài Biến đổi tín ngưỡng Mông - thực tế và trăn trở của Kiều Trung
Sơn đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian, năm 2013 [83] có nêu rằng, sự biến đổi
hay thay đổi tín ngưỡng truyền thống của người Hmông không chỉ vì nguyên nhân
từ việc ảnh hưởng truyền bá của tôn giáo mới là Công giáo hay Tin lành; mà sự
chuyển biến này xuất phát từ nội tại của tín ngưỡng người Hmông. Họ nhận thấy
trong tín ngưỡng văn hóa truyền thống của mình có nhiều điểm lạc hậu và nhận
thức rằng, cần có sự cải biến, loại bỏ hoặc đổi mới. Trong phần hai của bài nghiên
cứu đã nêu ra những yếu tố tín ngưỡng cổ truyền lạc hậu của người Hmông, đặc biệt
xoáy sâu phân tích về tang ma với những yếu tố lỗi thời, mang tính hủ tục. Cuối bài
nghiên cứu cũng đưa ra những động thái cải biến một số yếu tố lạc hậu trong tín
ngưỡng Hmông; người Hmông đã chủ động có những điều chỉnh số lượng lễ vật
11
trong nghi lễ, tránh tốn kém lãng phí; họ cũng đưa vào trong quy ước dòng họ, và
duy trì những yếu tố tích cực một cách sáng tạo. Điều này cho thấy, không chỉ có
cải đạo mới tạo ra sự thay đổi, mà ngày từ trong suy nghĩ, từ nội bộ tộc người cũng
đã có những thích ứng văn hóa.
1.1.3. Nghiên cứu về đạo Tin lành và văn hóa lối sống Tin lành
Trong các tôn giáo từ nước ngoài truyền vào Việt Nam, đạo Tin lành là tôn
giáo được coi là tôn giáo truyền vào muộn hơn cả. Năm 1911 là thời mốc đánh dấu
việc đạo Tin lành truyền vào Việt Nam. Trước năm 1975, đạo Tin lành phát triển
chủ yếu ở các tỉnh phía Nam với số lượng tín đồ, chức sắc ít hơn nhiều so với các
tôn giáo khác. Do vậy, việc nghiên cứu về đạo Tin lành dưới các góc độ lịch sử, tôn
giáo, văn hóa,… không được đặt ra. Trong giai đoạn này, ở miền Nam chỉ có một số
ấn phẩm, chủ yếu là hồi ký của giới Tin lành viết về thời kỳ đầu truyền đạo Tin
lành, về các tổ chức hệ phái Tin lành truyền vào Việt Nam.
Cuốn sách Bốn mươi sáu năm chức vụ của Mục sư Lê Văn Thái do Nhà in
Tin lành xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn, chủ yếu viết về thời kỳ đầu truyền đạo Tin
lành vào Việt Nam với vai trò của các giáo sỹ CMA về những khó khăn, thử
thách về xã hội mà các nhà truyền giáo phải đối diện. 46 năm chức vụ của mục
sư Lê Văn Thái có nói đến việc truyền giáo lên vùng dân tộc thiểu số, chủ yếu là
vùng Tây Nguyên.
Sau năm 1975, đúng ra phải đến đầu thế kỷ XXI, khi vấn đề đạo Tin lành ở
Việt Nam trở thành vấn đề “vừa mới, vừa lớn, vừa khó”, vừa mang tính thời sự
(tính cập nhật liên quan đến đạo Tin lành), vừa mang tính thời đại (liên quan đến
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở của và hội nhập quốc tế, đạo
Tin lành phát triển ở Việt Nam tăng với tốc độ rất nhanh), các tác giả Việt Nam mới
quan tâm nhiều đến nghiên cứu về đạo Tin lành. Thời kỳ này phải kể đến các ấm
phẩm và công trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xuân, Đỗ Quang Hưng, Mã
Phúc Thanh Tươi, Nguyễn Xuân Hùng,…
Nguyễn Thanh Xuân trong Một số tôn giáo ở Việt Nam xuất bản năm 1992,
đã đề cập một cách khái quát đến đạo Tin lành ở Việt Nam về các phương diện như
lịch sử ra đời, quá trình du nhập, các đặc trưng của đạo Tin lành, đặc điểm đạo Tin 12
lành ở Việt Nam; việc hoạch định và thực thi các chính sách tôn giáo trong đó có
đạo Tin lành. 10 năm sau, năm 2002, Nhà xuất bản Tôn giáo cho xuất bản ấn phẩm
của Nguyễn Thanh Xuân về đạo Tin lành với tựa đề Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành
trên thế giới và ở Việt Nam. Nói là “bước đầu” nhưng ấm phẩm này nghiên cứu
chuyên biệt và cơ bản về đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam với gần 600 trang
từ hai góc độ lịch sử và tôn giáo. Đặc biệt, tác giả đã rút ra những nét đặc trưng về
đạo Tin lành, trong đó có nhận định từ phương diện tôn giáo học, đạo Tin lành thích
hợp với hai tầng lớp dân cư là thị dân của xã hội công nghiệp và dân tộc thiểu số-
tộc người, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới. Tác giả Nguyễn Thanh Xuân còn
có một số bài viết về Tin lành, đạo Tin lành và công tác đối với đạo Tin lành đăng
trên tạp chí Công tác tôn giáo, Nghiên cứu tôn giáo, như: Vài nét khái quát về tôn
giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 02/2007, Ba năm thực hiện chỉ thị số 01 Về Một số công tác đối với đạo
Tin lành- Tạp chí Công tác tôn giáo số 7/2008,…
Nhà nghiên cứu tôn giáo, GS.TS Đỗ Quang Hưng tuy không viết một công
trình chuyên biệt về người Hmông, văn hóa Hmông hay đạo Tin lành, nhưng qua
các công trình nghiên cứu về tôn giáo đã được công bố, chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, quan hệ giữa nhà nước với giáo hội,... tác giả có bàn đến đạo Tin lành, việc
một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam theo đạo Tin lành: Đạo Tin
Lành ở Việt Nam: Một cái nhìn tổng quát [38], Kỷ nguyên truyền giáo của Ki tô
giáo tại châu Á và xung đột văn hóa- Trường hợp đạo Tin lành tại các quốc gia
Đông Bắc Á nói chung và Việt Nam nói riêng [40].
Trong những năm qua, Nguyễn Xuân Hùng đã công bố những kết quả
nghiên cứu về đạo Tin lành và đạo Tin lành ở Việt Nam, như: Tìm hiểu những hệ
quả của việc truyền giáo Tin lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng, tôn
giáo Việt Nam- Tạp chí Ngiên cứu Tôn giáo số 1/ 2000, Đạo Tin lành trong mối
tương quan với văn hóa dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Năm 2012, tác giả Mã Phúc Thanh Tươi- mục sư của Hội thánh Tin lành
13
Việt Nam (miền Nam) đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ triết học về đạo đức Tin
lành ở Việt Nam có bài Vài nét tuowg đồng trong đạo đức Tin lành và đạo đức
truyền thống [104].
1.1.4. Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước
Các tác giả nước ngoài nghiên cứu về người Hmông phải kể đến Savina với
tác phẩm Lịch sử người Mèo [75]; Những đặc điểm chủ yến của thuật saman của
người Mèo Trắng ở Đông Dương [28], Thuật Saman của người Hmông [29] của
Guy Morechand là những công trình nghiên cứu đầu tiên về đời sống văn hóa của
tộc người Hmông.
Các tác phẩm đề cập đến vấn đề người Hmông và sự cải đạo, ảnh hưởng
của việc theo tôn giáo là: Hmong Christianity: Conversion, Consequence, and
Conflict, By Vayong Moua (Đạo Cơ đốc trong người Hmông: Sự chuyển đổi, hệ
quả và xung đột của Vayong Moua) [135]; Coming a full circle: historical analysis
of the Hmong church growth 1950 – 1988, by Timonthy T.Vang, September1998
(Tiến tới một vòng tròn đầy đủ: Phân tích lịch sử về sự phát triển đạo Cơ đốc của
người Hmông giai đoạn 1950-1998, của Timonthy T.Vang) [132]; Messianism as A
Factor in Vietnam’s Hmong Mass Conversion to Christianity: 1990-2005, James
F.Lewis _ (Lòng tin vào Chúa cứu thế là yếu tố khiến số đông người Hmông ở Việt
Nam theo đạo Cơ đốc giai đoạn 1990-2005 của James F.Lewis [131],…
Đây là những công trình nghiên cứu về Tin lành và người Hmông cùng với
một vài dân tộc khác các nước như Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Mỹ. Các công trình
này có đề cập đến quá trình truyền bá và phát triển của Tin lành vào dân tộc
Hmông, đưa ra những điểm xung đột xảy ra trong cộng đồng dân tộc Hmông do sự
phát triển của Tin lành.
Viết về Tin lành không thể không nhắc đến công trình khá nổi tiếng với tựa
đề “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản” của Max Weber xuất bản
năm 1920 tại Đức. Max Weber cho rằng nền đạo đức Tin lành có một mối liên hệ
“tương hợp chọn lọc” với “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản, và do vậy đã tạo ra một
động lực tinh thần cần thiết và thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở
14
châu Âu [58, tr. 13].
Nói tóm lại, các công trình nghiên cứu được công bố ở trong nước và ngoài
nước nêu trên khá phong phú và có giá trị liên quan đến người Hmông, văn hóa
người Hmông nói chung hoặc người Hmông ở một địa phương cụ thể; về đạo Tin
lành, đạo Tin lành ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả là nguồn
tư liệu rất quan trọng và bổ ích để chúng tôi kế thừa trong quá trình thực hiện luận
án. Tuy nhiên, các nghiên cứu về quá trình người Hmông theo Tin lành và nhất là việc
chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa Tin lành của một bộ phận người
Hmông chưa được đề cập nhiều. Đó cũng là nỗ lực bù đắp của tác giả luận án.
1.2. Một số khái niệm, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
- Văn hóa
Văn hóa - Cultura theo tiếng Latinh có nghĩa là trồng trọt, chỉ sự chăm sóc,
canh tác. Ở phương Đông, văn hóa với Văn và Hóa, với Văn là kiến thức, Hóa là
biến đối, giáo hóa, văn hóa là quá trình biến đổi nhận thức, bao gồm những sáng tạo
của đời sống tinh thần của con người.
Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hoá. Tuỳ theo góc
độ tiếp cận trên từng lĩnh vực nghiên cứu mà người ta đưa ra các định nghĩa khác
nhau về văn hoá.
Năm 1982, UNESCO - Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hiệp
quốc đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng
thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính
cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ
thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng (Tuyên bố về những chính sách văn hóa,
Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ 26-7 đến 06-8- 1982 tại Mêhicô).
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
15
tri thức và xúc cảm của một xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức, chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Từ điển Triết học định nghĩa: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội- lịch sử và tiêu
biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội… Văn hóa là một hiện
tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các các hình thái kinh tế - xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan điểm của mình về văn hóa như
sau: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật và
những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức ử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [54, tr. 431].
Trong Nhân học khái niệm văn hóa được E.B.Taylor (1871) đề cập đầu tiên
với tư cách là một tổng thể phức hợp gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, phong tục và tất cả những khả năng và tập tục khác mà con người có
được với tư cách là một thành viên của xã hội . Với cách định nghĩa này của E.B.
Taylor thì văn hóa đầu tiên là bao gồm những đặc điểm của con người mà học được
hoặc có thể học được, chính vì vậy, nó mang tính xã hội và tinh thần; thứ hai, văn
hóa là một tổng thể phức hợp, nó bao trùm cả lĩnh vực rộng lớn của đời sống con
người, từ kỹ thuật sản xuất lương thực thực phẩm đến các lý luận về cuộc sống sau
khi chết của con người.
Các nhà Nhân học hiện đại tiếp cận văn hóa theo những cách khác nhau, tất
cả đều được thiết kế để nhận ra quan niệm theo một cách có chất lượng cao hơn và
có sức thuyết phục hơn, vượt ra khỏi lời khẳng định mang tính bảo vệ là văn hóa
không phải là đơn nhất mà là khác nhau tới mức không thể tưởng tượng được và nó
làm cho con người khác với các loài động vật khác. Ở đây xử lý văn hóa như là một
hệ thống các biểu tượng gồm ngôn ngữ, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức là tất cả
16
những thứ được thừa nhận trong đời sống xã hội con người.
Mặc dù còn nhiều khái niệm về văn hóa được đưa ra dưới góc độ Nhân học,
nhưng cơ bản có thể khái quát lại rằng, văn hóa là những truyền thống và lối sống
mà một con người có được thông qua quá trình học hỏi và giao tiếp xã hội với tư
cách là một thành viên trong cộng đồng. Văn hóa cũng chính là một cột mốc để
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, tạo nên nét riêng có của mỗi tộc người.
Với việc xác định nội hàm của khái niệm Văn hóa, luận án áp dụng để phân
tích các thành tố văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành như ăn, mặc, ở; các
mối quan hệ xã hội; văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo; văn hóa lối sống.
- Văn hóa tộc người
Văn hoá tộc người là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để phân định
tộc người bởi nó có chức năng tộc người. Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố
về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, tâm lý, tình
cảm, phong tục tập quán… để người ta phân biệt tộc người này với tộc người khác.
Văn hoá tộc người là nền tảng nảy sinh và phát triển ý thức tộc người. Một tộc
người bị đồng hoá, bị mất bản sắc văn hoá riêng thì ý thức tộc người sẽ mai một dẫn
đến tộc người bị diệt vong. Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố văn hoá mang
tính đặc trưng và đặc thù tộc người, thực hiện chức năng cố kết cộng đồng tộc
người và phân biệt tộc người.
Khi nghiên cứu văn hóa, tùy theo chuyên ngành và ở từng quốc gia mà văn
hóa có thể được chia thành các nhóm khác nhau. Trong ngành Dân tộc học/Nhân
học, các nhà nghiên cứu thường chia văn hóa các dân tộc thành: văn hoá sản xuất,
văn hoá vật chất (văn hoá bảo đảm đời sống), văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần.
Đặc trưng văn hoá tộc người thể hiện trên toàn bộ đời sống xã hội từ ngôn
ngữ, trang phục, tôn giáo tín ngưỡng, văn hoá dân gian, tri thức về tự nhiên, xã hội,
con người, tri thức sản xuất, tâm lý và tính cách dân tộc, phong tục tập quán cho đến
nhà cửa, ăn uống… Sự tổng hoà các đặc trưng sinh hoạt văn hoá trong mối liên hệ
giữa chúng tạo thành truyền thống văn hoá tộc người. Truyền thống văn hoá tộc
người hình thành trong quá trình lịch sử tộc người được truyền từ thế hệ này sang
17
thế hệ khác.
- Biến đổi văn hóa tộc người
Con người không chỉ sống trong mối quan hệ bên trong cộng đồng mà còn
quan hệ ra ngoài cộng đồng. Các quan hệ trao đổi, tiếp xúc ấy đầu tiên là sản phẩm
vật chất, các phương tiện sản xuất sinh hoạt, rồi đến tư tưởng, tình cảm,… cùng với
đó là những ảnh hưởng qua lại ở các mức độ đậm nhạt khác nhau tạo nên sự biến
đổi về văn hóa; đó là hiện tượng giao lưu văn hóa.
Văn hoá luôn biến đổi và phát triển. Nếu một nền văn hoá không biến đổi
để phát triển nền văn hoá ấy sẽ tàn lụi. Biến đổi văn hoá tộc người là những thay đổi
diễn ra trong đời sống xã hội tộc người khác đi so với văn hoá truyền thống. Biến
đổi văn hoá xảy ra trong quá trình di dân hoặc giao lưu tiếp xúc giữa các cộng đồng
tộc người. Biến đổi văn hoá bằng cách tiếp thu hoặc vay mượn các yếu tố văn hoá
của tộc người khác, thường là những tộc người có trình độ phát triển cao hơn. Biến
đổi có thể diễn ra trên từng lĩnh vực hoặc toàn bộ. Biến đổi văn hoá theo hai xu
hướng: Từ bỏ văn hoá truyền thống dẫn đến xoá nhoà bản sắc, hoà tan tộc người
(đồng hoá), hoặc biến đổi văn hoá để thích ứng với điều kiện mới tạo ra sự phát
triển văn hoá.
Tiếp biến và giao lưu văn hóa là quy luật phát triển của văn hóa, quy luật tất
yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên của con người hiện tại. Vì vậy, việc người
Hmông giao lưu tiếp xúc với đạo Tin lành dẫn đến những biến đổi trong văn hóa,
cùng với những ảnh hưởng, tác động qua lại đối với văn hóa Tin lành là điều không
thể tránh khỏi. Điều này đã tạo cho văn hóa dân tộc của người Hmông có nhiều nét
đặc sắc, chuyển biến mới.
-Tín ngưỡng, tôn giáo.
Do tính phức tạp của hiện tượng tôn giáo cũng như việc nghiên cứu tôn
giáo dưới nhiều góc độ khác nhau về hiện tượng này nên đã có không ít những quan
phân tích, lý giải về tín ngưỡng, tôn giáo. Mỗi người ở những hướng tiếp cận khác
nhau, hoặc dưới góc độ thần học, hoặc dưới góc độ tư tưởng, triết học, hoặc dưới góc
18
niệm về tôn giáo. Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm và định nghĩa cũng như lời
độ văn hóa, hoặc dưới góc độ chính trị,... đưa ra định nghĩa hoặc lời giải thích khác
nhau về tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong các định nghĩa về tôn giáo có một tuyến định nghĩa về tôn giáo của
rê-đê-rích Ăng-ghen đã đưa ra định nghĩa có tính chất kinh điển từ góc độ Triết học
chủ nghĩa Mác Lê-nin. Dựa trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử, Các Mác và Phê-
"Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
thế gới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của một chế độ không có
tinh thần". Phê-rê-đê-rích Ăng-ghen cho rằng:“Tất cả các tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con người - của những lực
lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đó mang hỡnh thức những lực lượng
siêu trần thế" [124, tr.240].
về tôn giáo, Các Mác định nghĩa
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có quan hệ với các hình thái ý thức
xã hội khác, đặc thù của ý thức tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên thần thánh -
hay niềm tin hoang đường hư ảo. Biểu hiện của bản chất hay đặc thù của ý thức tôn
giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo.
Từ các định nghĩa, có một định nghĩa về tôn giáo mang tính bao trùm: “Tôn
giáo là niềm tin của con người về thế giới siêu nhiên và những hành vi (hoạt
động) để thực hiện niềm tin đó” [124, tr.36]. Theo định nghĩa này, có hai nội dung
cần quan tâm là: niềm tin (đức tin) của con người vào thế giới siêu nhiên (thế giới
siêu nhiên là thế giới phi tự nhiện, thế giới không có thật, hư ảnh) và những hành
vi của con người để thực hiện niềm tin (bao gồm những hoạt động cúng bái, thờ,
cầu nguyện và các nghi thức khác). Như vậy, có thể rút gọn lại:“Tôn giáo là đức
tin và sự thờ phụng” [124, tr.36].
Theo sự giải thích trên thì niềm tin là tín ngưỡng. Tín ngưỡng và tôn giáo
có quan hệ với nhau, trong đó tín ngưỡng là phạm trù rộng, còn tôn giáo là phạm trù
19
cụ thể. Tôn giáo nằm trong tín ngưỡng, tôn giáo là cái biểu hiện bên ngoài của tín
ngưỡng. Không thể có những hoạt động tôn giáo nếu như không có niềm tin tôn
giáo- tín ngưỡng.
Cũng theo cách giải thích ở trên, tín ngưỡng là phạm trù rộng nói về niềm
tin của con người về thế giới siêu nhiên; tôn giáo là chỉ loại hình tôn giáo cụ thể. Đa
số các nhà khoa học trên thế giới chia tôn giáo thành các loại hình tôn giáo sơ khai
(tôn giáo nguyên thủy) và tôn giáo hoàn chỉnh (hay tôn giáo hiện đại). Tôn giáo sơ
khai, tôn giáo nguyên thủy có nhiều hình thức, nhưng chủ yếu ở ba dạng chính là tô
tem giáo, bái vật giáo, sa man giáo; tôn giáo hoàn chỉnh như Phật giáo, Công giáo,
Tin lành, Hồi giáo,...
Tuy nhiên, theo cách phân chia của Việt Nam, các loại hình tôn giáo sơ
khai, tôn giáo nguyên thủy và cả các hình thức ở tôn giáo, tiền tôn giáo được gọi
chung là tín ngưỡng hay tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng truyền thống. Với
cách phân chia này, không ít người cho rằng tín ngưỡng là các loại hình tôn
giáo cấp thấp- chưa hoàn chỉnh; còn tôn giáo là loại hình tôn giáo cấp cao- tôn
giáo hoàn chỉnh.
Theo cách phân loại trên, việc thờ cúng tổ tiên, thờ các con ma của người
Hmông theo truyền thống là tín ngưỡng, còn đạo Tin lành là tôn giáo.
Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo còn có khái niệm đời sống tôn giáo. Đời
sống tôn giáo bao gồm bốn nội dung chính là: niềm tin tôn giáo, còn gọi là đức tin
tôn giáo; thực hành tôn giáo là thực hiện các nghi lễ tôn giáo, trong đó có hoạt động
từ thiện xã hội; quan hệ trong cộng đồng cùng niềm tin tôn giáo và quan hệ xã hội.
- Tin lành:
Tin lành là tên gọi của tôn giáo tách ra từ Công giáo qua cuộc cải tôn giáo
đầu thế kỷ XVI ở châu Âu. Trên thế giới gọi là đạo Chống đối- Thệ phản
(Protestante), đạo Cải cách (Reformed). Tên gọi Tin lành chỉ dùng ở Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX, do việc các giáo sỹ Mỹ, Canada khi dịch Kinh Thánh dùng từ Tin
lành để chỉ sách Phúc âm, không dịch là Tin mừng như đạo Công giáo, dần dần tạo
20
thành thói quen gọi là đạo Tin lành để phân biệt với đạo Công giáo. Đạo Tin lành có
nhiều tổ chức, hệ phái nên từ Tin lành thường đứng trước tên của các tổ chức, hệ
phái để chứng tỏ đó là đạo Tin lành.
- Đạo Tin Lành:
Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào đầu thế kỷ XVI, nguyên là phong trào
cải cách từ đạo Công giáo. Đạo Tin lành ra đời được thúc đẩy bằng những nguồn
gốc chính trị, xã hội sâu sa, là sư xa sút về uy tín và quyền lực của giáo hội Công
giáo, là sự xuất hiện tầng lớp tư sản mới với những nhu cầu mới về xã hội và văn
hóa, là sự thúc đẩy của phong trào văn hóa phục hưng,… Đạo Tin lành ra đời còn là
sự kế thừa, tiếp nối, phát huy của các phong trào chống lại quyền lực Giáo hội, giáo
triều Roma từ thế kỷ XII trở đi.
Chính những tiền đề, bối cảnh ra đời cùng với quá trình phát triển đã tạo
cho Tin lành những đặc điểm cơ bản như sau [90]: (1). Đạo Tin lành được tổ chức
và hoạt động theo hướng đơn giản để phù hợp với cuộc sống hiện đại. Đây là đặc
điểm thể hiện cao nhất về sự cải cách của Tin lành đối với đạo Công giáo, được thể
hiện ở các yếu tố như về luật lệ, lễ nghi đơn giản; giáo phẩm và tổ chức giáo hội
được thiết lập theo cơ đan chủ. (2). Tin lành là một tôn giáo có đường hướng và
phương thức hoạt động linh hoạt, liên tục điều chỉnh cả về mặt nội dung và hình
thức để phù hợp với thực tiễn thời đại. Thể hiện rõ nhất là phương thức truyền giáo
của đạo Tin lành hết sức linh hoạt, diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh
một cách kiên trì, sử dụng tất cả các phương tiện, công cụ vào công việc truyền
giáo, tìm kiếm tín đồ. Cũng trong quá trình truyền giáo, các nhà truyền giáo tìm mọi
cách để đơn giản các luật lệ và lễ nghi cho dễ thâm nhập vào đời sống văn hóa, tâm
lý, lối sống của cư dân bản địa. (3). Đạo Tin lành chủ trương nhập thế, tham gia rất
tích cực vào các hoạt động xã hội. Các nhà truyền giáo khi đặt chân đến khu vực
nào thì nhanh chóng nghiên cứu về văn hoá, phong tục tập quán ở khu vực đó và rất
“tận tình” trong việc chăm lo, giải quyết các công việc có liên quan đến cuộc sống
thường nhật của nhân dân như ăn, ở, đi lại, hiếu hỉ, y tế…để gây thiện cảm, gần gũi
với nhân dân, thông qua đó để tuyên truyền đức tin. Chủ trương nhập thế này đã
làm cho đạo Tin lành trở nên hấp dẫn, dễ thu phục tình cảm của người dân, tạo ra uy 21
tín và khả năng chung sống hoà bình với mọi hoàn cảnh chính trị - xã hội, không
phân chia dân tộc, biên giới quốc gia. (4). Đạo Tin lành lấy việc truyền giáo làm nội
dung của mọi hoạt động. Việc phát triển số lượng tín đồ là một trong những hoạt
động căn bản, là thiên chức của giáo sỹ, nhà tu hành và cả tín đồ. Đạo Tin lành là
tôn giáo rất nỗ lực trong việc phát triển tín đồ của mình, họ được thúc giục bởi
mệnh lệnh truyền giáo đã được ghi trong Kinh thánh “Hãy đi khắp thế gian rao
giảng Phúc âm cho mọi người”. (5). Trong quá trình ra đời và phát triển, đạo Tin
lành là tôn giáo có tư duy kinh tế và khuyến khích làm giàu, đồng thời đạo Tin lành
có những mặt tiến bộ về xã hội, như tuân thủ luật pháp, sống tiết kiệm, bỏ các thói
quen xấu như uống rượu, hút thuốc,… Tuy nhiên, đạo Tin lành là tôn giáo đề cao
đức tin nên thường xẩy ra việc ứng xử cực đoan trong mối quan hệ với tín ngưỡng
truyền thống nơi đạo Tin lành truyền đến.
Đạo Tin lành ra đời ở nước Đức, sau đó lan nhanh ra các nước châu Âu, và
cùng với thời gian, đạo Tin lành truyền bá rộng ra thế giới. Đến năm 2012, đạo Tin
lành có khoảng 750 triệu tín đồ có mặt ở hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng
tập trung ở ba khu vực các nước công nghiệp tiên tiến: Tây Âu (Đức, Anh, Hà Lan,
một phần của Thụy Sỹ), Bắc Âu (Na Uy, Thụ Điển, Đan Mạch, Phần Lan), Bắc Mỹ
(Mỹ, một phần của Canada). Gần đây đạo Tin lành phát triển nhanh ở Hàn Quốc với
gần 50% dân số theo đạo Tin lành [119].
- Vàng Chứ hay Vàng Trứ
Danh xưng này có nhiều cách lý giải khác nhau. Ông Hoàng Xuân Lương
trong cuốn Văn hóa người Hmông ở Nghệ An (2000) có cùng cách giải thích với tập
Kỷ yếu về Tình hình phát triển của đạo Tin Lành ở miền núi phía Bắc, Trường Sơn
- Tây Nguyên của Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn Quốc gia, là: Vàng Chứ không phải chữ Hmông, mà là thuật ngữ Hán Việt:
Miêu Vương xuất thế, phiên âm tiếng Hán là Miao Wang shu shi, tức là Vua Mèo
xuất thế, là xưng Vua hay Vua ra. Dương Kim Quí, Trưởng Ban Dân tộc - Tôn giáo
tỉnh Cao Bằng lại cho rằng, Vàng Chứ tức là Vè Chứ, tên gọi tắt của tiếng Hmông:
Véx Chúx ntủx có nghĩa là Chúa Trời hay Đức Chúa Trời. Có ý kiến lại cho rằng 22
Vàng Chứ là Vương Chủ, là Đầu đàn…[52]. Trong luận án, tác giả sử dụng cách
viết là Vàng Chứ với ý nghĩa là Vương chủ, để thấy được việc lợi dụng của các nhà
truyền giáo trong tâm lý tộc người và để thấy sự khác biệt của tôn giáo được Nhà
nước công nhận là đạo Tin lành với Vàng Chứ.
Để nghiên cứu sự tác động của đạo Tin lành đến văn hóa Hmông tạo nên
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
những biến đổi trong văn hóa, và ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa của người Hmông
theo Tin lành với văn hóa truyền thống của họ; luận án sử dụng những lý thuyết tiếp
cận là: lý thuyết chức năng cấu trúc; lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa; lý thuyết
về xung đột.
+ Lý thuyết chức năng cấu trúc.
Thuyết chức năng với người đi tiên phong là nhà Nhân học người Anh
Brownislaw Malinowski (1884-1942). Ông cho rằng, các thiết chế xã hội trong đó
có các thiết chế văn hóa của loài người tồn tại được qua thời gian bởi chúng có chức
năng duy trì sự ổn định của cả hệ thống xã hội. Nhiệm vụ của các nhà Nhân học
chính là nghiên cứu làm rõ các chức năng này của các thiết chế xã hội và văn hóa
của loài người.
Lý thuyết chức năng tìm hiểu bên trong của những đơn vị - xã hội đa hợp,
tìm hiểu cấu trúc bên trong của các bộ phận xã hội, nghiên cứu những quan hệ xã
hội gắn các bộ phận với nhau từ đó giải thích sự ổn định của những xã hội phân
nhánh. Lý thuyết chức năng cho rằng sự tương tác xã hội phải được hiểu một cách
có hệ thống, mọi hành vi xã hội được học hỏi và quyết định bởi sự truyền thừa bên
trong truyền thống xã hội. Các nhà lý thuyết chức năng quan niệm cơ cấu xã hội
như là mạng lưới những vị thế được kết nối bởi những vai trò có liên quan.
Với thuyết chức năng cấu trúc, các thiết chế xã hội lại đóng vai trò duy trì
sự cân bằng và sự cố kết của một xã hội. Những người theo cách tiếp cận chức năng
cấu trúc quan tâm tới việc nghiên cứu cấu trúc nằm bên dưới của các xã hội và
23
những quy luật xã hội chi phối chúng.
Thuyết chức năng cấu trúc có giá trị cho việc nghiên cứu và giải thích sự
tồn tại, sự lâu bền của các thiết chế xã hội.
Việc sử dụng thuyết này trong luận án để giải thích sự lâu bền của văn hóa
truyền thống trong người Hmông nhưng bên cạnh đó lại có một văn hóa tôn giáo - văn
hóa Tin lành xuất hiện và tồn tại trong một bộ phận người Hmông ở tỉnh Lào Cai.
- Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa là khái niệm được các nhà Nhân học phương
Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhằm nhấn mạnh đến sự biến đổi
văn hóa của tộc người. Người Anh dùng chữ Cultral Change – trao đổi văn hóa,
người Tâu Ban Nha dùng chữ Transculturation – di chuyển văn hóa, người Pháp
dùng chữ Interpénnétration des civilizations – sự xâm nhập giữa các nền văn minh.
Nội hàm của các thuật ngữ trên ở các nước đều có những nét khác nhau nhất định
về sắc thái.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của văn hóa và xã
hội. Giao lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi, vừa chính là sự trao đổi.
Phân biệt hai loại giao lưu, tiếp biến văn hóa: Loại thứ nhất diễn ra khi hai
nền văn hóa thường xuyên tiếp xúc với nhau một cách bình đẳng, dẫn đến nền văn
hóa tự do vay mượn những yếu tố mới rồi thay đổi, hòa nhập cho phù hợp. Loại thứ
hai diễn ra khi một nền văn hóa này gặp gỡ nền văn hóa kia trong bối cảnh bị chinh
phục, thống trị; từ đó dẫn đến ba khuynh hướng: Văn hóa thống trị đồng hóa toàn
bộ hay từng phần nền văn hóa kia. Dung hợp, ra đời một nền văn hóa mới có tính
hỗn hợp của hai nền văn hóa. Phản ứng của nền văn hóa bị trị biểu hiện trong đấu
tranh chống các yếu tố “ngoại lai”.
Trong quan hệ giữa tộc người Hmông với yếu tố “ngoại lai” là đạo Tin lành
và văn hóa Tin lành - văn hóa tôn giáo đều có sự giao tiếp văn hóa với nhau, góp
phần làm phong phú văn hóa tộc người. Nhưng cũng có tình trạng áp đặt tạo nên
hiện tượng mang tính chất “đồng hóa”, gây ra những phản ứng tự vệ của tộc người,
ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ và phát triển xã hội (Chẳng hạn như xem xét trong
24
mối quan hệ giữa người Hmông truyền thống với người Hmông theo đạo Tin lành)
Do vậy, lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa được sử dụng để nghiên
cứu về biến đổi văn hóa và quan hệ giữa tộc người (người Hmông) và yếu tố ngoại
sinh (đạo Tin lành).
- Lý thuyết về xung đột và xung đột tộc người.
“Xung đột ” được hiểu là “mâu thuẫn”, “đấu tranh”; trong lịch sử phát triển
của nhân loại đã xảy ra nhiều cuộc xung đột, mà phần lớn là xung đột tộc người,
xung đột giữa các quốc gia dân tộc (gọi chung là xung đột dân tộc). Nó thường
được hiểu là sự đụng độ về lợi ích, các quan điểm, lối sống, văn hóa ứng xử khác
nhau,… Cho đến nay vấn đề xung đột xã hội nói chung, xung đột tộc người nói
riêng đang trở thành vấn đề cấp bách của lý luận và thực tiễn.
Ở Việt Nam có xung đột tộc người ít nhiều liên quan đến tôn giáo. Khi một
tôn giáo hiện đại truyền bá và thâm nhập vào tộc người cùng với văn hóa đặc trưng
của tôn giáo đó đã tạo ra sự tương tác trong văn hóa tộc người. Có hai trường hợp
có thể xảy ra: Một là diễn ra sự giao lưu, tiếp biến văn hóa; hai là xuất hiện mâu
thuẫn giữa văn hóa truyền truyền thống và văn hóa tôn giáo của những người trong
cùng một tộc người.
Lý thuyết này giúp việc tìm hiểu những xung đột tộc người tiến tới hạn chế
từng bước và dần dần đi tới loại bỏ hiện tượng xung đột này.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận án, tác giả sử dụng linh hoạt, có lựa chọn một số
phương pháp nghiên cứu Nhân học, trong đó phương pháp chủ đạo là điền dã dân
tộc học, tiếp đến là phương pháp chuyên gia và phương pháp nghiên cứu liên ngành
để xử lý số liệu.
- Phương pháp điền dã dân tộc học được tác giả coi trọng trong quá trình
nghiên cứu, bao gồm các thao tác cơ bản như: quan sát tham dự, quan sát trực tiếp,
phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
+ Nghiên cứu biến đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành là một
vấn đề rất nhạy cảm và tương đối khó tiếp cận. Do đó, để có thể tạo được sự tin cậy
và sẵn sàng chia sẻ thông tin của người dân, tác giả ý thức được tầm quan trọng của 25
quan sát tham dự. Việc sử dụng kỹ năng này giúp tác giả luận án dễ dàng hơn trong
việc tiếp cận người dân và tham gia vào các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của họ.
Điều này giúp tác giả dễ dàng quan sát những hoạt động thường ngày của người
dân, ứng xử của họ đối với những thành viên trong gia đình và cộng đồng, thậm chí
là với người ngoài cộng đồng để thu thập được các thông tin về tộc người, những
thay đổi trong văn hóa và những vấn đề nhạy cảm khác có liên quan tại địa bàn
nghiên cứu.
+ Trong quá trình điền dã, tác giả luận án kết hợp sử dụng quan sát trực tiếp
để đánh giá sơ bộ các điều kiện tự nhiên, nơi cư trú, hoạt động kinh tế và các khía
cạnh khác trong đời sống văn hóa - xã hội của người Hmông ở địa bàn khảo sát.
+ Để tiến hành phỏng vấn sâu, tác giả luận án đã lựa chọn các thông tín
viên là người Hmông, đặc biệt chú trọng những người có uy tín trong cộng đồng
(trưởng họ, trưởng bản, thày cúng) và những người khác am hiểu về luật tục
Hmông. Ngoài ra, tác giả cũng thu hút những người tham gia công tác Đảng và
chính quyền các cấp vào các cuộc phỏng vấn sâu. Những vấn đề được phỏng vấn
sâu là những vấn đề mà bảng hỏi định lượng không thể giải quyết được một cách
triệt để hoặc sâu sắc. Do đó, nội dung câu hỏi phỏng vấn sâu được ưu tiên lựa chọn
là những câu hỏi mở về đời sống cá nhân, cộng đồng và tác động của đạo Tin lành
đối với đời sống văn hóa của người Hmông theo đạo và trong mối quan hệ với
người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống.
- Phương pháp chuyên gia được thực hiện qua các cuộc trao đổi trực tiếp
với các chuyên gia có kinh nghiệm nghiên cứu vấn đề tộc người và tôn giáo, nhằm
tranh thủ những hiểu biết và quan điểm của họ khi đánh giá tác động của đạo Tin
lành đến sự ổn định, phát triển và việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tộc người
cũng như văn hóa tôn giáo. Phương pháp này cũng nhằm thu thập ý kiến của lãnh
đạo chính quyền các cấp trong việc thực thi chính sách.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành được sử dụng để xử lý số liệu, hệ
26
thống hóa các tư liệu, thông tin đã thu thập. Kết hợp với các phương pháp thống
kê, tổng hợp và phân tích, so sánh,…để đưa ra những bảng, biểu mang tính
thuyết phục.
Cụ thể, để hoàn thành luận án tác giả đã áp dụng các phương pháp nghiên
cứu trong hai đợt khảo sát thực tế tại địa bàn nghiên cứu (Tháng 3 năm 2013 và
tháng 4 năm 2014 tại Lào Cai). Với phương pháp phỏng vấn sâu nhằm thu thập
những thông tin khái quát làm cơ sở để thiết kế cấu trúc và nội dung cho khung bài
viết. Cùng với đó, những thông tin, nhận xét, bình luận theo ý kiến của người được
phỏng vấn được tác giả phân tích, đánh giá trong nghiên cứu của mình. Đối tượng
phỏng vấn gồm 01 mục sư Tin lành, Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm
Tổng hội Hội thánh Linh hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả
Phìn; 01 trưởng thôn thôn Lủ Khấu, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, không theo Tin lành;
01 Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Sa Pả, huyện Sa Pa; 01 phụ nữ Hmông, theo Tin
lành tại xã Xín Chải, huyện Bảo Thắng; chuyên viên Ban Dân vận tỉnh Lào Cai.
Về điều tra bảng hỏi: Với 120 phiếu chia làm ba nội dung: (1). Nguyên nhân
theo đạo Tin lành; (2). Quan hệ xã hội cộng đồng; (3). Tiếp biến văn hóa (thể hiện ở
trang phục, nhà cửa, hôn nhân, tang ma.); mỗi một nội dung có 40 phiếu thu về.
1.3. Địa bàn và đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
Tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 12/7/1907, gồm hai châu Thủy Vĩ, Bảo
Thắng và các đại lý Mường Khương, Bát Xát, Phong Thổ, Bắc Hà và đặc khu Sa
Pa. Ngày 01/10/1976, Lào Cai sáp nhập với hai tỉnh Yên Bái và Nghĩa Lộ thành
tỉnh Hoàng Liên Sơn. Đến ngày 01/10/1991, tỉnh Lào Cai được tái lập với diện tích
tự nhiên 6.357km2 và đến nay gồm 9 huyện, thành phố là Bảo Yên, Bảo Thắng, Văn
Bàn, Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương, Bát Xát, Sa Pa và thành phố Lào Cai;
cùng với 164 xã phường, trong đó có 81 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Phía
Đông tỉnh Lào Cai giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây
giáp tỉnh Lai Châu, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc với 203 km
27
đường biên giới.
Lào Cai có địa hình khá phong phú, bao gồm vùng đồi núi thấp, vùng núi
cao và rất cao (cao nguyên Bắc Hà, dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Păng cao
3.143m). Khí hậu Lào Cai về cơ bản là khí hậu nhiệt đới gió mùa, ngoài ra do đặc
điểm địa hình nên Lào Cai còn có tiểu vùng khí hậu ôn đới. Lào Cai có nhiều tiềm
năng tài nguyên thiên nhiên. Tán che phủ rừng 32,4% rất đa dạng về hệ sinh thái, có
vườn quốc gia Hoang Liên rộng gần 30.000 ha. Trong lòng đất có trên 30 loại
khoáng sản, trong đó có Apatit, đồng Sinh Quyền có trữ lượng lớn. Kinh tế cửa
khẩu, du lịch là thế mạnh đang được khai thác ở Lào Cai.
Địa hình vùng cao Lào Cai tạo điều kiện cho người Hmông phát triển kinh
tế nương rẫy với đặc trưng là các thửa ruộng bậc thang. Những năm gần đây, người
Hmông đã có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trồng cây đặc sản, cây ăn quả (mận Tam
Hoa và mận hậu ở Bát Xát, Sa Pa; chè ở thôn Hải Nam, xã Phong Hải, huyện Bảo
Thắng; huyện Mường Khương, Bắc Hà),... Ngoài sản xuất canh tác, ở Lào Cai hiện
rất phát triển du lịch, và công việc hướng dẫn viên du lịch đã trở thành một nghề
khá phổ biến của người Hmông tại huyện Sa Pa, Bắc Hà. Điều này một mặt giúp
cho kinh tế của người Hmông ở đây được cải thiện, mở ra nhiều cơ hội giao lưu tiếp
xúc những cái mới; một mặt người Hmông cũng phải lãnh chịu những hậu quả của
các góc khuất trong ngành dịch vụ không khói này.
Dân số Lào Cai có trên 637 ngàn người thuộc 25 dân tộc, trong đó dân tộc
Kinh có 220.821 người, chiếm 33%; dân tộc Hmông có 137.649 người, chiếm
23,78%, dân tộc Tày có 90.019 người, chiếm 16,27%, dân tộc Dao có 93.610 người,
chiếm 14,38%; các dân tộc khác chiếm 19% [3]. Tỉnh Lào Cai có 3 tôn giáo chính
[7; tr. 4-5] là Phật giáo (6.426 phật tử ), Công giáo (2.113 hộ/ 7.987 khẩu, trong đó
có 2.371 tín đồ là người Hmông) và Tin lành (24.750 tín đồ, trong đó có 24.166 tín
đồ là người Hmông). Đồng bào các tôn giáo chiếm 6,23% dân số toàn tỉnh, trong đó
có một bộ phận dân tộc thiểu số theo tôn giáo.
Điểm nổi bật của Lào Cai là văn hóa đa tộc người, bản sắc văn hóa đặc
28
trưng vùng rõ rệt như: vùng thấp của người Tày, Thái, Nùng, Giáy với truyền thống
văn hóa lúa nước; vùng giữa của người Kháng, La Ha, Phù Lá với văn hóa nưỡng
rẫy, phát triển kinh tế đồi rừng; vùng cao của người Hmông, Hà Nhì, Dao với truyền
thống ruộng bậc thang, làm nương rẫy. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số được cải
thiện rõ rệt. Đồng bào luôn phát huy được truyền thống yêu nước, gắn bó, khắc phục
mọi khó khăn, tích cực lao động sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm
nghèo, tích cực xây dựng nông thôn mới, xây đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Do đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống tập trung ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh nên đời sống kinh tế còn nhiều khó
khăn; bên cạnh đó, một số tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, chậm được khắc phục,
cùng với sự xâm nhập của các trào lưu văn hóa ngoại lai có tác động sâu sắc đến đời
sống văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc. Với sự đoàn kết các dân tộc dưới sự
lãnh đạo của các cấp, các ngành, trong hơn 20 năm đổi mới, Lào Cai đã có những
bước phát triển then chốt, đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Các dân tộc ở Lào Cai
đoàn kết ổn định là nguồn nội sinh thực hiện xây dựng Lào Cai giàu mạnh.
Lào Cai có một vị trí địa chính trị, địa văn hóa đặc trưng, có đường biên
giới với Trung Quốc, tập trung nhiều dân tộc thiểu số, có ý nghĩa quan trọng trong
an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc các tôn giáo du nhập vào các
tộc người thiểu số ở Lào Cai, nhất là người Hmông theo đạo Tin lành có tác động
đến nhiều mặt của xã hội, văn hóa, an ninh.
1.3.2. Người Hmông ở Lào Cai
Theo Tổng điều tra dân số năm 2009 [3], người Hmông ở Lào Cai có
137.649 người, trong đó có 69.212 nam và 68.436 nữ; đứng thứ hai sau người Kinh.
Người Hmông cư trú ở 606 làng, 109 xã của tám huyện và thành phố Lào Cai; trong
đó có 433 làng người Hmông cư trú độc lập và 173 làng cộng cư với các dân tộc
anh em.
Người Hmông ở Lào Cai có bốn nhóm chính, được phân bố ở các địa
29
phương như sau:
Người Hmông Hoa (Mông Lênhx) có dân số đông nhất, chiếm 70% số
người Hmông toàn tỉnh, cư trú ở tám huyện, tập trung đông nhất ở các huyện Bắc
Hà, Mường Khương, Sa Pa, Bảo Thắng và Bảo Yên.
Người Hmông Đen (Mông Đuz) cư trú ở các huyện Bát Xát, Sa Pa.
Người Hmông Xanh (Mông Njuôz) sống chủ yếu ở huyện Văn Bàn.
Người Hmông Trắng (Mông Đơưz) cư trú ở các huyện Bắc Hà, Bát Xát, Sa
Pa và Si Ma Cai.
Bảng 1.1. Tỷ lệ dân số Hmông ở Lào Cai
Các huyện, thành Tổng dân Số nhân khẩu STT Tỷ lệ % phố số/ người Hmông
Bát Xát 69.766 19.347 27,73 1
Bảo Thắng 99.718 7.506 7,52 2
Sa pa 53.446 23.511 43,99 3
Văn Bàn 79.090 8.166 10,32 4
Bảo Yên 76.307 10.910 14,3 5
Mường Khương 51.912 20.798 40,06 6
Bắc Hà 50.890 23.328 45,9 7
Si Ma Cai 31.326 23.650 75,5 8
TP Lào Cai 98.620 433 0,44 9
Tổng cộng 613.075 137.649 22,46
Ở Lào Cai tuy phân biệt thành bốn nhóm khác nhau, nhưng thực chất trừ
(Nguồn: Điều tra dân số 2009 của Cục thống kê Lào Cai)
nhóm Hmông Xanh ở xã Nậm Xé, huyện Văn Bàn còn ba nhóm Hmông Hoa,
30
Hmông Trắng, Hmông Đen cơ bản là giống nhau về văn hóa, phong tục tập quán.
Sự khác nhau giữa các ngành chủ yếu dựa trên trang phục của người phụ nữ; về
ngôn ngữ có 93% từ vị và cách phát âm của các nhóm Hmông giống nhau.
Bảng 1.2: Cư trú của người Hmông ở Lào Cai
Số xã có người Số làng có người STT Các huyện, thành phố Hmông Hmông cư trú
1 Thành phố Lào Cai 1 2
2 Bát xát 11 68
3 Bảo Thắng 9 33
4 Sa Pa 15 61
5 Văn Bàn 13 58
6 Bảo Yên 11 55
7 Mường Khương 16 110
8 Bắc Hà 20 128
9 Si Ma Cai 13 91
Tổng cộng 109 606
(Nguồn: Điều tra dân số 2009 của Cục thống kê Lào Cai)
Người Hmông thường cư trú ở các sườn núi, địa hình hiểm trở, vách đá cao
chia cắt theo chiều dọc. Người Hmông ở Lào Cai thường cư trú tập trung trong mỗi
giao (bản) từ vài chục đến vài trăm nóc nhà. Ngày nay, việc cư trú của người
Hmông ở Lào Cai đã có sự dịch chuyển, nhất là về phía các khu vực trung tâm
huyện lỵ, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Điều này giúp cho người
Hmông có thể hòa nhập với các dân tộc khác, tăng cường giao lưu, tiếp nhận những
yếu tố văn hóa - xã hội mới. Kéo theo đó là sự thay đổi nhất định trong sinh hoạt
văn hóa trong quá trình tiếp biến những giá trị văn hóa mới.
Tiểu kết chương 1
Người Hmông nói chung, người Hmông ở Lào Cai nói riêng là một trong
những dân tộc có nhiều nét đặc trưng về tộc người, từ nguồn gốc, địa bàn cư trú,
đến văn hóa, lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán,… Gần đây, một bộ phận 31
người Hmông, người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành đã dẫn đến việc thay đổi
về văn hóa, từ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống sang văn hóa, lối sống Tin lành.
Việc một bộ phận người Hmông ở Việt Nam, trong đó có người Hmông ở Lao Cai
theo Tin lành và thay đổi về văn hóa, bên cạnh mặt tích cực là những tiêu cực ảnh
hưởng đến các mặt đời sống của người Hmông và của xã hội.
Đến nay có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về người Hmông dưới các góc
độ khác nhau, như Dân tộc học, Văn hóa học, Tôn giáo học với nhiều công trình
được công bố,… Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về đạo Tin lành, người
Hmông theo đạo Tin lành cũng đã thu hút được các học giả trong nước và nước
ngoài. Tuy nhiên, đa số công trình nghiên cứu có phạm vi rộng, tầm vĩ mô, thiên về
chính trị học, triết học; hoặc khi đánh giá về đạo Tin lành và chuyển đổi sang văn
hóa Tin lành, chỉ nhấn mạnh mặt tiêu cực; chưa có nhiều nghiên cứu ở góc độ Nhân
học, chưa tập trung vào nghiên cứu điểm cụ thể.
Để Nghiên cứu luận giải sự chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa
Tin lành của một bộ phận người Hmông ở một địa phương cụ thể, tức là phải tiếp
cận nghiên cứu ba vấn đề lớn: tộc người, tôn giáo, văn hóa nên luận án đã làm rõ
những khái niệm công cụ như: văn hóa, văn hóa tộc người, giao lưu văn hóa, tiếp
biến văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, Tin lành. Luận án sử dụng ý thuyết về chức
năng cấu trúc, giao lưu tiếp biến văn hóa và xung đột được sử dụng để phục vụ
nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm Điền dã dân tộc học,
chuyên gia, so sánh, liên ngành,... để thu thập thông tin, tư liệu phục vụ nội dung
32
nghiên cứu.
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH
TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HMÔNG Ở TỈNH LÀO CAI
2.1 Đạo Tin lành ở Việt Nam và quá trình theo đạo Tin lành của người
Hmông tại Lào Cai
2.1.1 Khái quát về đạo Tin lành ở Việt Nam
và nhân viên quân đội viễn chinh Pháp. Các mục sư Tin lành người Pháp cố gắng
rao giảng Tin lành cho người Việt nhưng không thành công. Cuối cùng Tin lành
Pháp đành phải rút khỏi địa bàn mới mẻ và hấp dẫn để nhường chỗ cho tổ chức Hội
Liên hiệp Cơ đốc và truyền giáo- CMA được thành lập ở Mỹ năm 1897, còn gọi là
Hội Truyền giáo CMA.
Năm 1911 đánh đấu việc đạo Tin lành truyền vào Việt Nam bằng việc Hội
truyền giáo CMA xây dựng chi hội đầu tiên ở Đà Nẵng với công lao của Mục sư AB
Simpson- Hội trưởng và các mục sư cộng sự, như: D. Seleccheur, CH Recver, R.A
Faffaray,… Năm 1915, một tổ chức Tin lành có tên là Cơ đốc Phục lâm cũng có nguồn
gốc từ Mỹ truyền vào Việt Nam nhưng không thành công như Hội truyền giáo CMA.
Sau nửa thế kỷ truyền giáo, đến năm 1954, đạo Tin lành ở Việt Nam có
khoảng 50 ngàn tín đồ, gần 100 mục sư, truyền đạo và một tổ chức chung là Tổng Liên
hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (quen gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam).
Sau năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền, đạo Tin lành ở miền Bắc
và miền Nam có sự khác nhau. Ở miền Bắc vốn ít tín đồ, lại có một bộ phận di cư vào
Nam nên số lượng tín đồ giảm xuống, chỉ còn vài ngàn người và 20 mục sư, truyền
đạo. Năm 1958, những cộng đồng Tin lành ở miền Bắc tổ chức Đại hội đồng thành lập
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), sau đó đến năm 1960, chính thức thông qua
bản Điều lệ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).
Ở miền Nam những năm 1954-1975, môi trường chiến tranh ác liệt, lại được
Hội truyền giáo CMA và các tổ chức Tin lành quốc tế, chủ yếu là Tin lành Mỹ, như:
Tầm nhìn thế giới (The World Vision), Viện Ngôn ngữ Mùa hè (Summer Institute
33
Đạo Tin lành có mặt ở Việt Nam từ cuối thế kỷ thế kỷ XIX, cùng với binh lính
Languistisct),… hỗ trợ về vật chất và phương tiện truyền giáo nên Hội thánh Tin lành
Việt Nam (miền Nam) phát triển nhanh về tín đồ, chức sắc cũng như quy mô tổ chức
giáo hội và phạm vi hoạt động.
Những năm 1954-1975, ở miền Nam, ngoài hai tổ chức Tin lành có từ trước
là Hội thánh Tin lành Việt Nam, gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và
Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam, còn có hơn 20 hệ phái, tổ chức Tin lành khác,
vẫn chủ yếu là Tin lành Mỹ vào truyền giáo gây dựng cơ sở tạo ra diện mạo mới của
Tin lành ở Việt Nam với nhiều tổ chức, hệ phái khác nhau. Theo thống kê của các tổ
chức Tin lành ở Việt Nam, năm 1975, cả nước có khoảng hơn 250 ngàn người theo đạo
Tin lành, chủ yếu ở các tỉnh phía Nam.
Thời gian đầu sau ngày giải phóng miền Nam, đạo Tin lành trên cả nước
chững lại, không tăng về số lượng và hoạt động cầm chừng. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, thời gian từ giữa những năm 1980 trở lại đây, đạo Tin lành tăng rất nhanh
về số lượng và mở rộng địa bàn hoạt động. Đến năm 2014, theo thông báo của Ban Tôn
giáo Chính phủ, số người theo đạo Tin lành ở Việt Nam là 1,5 triệu người, tăng gần gấp
sáu lần so với năm 1975 và có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước.
Một trong những đặc trưng của đạo Tin lành ở Việt Nam là nhiều tổ chức hệ
phái. Đến năm 1975, ở Việt Nam có đến trên dưới 20 hệ phái, tổ chức Tin lành. Cụ thể,
như sau:
- Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc) cùng nguồn gốc từ Hội truyền giáo CMA.
- Hệ phái Cơ đốc Phục lâm truyền vào Việt Nam năm 1915 với các giáo sỹ như
R.M. Milne (Mỹ), Dương Thượng Phiến (Đài Loan), Tan Kia Ou (Trung Quốc).
- Hệ phái Trưởng lão truyền vào từ năm 1973.
- Hệ phái Bắp tít truyền vào năm 1959 do vợ chồng Mục sư H.P. Hayer (Mỹ),
chính thức thành lập năm 1962.
- Hội Cơ đốc truyền giáo tách ra từ Hội thánh Tin lành Việt Nam từ năm 1956
dưới sự dẫn dắt của Mục sư G.H Smith (Mỹ) và Mục sư Hoàng Trọng Nhật.
- Hệ phái Phúc âm Ngũ tuần truyền vào năm 1970 do vợ chồng Mục sư Don
Warren (Mỹ).
34
- Hệ phái Men-nô-nai Việt Nam có mặt ở Việt Nam năm 1954 dưới danh nghĩa
tổ chức MCC.
- Hệ phái Môn đệ Đấng Christ vào Việt Nam năm 1963 dưới sự dẫn dắt của
Mục sư R.A Burcham (Mỹ),…
Ngoài các Hội thánh nói trên, còn có các tổ chức Tin lành vào hoạt động truyền
giáo hoặc hoạt động từ thiện xã hội tại miền Nam, như: Tầm nhìn Thế giới (The World
Vision- VS), Viện Ngôn ngữ Mùa Hè (Summer Institute Linguistic- SIL), Cơ quan
Phát triển và Cứu trợ Cơ đốc Phục lâm (Adventiste Development and Relief Agency-
ADRA), Ủy ban Trung ương Men-nô-nai (Mennonite Centre Committee- MCC), Ủy
ban Dịch vụ những người bạn Mỹ (American Friends Service- SCSC), Thánh kinh Hội
(Bible Societies - BS), Hội truyền giáo Thế giới thống nhất (United World Mission-
UWM), Chiến dịch truyền bá Tin lành toàn cầu (World Wide Evangelization Crusade-
WEC), Hội Cứu thế quân (The Salvasion Army- SA), Hội truyền giảng Chúa Ki-tô
(Campus Crusade of Christ- CCC), Hội Navigator, Hội đồng các Giáo hội thế giới
(The World Council of Church- WCC), Hội nghị Ki-tô giáo châu Á (The Christian
Conference of Asia- CCA),...
Sau ngày giải phóng miền Nam, các tổ chức, hệ phái Tin lành lại tăng lên.
Ngoài những tổ chức Tin lành đã có từ trước, xuất hiện nhiều tổ chức mới hoặc mới du
nhập vào, như: Tin lành Giám lý, Tin lành Nazarene, Tin lành Mặc Mông,....hoặc tách
ra từ các tổ chức Tin lành ở Việt Nam, như Hội thánh Liên Hữu Cơ đốc Việt Nam tách
ra từ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Bắp tít Việt Nam (Nam
phương) tách ra từ Hội thánh Bắp tít Việt Nam (Ân điến Nam phương),… đưa tổng số
lên đến trên dưới 50 tổ chức, hệ phái và nhóm Tin lành ở Việt Nam vào năm 2014.
Điểm đặc trưng theo truyền thống Tin lành, mỗi tổ chức Tin lành, kể cả cùng một hệ
phái theo một xu hướng thần học, nhưng vẫn giữ độc lập về tổ chức, dù ở cùng một
quốc gia, hay khu vực.
Do những lợi thế riêng về mặt tôn giáo, Tin lành vào Việt Nam tỏ ra thích hợp
với hai đối tượng là thị dân và đồng bào dân tộc thiểu số (tộc người), mặc dù hai đối
tượng này khác nhau về nguồn gốc, văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán. Theo thống
kê của của Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), ở thời điểm cuối năm
35
1974, đầu năm 1975, tổ chức này có khoảng 190 ngàn tín đồ, thì số người là thị dân
khoảng gần 100 ngàn, chiếm gần 50%, số người là dân tộc thiểu số là 60 ngàn, chiếm
36%, trong khi số người là nông dân vùng đồng bằng chỉ chiếm trên 10%. Các hệ phái
Tin lành khác ở miền Nam cũng có tỷ lệ tương tự. Ví dụ: Hội thánh Cơ đốc Phục lâm,
số tín đồ là thị dân chiếm 65%, là người dân tộc thiểu số chiếm 25%; Hội Truyền giáo
Cơ đốc Việt Nam, số tín đồ là thị dân chiếm 40%, là người dân tộc thiểu số chiếm
45%,…
Khoảng năm 1985, một số người Hmông ở Sơn la, Hà Giang sau khi nghe
đài FEBC (quen gọi là đài Manila vì được phát đi từ Manila - Philippine) phát bằng
tiếng Hmông nói về Vàng Chứ đã cùng một số người đứng ra vận động mọi người
theo đạo Vàng Chứ (tên gọi lúc đầu của đạo Tin lành khi truyền vào đồng bào
Hmông). Năm 1986, 1987 đạo Tin lành Vàng Chứ phát triển sang các địa bàn tỉnh
Lai Châu, Tuyên Quang, sau đó lan sang một số tỉnh khác như Yên Bái, Lào Cai,
Cao Bằng, Bắc Thái (cũ),... Đến năm 1990, ở 8 tỉnh miền núi phía Bắc, Tin lành
Vàng Trứ đã thâm nhập vào 164 xã có đồng bào Hmông là Sơn La, Lai Châu, Lào
Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên và Yên Bái. Từ
đầu những năm 1990 trở đi, với việc gia tăng truyền giáo trên phương tiện truyền
thông và hiệu chỉnh về tên gọi, luật lệ lễ nghi và lối sống đạo, lại được sự hỗ trợ của
các tổ chức, hệ phái Tin lành, nhất là Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), đạo
Tin lành phát triển rất nhanh lan ra các tỉnh có người Hmông ở miền núi phía Bắc.
Theo Ban Tôn giáo Chính phủ ở thời điểm năm 2005, khi triển khai Chỉ thị
số 01/2005/CT-TTg, số người Hmông theo đạo Tin lành ở các tỉnh miền núi phía
Bắc là 110.000 người ở 927 bản. Đến năm 2015, số người Hmông theo đạo Tin lành
ở các tỉnh miền núi phía Bắc tăng lên đến 175.000 người. Nếu so với năm 2005, thì
số người theo đạo Tin lành vẫn tăng nhanh, vì trong 10 năm (2005-2015) đã tăng
thêm 60.000 người. Số liệu cụ thể ở từng tỉnh năm 2015 như sau:
- Điện Biên: 36.000 người.
- Lai Châu: 35.000 người.
36
- Hà Giang: 25.000 người.
- Lào Cai: 24.000 người.
- Cao Bằng: 16.000 người.
- Bắc Cạn: 11.000 người.
- Tuyên Quang: 8.000 người.
- Sơn La: 5.300 người.
- Thanh Hóa: 4.200 người.
- Thái Nguyên: 4.000 người….
Như vậy, chỉ trong 30 năm (1985-2015), dân tộc Hmông ở Việt Nam đã có
hơn 210 ngàn người theo đạo Tin lành, chiếm hơn 20% tổng số người Hmông-
tương đương với tỷ lệ dân số Việt Nam theo tôn giáo (25%). Và theo thống kê nói
trên, tỉnh Lào Cai cũng là một trong những trọng điểm của việc truyền đạo và theo
đạo Tin lành.
2.1.2. Quá trình theo đạo Tin lành của người Hmông ở Lào Cai
Như trên đã trình bày, năm 1911 đạo Tin lành chính thức có mặt ở Việt
Nam. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, các nhà truyền giáo Tin lành luôn xác
định đối tượng truyền đạo là vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi. Thời gian
đầu, việc truyền giáo Tin lành gặp không ít khó khăn, và chỉ thực hiện được ở khu
vực Tây Nguyên. Phải đến giữa những năm 1980 của thế kỷ XX, đạo Tin lành mới
thâm nhập được vào khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó có tỉnh Lào
Cai, nơi có nhiều người Hmông sinh sống.
So với đạo Công giáo, Tin lành được truyền đến vùng dân tộc thiểu số ở địa
bàn tỉnh Lào Cai muộn hơn. Trong khi đạo Công giáo truyền vào người Hmông đầu
tiên ở thôn Hang Đá (Sa Pa) từ năm 1921, thì mãi đến năm 1989, đạo Tin lành mới
được truyền vào người Hmông ở thôn Chư Hầu Ngài (Sa Pa). Năm 1913, giáo sĩ F.
Savina đã lên Lào Cai và một số tỉnh phía Bắc tiến hành những nghiên cứu, tìm hiểu
về người Hmông. Năm 1918, Chính phủ Pháp chính thức chấp thuận đề nghị của
giáo sĩ F. Savina truyền đạo Công giáo vào vùng dân tộc Hmông. Từ đó đến năm
1945, F. Savina đã thuyết phục được 240 hộ người Hmông ở Sa Pa (Lào Cai) và
37
Trạm Tấu (Yên Bái) theo đạo Công giáo. Theo thời gian, đến năm 2014, trên địa
bàn tỉnh Lào Cai có 413 hộ người Hmông với 2.066 tín đồ người Hmông theo đạo
Công giáo, sống tập trung ở các xã Lao Chải, thị trấn Sa Pa, xã Hầu Thào, Bản
Phùng, Sử Pán, Sa Pả, huyện Sa Pa. Số người theo Công giáo hàng năm phát triển
không nhiều, sinh hoạt tương đối ổn định, có cơ sở thờ tự, có chức sắc hướng dẫn
việc đạo.
Đạo Tin lành được truyền vào nước ta đầu thế kỷ XX song với số lượng rất
ít. Trên địa bàn tỉnh Lào Cai trước năm 1989 không có đạo Tin lành, nhưng sau đó
tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đã truyền đạo
Tin lành vào một số tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc nước ta, trong đó có tỉnh
Lào Cai. Đây là thời kỳ phát triển đột biến của đạo Tin lành trong người Hmông.
Nét nổi bật của đạo Tin lành là lan toả nhanh và phát triển mạnh về số lượng. Từ
năm 1989 đến năm 1993 trên địa bàn tỉnh có 18.000 người ở 162 thôn, bản, 52 xã
của bảy huyện theo đạo Tin lành. Tuy chỉ chiếm 15% dân số, song địa bàn của nó
lại bao trùm gần hết các vùng người Hmông sinh sống [2].
Quá trình truyền bá đạo Tin lành vào địa bàn tỉnh Lào Cai có thể chia thành
các giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1989 đến 1993 là thời kỳ mở đầu của việc tiếp
cận đạo qua sự kiện “Vàng Chứ” sẽ xuất hiện, mọi người chuẩn bị đón và theo
“Vàng Chứ”. Cụ thể, năm 1989, một số người Hmông ở các huyện Bắc Hà, Bảo
Yên, Bảo Thắng, Mường Khương, Văn Bàn bắt đầu theo đạo Tin lành thông qua
việc nghe đài FEBC. Ở giai đoạn này, việc theo đạo thường gắn với tín ngưỡng dân
gian, đặc biệt là thờ Vua chủ - Vàng Chứ có sự liên hệ với Đức Chúa Trời, với ước
nguyện được phù hộ, đón lên trời để tiếp tục cuộc sống. Các yếu tố đời thực, mê tín
và Ki tô giáo đã đan xen vào nhau trong quá trình hình thành và phát triển của hiện
tượng Vàng Chứ trong người Hmông ở Lào Cai.
Việc tuyên truyền “Vàng chứ” gắn với Chúa Giê-Su, dẫn đến sự mập mờ
giữa đạo Công giáo và Tin lành. Người Hmông ở Lào Cai khi đi theo Vàng Chứ đã
tự tìm hiểu và nhận thấy hình ảnh của Chúa Giê-Su giống Đức Chúa của Công giáo.
38
Do vậy, đã có nhiều người Hmông đến nhà thờ Công giáo ở Yên Bái để làm lễ, xin
Kinh thánh và tràng hạt, ảnh tượng,… và nhờ hướng dẫn nghi lễ sinh hoạt tôn giáo.
Như vậy, từ đó nhiều người Hmông ở các huyện Bắc Hà, Bảo Yên, Bảo Thắng bỏ
tín ngưỡng truyền thống thờ ông bà tổ tiên, chuyển sang cầu nguyện, học Kinh
thánh theo đài phát thanh; đặc biệt các nghi lễ của chu kỳ vòng đời của dân tộc như
cưới xin, tang ma được thực hiện theo nghi lễ Công giáo.
Thời gian người Hmông thực hành cách sinh hoạt của đạo Công giáo không
kéo dài, bởi họ nhận thấy các nghi lễ, cách thức phức tạp, rườm rà không giống như
những hướng dẫn thông qua đài FEBC. Sau đó, một số người đã liên hệ với Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), được hướng dẫn cách thức hành đạo và cung
cấp kinh sách theo đúng đặc điểm của tôn giáo này là giáo lý cải cách như không
tôn thờ Bà Ma-ri-a, không thờ hình tượng, nghi lễ sinh hoạt đơn giản, không làm
nhiều phép đạo như Công giáo, tự cầu nguyện Thiên Chúa, hát Thánh ca, dân chủ
trong cộng đồng,… Cũng từ đây, Tin lành được đẩy mạnh truyền bá và phát triển
trên khắp địa bàn tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên, số lượng người Hmông ở Lào Cai theo
Tin lành ở giai đoạn này chưa nhiều, khoảng hơn 5.000 người[7].
Giai đoạn thứ hai: Từ năm 1993 đến 2005 là giai đoạn đạo Tin lành phát
triển nhanh trong đồng bào Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc và ở Lào Cai.
Ở giai đoạn này, lực lượng hỗ trợ cho việc truyền bá đạo Tin lành vào vùng
đồng bào Hmông ở Lào Cai chủ yếu vẫn là Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Bắc) là chính. Tuy chưa được phép lên truyền giáo ở các tỉnh miền núi phía
Bắc, nhưng trước nhu cầu từ cộng đồng và những người mới theo Tin lành, nên một
số mục sư truyền đạo của Tổng hội đã hướng dẫn, giúp đỡ. Có hai cách hoặc là lên
hướng dẫn, giúp đỡ trực tiếp, hoặc những người đứng đầu các điểm nhóm- theo bản
về Hà Nội, đến trụ sở của Tổng hội để được hướng dẫn, chỉ bảo, nhất là việc hiệu
chỉnh về đức tin và nghi lễ tôn giáo để đúng với đạo Tin lành.
Cùng với Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), vào những năm đầu thế
kỷ XXI, với sự cởi mở của chính sách đối với tôn giáo (qua Nghị quyết số 25 của
BCHTW Đảng về Công tác tôn giáo), các tổ chức, hệ phái Tin lành khác, chủ yếu ở
39
phía Nam đã ra truyền giáo ở Lào Cai và các tỉnh miền núi phía Bắc.
Chính sự hướng dẫn, giúp đỡ của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)
và của các tổ chức, hệ phái Tin lành, việc truyền đạo Tin lành trong người Hmông
giai đoạn này đã lan rộng ra các huyện của tỉnh Lào Cai, như các huyện Sa Pa, Bắc
Hà, Văn Bàn, Bảo Thắng, Bát Xát và Bảo Yên. Số lượng người Hmông theo Tin
lành ở giai đoạn này là khoảng 12.841 người [7].
Giai đoạn ba: Từ năm 2005 đến nay, được đánh dấu từ Chỉ thị 01/CT-TTg
ngày 05 tháng 02 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với
đạo Tin lành. Với nội dung quan trọng khi đã xác định đối với đồng bào dân tộc
thiểu số trong đó có người Hmông, thì việc theo đạo Tin lành là nhu cầu tín ngưỡng
thực sự và hướng dẫn cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo ở địa điểm thích hợp tại
bản, làng; khi tập hợp đầy đủ các điều kiện thì tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo
bình thường theo quy định của pháp luật.
Sau Chỉ thị số 01 của Thủ tướng, với kế hoạch triển khai của Ban Tôn giáo
Chính phủ qua Kế hoạch số 05 (năm 2005) và các chương trình công tác đối với đạo
Tin lành của tỉnh Lào Cai, hoạt động của đạo Tin lành ở Lào Cai từng bước được
hợp thức bằng việc mọi người được sinh hoạt tôn giáo tại gia đình, nếu ổn định thì
làm thủ tục đăng ký điểm nhóm với chính quyền cơ sở. Tin lành trong cộng đồng
người Hmông ở Lào Cai đã thực hiện các bước để được công nhận tư cách pháp
nhân và hoạt động theo quy định của pháp luật. Thời kỳ này, nhiều tổ chức Tin lành
ở miền Nam được Nhà nước cấp đăng ký và công nhận tư cách pháp nhân nên đã
tăng cường hoạt động truyền giáo trong vùng đồng bào Hmông ở các tỉnh phía Bắc,
trong đó có tỉnh Lào Cai.
Từ tình hình trên, các hoạt động truyền đạo ở thời kỳ này được đẩy mạnh và
mở rộng, nhất là mang tính công khai- hoạt động truyền giáo cũng công khai và
người theo đạo cũng công khai. Nếu như thời gian đầu đa số những người theo đạo
Tin lành ở Lào Cai thuộc hệ phái Tin lành Việt Nam miền Bắc, thì thời gian này các
tổ chức Tin lành, như: Tin lành Liên hữu Cơ đốc, Tin lành Trưởng lão, Tin lành
Phúc âm Ngũ tuần, Tin lành Truyền giảng Phúc âm, Tin lành Truyền giáo Phúc
40
âm,… đã đến Lào Cai truyền giáo đạt được những kết quả quan trọng. Và cũng từ
đây, việc tranh giành tín đồ giữa các tổ chức, hệ phái đến nay vẫn đang diễn ra. Giai
đoạn này, số người mới theo Tin lành tăng không nhanh như trước, nhưng về thống
kê số liệu lại tăng nhanh vì chính đây là giai đoạn người Hmông theo đạo Tin lành
công khai nhận mình là tín đồ đạo Tin lành. Theo Báo cáo kết quả 10 năm thực
hiện Chỉ thị 01 của UBND tỉnh Lào Cai, năm 2015 có 25.830 người Hmông theo
đạo Tin lành [2].
2.2. Tình hình hoạt động của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh
Lào Cai
2.2.1. Số lượng và sự phân bố
Trong Báo cáo thống kê năm 2012 ở Lào Cai, toàn tỉnh có 3.620 hộ/19.824
người Hmông theo đạo Tin lành, ở tám huyện, thành phố; 64 xã, thị trấn; 226
bản/thôn; sinh hoạt tôn giáo tại 168 điểm nhóm [5].
Cho đến hết năm 2012, tại Lào Cai có 48 điểm nhóm Tin lành thuộc Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Giáo hội Liên hữu Cơ đốc Việt Nam ở 26
xã được đăng ký sinh hoạt. Còn 120 điểm nhóm của sáu hệ phái chưa được chính
quyền cơ sở cho đăng ký sinh hoạt [5].
Bảng 2.1. Phân bố tín đồ đạo Tin lành ở Lào Cai
Tổng số theo đạo Tin lành
STT
Huyện/ Thành phố
Số xã
Số thôn/bản
Số hộ
Số người
29
592
3.263
Bảo Thắng
1
8
72
957
5.315
Bắc Hà
2
16
53
882
3.864
Sa Pa
3
14
33
555
3.497
Bảo Yên
4
10
32
499
3.104
Bát Xát
5
9
8
121
684
Văn Bàn
6
5
1
7
49
Mường Khương
7
1
2
7
49
TP Lào Cai
8
1
(Nguồn: Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ Lào Cai, 2012)
Từ Bảng thống kê trên cho thấy, so với các huyện trong tỉnh Lào Cai, số
41
lượng người Hmông theo Tin lành ở thành phố Lào Cai, huyện Mường Khương có
phần ít hơn. Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây, tại các địa bàn này đang có xu hướng
tăng tín đồ và mở rộng địa bàn hoạt động của đạo Tin lành.
Tin lành ở Lào Cai có ở sáu hệ phái1, bao gồm:
- Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)
- Liên hữu Cơ đốc Việt Nam
- Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam
- Tin lành Trưởng lão Việt Nam
- Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm
- Tin lành truyền giảng Phúc âm Việt Nam.
Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) có mặt đầu tiên ở Lào Cai, từ
năm 1996 đến 2006, người Hmông ở Lào Cai chủ yếu theo hệ phái này. Các mục sư
và truyền đạo của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) có vai trò quan trọng
trong việc hiệu chỉnh, hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo đúng theo nghi thức của Tin
lành và đã tổ chức bồi dưỡng giáo lý cho các trưởng điểm nhóm. Hiện nay, tổng số
người Hmông theo hệ phái Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là 2.429 hộ/ 13.640
người, chiếm 64% số tín đồ Tin lành toàn tỉnh và tập trung ở các huyện Bảo Yên,
Bát Xát, Bảo Thắng, Sa Pa, Bắc Hà.
Hội thánh Liên Hữu Cơ đốc Việt Nam có mặt tại Lào Cai từ năm 2007. Tuy
mới hoạt động, nhưng hiện nay đã có 745 hộ/ 4.017 người Hmông theo, chiếm 18%
tổng số tín đồ đạo Tin lành toàn tỉnh; trong đó đa số là từ Hội thánh Tin lành Việt
Nam (miền Bắc) chuyển sang. Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam tự tấn phong
sáu mục sư và 39 mục sư nhiệm chức2. Có hai huyện đông tín đồ theo hệ phái này
1 Hệ phái (Set, Denomination): là một trong những loại hình tổ chức tập hợp tín đồ tôn
giáo, ra đời như một xu hướng đối lập trong mối tương quan với dòng phái tôn giáo chủ lưu mà nó
từng phụ thuộc.
2 Mục sư: tên gọi theo Kinh Thánh, là người giảng Kinh thánh và quản trị Hội thánh cơ
sở. Mục sư phải tốt nghiệp trường Kinh thánh, được bổ chức truyền đạo ít nhất 2 năm.
Mục sư nhiệm chức: đứng dưới Mục sư, còn gọi là truyền đạo hay giảng sư
42
có Bắc Hà và Sa Pa.
Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam xâm nhập vào Lào Cai từ năm
2008, tín đồ chủ yếu từ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) sang. Hiện nay có
338 hộ/ 1.632 người Hmông theo, tập trung chủ yếu ở huyện Sa Pa.
Tổ chức Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm có mặt tại Lào Cai vào năm 2009,
hiện có 48 hộ/ 282 người Hmông, tập trung chủ yếu ở huyện Bắc Hà.
Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam vào địa bàn Lào Cai năm 2008, tín
đồ chủ yếu từ hệ phái Tin lành Việt Nam miền Bắc chuyển sang; hiện có 43 hộ/ 236
người, tập trung ở huyện Bảo Thắng.
Tổ chức Tin lành Truyền giảng Phúc âm xuất hiện ở Lào Cai vào cuối năm
2008 do một số người từ Thành phố Hồ Chí Minh tìm đến thôn Lùng Sui Tủng, xã
Bản Già, huyện Bắc Hà để tuyên truyền vận động người Hmông. Hiện nay, có 27
hộ/174 người theo hệ phái này, tập trung chủ yếu ở huyện Bắc Hà.
Bảng 2.2: Số lượng tín đồ người Hmông ở các hệ phái tại Lào Cai
Năm Hệ phái Số hộ Số người Địa bàn hoạt động du nhập
Bảo Yên, Bát Xát, Hội thánh Tin Lành Việt 1996 2.429 13.640 Bảo Thắng, Sa Pa, Nam (miền Bắc) Bắc Hà
Hội thánh Liên hữu Cơ 2007 745 4.017 Bắc Hà, Sa Pa đốc Việt Nam
Hội thánh Phúc âm Ngũ 2008 338 1.632 Sa Pa tuần Việt Nam
Liên đoàn Truyền giáo 2009 48 282 Bắc Hà Phúc âm
Hội thánh Tin Lành 2008 43 236 Bảo Thắng Trưởng lão Việt Nam
Tin Lành Truyền giảng 2008 27 174 Bắc Hà Phúc âm
43
(Nguồn: Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ Lào Cai, 2012)
Đến năm 2014, có 24.166 người Hmông theo đạo Tin Lành, ở 8 huyện, thành
phố; 64 xã, thị trấn; với 133 điểm nhóm trong đó có 130 điểm nhóm được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký sinh hoạt [7; tr.5]. Năm 2015 toàn tỉnh Lào Cai có 25.830
người Hmông theo đạo Tin lành.
2.2.2. Sinh hoạt tôn giáo
Quá trình đạo Tin lành du nhập vào vùng người Hmông ở Lào Cai đã trải
qua giai đoạn phát triển từ thấp đến cao, từ năm 2006 trở đi đã có sự thay đổi căn
bản về chất, dần dần được công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Việc theo đạo của người Hmông ở Lào Cai xuất phát từ nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo chính đáng, và ở đây sinh hoạt tôn giáo đã trở thành nếp sống của người theo
đạo. Họ đã xây dựng được những yếu tố nền tảng của tôn giáo hoàn chỉnh là có tổ
chức, có địa điểm sinh hoạt tôn giáo, có các chức sắc và nhất là hình thành cộng
đồng người theo đạo có đức tin, tình cảm và nhu cầu sinh hoạt tôn giáo.
Người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai, dù thuộc tổ chức, hệ phái Tin
lành nào cũng thực hiện các sinh hoạt tôn giáo chính. Đó là việc cầu nguyện các
ngày trong tuần; việc cầu nguyện của người Hmông đều được thực hiện tại nhà
trước khi đi ngủ vào buổi tối, khi ngủ dậy vào buổi sáng và trước các bữa ăn, mỗi
lần khoảng 5 phút. Vào các ngày Chủ nhật, việc cầu nguyện được tiến hành tập
trung tại địa điểm sinh hoạt điểm nhóm (khi đã được công nhận) hoặc tại một nhà
được lựa chọn trong thôn/bản. Họ đọc Kinh thánh, cầu nguyện mong Chúa ban
phước lành cho gia đình và mọi người. Ngoài lễ cầu nguyện chính vào ngày Chủ
nhật, tín đồ còn tổ chức cầu nguyện tập trung vào chiều hoặc tối thứ Năm.
Lễ cầu nguyện thường diễn ra như sau: Khoảng 8 giờ sáng, bà con tín đồ
tập trung tại địa điểm cầu nguyện, là nơi đăng ký sinh hoạt điểm nhóm. Trong nhà
tập trung cầu nguyện có các hàng ghế để bà con ngồi, phía trên là bục hoặc bàn chủ
tọa, phía trước bục có phông trang trí với hình ảnh cây thánh giá, phía cánh gà
thường có dàn loa hoặc đàn organ. Nam và nữ thường ngồi thành từng dãy riêng;
bắt đầu là hát Thánh ca, đọc kinh cầu nguyện, học đọc Kinh thánh. Buổi chiều nghi
44
lễ cũng lặp lại như vậy những đơn giản và diễn ra ngắn hơn.
Hộp 1:
Ông Nguyễn Xuân Định, cán bộ Ban Dân vận tỉnh Lào Cai; tham dự buổi sinh
hoạt tôn giáo vào Chủ nhật tại Bắc Hà, Lào Cai có 11 nội dung theo thứ tự như sau:
1, Hát thánh ca
2, Học một điều của Kinh thánh (điều 389 ở trang 332)
3, Cầu Chúa (cho người Hmông được sống yên bình)
4, Hát Thánh ca (do đội hát Thánh ca của điểm nhóm sinh hoạt đạo Khu Chu
Phìn gồm 10 cô gái trẻ hát)
5, Đọc một điều Kinh thánh
6, Hát Thánh ca
7, Cầu Chúa
8, Hát Thánh ca (mọi người có mặt sinh hoạt cùng hát với đội hát thánh ca)
9, Đọc một điều Kinh thánh (điều nào cũng được)
10, Hát thánh ca
11, Cầu Chúa
Một nghi lễ trong đạo Tin lành được người Hmông thực hiện đầy đủ và có ý
nghĩa trong việc gắn kết giữa con người và Chúa đó là Lễ dâng con trẻ cho Thiên
Chúa. Người Hmông theo đạo Tin lành ở Tỉnh Lào Cai cũng thực hiện và tham dự
những ngày lễ trọng của tôn giáo như Lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh.
Hộp 2:
Phỏng vấn tại huyện Bắc Hà: Người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai
có thực hiện các ngày lễ trọng của tôn giáo mình như là lễ Noel, lễ Phục sinh? Cách
thức chuẩn bị và tiến hành tổ chức như thế nào?
Có tổ chức, cách thức chuẩn bị và tiến hành rất đơn giản vì đồng bào theo đạo
Tin lành chủ yếu là dân tộc Mông, địa điểm sinh hoạt chủ yếu mượn một phần nhà của
tín đồ trong điểm nhóm để sinh hoạt nên khâu chuẩn bị rất đơn giảm như: tít chữ:
45
TÔN VINH ĐỨC CHÚA TRỜI
TSHAWB NQA VAJ TSWV NTUJ
KỶ NIỆM CHÚA GIÁNG SINH
ZOO SIAB TUS CAWM SEEJ TAU YUS LOS
Trong buổi lễ nội dung chủ yếu hát thánh ca, cầu nguyện, chia sẻ kinh thánh và
một số tiết mục văn nghệ. Sau buổi lễ tùy thuộc từng điểm nhóm có thể tổ chức ăn mặn
do các tín đồ đóng góp gạo, gà hoặc tiền tùy tâm để mua thức ăn, có điểm nhóm tổ chức
ăn ngọt.
Phỏng vấn tại huyện Sa Pa
+ Câu 1: Người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai có thực hiện các ngày
lễ trọng của tôn giáo mình như là lễ Noel, lễ Phục sinh? Cách thức chuẩn bị và tiến hành
tổ chức như thế nào? Người Hmông theo đạo Tin lành ở huyện Sa Pa đều thực hiện các
ngày lễ trọng của tôn giáo mình như là lễ Noel, lễ Phục sinh. Tổ chức tại nhà sinh hoạt
tôn giáo.
+ Câu 2: Người Hmông khi theo Tin lành ở tuổi trưởng thành (12 tuổi trở lên) có
thực hiện phép Bắp têm (Rửa tội)? Cách tổ chức thực hiện như thế nào? Người Hmông
khi theo Tin lành ở tuổi trưởng thành (12 tuổi trở lên) có thực hiện phép Bắp têm (Rửa
tội) có. Cách tổ chức thực hiện do trưởng nhóm đạo làm lễ.
+ Câu 3: Trong các buổi sinh hoạt tôn giáo hàng tuần (vào thứ 5 và Chủ nhật) có
thực hiện theo từng chủ đề không? Việc đọc Kinh thánh, hát Thánh ca theo từng nội
dung và được tổ chức như thế nào? Chủ yếu là đọc kinh thánh, hát thánh ca.
(Người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Xuân Định, cán bộ Ban Dân vận tỉnh Lào Cai.
Nguồn tác giả năm 2015 )
2.3. Nguyên nhân người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành
Vấn đề lớn đặt ra là tại sao đột nhiên người Hmông ở Việt Nam, trong đó có
người Hmông ở tỉnh Lào Cai lại theo đạo Tin lành trong khi các hoạt động truyền
đạo chủ yếu là gián tiếp và chưa được pháp luật thừa nhận.
Trong một cuộc điều tra, nghiên cứu tại Hội nghị Hướng dẫn sinh hoạt đạo
Tin lành theo quy định của pháp luật, Lào Cai, tháng 3 năm 2013, giành cho đối
tượng là người Hmông theo Tin lành, và người Hmông không theo Tin lành, bao
gồm trưởng điểm nhóm, trưởng thôn bản, công an viên,… Tác giả luận án ghi lại
46
được các lý do người Hmông theo đạo như sau:
Bảng 2.3: Lý do theo Tin lành của người Hmông
Số người
Số người chọn
không chọn
STT
Lý do biết và theo Tin lành
trên tổng số phiếu
trên tổng số
phiếu
1
Mang lại lợi ích cho bản thân, gia đình
30/40 – 75%
10/40 – 25%
2
Đỡ tốn kém
39/40 – 97,5%
1/40 – 2,5 %
3
Phù hợp nhu cầu tín ngưỡng của mình
39/40 – 97,5 %
1/40 – 2,5%
Mọi người trong gia đình, dòng họ
4
13/40 – 33,3%
27/40 – 66,7%
theo thì mình cũng theo
5
Do nghe đài
8/40 – 20%
32/40 – 80%
(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa, năm 2013)
Từ Bảng trên, có thể thấy rằng việc đạo Tin lành với những yếu tố phù hợp
với tín ngưỡng truyền thống của người Hmông, cùng phương thức hành đạo, lễ nghi
đơn giản, đỡ tốn kém (97.5%) và đem lại lợi ích về vật chất, tinh thần cho bản thân
và gia đình (75%) là nguyên do chủ yếu; trong khi đó lý do theo đạo từ việc nghe
đài chỉ chiếm 20%.
Do vậy, khi tìm hiểu nguyên nhân của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số theo đạo Tin lành nói chung, người Hmông nói riêng cần phải có thái độ khách
quan, khoa học, phải tách bạch rõ giữa việc truyền đạo với theo đạo, phân định rõ
giữa tôn giáo với việc lợi dụng tôn giáo. Không thể đơn giản cho rằng, những
nguyên nhân theo đạo là do khuyến khích vật chất hoặc do bị ép, dụ dỗ,... Cũng
đừng nói rằng, việc theo đạo là do truyền đạo, trong khi đồng bào không có nhu cầu
theo đạo. Cũng không thuần túy cho rằng đồng bào theo đạo là do tiếng gọi của
Chúa hay Chúa đã cứu rỗi những linh hồn như các chức sắc Tin lành quan niệm.
Càng không phiến diện cho rằng, việc theo đạo Tin lành là nằm trong chiến lược
“diễn biễn hòa bình” của các thế lực thù địch.
Qua nghiên cứu thực địa và kế thừa kết quả của các nhà Dân tộc học, Tôn
giáo học, tác giả luận án đưa ra những lý do chủ quan và khách quan mà người
47
Hmông ở Việt Nam và người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành như sau:
2.3.1 Sự bất cập của một số tập tục trước bối cảnh hội nhập
Xét ở góc độ văn hóa, tác giả nhấn mạnh việc giảm tình cảm của bộ phận
người Hmông đối vớí văn hóa truyền thống. Văn hóa truyền thống của dân tộc
Hmông nhìn chung là tín ngưỡng đa thần nhưng một số phong tục tập quán gắn với
tín ngưỡng lại quá nhiều, quá rườm rà, khắt khe, có mặt trở thành hủ tục, lạc hậu,
tốn kém. Đến một lúc nào đó, nhất là khi cuộc sống gặp khó khăn thì những phong
tục tập quán gắn với tín ngưỡng truyền thống trở thành gánh nặng cho cuộc sống,
cản trở sự tiến bộ, phát triển. Từ đó tạo ra sự khoảng trống về chỗ dựa về đời sống
tâm linh trong cộng đồng người Hmông, dẫn đến việc họ tìm đến chỗ dựa tinh thần,
tâm linh mới.
Hệ thống ma nhà của người Hmông rất phong phú, gồm có ma cửa, ma tổ
tiên, ma bếp, ma buồng… Để cúng ma tổ tiên, người cúng phải nhớ tên và thứ bậc
của những người đã quá cố ngược lên tới đời thứ ba và việc thực hiện các nghi thức
cúng ma nhà, nhất là ma cửa hết sức phức tạp. Vì vậy, đối với các trường hợp khi
bố mất sớm, con trai cả vẫn còn nhỏ và các chủ hộ di cư tự do còn trẻ chưa biết
cúng ma nhà thì với họ việc thay đổi theo Tin lành là một giải pháp.
Ngoài ra, nhiều người Hmông muốn có sự thống nhất về nghi lễ. Có thể nói,
việc thực hiện các nghi lễ thờ cúng theo tín ngưỡng truyền thống là hết sức phức tạp
và thiếu sự thống nhất. Vì không có quy định hoặc sách vở nào mang tính chuẩn
mực cho việc tiến hành các nghi lễ, nên sự biến dạng và việc sai sót trong khi tiến
hành các nghi lễ là không thể tránh khỏi. Để tránh sự phức tạp và thiếu thống nhất
cũng như sai phạm có thể mắc phải trong khi tiến hành nghi lễ và để tránh sự trừng
phạt của các ma khi không làm đúng nghi lễ thì theo quan niệm của nhiều người
Hmông, việc thay đổi theo Tin lành cũng là một giải pháp.
Các nghi lễ cầu cúng của người Hmông khi thực hiện khá tốn kém. Ngoài
khoản chi phí vật chất có thể tính ra này còn là thời gian và công sức phục vụ cho
việc nấu nướng, tiến hành nghi lễ và ăn uống. Tổng các khoản chi phí là một gánh
nặng đối với nhiều hộ gia đình người Hmông, nhất là đối với các hộ nghèo, neo
48
đơn. Vì vậy, để tránh phải thực hiện các nghi lễ tốn kém thì nhiều người Hmông đã
lựa chọn theo Tin lành. Tại điểm nghiên cứu, những người Hmông theo đạo Tin
lành đã trao đổi rằng với văn hóa tín ngưỡng truyền thống phải cúng nhiều ma, rườm
rà, tốn kém; khi theo đạo Tin lành chỉ cần cúng một con ma, đơn giản, tiết kiệm.
Một trong những đặc trưng cơ bản của người Hmông là di cư tự do. Việc tổ
chức các nghi lễ truyền thống, nhất là lễ tang, lễ cúng ma của người Hmông không
thể thiếu được sự giúp đỡ rất lớn cả về vật chất, tinh thần, thời gian và công sức của
anh em họ hàng. Nhưng những người Hmông di cư tự do thì lại thiếu sự giúp đỡ
này. Lý do là các hộ di cư thường đi theo nhóm nhỏ, và đi tới các nơi xa, nên
thường ít có anh em họ hàng thân thích ở nơi cư trú mới. Trong khi mối quan hệ họ
hàng bị hạn chế; thay đổi theo Tin lành lại có được mối quan hệ và sự giúp đỡ cụ
thể của cả những người khác họ, nhưng đều là tín đồ Tin lành.
2.3.2 Những khó khăn trong đời sống vật chất và bất cập trong quản lý
xã hội ở cơ sở
Từ lâu, đời sống kinh tế, trình độ dân trí của đồng bào dân tộc Hmông ở
nhiều nơi nhìn chung là thấp so với mặt bằng chung, thậm chí một số nơi đời sống
kinh tế- xã hội còn rất khó khăn. Người Hmông thường cư trú ở những vùng núi
cao, nền kinh tế chủ yếu vẫn mang tính chất tự cung, tự cấp, phương thức canh tác
chính là đốt rừng làm nương rẫy, khai phá ruộng bậc thang. Việc chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường đã giúp đất nước ta thoát khỏi được khủng hoảng, ổn định và
tăng trưởng kinh tế. Nhưng cũng chính nền kinh tế thị trường đó đã làm cho sự phân
hóa giàu nghèo ngày càng trở nên sâu sắc giữa miền núi với đồng bằng, giữa vùng
sâu, vùng xa với thành phố, thị xã; giữa người Hmông với các dân tộc khác.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến đời sống kinh
tế - xã hội của đồng bào Hmông như trợ cấp cho đồng bào, đầu tư vốn phát triển các
dự án, các ngành sản xuất, vận động định canh định cư để ổn định cuộc sống.
Nhưng một phần do vốn đầu tư còn dàn trải, một phần yếu kém trong quản lý, đồng
thời do trình độ sản xuất ở đây còn thấp kém, giao thông đi lại khó khăn, địa hình
phức tạp,… đã tạo ra những trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng
49
bào Hmông.
Đời sống vật chất khó khăn, kéo theo đời sống văn hoá tinh thần của đồng
bào lại thêm nghèo nàn. Người dân không có phương tiện để thưởng thức văn hoá,
văn nghệ, giải trí; nhiều sinh hoạt văn hoá dân tộc truyền thống tốt đẹp bị mai một;
phát thanh, truyền hình còn hạn chế cả về nội dung và diện phủ sóng. Ở nhiều địa
phương, đời sống tinh thần của đồng bào hầu như không có gì đáng kể ngoài các
cuộc tang lễ, cuới xin, cúng tế với hủ tục nặng nề, tốn kém.
Những khó khăn về đời sống vật chất cộng với những thiếu hụt về đời sống
tinh thần đã làm cho cuộc sống của đồng bào trở nên bế tắc, khủng hoảng niềm tin,
họ hy vọng vào những lực lượng siêu nhiên, thần bí, tin vào sự cứu vớt của những
nhân vật ảo tưởng. Trong hoàn cảnh như vậy, đài Manila đã thuyết phục được một
số người Hmông theo đạo Tin lành. Mặt khác, khi truyền đạo các lực lượng truyền
đạo đã lợi dụng tình trạng khó khăn về kinh tế của đồng bào Hmông để thực hiện
mục đích truyền đạo Tin lành thông qua việc trợ cấp tiền, dịch vụ sinh hoạt,… vì
thế, có không ít đồng bào tin theo, có thể do hỗ trợ vật chất lúc này dù ít, nhưng là
“một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Trên bình diện chung của việc người
Hmông theo Tin lành có hai thời điểm chú ý liên quan đến đời sống kinh tế: năm
1985, 1986 khi xóa bỏ cơ chế bao cấp, người Hông gặp khó khăn trong đời sống
kinh tế nên đã theo Tin lành; những năm đầu thập niên 1990, khi xóa cây thuốc
phiện, người Hmông lại gặp khó khăn về kinh tế vì chưa có “cây gì, con gì” thay thế
nên rộ lên việc người Hmông theo Tin lành.
Như vậy, trình độ thấp kém về kinh tế và những khó khăn trong đời sống là
một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho người Hmông nói chung và người
Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành. Thực tế này đặt ra cho chúng ta một nhiệm vụ
không ngừng tăng cường các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, từ đó góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người Hmông.
Trong khi đó, những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, hệ thống chính trị trực
tiếp ở cơ sở (Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng) và cơ sở cốt cán ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng đồng bào Hmông, theo đánh giá chung là rất
50
yếu và kém hiệu lực. Công tác xây dựng Đảng chưa chú ý đúng mức, thậm chí có
cơ sở không có chi bộ, trắng đảng viên. Các tổ chức đoàn thể hoạt động khó khăn,
đơn điệu, không thiết thực, hiện tượng bỏ trống địa bàn trong thời gian dài khá phổ
biến. Việc nghiên cứu vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kể cả vùng người Hmông
một cách có hệ thống, toàn diện về kinh tế- xã hội, về đời sống sinh hoạt, phong tục
tập quán, tín ngưỡng làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, biện pháp để giải
quyết tình hình chưa được quan tâm đúng mức. Tệ quan liêu xa dân và các hiện
tượng tiêu cực đã làm cho một bộ phận quần chúng giao động. Điều đó không chỉ
làm giảm lòng tin trong quần chúng mà còn tạo kẽ hở cho việc truyền đạo Tin lành.
Ngoài ra, khi vấn đề Tin lành ở các vùng dân tộc thiểu số mà cụ thể ở dân
tộc Hmông phục hồi, phát triển và diễn biến phức tạp, các địa phương đã chậm
thống nhất quan điểm, chủ trương xử lý nên lúng túng, đôi khi giải quyết bằng biện
pháp hành chính làm cho tình hình càng phức tạp thêm. Đặc biệt, một số biện pháp
hành chính đã tạo ra tâm lý phản cảm, càng lôi kéo thêm nhiều người Hmông theo
đạo hoặc dẫn đến sự cố kết bền vững của những người đã theo đạo Tin lành, hoặc
theo đạo Tin lành di cư tự do vào Tây Nguyên.
2.3.3 Sự hấp dẫn của giáo lý và nhạy bén trong truyền giáo của đạo
Tin lành
Trên thực tế, đạo Tin lành đã khai thác lợi thế của một tôn giáo cải cách, có
những điểm tiến bộ về lối sống gắn với xã hội, tạo ra sự thu hút đối với đồng bào
dân tộc thiểu số theo đạo, trong đó có người Hmông ở Lào Cai.
Đạo Tin lành là tôn giáo cải cách từ đạo Công giáo. Sinh hoạt tôn giáo đơn
giản, gọn nhẹ, đề cao vai trò cá nhân; trong sinh hoạt, về tổ chức đạo đề cao tính
dân chủ, trong đời sống thường nhật, đạo Tin lành có lối sống khá nề nếp và lành
mạnh, như không uống rượu, không hút thuốc lá, không cờ bạc, giữ quy định hôn
nhân một vợ một chồng,… Tuy nhiên, khác với những tôn giáo khác, trong quá
trình truyền đạo, đạo Tin lành thường phủ nhận tín ngưỡng tại chỗ và gạt bỏ nhiều
phong tục tập quán truyền thống. Điều này tạo ra sự xung đột về văn hóa, nhưng ở
một khía cạnh khác, lại đưa đến việc xóa bỏ những hủ tục lạc hậu không còn phù
51
hợp với cuộc sống hiện đại. Do đó, ở một số nơi, đạo Tin lành xuất hiện như là hiện
diện của sự tiến bộ về lối sống, nên dễ dàng thu hút nhiều người theo đạo. Đặc biệt,
đạo Tin lành hoạt động năng động uyển chuyển, luôn quan tâm đến đời sống thường
nhật để lôi kéo người vào đạo. Các hoạt động truyền giáo của đạo Tin lành thường
tiến hành kiên trì, khôn khéo, hiểu rõ tâm lý, trình độ nhận thức của từng đối tượng,
nhất là khai thác đặc điểm lịch sử, văn hoá của từng dân tộc, thực hiện dân tộc hoá,
địa phương hoá để có nội dung và phương thức hoạt động phù hợp, dễ thâm nhập.
Nói về khai thác lợi thế của đạo Tin lành trong việc truyền giáo ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số nói chung và trong người Hmông nói riêng, có thể so sánh với
Công giáo và Phật giáo. Thời gian vừa qua, không chỉ có đạo Tin lành, mà các tôn
giáo khác, nhất là Công giáo và Phật giáo cũng đẩy mạnh việc truyền đạo lên vùng
đồng bào dân tộc, nhưng đạo Tin lành đã tỏ ra thích hợp với đời sống tâm linh của
đồng bào dân tộc thiểu số. Ở các tỉnh Tây Bắc, thời kỳ đầu một bộ phận đồng bào
Hmông theo “Vàng Chứ” được sự giúp đỡ, hỗ trợ của Giáo hội Công giáo, và họ đã
thu hút được khá đông người theo, nhưng sau một thời gian họ lại chuyển sang theo
Tin lành. Nói như vậy, có nghĩa là đạo Công giáo đã có cơ hội, nhưng không thành
công. Ở Tây Nguyên, đạo Công giáo truyền vào từ giữa thế kỷ XVIII (1765) với vai
trò của Giám mục Quesnot Thể, và hiện nay với sự hiện diện của ba giáo phận:
Công Tum, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt với đội ngũ giáo sỹ khá đông nhưng tín đồ đạo
Công giáo là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ bằng phân nửa số người theo đạo Tin
lành, mặc dù đạo Tin lành mới truyền lên đây từ năm 1930, sau năm 1975 lại không
được phép hoạt động. Phật giáo ở Tây Nguyên cũng phát triển rất mạnh với tổ chức
được xây dựng, củng cố ở tỉnh, huyện, xã với hàng ngàn tăng ni, nhưng cũng chỉ có
hơn chục ngàn người theo Phật giáo.
Ở đây có điều cần nói thêm là, đạo Tin lành đã khai thác thành tựu của khoa
học công nghệ thông tin để truyền giáo. Trên thực tế, đạo Tin lành chủ yếu truyền
từ bên ngoài (các nước khác) vào vùng dân tộc Hmông thông qua các phương tiện
kỹ thuật hiện đại: đài phát thanh, Internet,… các tài liệu nghe nhìn như: băng
cassette, video, đĩa CD, VCD,… các ấn phẩm dưới dạng tranh ảnh, sách báo,… Từ
52
giữa những năm 1960, Tin lành Mỹ đã có một Chương trình phát thanh truyền đạo
bằng tiếng Hmông của Công ty phát thanh Viễn Đông - FEBC3 hiện đang đóng tại
California. Chương trình này phát thanh dạy Kinh thánh cho người Hmông ở Việt
Nam, Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Myanmar.
Tuy nhiên, trong số liệu thu được thì việc theo đạo Tin lành do nghe đài chỉ
chiếm 20%, một phần không phải hộ người Hmông nào cũng có phương tiện nghe
nhìn như đài, vô tuyến, đầu đọc đĩa,… thậm chí ở những vùng sâu, vùng xa xôi, hẻo
lánh nguồn điện không đủ đáp ứng. Ở đây, từ một số người có điều kiện tiếp cận,
nghe được lời truyền giáo qua các phương tiện nghe nhìn, khi thực hành theo nghi
thức nhận thấy có nhiều mặt mạnh và phù hợp thì cứ thế thực hành và những người
Hmông khác thấy vậy cũng làm theo.
Việc Tin lành sử dụng các phương tiện nghe nhìn như băng cassette, video,
đĩa CD, VCD,… kết hợp với các tài liệu đọc như các sách Kinh thánh, Thánh ca
(được dịch và in ra bằng tiếng Hmông nước ngoài), tài liệu có minh họa bằng tranh,
ảnh để truyền đạo; do những người truyền đạo, bằng nhiều con đường khác nhau
như du lịch, nghiên cứu khoa học của các học giả nước ngoài về văn hóa Việt Nam,
hoạt động từ thiện,… Tin lành đã vươn đến và phát triển vững chắc trong người
Hmông ở nhiều vùng, kể cả vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,…
Sự tiếp cận từ góc độ Tôn giáo học, nhất là về Tin lành như đề cập ở trên đã
lý giải tại sao một bộ phận người Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có
Lào Cai lại theo đạo Tin lành mà rất ít theo Công giáo và Phật giáo.
Ngoài những nguyên nhân nói trên còn chú ý đến yếu tố tâm lý tộc người
Hmông. Đạo Tin lành lần đầu tiên xâm nhập vào dân tộc Hmông dưới tên gọi là
Vàng Chứ. Đây vừa là một hiện tượng tôn giáo, vừa là ý thức tộc người sâu sắc. Nó
không chỉ phản ánh tồn tại xã hội hiện thời mà còn thừa kế ý thức xã hội quá khứ, là
sự đan xen, tác động phức tạp của nhiều hình thái ý thức xã hội.
Các nhà truyền giáo Tin lành đã nghiên cứu rất kỹ và nhận thấy rằng, dân
3 Hmong Radio Program of the Far East Broadcasting Company
53
tộc Hmông là cộng đồng mà xét về mưu sinh thì họ có thể tiếp nhận, học tập cách
làm ăn của các dân tộc khác, còn trong văn hóa tâm linh, tín ngưỡng thì người
Hmông khó tiếp nhận yếu tố bên ngoài. Muốn đưa được Tin lành vào người Hmông
thì trước hết phải Hmông hóa Tin lành, phải tìm được cánh cửa đi vào thế giới tâm
linh của người Hmông.
Xưng vua là một hiện tượng vừa có tính thế tục, vừa có tính tôn giáo, đó
cũng chính là một hiện tượng nằm trong “phong trào cứu thế” thường xuất hiện ở
các tộc người bị hụt hẫng trong tâm thức. Hiện tượng xưng vua của người Hmông
không chỉ đơn thuần là yếu tố tâm linh mà còn bắt nguồn từ chiều sâu của lịch sử và
tâm lý tộc người.
Các nhà truyền giáo nắm bắt được tình hình này, họ đã gắn giáo lý Tin lành
với lịch sử đấu tranh giành quyền tự quyết của người Hmông, gắn với tín ngưỡng
tâm linh của người Hmông. Họ sửa lại giáo lý Tin lành, gọi vua Hmông là Vàng
Chứ, giải thích Vàng Chứ chính là Đức Chúa Trời - Cha đẻ của Giê - Su. Đồng thời,
Tin lành luôn chú trọng cải tiến hình thức nghi lễ heo xu hướng đơn giản, gọn nhẹ,
không tốn kém kinh tế, không cầu kỳ, dễ làm dễ học, ai cũng làm được. Chính điều
này đã đánh trúng tâm lý người Hmông, theo phong tục, tập quán của người Hmông
phải thờ nhiều loại ma rất tốn kém về kinh tế, mất nhiều thời gian, còn theo Vàng
Chứ thì đơn giản, không tốn kém nên đồng bào dễ tin theo.
Như vậy, có thể thấy, Vàng Chứ = Giáo lý Tin lành + Ý thức tộc người, tín
ngưỡng tâm linh của người Hmông; nói cách khác, đạo Tin lành đã được Hmông
hóa để phù hợp với đặc điểm của dân tộc, tạo thuận lợi cho việc truyền giáo.
Ở đây cũng có một vấn đề nữa cần nói thêm là sự biến đổi tín ngưỡng tôn
giáo, từ đa thần sang nhất thần, từ tín ngưỡng đến tôn giáo, không chỉ ở dân tộc
Hmông mà ở nhiều dân tộc khác, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, không
phải bây giờ mà đã từ lâu. Khi kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật phát triển, đời
sống tâm linh của con người cũng không thể giữ mãi như cũ mà cũng phải biến đổi
theo. Tuy nhiên, sự biến đổi diễn ra nhanh hay chậm và theo xu hướng nào lại phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố tác động của bên trong và từ bên ngoài. Việc đồng bào
54
dân tộc thiểu số, trong đó có người Hmông ở Việt Nam, người Hmông ở Lào Cai tin
theo Tin lành là nằm trong tiến trình phát triển của tâm linh tôn giáo, đi từ tôn giáo
đa thần (tín ngưỡng truyền thống) đến tôn giáo nhất thần- Tin lành.
Như vậy, có nhiều nguyên nhân người Hmông nói chung và người Hmông
ở Lào Cai nói riêng theo đạo Tin lành. Từ giữa những năm 1980, nhất là đầu những
năm 1990 trở đi, các nguyên nhân nói trên đều xuất hiện tạo ra môi trường thuận lợi
để người Hmông nói chung và người Hmông ở Lào Cai nói riêng theo Tin lành.
Trước đây, tuy có nghèo đói, nhưng đời sống tín ngưỡng, văn hoá truyền thống của
người Hmông vẫn có uy tín, vẫn còn là chỗ dựa tinh thần cho quần chúng; trước đây
tuy có nghèo đói, nhưng hệ thống chính trị ở cơ sở, thiết chế xã hội truyền thống
còn vững mạnh, nên Tin lành có tuyên truyền nhưng quần chúng không theo đạo.
Bên cạnh đó, việc các nhà truyền giáo trong thời kỳ đầu truyền bá đạo đã biết kết
hợp hình tượng Chúa với hiện tượng Vàng Chứ đã đánh trúng tâm lý tộc người tạo
nên hiệu quả và kết quả đáng kể trong truyền giáo. Như vậy, trong các nguyên nhân
người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai, thì nguyên nhân về văn hóa là quan
trọng và nguyên nhân về tâm lý tộc người là then chốt.
Tiểu kết chương 2
Tỉnh Lào Cai có vị trí trọng yếu trong việc phát triển kinh tế vùng, đảm bảo
an ninh, quốc phòng; Đây cũng là tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó
có người Hmông sinh sống. Vì vậy, việc đạo Tin lành du nhập vào người Hmông đã
và đang có ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội của họ. Quá trình du nhập của
đạo Tin lành vào người Hmông ở tỉnh Lào Cai thực sự bắt đầu từ năm 1989 cho đến
nay được chia làm ba giai đoạn liên biến động về kinh tế - xã hội, văn hóa của
người Hmông ở đây. Việc truyền đạo Tin lành vào người Hmông ở Việt Nam cũng
như người Hmông ở Lào Cai chủ yếu bằng gián tiếp qua các phương tiện truyền
thông, sau này khi đã hình thành cộng đồng theo Tin lành mới có sự tác động trực
tiếp của các tổ chức Tin lành ở Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin
55
lành như nguyên nhân về kinh tế, về tâm lý, về quản lý của chính quyền,... nhưng
nguyên nhân then chốt chính là sự mất niềm tin vào văn hóa truyền thống với những
yếu tố “lạc hậu”, không còn phù hợp cùng với những lợi thế của đạo Tin lành. Với
việc xác định đúng các nguyên nhân theo Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai
sẽ có đánh giá đúng về hiện tượng tôn giáo đặc thù này, cũng như những cách
nhìn nhận và xây dựng chính sách dân tộc, tôn giáo một cách đúng đắn, phù hợp
và hiệu quả.
Cùng với thời gian, đạo Tin lành đã trở thành một thực thể trong người
Hmông ở Việt Nam, trong đó có người Hmông ở tỉnh Lào Cai, đặt ra cho các cấp
chính quyền phải quan tâm giải quyết. Đặc biệt, việc truyền đạo Tin lành của người
Hmông đã tạo ra sự thay đổi về văn hóa của một bộ phận người Hmông, hình thành
một không gian văn hóa mới- văn hóa Tin lành, góp phần đa dạng văn hóa của tộc
56
người Hmông ở Việt Nam.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG
THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI
3.1. Văn hóa vật chất
3.1.1. Văn hóa ẩm thực
Văn hóa ẩm thực là một trong những thành tố cơ bản của văn hóa vật chất,
ẩm thực không chỉ đơn giản là ăn cho no mà đi cùng với nó là cả một nền văn hóa
đặc trưng của tộc người, đó là sự ứng xử với tự nhiên, là cách thức ứng xử với xã
hội, là yếu tố cố kết cộng đồng.
Cách thức sản xuất ảnh hưởng đến thức ăn của con người; nếu là phương
thức chăn nuôi, săn bắn ở những vùng rộng lớn thì lương thực chủ yếu là thịt, nếu
phương thức đánh bắt hải sản thì lương thực là cá, ở vùng đồng bằng dọc các con
sông thuận tiện cho trồng lúa, các cây hoa màu thì lương thực là lúa gạo, tôm
cua, cá,... còn ở vùng núi cao, hiểm trở, khó khăn cho chăn thả thì lương thực
chính là ngô.
Với người Hmông ở Việt Nam nói chung và ở Lào Cai nói riêng, lương
thực chính là ngô, lúa nương, khoai, sắn, các loại rau. Các món ăn của người
Hmông được chế biến đơn giản, chủ yếu là luộc (các loại rau, thịt gia cầm, gia súc),
nướng (nướng thịt, nướng khoai, sắn, ngô) và xào (chủ yếu xào lòng của các gia súc
được mổ, đặc biệt trong các dịp lễ tết, cúng bái, ma chay, cưới xin).
Món ăn đặc trưng của người Hmông là Tháng cố, được sử dụng vào những
dịp lễ tết, chợ phiên, cưới xin, ma chay. Đây là một món canh, sau khi giết mổ bò,
dê hay chó thì xương, lòng, tim, gan, phổi được đem đun chung với nhau, ăn cùng
với cơm. Bên cạnh đó, phải kể đến món tiết canh, đặc biệt là tiết canh gà.
Người Hmông rất thích uống rượu ngô do mình tự nấu, chén rượu đối với
người Hmông như là miếng trầu của người Kinh. Rượu được dùng phổ biến trong
các dịp lễ, tết, ma chay, cưới xin,...bạn bè gặp nhau, thăm nhau cũng lấy chén rượu
57
làm vui. Chén rượu còn là tình cảm chân thành và đằm thắm của người mời đối với
người được mời. Người được mời uống chén rượu là trân trọng tình cảm của người
mời [106,tr.85]. Nếu người khách muốn được gia đình người Hmông coi như người
một nhà, cởi mở trong câu chuyện thì một việc cần đó là uống hết một vòng rượu
ngô. Trong các dịp lễ tết, cưới xin, ma chay,… người Hmông uống rượu nhiều,
lượng rượu sử dụng trong đám cưới và đám ma ở điểm nghiên cứu là khoảng 100
lít. Đây là nét văn hóa của tộc người, tuy nhiên việc sử dụng quá nhiều rượu gây tổn
hại về sức khỏe, kinh tế, trong nhiều trường hợp say rượu làm mất đoàn kết gia
đình, dòng họ, làng bản.
Người Hmông ở tỉnh Lào Cai cũng hay hút thuốc lá, thuốc lá cũng là thứ
đồng bào dùng mời chào khách, bắt mối câu chuyện [106, tr.85].
Trong tâm thức của người Hmông, bên cạnh việc ăn uống là nhu cầu hàng
ngày, thì những bữa ăn mang tính cộng đồng, cộng cảm với những chén rượu ngô
trong các dịp lễ tết, cưới xin, tang ma,…luôn được coi trọng và có ý nghĩa.
Đối với người Hmông theo đạo Tin lành, trong bữa ăn hàng ngày cũng
không có nhiều thay đổi về nguồn nguyên liệu, cách thức chế biến đồ ăn. Bữa ăn là
thời điểm các thành viên trong gia đình gặp gỡ, trao đổi, nói chuyện với nhau về
công việc trong ngày, nhắc nhở con cái. Tuy nhiên, có một điểm riêng rất dễ nhận
thấy trong bữa ăn của gia đình người Hmông theo đạo Tin lành đó là, trước khi ăn
có cầu nguyện, nói những lời ngợi ca Chúa, cảm ơn Chúa đã cho bữa cơm đầy đủ
(Nguồn điền dã của tác giả).
Trong các buổi lễ tết, hay cưới xin, tang ma của người Hmông theo đạo Tin
lành tại điểm nghiên cứu sử dụng rất ít rượu, chủ yếu để dành cho khách là người
Hmông không theo đạo, vẫn giữ văn hóa truyền thống. Điều này phát xuất từ giáo lý
của đạo Tin lành, một trong 10 điều răn của Thiên Chúa, đó là không được uống
rượu, không ăn thịt chó, không ăn tiết canh. Chính vì vậy, người Hmông theo đạo
Tin lành ở các điểm nghiên cứu hầu như không uống rượu, tuy nhiên cũng có một
số người chia sẻ họ vẫn uống rượu, nhưng không nhiều, và khẳng định rằng, việc bỏ
hẳn rượu là rất khó khăn. Việc không ăn thịt chó và ăn tiết canh thì người Hmông
58
theo đạo Tin lành tại điểm nghiên cứu thực hiện khá tốt. Với việc hạn chế uống
rượu, ăn tiết canh đã dần tách cộng đồng người Hmông theo đạo Tin lành với cộng
đồng người Hmông vẫ bảo tồn các yếu tố văn hóa truyền thống.
Hộp 3:
Phỏng vấn tại huyện Sa Pa
Câu 1: Trước kia người mông thường lấy việc mời rượu, mời thuốc để thể hiện
tình cảm. Vậy với người Hmông theo Tin lành thì lấy gì để biểu hiện tình cảm? Uống cô
ca, nước cam.
Câu 2: Quan niệm của người Hmông theo Tin lành về việc uống rượu?Tùy thuộc
vào nhận thức của từng người, có người nhận thức rõ là tôn giáo không cấm uống rượu
mà chỉ nói là không được rượu chè bê tha có nghĩa là được uống nhưng không được nát
rượu, thì vẫn uống rượu bình thường. Nhưng cơ bản phần đông là đồng bào theo đạo
Tin lành không uống rượu, vì trong Kinh Thánh đã ghi rằng không nên uống rượu
nhiều.
Câu 3: Người Hmông theo Tin lành không ăn tiết canh, tại sao? Họ cho rằng ăn
tiết canh là ăn tươi nuốt sống như con ma, nên họ không ăn.
(Người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Xuân Định, cán bộ Ban Dân vận tỉnh Lào Cai.
Nguồn của tác giả, 2015)
Người Hmông lấy rượu làm đầu câu chuyện, làm sợi dây kết nối các thành
viên với nhau, nhận mặt khách thành người nhà; mặc dù uống rượu cũng có những
mặt hạn chế những xét đến cùn, rượu chính là nét văn hóa của người Hmông. Vậy
mà, khi theo đạo Tin lành, người Hmông giảm dần uống rượu, rượu không còn là
nét văn hóa đặc trưng trong tâm thức nữa thì đã tạo nên ranh giới của sự khác biệt
đối với người Hmông truyền thống. Ngoài ra, khi theo Tin lành, họ không ăn tiết
canh và ăn thịt chó nữa, điều này cũng tạo nên sự phân định giữa hai cộng đồng
theo đạo và không theo đạo. Không uống rượu, không ăn tiết canh, người Hmông
theo đạo Tin lành cũng hạn chế tham dự các ngày lễ tết, dịp cưới xin, tang ma,…
nếu có chăng thì cũng chỉ ngồi với nhau ở một chỗ, chứ không thực sự tham gia
59
theo đúng nghĩa.
3.1.2. Trang phục
Do đặc thù cư trú của người Hmông khá thuần cư trong các làng bản ở vùng
cao, xa các trung tâm đô thị và sự giao lưu với các dân tộc khác có phần hạn chế,
nên tộc người Hmông vẫn bảo tồn khá bền vững ba yếu tố căn bản để nhận diện một
tộc người, đó là kiến trúc nhà ở, ngôn ngữ, trang phục.
Thông qua trang phục, nhất là trang phục của phụ nữ giúp cho bản sắc của
dân tộc được lưu giữ và quảng bá. Trang phục của người Hmông với sự đặc sắc của
trang phục phụ nữ thể hiện tính cách tộc người với kỹ thuật ghép vải, thêu thùa, vẽ
sáp ong,... Đặc biệt, trang phục Hmông không chỉ mang tính thẩm mĩ thuần tuý mà
nó còn chứa đựng đặc thù văn hoá truyền thống trong nhận thức về vũ trụ, thế giới
quan, nhân sinh quan, cảnh quan thiên nhiên cũng như tư tưởng tình cảm, mong ước
cuộc sống tốt đẹp và góp phần tạo nên sự hấp dẫn về văn hoá tộc người trong một
quốc gia đa dân tộc.
Trang phục của người Hmông gồm: Áo (nam, nữ); quần (nam)- váy (nữ);
mũ đội đầu (nam); khăn đội đầu (nữ); họa tiết trang trí hoa văn bằng thêu; họa tiết
bằng vẽ in hoa sáp ong; ghép vải tạo hoa văn; đính hạt. Màu sắc hoa văn của trang
phục Hmông gồm năm màu: chàm sẫm, tím than – đen, đỏ, vàng , xanh, trắng kết
hợp hài hòa với nhau tạo nên bộ trang phục rực rỡ.
Cách đây khoảng 20 năm, khi đến với vùng đồng bào Hmông ở Lào Cai,
nam nữ người Hmông từ già đến trẻ vẫn mang trên mình bộ trang phục truyền
thống. Kiểu trang phục này giúp cho những người dân tộc khác, các nhà Dân tộc
học dễ dàng nhận diện ra các nhóm Hmông khác nhau như: Hmông Đen, Hmông
Hoa, Hmông Xanh, Hmông Trắng.
Ở đây, tác giả luận án xin giới thiệu khái quát về trang phục của người
Hmông Đen và Hmông Hoa; đây là hai nhóm Hmông chiếm tỷ lệ lớn và có nét
riêng về văn hóa ở Lào Cai.
Người Hmông ở Sa Pa chiếm đa số là người Hmông Đen, bên cạnh đó vẫn
có những nhóm Hmông khác sống xen kẽ. Về trang phục của người Hmông Đen ở
60
Sa Pa, người đàn ông thường mặc quần màu đen hoặc xanh đen (màu chàm) giống
nhau, áo cánh ngắn tay bên ngoài khoác áo không tay kiểu như áo gilê có vạt dài
quá mông. Trên đầu đội một cái mũ bé, tròn, nông, ôm lấy đỉnh đầu trông như cái
mũ của Giáo hoàng, có chiếc đen tuyền, có chiếc còn viền một vòng thêu thổ cẩm.
Mũ của con trai còn được khâu thêm vào các dải vải màu hoặc các đồng tiền lủng
lẳng. Người phụ nữ cũng mặc đồ đen, trên đầu đội một chiếc khăn đen, vành thẳng
đứng như một cuộn giấy cao vượt đỉnh đầu. Bên ngoài là một chiếc áo khoác không
có tay, vạt dài gần tới gối như của đàn ông. Chiếc áo khoác này được lăn ép bằng
sáp ong, vì thế có màu đen ánh bạc. Để giữ gìn, nhiều khi người ta mặc lộn mặt trái
có màu trắng ra ngoài. Đặc biệt nhất là phụ nữ Hmông Sa Pa lại mặc quần ngắn
ngang đầu gối, không mặc váy. Họ cuốn xà cạp quanh bắp chân rất khéo bằng một
băng vải hẹp.
Người Hmông Hoa chiếm đa số trong tổng số người Hmông ở Lào Cai. Bên
cạnh những điểm chung trên trang phục của phụ nữ Hmông, khăn của phục nữ
Hmông Hoa có hai kiểu: một loại nhỏ hình chữ nhật khổ 60 cm x 40 cm thêu hoa
văn, trùm đầu và một loại khăn vành rộng quấn quanh đầu, vành ngoài của khăn có
thêu hoa văn. Áo phụ nữ Hmông Hoa xẻ nách, cổ cao trên vai và ngực có nẹp thêm
vải màu thêu hoa văn hình con ốc. Váy màu chàm xếp nếp bèo rộng. Thân váy in
hoa văn, gấu váy thêu và ghép nhiều họa tiết tạo thành các giải băng ngang. Phía
trước và phía sau váy là tạp dề được trang trí hoa văn rực rỡ. Thắt lưng được thêu
mầu, quấn ngang bụng. Xà cạp quấn chân có màu chàm nhưng dây buộc ngoài cũng
thêu hoa văn nhỏ li ti.
Trong những năm gần đây, những bộ trang phục nguyên bản được bà con
người Hmông sử dụng đang thưa vắng dần. Trong đó, trang phục của đàn ông người
Hmông đang báo động dấu hiệu mai một mạnh nhất. Hầu hết những người đàn ông
trong nhà chỉ sắm cho mình được một hoặc hai bộ quần áo để mặc trong lễ tết, hội
hè và thậm chí có người chỉ sắm cho mình được một cái quần may theo kiểu truyền
thống. Hình ảnh người đàn ông mặc quần áo sơ mi, áo phông khi tiết trời nắng ấm
hoặc mặc những chiếc áo khoác từ miền xuôi đưa lên trở thành phổ biến trong các
61
phiên chợ vùng cao.
Với phụ nữ Hmông, tuy sự mai một về trang phục không diễn ra mạnh mẽ
như ở nam giới, nhưng thực tế cũng đang ở mức cần xem xét. Nhiều phụ nữ có khi
chỉ còn mặc chiếc váy Hmông với áo phông hoặc áo sơ mi. Tuy nhiên, váy của
nhiều người không còn là váy do mình dệt nữa mà là váy nhập từ Trung Quốc cứng
đơ vì không được làm bằng sợi bông, không được thêu dệt hoa văn, in hoa văn bằng
sáp ong như truyền thống vốn có của nó. Không ít phụ nữ Hmông dù sống tận bản
xa trên đỉnh núi cũng đã vận trên mình cả một bộ quần áo sơ mi và những cô gái trẻ
cũng đã mặc quần bò, áo trắng.
Vào các làng bản của người Hmông mấy năm gần đây đều không thấy còn
những nương trồng cây lanh lấy sợi và những vườn chàm làm thuốc nhuộm. Hình
ảnh những phụ nữ Hmông vừa đi bộ, tay vừa se những sợi lanh giờ cũng thật hiếm
gặp trên những nẻo đường vùng cao. Nghề trồng bông dệt vải có thể coi như mai
một dần vì người Hmông bây giờ chỉ cần mua những tấm vải thô ở chợ về nhuộm,
in để may trang phục.
Nguyên nhân khiến cho trang phục của người Hmông có sự mai một nhanh
như vậy, trước hết là do có sự tác động của lưu thông hàng hoá trong, ngoài nước và
hội nhập về văn hoá, trong đó có văn hoá trang phục. Sự công phu trong việc dệt
may những bộ trang phục của người Hmông đã không giải quyết đủ nhu cầu ăn mặc
trong mỗi gia đình cũng khiến đồng bào bị lệ thuộc vào trang phục trên thị trường.
Bên cạnh đó, quan điểm về chuyện ăn mặc bắt đầu bộc lộ sự đơn giản hơn trong suy
nghĩ của nhiều người Hmông và tư tưởng bảo tồn những giá trị thẩm mỹ trong trang
phục cũng đã bắt đầu giảm sút. Trước sự mai một này, những người Hmông - bản
thân chủ thể văn hóa cần có sự “chấn chỉnh” kịp thời, cùng với đó là sự vào cuộc
của cơ quan chức năng về bảo tồn văn hóa nhằm giữ gìn sắc thái văn hóa trang phục
truyền thống của người Hmông.
Theo truyền thống, con trai Hmông vẫn mặc quần thụng, áo chẽn; con gái
vẫn mặc váy xòe với hoa văn truyền thống. Khi theo Tin Lành - một tôn giáo in
đậm lối sống phương Tây, người Hmông, nhất là đàn ông bắt đầu có sự thay đổi
62
trong việc mặc, họ thỉnh thoảng mặc vecton, thắt cà vạt giống như mục sư Tin
Lành. Thực ra, sự thay đổi trong trang phục của người Hmông không phải đợi đến
khi Tin Lành du nhập vào, mà từ rất lâu, mấy thập kỷ trước khi người Kinh di cư
lên miền núi. Tuy nhiên, khi Tin lành thâm nhập, sự thay đổi về mặc trong người
Hmông được thúc đẩy hơn.
Trên thực tế, đối với người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, trang phục
truyền thống vẫn được lưu giữ. Trong sinh hoạt thường ngày, người phụ nữ Hmông
sử dụng trang phục truyền thống nhiều hơn so với nam giới. Tất nhiên, theo thuyết
biến đổi văn hóa, trang phục truyền thống của người phụ nữ Hmông đã không còn
giữ được nguyên bản như trước đây. Phần váy được sự dụng trong cuộc sống lao
động thường nhật, còn phần áo thì đã có sự cách tân, dùng áo sơ mi, áo phông như
của người Kinh. Nam giới người Hmông trong khi lao động và sinh hoạt thì ít sử
dụng trang phục truyền thống, họ mặc giống người Kinh, quần âu và áo sơ mi.
Nhưng trong gia đình người Hmông vẫn có những bộ trang phục truyền thống và nó
vẫn được sử dụng trong những dịp lễ trọng, trong các buổi sinh hoạt tôn giáo, kể cả
phụ nữ cũng như đàn ông. Trong tư tưởng của những người Hmông theo Tin lành
vẫn có sự tự hào và ý thức gìn giữ trang phục truyền thống của dân tộc mình. Bằng
chứng là khi đưa ra lý do vì sao lựa chọn kiểu trang phục truyền thống trong việc tham
dự nghi lễ tôn giáo, cũng như vào các dịp quan trọng thì có 57,5% đưa ra lý do là vì đó là
trang phục của dân tộc mình (kết quả điều tra của tác giả luận án tại Lào Cai).
Biểu 3.1. Kiểu trang phục của người Hmông theo
63
Tin Lành mặc
Tất nhiên, khi đặt trong sự thay đổi về điều kiện sống như môi trường sinh
thái, sự hội nhập thì việc làm ra các trang phục theo cách thủ công truyền thống
có sự cách tân, rút ngắn, nguyên liệu có thể được nhập từ Trung Quốc, phần thêu
thủ công xuất hiện trong trang phục cũng ít đi, thường ở phần gấu váy. Nhưng ý
nghĩa của trang phục đối với tộc người Hmông vẫn là niềm tự hào cho dù họ
theo Tin Lành.
3.1.3. Nhà ở
Giống như những người Hmông ở miền núi phía Bắc, người Hmông ở tỉnh
Lào Cai cư trú chủ yếu ở vùng núi cao, ít có quan hệ với dân tộc khác. Họ thường
sống quần tụ với nhau thành thôn bản riêng, mỗi bản có khoảng 15-20 gia đình,
mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm. Các bản thường được lập trên các
sườn núi hay thung lũng, thuộc vào thế đất và điều kiện canh tác mà các bản của
người Hmông ở đây thường không giống nhau. Mỗi bản đều có tên gọi, ranh giới
riêng, tuy không phân chia rạch ròi và thường lấy các khe núi, khu rừng làm mốc.
Trong từng bản, các hộ gia đình thường ở rải rác, cách xa nhau và không theo một
trật tự nhất định.
Đồng bào Hmông rất chú trọng việc chọn đất làm nhà. Sau khi chọn được
đất tốt, đất lành, người ta tiến hành san nền, kè móng, trình tường nhà. Việc làm nhà
của người Hmông mang tính cộng đồng cao, khi một hộ làm nhà thì các hộ khác
đều dành thời gian đến giúp nhiều ngày từ việc san nền đến trình tường, làm khung,
lợp mái.
Hiện nay, ở tỉnh Lào Cai mặc dù kinh tế đã phát triển hơn, người Hmông có
cơ hội tiếp xúc với phương thức làm nhà của người Kinh, nhưng hầu như đồng bào
vẫn giữ cách làm nhà trình tường. Theo điều tra tại địa phương của tác giả luận án
tại Lào Cai, gần 100% các hộ gia đình người Hmông hiện nay đều duy trì mô hình
nhà ở truyền thống.
Để trình tường nhà, bà con phải làm những chiếc khuôn gỗ có chiều dài
64
1,5m, rộng 0,45-0,5m. Khi trình tường, người ta đổ đất đầy khuôn gỗ, dùng những
chiếc vồ nện chặt đất. Đất dùng để trình tường phải được loại bỏ sạch rễ cây, đá to,
cỏ rác. Khi tiến hành trình tường, người ta huy động vài chục thanh niên trai
tráng trong bản đến giúp; cứ như vậy khuôn nọ nối tiếp khuôn kia cho đến khi
hoàn thành.
Trước kia, người Hmông ở nhà kê đất, vách gỗ, nền đất, mái lợp bằng gỗ
hoặc mái gianh, nóc nhà hình mai rùa. Mô hình nhà gần tương tự như nhà gianh
vách đất của người Kinh dưới đồng bằng, gian buồng thường nằm ở phía bên trái để
ngủ và chứa lương thực, chiếc giường kê ở gian ngoài thường dành cho khách.
Nhà của người Hmông thường gồm có ba gian trở lên. Gian chính giữa giáp
vách hậu là nơi đặt ban thờ tổ tiên, gian này còn là nơi dành cho ăn uống hàng ngày.
Giữa nhà thường có một cái bếp lớn, mang ý nghĩa cộng đồng sâu sắc. Dù ngày
thường có hoặc không sử dụng, nhưng mỗi khi xuân về Tết đến, người Hmông đều
nhóm bếp này lên, mọi người trong gia đình quây quần, sum vầy sưởi ấm và cùng
chuẩn bị bữa ăn ngày Tết. Đặc biệt, mỗi khi nhà có khách, cái bếp này chính là nơi
để đón tiếp khách, vừa trò chuyện vừa sưởi ấm bên bếp lửa hồng. [Xem phục lục
ảnh số....]
Nhà của người Hmông bao giờ cũng có sàn gác ở bếp để cất giữ đồ đạc,
lương thực, thực phẩm. Ngô lúa mang từ nương về bao giờ cũng được cất lên gác.
Khói bếp sẽ làm khô và giữ cho không bị sâu mọt. Phong tục người Hmông không
cho con gái, đàn bà được ngủ trên gác. Khi đàn ông trong nhà đi vắng thì con dâu
không được phép lên gác.
Cửa chính ra vào nhà của người Hmông cũng phải chọn gỗ tốt để làm. Cửa
bao giờ cũng được mở vào phía trong. Cửa không cài bằng then sắt mà phải cài
bằng then gỗ. Người Hmông quan niệm không sử dụng bản lề, then cửa bằng sắt là
vì cửa mở ra đóng vào được xem là lòng bụng con người, nếu dùng các vật dụng
bằng sắt thì sẽ lạnh, nên tất cả các ngôi nhà của người Hmông luôn sử dụng sự mềm
mại của cây rừng.
Trong gia đình người Hmông, phòng ngủ của vợ chồng con cái được bố trí
riêng. Người Hmông ngủ bằng phản hoặc giát bằng tre mai đập dập, phù hợp với 65
ngôi nhà đất của người Hmông. Nơi ngủ của con dâu, em dâu được quy định rất
khắt khe, bố chồng và anh chồng không được vào; ngược lại, con dâu, em dâu cũng
không được vào chỗ ngủ của bố chồng, anh chồng. Ngày nay, nhiều nhà đã ngủ
bằng giường thay thế cho phản hoặc giát và nó trở thành vật dụng không thể thiếu
được của người Hmông vì nó gắn liền với việc ở nhà đất.
Việc làm nhà của người Hmông phải sử dụng rất nhiều gỗ cây rừng, việc
khai thác gỗ đã làm cho tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt và gây xói mòn đất. Vì
vậy, với chính sách bảo vệ rừng của Nhà nước, những năm gần đây, một số hộ gia
đình người Hmông đã chuyển sang loại hình nhà xây tường gạch, lợp mái ngói, nền
lát gạch. Tuy nhiên, mô hình nhà ở về cơ bản vẫn được duy trì như ngôi nhà truyền
thống. Loại nhà này gần tương tự như nhà cấp 4 của người Kinh dưới xuôi.
Trước kia, do tập quán du canh du cư nên người Hmông thường làm nhà ở
rất đơn giản và tính kiên cố không cao, đến nay người Hmông đó định cư được
khoảng 100 năm nay nên không có ý định dời nhà đi đâu nữa. Bên cạnh đó, với
những chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước về định canh, định cư;
về phát triển kinh tế - xã hội, ... nên đã có nhiều nhà của người Hmông xây dựng
kiên cố. Chính vì vậy, ngôi nhà cũng dần dần được thiết kế chắc chắn hơn, chất liệu
bền hơn để ở lâu dài, nhưng về kiến trúc, cách bài trí trong ngôi nhà thì về cơ bản
vẫn không thay đổi.
Người Hmông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian
hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn
lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà vách ván hay vách nứa,
mái tranh. Lương thực được cất trữ trên sàn gác, một số nơi có nhà kho chứa lương
thực ở ngay cạnh nhà.
Đối với người Hmông theo Tin lành tại Lào Cai, khi tách hộ và xây dựng
nhà mới thì vẫn có trường hợp kết hợp xây dựng với kiểu nhà của người Kinh, tức
66
là có xây gạch xi măng, lợp mái ngói.
Kiểu nhà truyền
Kiểu nhà kết hợp
thống
với dân tộc Kinh
Người Hmông giữ văn
40 phiếu,
31 phiếu, 77,5%
09 phiếu, 22,5%
hóa truyền thống
100%
Người Hmông theo Tin
40 phiếu,
15 phiếu, 37,5%
25 phiếu, 62,5%
Lành
100%
Bảng 3.1. Kiểu nhà của dân tộc Hmông
(Nguồn: Tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014)
Cũng giống như người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống, cách bố trí
các gian trong ngôi nhà của người Hmông theo Tin lành vẫn giữ mô hình cũ, khác
biệt duy nhất là gian giữa của người Hmông theo đạo Tin lành không có bàn thờ
cúng tổ tiên.
Tuy nhiên, việc xây dựng nhà kiên cố với những vật liệu hiện đại thường
được những hộ người Hmông theo Tin lành áp dụng nhiều hơn so với người Hmông
vẫn giữ văn hóa truyền thống. Tỷ lệ nhà xây dựng theo kiểu kết hợp giữa truyền
thống và cách thức xây dựng của người Kinh ở người Hmông theo Tin lành là
62,5%; và đây cũng là kiểu nhà mà người Hmông theo Tin lành thích ở. Còn nếu
xét về tổng thể khuôn viên thì nhà ở của người Hmông theo đạo sạch sẽ, vệ sinh và
việc bố trí các công trình liên quan như truồng heo, truồng bò hợp lý hơn.
3.2. Văn hóa xã hội
3.2.1. Mối quan hệ truyền thống của người Hmông ở Lào Cai
* Đặc điểm của các mối quan hệ truyền thống
Lịch sử của người Hmông gắn với các cuộc thiên di, từ chỗ là một tộc
người có địa bàn cư trú, có quốc gia riêng, có thiết chế xã hội riêng ở miền Nam
Trung Quốc, đến thời nhà Hán, người Hmông đã di cư tới nhiều nơi, trong đó có
Việt Nam. Người Hmông đến Việt Nam muộn hơn so với nhiều tộc người khác,
cách đây khoảng 300 năm, khi mà sự phân bố các tộc người đã ổn định. Do vậy,
người Hmông ở Việt Nam có địa vực cư trú trên vùng rẻo cao, điều này ảnh hưởng
67
đến hoạt động sinh kế của họ. Trong bối cảnh đó, người Hmông không thể duy trì
được các thiết chế xã hội lớn như những mường của người Thái và người Mường,
mà thay vào đó, họ đề cao các thiết chế xã hội có quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, cái làm
nên sức mạnh của tộc người Hmông chính là tâm thức - ý thức tộc người, mà một
phần được thể hiện trong thiết chế xã hội truyền thống với sự liên kết của các mối
quan hệ điển hình như: quan hệ gia đình, quan hệ dòng họ, quan hệ cộng đồng.
- Mối quan hệ gia đình chi phối bởi yếu tố phụ quyền
Xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh tế cũng như đặc trưng văn hóa tộc
người, xã hội truyền thống của người Hmông là xã hội phụ quyền với sự đề cao vai
trò, quyền lợi và trách nhiệm của người đàn ông đã tạo nên một cấu trúc xã hội
thống nhất và được xây dựng trên cơ sở gia đình – hạt nhân cơ bản. Theo quan niệm
của người Hmông, một gia đình phải có hai người trở lên, tức là phải có vợ và
chồng; thông thường mỗi gia đình người Hmông có hai thế hệ cùng chung sống, cá
biệt cũng có ba, bốn thế hệ với nhiều cặp vợ chồng.
Bên cạnh quan hệ vợ chồng trong gia đình, mối quan hệ anh em cũng rất
được quan tâm. Theo quan niệm của người Hmông, quan hệ anh em đều phải theo
tôn ti trật tự, em nghe theo quyết định của anh, người anh phải thương yêu đùm bọc,
giúp đỡ em mình.
- Dòng họ là nền tảng của xã hội Hmông truyền thống và hiện nay.
Trong thiết chế xã hội truyền thống cũng như hiện nay, quan hệ dòng họ là
một đặc điểm nổi bật của xã hội Hmông. Dòng họ có thể bao gồm nhiều hộ gia đình
cư trú ở các khu vực xa nhau, nhưng họ đều coi nhau là anh em cùng một ông tổ
sinh ra, được gọi là dòng họ ở cấp độ rộng. Ở cấp độ hẹp, dòng họ là một gia đình
con cháu gồm 3 đến 5 đời, cố kết cộng đồng huyết thống theo hệ cha.
Trong dòng họ của người Hmông chứa đựng hai phạm trù cố kết như sau:
(1). Cố kết rộng: bao gồm tất cả những người cùng họ không phân biệt người đó cư
trú ở đâu. Theo cách giải thích của người Hmông, đã cùng một dòng họ đều là anh
em. Trong xã hội của người Hmông, những người có chung một ông tổ, cùng tộc họ
đều nhận nhau là anh em. Giữa anh em có sự giúp đỡ, tương trợ và gắn bó mật thiết
68
với nhau. Sự cố kết rộng của một dòng họ, không tính theo các tiêu chí phả hệ mà
chỉ cần có tên họ và điều kiêng kỵ. (2). Cố kết hẹp: Trong một bản người Hmông,
thường có vài dòng họ cư trú. Mỗi dòng họ được xem như một đơn vị cố kết cộng
đồng theo dòng cha. Tiêu chuẩn để nhận ra dòng họ là các vị tổ tiên mà dòng họ thờ
phụng. Những người có quan hệ dòng họ trong phạm vi cố kết hẹp thường cư trú
thành từng cụm, từng chòm ở các bản. Nói cách khác, mỗi bản có những khu vực tụ
cư của từng dòng họ riêng. Trong mỗi dòng họ này thường có từ một chục tới vài
chục hộ gia đình gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống.
Cùng với các thành viên nam giới, phụ nữ cùng thế hệ, tuy đã đi lấy chồng,
là ma của dòng họ khác, nhưng vẫn có sự liên hệ chặt chẽ với dòng họ sinh ra mình
và dòng họ vẫn luôn có trách nhiệm quan tâm đến những người phụ nữ này.
Trong hầu hết các sự kiện từ việc tổ chức lao động sản xuất, quản lý đất
đai,cư trú, làm nhà hay di dịch cư, đến các nghi lễ trong chu kỳ đời người như sinh
nở, cưới xin, tang ma; trong các nghi lễ như lễ cúng ma cửa, ma nhà, ma buồng; lễ
cúng dòng họ (thi su, sầu su), lễ hội Gầu tào (tsang taox – cầu tự),… dòng họ luôn
thể hiện sức mạnh vô hình của mình, là công cụ hữu hiệu trong quản lý, điều chỉnh
các mối quan hệ thông qua luật tục, và là cơ sở, yếu tố then chốt trong việc bảo tồn,
làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa tộc người.
- Mối quan hệ giữa các dòng họ tạo nên ý thức cố kết cộng đồng của tộc
người Hmông
Trước đây, mỗi dòng họ người Hmông ở Lào Cai thường cư trú trong một
bản hoặc một phần của bản.
Bản người Hmông là một tổ chức xã hội cơ sở bao gồm một số nóc nhà, gọi
là “giao”. Mỗi giao đều có tên riêng, thường được gọi theo tên của dòng họ có công
lập bản đầu tiên hoặc gọi theo đặc điểm địa lý tự nhiên (đó là tên về đặc điểm núi,
suối, rừng cây, đặc điểm đất) [78, tr. 31].
Sau một thời gian phát triển, do sự gia tăng dân số, quan hệ hôn nhân, di
dịch cư,… thì tính chất cư trú đan xen các dòng họ thay thế dần tính biệt lập của
dòng họ, do đó, một bản có từ hai, ba dòng họ trở lên cùng sinh sống là điều tất yếu.
69
Trong mối quan hệ giữa các dòng họ tại một bản thường là quan hệ giữa một bên là
một dòng họ lớn với một bên là các dòng họ có quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên, các gia
đình cùng một dòng họ thường cư trú tập trung với nhau thành từng cụm, chứ
không có sự xen kẽ giữa các gia đình khác dòng họ. Nhưng thực chất giữa các khu
vực gia đình cư trú theo dòng họ như vậy hoàn toàn không có ranh giới cụ thể, hay
cũng không có sự phân định đất đai rõ ràng giữa các bản với nhau, các ranh giới chỉ
mang tính ước lệ. Nhìn chung, mối quan hệ giữa các dòng họ với nhau, từ dòng họ
ít người, dòng họ đông người, dòng họ cư trú lâu đời, dòng họ mới di cư đến luôn
hòa thuận, thân thiện, rất khó xảy ra mâu thuẫn.
Sự thống nhất trong mối quan hệ làng bản giữa các dòng họ có thể giải
thích như sau [71; tr. 82]:
Thứ nhất, đi từ lịch sử tộc người và địa vực cư trú, điều kiện sinh sống của
người Hmông ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu, buộc tộc người này phải xây dựng
một mối quan hệ cộng đồng đoàn kết để tồn tại và phát triển. Sự đoàn kết ở đây
không chỉ dừng lại trong dòng họ mà còn là đoàn kết của các dòng họ trong cùng
khu vực sinh sống và trong cả cộng đồng dân tộc Hmông.
Thứ hai, xét về mặt sản xuất kinh tế, người Hmông có hình thức canh tác
xâm canh. Mỗi gia đình đều có quyền phát nương, gieo trồng trên bất cứ khu rừng
nào, miễn là không vi phạm vào rừng cấm – rừng thiêng hay khu đất đã có chủ.
Người Hmông ở bản này có thể sang đốt nương làm rẫy ở bản khác, miễn là không
vi phạm luật tục của cộng đồng. Vì vậy, ở người Hmông không xuất hiện yếu tố tập
thể, của công, không hình thành hình thức sản xuất tập thể và chính vì thế, đây cũng
là một trong những nguyên nhân tạo nên sự hòa thuận trong các mối quan hệ cộng
đồng làng bản của người Hmông.
Thứ ba, quan hệ hôn nhân trong bản hay giữa các bản đã dần hình thành nên
các mối liên hệ thông gia của các gia đình và dòng họ. Trong cùng một khu vực
sinh sống, quan hệ thông gia giữa các dòng họ vừa nhằm đảm bảo không xảy ra hôn
nhân cận huyết, vừa để củng cố tình thân hữu, tạo nên sức mạnh cộng đồng. Theo
quan niệm của người Hmông, đã là thông gia thì phải có trách nhiệm giúp đỡ,
70
thương yêu, đoàn kết với nhau, cùng nhau giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Ví
như, trong việc tổ chức tang lễ thì người thầy chỉ đường (tơư cêr), thầy khèn (txir
kênhx), thầy trống (txir đruôl), thầy sáo (txir sul), rồi người chủ trì đám tang (shông
ca),… bắt buộc phải mời người ở dòng họ khác giúp đỡ, lúc đó thì các gia đình
thông gia sẽ đứng ra giúp.
Như vậy, với mối quan hệ cộng đồng được thể hiện trong tổ chức bản tại một
vùng hay giữa các vùng với nhau của người Hmông là yếu tố gắn kết ý thức tộc người.
Điều này tạo nên sức mạnh cộng đồng, ý chí của người Hmông để đến tận ngày nay tộc
người Hmông vẫn tồn tại và phát triển cùng với những bản sắc vốn có của mình.
* Vai trò của các mối quan hệ truyền thống
Mối quan hệ gia đình giữa vợ - chồng, anh - em, cha - con tạo nên một mối
liên kết chặt chẽ, góp phần tạo dựng nền tảng cho sự cố kết cộng đồng từ trong
huyết thống đến mối quan hệ dòng họ.
Gia đình người Hmông là gia đình một vợ một chồng bền vững, cư trú bên
nhà chồng. Hôn nhân ngoài dòng họ là nguyên tắc cơ bản. Những người cùng họ dù
xa đến mấy đời nếu “cùng ma” (cùng ông tổ) thì không được kết hôn với nhau. Đối
với người Hmông rất hiếm khi xảy ra tình trạng ly hôn; điều này đã tạo nên hạt
nhân vững chắc của sự ổn định trong gia đình và cộng đồng xã hội.
Quan hệ anh em của người Hmông không chỉ giới hạn trong huyết thống
mà còn mở rộng với quan niệm cùng họ, cùng ma tạo nên sự gắn kết chặt chẽ ở
cùng địa bàn cư trú, cũng như ở bất cứ nơi đâu, đây cũng chính là nguồn gốc cho
sức mạnh cộng đồng của người Hmông.
Dòng họ đóng vai trò quan trọng trong xã hội của người Hmông, góp phần
tạo nên sự cố kết trong cộng đồng, từ việc cưới xin, làm nhà mới tới việc lễ. Tuy là
công việc riêng của mỗi gia đình, nhưng toàn thể các thành viên trong dòng họ đều
có nghĩa vụ giúp đỡ, lo liệu, đóng góp. Không những thế, tổ chức dòng họ thực sự
là một cơ chế tự quản hiệu quả, nó vừa đảm bảo quản lý xã hội vừa tạo sự cố kết
cộng đồng một cách bền chặt.
Có thể nói, trong cấu trúc xã hội của người Hmông bao gồm gia đình, dòng
họ và cộng đồng làng bản. Trong đó, gia đình là đơn vị hạt nhân cùng với tổ chức
71
dòng họ đóng vai trò trong việc tăng cường cố kết cấu trúc xã hội của người Hmông
tại một địa vực cư trú nhất định, nhưng cũng mang tính hướng ngoại, mở rộng giao
lưu với các thành viên của các vùng khác. Các dòng họ là những sợi dây liên hệ vượt ra
khỏi phạm vi của bản để liên kết thắt chặt quan hệ đồng tộc, tạo nên sự cố kết tộc người
xuyên vùng, xuyên quốc gia, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Ý nghĩa xã hội lớn lao của dòng họ chính là ở chỗ: Dòng họ là một trong
những yếu tố quan trọng cấu thành nên xã hội bản và xã hội vùng ở người Hmông,
bởi mối quan hệ xã hội của bản, của vùng thực chất là mối quan hệ của các thành
viên cùng dòng họ và giữa các dòng họ trên cùng địa vực cư trú [71, tr.88-89].
Chính những ứng xử trong dòng họ, gia đình và cộng đồng làng bản của
người Hmông gắn với những nghi thức, phong tục tập quán đã tạo nên một nét
văn hóa riêng đặc trưng của người Hmông ở Việt Nam nói chung, ở tỉnh Lào Cai
nói riêng.
3.2.2. Mối quan hệ gia đình của người Hmông theo Tin Lành ở Lào Cai
Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay, đặc biệt là dưới tác động
của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, văn hóa của các tộc người, trong đó có văn
hóa của người Hmông ở Lào Cai cũng đã và đang chịu sự tác động và có những
biến đổi để thích ứng. Ngoài ra, văn hóa của người Hmông cũng chịu tác động bởi
văn hóa của tôn giáo, trong đó có đạo Tin lành.
3.2.2.1. Mối quan hệ giữa người vợ và người chồng
Mối quan hệ vợ chồng được thiết lập trên nền tảng của một cuộc hôn nhân,
khi người đàn ông và người phụ nữ cam kết sống chung với nhau, có trách nhiệm và
nghĩa vụ với nhau và với con cái.
Trong hôn nhân, người Hmông có quan niệm lấy vợ là để bổ sung thêm lực
lượng lao động cho gia đình. Cùng với chế độ phụ hệ, đặc trưng vai trò của dòng
họ, cho nên người con trai Hmông thường chủ động đi tìm vợ, người con gái luôn bị
động trong việc lựa chọn người bạn đời. Chính vì vậy, xét ở khía cạnh cụ thể, thì
người phụ nữ Hmông truyền thống không được coi trọng, và có tâm lý cam chịu với
số phận. Người chồng có quyền quyết định hầu hết các việc quan trọng trong gia
đình; người vợ bị hạn chế trong các quyết định, vai trò và vị thế mờ nhạt, ràng buộc
72
bởi nhiều phong tục tập quán không còn phù hợp trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Tuy nhiên, trong hôn nhân của người Hmông có một tập tục là tục kéo vợ. Với tập
tục này, theo quan niệm của người Hmông, để tạo điều kiện cho người con gái có
cơ hội đồng ý hay từ chối cuộc hôn nhân, nâng cao vị thế của mình trong gia đình
nhà chồng, nếu người con gái được đi kéo về, chứng tỏ đây là người con gái tốt,
xứng đáng. Đa số việc chọn vợ, tìm vợ của người Hmông đều có sự tham gia và sự
quyết định của bố mẹ chàng trai; hiện tượng này trong những năm gần đây ở người
Hmông đã có thay đổi, nhưng chủ yếu cũng chỉ thấy ở nhóm người đã được đi học.
So sánh hôn nhân của người Hmông theo Tin lành tại các điểm nghiên cứu
cho thấy những khác biệt, chuyển biến cơ bản như.
Trường hợp thứ nhất, cả người trai và người gái đều theo Tin lành và cùng
đi đến hôn nhân.
Để tiến tới hôn nhân, đôi trai gái đã có sự tìm hiểu, thể hiện tình cảm xuất
phát từ hai phía. Theo Tin lành, khi hai người muốn tiến tới hôn nhân thì phải tự
nguyện đến với nhau, không bị ai ép buộc, dựa trên tinh thần tự nguyện như vậy thì
hai bên phải có trách nhiệm với nhau. Như vậy, có thể thấy rằng, với sự tự nguyện,
xuất phát từ tình cảm của đôi trai gái đã thể hiện rõ nét sự bình đẳng trong hôn
nhân, trong quan hệ vợ chồng, người phụ nữ được chủ động trong việc quyết định
số phận của mình.
Giàng A Chìa, sinh năm 1978, không theo Tin lành, trưởng thôn Lủ Khấu, xã Tả
Phìn, huyện Sa Pa: Đi kéo vợ là do hai bên bố mẹ thích. Bố mẹ nhà trai biết nhà gái
trước, nhưng phải giấu, đi thăm nhau để xem cách thức con gái, xem có ưng không, hiền
lành, chăm chỉ thì nhắm cho con trai nhà mình. Nếu ưng rồi thì tổ chức đội kéo vợ cho
con trai nhà mình.
Mục sư Chang A Cang (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội
Hội thánh Linh hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn): Đạo Tin
lành lấy sự yêu thương là lớn lao, hai người yêu nhau gửi thư tỏ tình, nhất trí, sau đó tìm
hiểu, yêu thực sự rồi mới nhờ mục sư đi hỏi, hay đưa người con gái đến gặp trực tiếp
mục sư để đến nhà gái.
(Nguồn: Tài liệu khảo sát thực địa của tác giả, năm 2014)
73
Hộp 4:
Ngoài ra, trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân, đôi trai gái được học lý
lẽ, được sự răn dạy theo Kinh thánh và phải hứa trước Chúa là yêu thương, gắn bó,
cùng nhau lao động sản xuất, nuôi dạy con cái. Trong quan hệ vợ chồng, Kinh thánh
cũng chỉ rõ, người chồng là người chủ mẫu mực, yêu thương và trung thành; người
vợ phải có nghĩa vụ đáp lại tình cảm đó. Quan niệm trong hôn nhân của Tin lành là
hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly.
Điều này cũng tương tự như trong văn hóa truyền thống của người Hmông
khi mong muốn cuộc sống gia đình của đôi trai gái được hòa thuận. Có khác chăng
là một bên phải có sự chứng nhận của Chúa, phải sống theo lời dạy của Kinh thánh;
còn một bên là sự chứng kiến của tổ tiên, dòng họ. Văn hóa Hmông truyền thống
hay văn hóa Tin lành có các cách thực hiện nghi lễ riêng của mình và tạo ra sự khác
biệt, được thể hiện rất rõ trong việc tổ chức đám cưới (phần này sẽ được phân tích ở
nghi lễ hôn nhân của người Hmông theo Tin lành).
Một điểm tích cực nữa của Tin lành trong quan hệ hôn nhân của người
Hmông là yêu cầu các cặp vợ chồng mới cưới phải có sự chứng nhận của pháp luật,
tức là phải có đăng ký kết hôn. Đây là một ưu điểm của Tin lành vì đạo này luôn
đưa yêu cầu đối với tín đồ của mình là sống và làm việc đúng pháp luật, coi trọng
việc tuân thủ luật pháp. Đây cũng là một điểm để bảo đảm cho quyền hợp pháp của
người phụ nữ khi có vấn đề xảy ra trong hôn nhân, và cũng là để khẳng định vị thế
của người phụ nữ Hmông trong xã hội.
Như vậy, trong mối quan hệ vợ chồng của người Hmông theo Tin lành xuất
phát từ tình cảm hai phía, có thời gian tìm hiểu nhất định, dựa trên sự tự nguyện,
không bị ép buộc, mọi hành vi ứng xử với nhau đều phải tuân thủ theo lời răn dạy
của Kinh Thánh dưới sự chứng giám của Chúa, nhưng bên cạnh đó có sự ràng buộc
của pháp luật. Quan hệ giữa vợ và chồng bình đẳng và bền chặt, quyền của người
phụ nữ được bảo đảm.
Trường hợp thứ hai, vợ hoặc chồng theo Tin lành. Với tình huống này, cách
74
ứng xử trong quan hệ vợ chồng đã có độ chênh khá lớn, đặc biệt xuất hiện xung đột
lớn về vị thế. Để tiến tới sự dân chủ và bình đẳng, đạo Tin lành đã có những quy
định trong quan hệ vợ chồng, làm giảm đi quyền của người đàn ông trong gia đình
(điều trái ngược hoàn toàn trong văn hóa truyền thống của người Hmông) như
không được đánh chửi vợ, không rượu chè hút sách, phải chí thú làm ăn,... Những
quy định này đem lại nhiều lợi ích cho người phụ nữ, giải tỏa tư tưởng và cuộc sống
thực tế của phụ nữ Hmông. Với việc theo Tin lành, người phụ nữ Hmông tự tin
trong việc đấu tranh bình quyền, phản kháng lại những cưỡng ép của các chế định
cổ hủ, lạc hậu, trọng nam khinh nữ. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu trong gia đình
chỉ có vợ theo Tin lành, chồng không theo đạo thường dẫn đến xung đột, xích mích
trong quan hệ vợ chồng.
Theo khảo sát tại điểm nghiên cứu, để hạn chế những xung đột trong quan
hệ giữa vợ theo Tin lành với chồng không theo đạo thì người vợ “làm công tác tư
tưởng”, giữ luôn vai trò truyền đạo, động viên chồng theo Tin lành cùng mình.
“Mưa dần thấm đất”, không ít trường hợp người vợ theo Tin lành trước, rồi kéo
chồng theo đạo cùng, tiến tới con cái, anh chị em trong nhà.
Quả thực, mối quan hệ vợ chồng của người Hmông theo Tin lành ở Lào
Cai, một mặt đem lại nhiều chuyển biến tích cực trong bình đẳng giới, vợ chồng
thương yêu, tôn trọng nhau và cùng sản xuất cải thiện kinh tế, góp phần ổn định xã
hội. Bên cạnh đó, việc một trong hai người, vợ hoặc chồng theo Tin lành cũng ít
nhiều gây ra những mâu thuẫn nhất định.
3.2.2.2. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
Trong quan hệ gia đình truyền thống của người Hmông luôn duy trì một
tôn ti trật tự khá chặt chẽ từ người già đến trẻ nhỏ, luôn sống hòa thuận, coi trọng
những người cao tuổi. Gia đình là chỗ dựa về mặt tinh thần, khi trong nhà có người
ốm hay có sự vụ xảy ra thì mọi người phải tương trợ giúp đỡ nhau cả về tinh thần
lẫn vật chất. Chính những yếu tố này đã tạo nên không khí gắn kết, làm nên một gia
đình người Hmông có nhiều thế hệ cùng chung sống, đó cũng là đặc tính căn bản
75
trong gia đình của người Hmông.
Quan hệ gia đình người Hmông hiện nay ít nhiều đã có sự thay đổi, những
quy định và kiêng kỵ khắt khe trong gia đình dần được xóa bỏ. Trước đây, trong gia
đình người Hmông, con dâu không được ngồi ăn chung với bố chồng, nhất là khi có
khách, nhưng bây giờ khi theo Tin lành, con dâu đã có thể ngồi ăn chung mâm với
bố chồng và khách
Trong quan hệ gia đình, người Hmông theo đạo Tin lành có những thay đổi
nhất định. Quan hệ ứng xử trong gia đình, các thứ bậc trên dưới vẫn được duy trì
theo truyền thống. Tuy nhiên, trong gia đình, người Hmông theo Tin lành, sự bình
đẳng giữa các thành viên được tôn trọng, giảm dần sự áp đặt. Đặc biệt, người
Hmông theo Tin lành có tính tự lập, được giáo dục và đề cao. Bởi theo họ, Kinh
thánh dạy mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa.
Có thể nói, mối quan hệ gia đình của người Hmông theo tín ngưỡng truyền
thống cũng đã có thay đổi so với gia đình truyền thống trước đây do tác động của sự
vận động phát triển của xã hội. Những chuyển biến, đổi thay trong mối quan hệ này,
trước tiên là việc giảm đi những điều cấm kỵ mang tính khắt khe trong mối quan hệ
giữa bố mẹ chồng và con dâu, giữa chị em dâu với anh em trai bên nhà chồng; tính
bền vững trong gia đình vẫn luôn được khẳng định. Điều này cho thấy rằng, không
chỉ khi theo Tin lành thì các mối quan hệ trong gia đình mới được cải biến. Còn đối
với cộng đồng người Hmông theo Tin lành, ở đây có hai trường hợp xảy ra: một là,
tất cả các thành viên trong gia đình đều theo Tin lành, hai là trong gia đình có người
theo và người không theo Tin lành. Mỗi một trường hợp thì sẽ dẫn đến các cách ứng
xử khác nhau giữa các thành viên, tạo nên bầu không khí khác nhau, ảnh hưởng đến
tâm lý và các mối quan hệ xung quanh.
Ở Lào Cai, gần như 100% tất cả các thành viên trong gia đình Hmông theo
Tin lành và chỉ có rất ít trường hợp bố mẹ không theo đạo Tin lành trong khi các
76
con theo đạo.
Bảng 3.2 : Số hộ có thành viên theo đạo Tin lành
1
Bảo Thắng
713 hộ
6 hộ
2
Bắc Hà
1150
16
3
Sa Pa
1187
11
STT Huyện Ghi chú Số hộ 100% thành viên theo Tin lành Số hộ có một vài thành viên theo Tin lành
(Nguồn: Ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2014)
Trường hợp thứ nhất, cả gia đình cùng theo Tin lành đã góp phần làm cho
các mối quan hệ trong gia đình mang tính hiện đại, văn minh hơn. Các thành viên
trong gia đình bình đẳng, tôn trọng tự do riêng của mỗi người, và đề cao vai trò tự
quyết của mỗi cá nhân. Kinh thánh đã quy định làm con phải tôn thờ cha mẹ như
tôn thờ đấng sáng thế, phải thảo kính với cha mẹ, phải vâng lời cha mẹ theo ý Chúa
[47, tr.1256], bởi vì cha mẹ chính là người thực hiện lệnh truyền sinh sản của Thiên
Chúa. Về phần cha me, Kinh thánh ghi rằng, cha mẹ phải có nghĩa vụ giáo dục con
cái cho đến khi luật Chúa khắc ghi trong tâm hồn nó [47]. Cha mẹ phải là tấm
gương cho con noi theo, kiên trì, lắng nghe, tha thứ và tôn trọng tự do của con,
không được ép duyên con.
Vai trò của người phụ nữ trong mối quan hệ gia đình được đề cao, có tiếng
nói trong nhiều vấn đề của gia đình. Trong mối quan hệ này cần phải nhắc đến sự
góp mặt của người thứ ba, đó là Thiên Chúa. Ngoài việc các thành viên có trách
nhiệm, tôn trọng các mối quan hệ thứ bậc trong gia đình thì họ sẽ dành một phần
tình cảm, một phần chia sẻ với Thiên Chúa. Và Chúa như là một người luôn theo sát
để điều chỉnh cách ứng xử của họ. Cũng có nhiều trương hợp, mỗi người khi muốn
quyết định việc của cá nhân mình như con cái, vợ hoặc chồng, thì không bàn bạc
với các thành viên khác trong gia đình mà tự ý quyết định, nhưng khi được hỏi đến
thì đều nói là đã thông qua Thiên Chúa. Vô hình chung, điều này sẽ làm ảnh hưởng
ít nhiều đến mối quan hệ gia đình, tuy nhiên ảnh hưởng không lớn, vì Tin lành luôn
77
tôn trọng dân chủ và tự do cá nhân, và đây cũng là yếu tố thu hút tín đồ của Tin
lành, cho nên người Hmông theo Tin lành đặt trong mối quan hệ gia đình cũng đã
có sự điều chỉnh.
Trường hợp thứ hai, trong gia đình có người theo và người không theo Tin
lành. Thông thường trong những gia đình này có thế hệ thứ hai là con trai và con
dâu theo Tin lành, còn thế hệ thứ nhất là người cha và mẹ không theo đạo. Ở trường
hợp này rất hay xảy ra mâu thuẫn trong gia đình, bất đồng quan điểm từ cách suy
nghĩ làm ăn, đối xử với vợ con, đến việc thực hiện các nghi thức liên quan đến chu
kỳ vòng đời. Tuy nhiên, trường hợp thứ hai này không nhiều, vì nếu vợ chồng
người con theo đạo mà cha mẹ không theo thì thường có xu hướng tách hộ. Xét đến
cùng, tư duy cũ vẫn còn in đậm trong tâm thức người Hmông, nhất là những người
già; hai trường hợp có sự khác biệt căn bản ở niềm tin tín ngưỡng, một bên tin vào
Ma, một bên tin vào Chúa; niềm tin khác nhau này lại đưa tới cách ứng xử trái
chiều nhau, khó có thể dung hòa trong một mái nhà. Một lý do nữa cho thấy
trường hợp thứ hai này ít xảy ra là do việc xuất phát từ sự cố kết bền chặt của
cộng đồng theo huyết thống hay đồng tộc, chỉ cần người chủ nhà tin và theo Tin
lành thì các thành viên khác trong gia đình cũng sẽ chuyển đổi theo niềm tin và
thực hiện nghi lễ.
3.2.3. Quan hệ dòng họ
Dòng họ của người Hmông có vai trò quan trọng tạo nên sự liên kết xã hội
và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Thông thường người Hmông có nhiều dòng họ,
mỗi dòng họ lại có các chi, nhánh khác nhau. Người Hmông ở Lào Cai có khoảng
30 họ. Cấu trúc dòng họ truyền thống của người Hmông ở Lào Cai có hai phạm vi
quan hệ: (1). Quan hệ dòng họ của các thế hệ cùng huyết thống: dòng họ này có cấu
trúc từ 3 đến 4 thế hệ, có chung một ông tổ cụ thể. Mức độ quan hệ giữa cá thành
viên trong dòng họ khăng khít, chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của các quy định trong
gia phả của dòng họ như cùng kiêng kỵ, nghi lễ cúng bái của dòng họ, thường cư trú
gần nhau. Đứng đầu dòng họ là vị trưởng tộc, là người có uy tín, có hiểu biết về
những vấn đề của dòng họ; thường thay mặt các thành viên đưa ra các quyết định
78
giải quyết các mối quan hệ xã hội. (2). Quan hệ dòng họ của các thế hệ có chung
một tên họ: Những người có chung một tên họ đều coi nhau là anh em cùng họ hàng
cho dù không chung một ông tổ, không cùng địa bàn cư trú; khi nhận ra nhau không
phân biệt chủ khách; các thành viên trong cùng một dòng họ tuy ở xa, nhưng tuyệt
đối không có quan hệ hôn nhân với nhau. Ở đây không có vị trí trưởng tộc hay
trưởng họ như dòng họ cùng huyết thống; nhưng vẫn duy trì nguyên tắc ứng xử đối
với các thành viên.
Bảng 3.3: Tên Họ của người Hmông ở Lào Cai
STT
Ý nghĩa của Họ
Họ
Tổng số Họ
1
Lấy tên con vật
06
2
Lấy tên màu sắc
03
3
Lấy tên cây
02
4
Lấy tên đồ vật
02
5
>10
Chưa xác định nội hàm
Sùng (gấu), Hầu (khỉ), Lồ (lừa), Má (ngựa), Giàng (dê), Lùng (rồng). Hoàng (màu vàng), Lù (màu xanh), Hùng (màu đỏ) Thào (cây đào), Lý (cây mận) Cư (cái trống), Thèn (cái thùng) Mùa, Châu, Phàn, Tẩn, Tráng, Hạ, Vàng (Vương), Lầu, Vừ, Và... (Nguồn: Tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014)
Khi theo đạo Tin lành, quan hệ giữa các thành viên của dòng họ cùng huyết
thống có những thay đổi rõ rệt.
Thứ nhất, vị trí vai trò của dòng họ giảm đi đáng kể, nhất là vai trò của ông
trưởng họ. Tầm ảnh hưởng và quyền lực của ông trưởng họ bị phai nhạt dần, không
còn chi phối đời sống cộng đồng dòng họ. Vị trí người trưởng họ được thay thế
bằng Chúa, và người Mục sư, trưởng nhóm. Những người theo đạo trong dòng họ
không nghe theo chỉ dẫn, yêu cầu của trưởng họ trong các cách thức tổ chức nghi lễ
truyền thống.
Thứ hai, sự phân hóa giữa người theo Tin lành và người không theo Tin
lành trong cùng một dòng họ rất lớn. Các thành viên trong cùng dòng họ có sự cố
kết chặt chẽ, có các quy tắc ứng xử giữa các thành viên; nhưng khi theo Tin lành sẽ
79
dẫn đến phá vỡ các quy tắc ứng xử, gây nên các mâu thuẫn với các thành viên khác
trong dòng họ. Những người theo Tin lành sẽ bị tách ra khỏi dòng họ vì họ không
còn tuân theo những chuẩn mực đạo đức, ứng xử của dòng họ; họ phai nhạt dần ý
thức về nguồn gốc, tổ tiên, lịch sử dòng họ, phong tục tín ngưỡng dòng họ; và đứng
ngoài các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng truyền thống của dòng họ.
3.2.4. Mối quan hệ xã hội của cộng đồng người Hmông theo Tin lành
Như trên đã nói, quan hệ cộng đồng xã hội của người Hmông bắt nguồn từ
lịch sử của cộng đồng nên họ có sự cố kết gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong dòng họ
có sự cố kết rất chặt chẽ; trong gia đình có sự cấu kết gắn bó chặt chẽ của gia đình;
trong cộng đồng có sự cấu kết chặt chẽ của cộng đồng xã hội. Họ gắn bó chặt chẽ
với tính cộng đồng cao được thể hiện trong phong tục, truyền thống trong sinh hoạt
cộng đồng và trong cuộc sống hàng ngày, họ gắn bó giúp đỡ nhau như trách nhiệm
của bản thân.
Việc theo đạo Tin lành cũng giúp tạo ra mối quan hệ cố kết và sự giúp đỡ
lẫn nhau cả về vật chất và tinh thần rộng hơn của dòng họ. Từ đây hình thành nên
một cộng đồng mới, đó là cộng đồng người Hmông cùng theo Chúa, theo Tin lành.
Cộng đồng này liên kết với nhau vượt ra khỏi dòng họ, thôn bản; dần tạo nên một
cố kết cộng đồng mới mà sức mạnh đoàn kết không thua kém gì so với sự cố kết
dòng họ truyền thống của người Hmông.
Đặc biệt, với những người Hmông di cư tự do đã sử dụng Tin lành như một
phương tiện để gắn kết lại với nhau và trợ giúp lẫn nhau khi mà sự giúp đỡ của
người cùng họ, cùng ma không thể phát huy tác dụng. Họ giúp đỡ nhau trong sản
xuất, chia sẻ khó khăn, động viên hỗ trợ về cả vật chất và tinh thần.
Các tín đồ Tin lành người Hmông thường nói “đạo” quan trọng hơn “họ”.
Bởi vì, nếu theo quan hệ dòng họ thì chỉ có những người cùng họ, cùng ma mới có
thể giúp đỡ nhau hết mình và có thể chết trong nhà của nhau. Nhưng nếu theo
“đạo”, tất cả người Hmông bất kể thuộc họ nào đều là anh em, đều phải có trách
nhiệm quan tâm giúp đỡ nhau và đều có thể chết trong nhà của nhau. Những người
theo đạo ở thôn bản đều có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau, nhất là vào những dịp đặc
80
biệt như làm nhà mới, cưới xin, ma chay,… Ngoài ra, trong những trường hợp gặp
phải rủi ro như bị cháy nhà, bị tai nạn,… thì người theo đạo Tin lành bị nạn cũng
Tôn giáo tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong việc
tạo nên sự gắn bó của cộng đồng. Việc cùng chung đức tin và
nhất là cùng trong một thiết chế, tổ chức tôn giáo càng khiến con
người có cơ sở gắn bó [101, tr. 191].
Hỡi các con bé mọn, anh chị em đừng yêu thương nhau
bằng lời nói xuông, bằng miệng lưỡi bên ngoài, nhưng phải
thương yêu một cách thành thực và bằng việc làm [47, tr. 2274-
2275 ].
nhận được sự giúp đỡ của các tín đồ ở các thôn bản lân cận.
Mục sư Chang A Cang (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội
Hội thánh Linh hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn): Đối với
đám tang của một tín hữu Tin lành trong địa bàn, những người theo đạo cùng trong Hội
thánh tất cả phải đóng góp: góp 100.000 đ/ hộ, 5 kg gạo, củi. Khoảng 100 hộ, tổng cộng
là 10 triệu, giúp đỡ cho đám tang. Ngoài ra, trưởng nhóm có thư gứi các Hội thánh khác
để mời đến chia buồn, mỗi hộ đóng 10.000đ. Sau khi chi phí giúp cho lễ tang nếu còn
thừa thì đưa lại gia đình. Tất cả thu chi đều có thủ quỹ ghi chép rõ ràng.
Người chủ tọa làm lễ thì không lấy tiền, được coi là nghĩa vụ, công việc của
mình, lấy phục vụ là chính.
Giàng Thị Mú, thôn Xín Chải, Bảo Thắng: Theo Tin lành còn có quỹ hỗ trợ cho
người nghèo. Quỹ của Hội thánh nguồn thu từ việc dâng hiến. Sau khi đi sinh hoạt tôn
giáo xong sẽ góp 1 phần nhỏ, có thể 5.000đ, 10.000đ, tùy theo. Với ý nghĩa dâng thì được
phước, giúp đỡ cho người khó khăn thì Chúa và người ta giúp đỡ lại.
Hộp 5:
Tuy đã hình thành nên một cộng đồng tôn giáo riêng, nhưng họ vẫn giữ mối
quan hệ với cồng đồng người Hmông truyền thống. Thời kỳ đầu khi mới theo Tin
lành thì mâu thuẫn trong làng bản, dòng họ đã xảy ra. Nhưng theo tiến trình phát
triển, đặc biệt là khi Tin lành được công nhận để hoạt động đúng pháp luật thì sự
mâu thuẫn cũng dần được xóa nhòa. Theo quy luật tiếp biến văn hóa, văn hóa
81
Hmông truyền thống dần có sự thích ứng, tiếp nhận những yếu tố mới, trong đó có
văn hóa Tin lành. Có lẽ vì thế mà sự cẳng thẳng lúc đầu đã được gỡ bỏ. Trong các
cuộc trao đổi của tác giả luận án với cán bộ cơ sở, cũng như bản thân người Hmông
theo hay không theo Tin lành, họ đều cho rằng mâu thuẫn trong đời sống không còn
nặng nề như trước kia, mà thay vào đó là sự hòa hợp hơn.
Mã A Chớ, 50 tuổi, theo Tin lành năm 2008, xã Sa Pả, huyện SaPa, hiện là Chủ
tịch Hội đồng nhân dân xã: Trong các công việc như đám cưới, đám ma người theo hay
không theo Tin lành vẫn đến dự, và giúp đỡ làm nhà , đổi công lẫn nhau, theo đúng tinh
thần làng bản, không có sự phân biệt đối xử.
Hộp 6:
Trên thực tế, sâu xa trong bản chất thì sự tiếp thu ảnh hưởng của đạo Tin
lành hay sự cải đạo theo Tin lành đã dẫn tới sự phân chia người Hmông trong cùng
một chi họ, ngành họ và dòng họ thành hai nhóm khác biệt nhau: nhóm theo Tin
lành và nhóm vẫn giữ tín ngưỡng truyền thống. Những người Hmông theo Tin lành
thường ít giao tiếp với những người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống. Họ cũng
ít tham dự, nhất là tham dự ăn uống, các nghi lễ tổ chức theo tín ngưỡng truyền
thống. Mức độ quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau cả về vật chất và tinh thần giữa những
người theo và không theo Tin lành trong cùng dòng họ, nhất là vào các dịp đặc biệt
như hiếu hỉ cũng trở nên ít hơn so với người cùng tín ngưỡng. Đặc biệt, cũng có
không ít trường hợp mối quan hệ thân tộc của những người theo và không theo Tin
lành trở nên lỏng lẻo bởi những người theo Tin lành chỉ còn nhận ra mình có mối
quan hệ họ hàng với những người khác thông qua tên họ mà thôi.
Trong nội bộ cộng đồng Hmông, sự thay đổi theo Tin lành đã dẫn tới sự
phân chia và sự đối lập giữa nhóm những người Hmông theo tín ngưỡng truyền
thống và nhóm những người Hmông theo Tin lành. Cụ thể, trong một bản khi số
lượng người Hmông theo Tin lành còn ít thì họ thường bị những người đồng tộc
theo tín ngưỡng truyền thống tố cáo với chính quyền địa phương, cô lập và phân
biệt đối xử. Vì vậy, trong số họ đã có nhiều người, nhiều gia đình buộc phải rời bỏ
82
quê hương di cư tới những nơi có đông người đồng tộc, họ hàng theo Tin lành để
sinh sống. Ngược lại, khi số lượng người Hmông thay đổi theo Tin lành ở một thôn
bản trở nên áp đảo thì số lượng người Hmông còn giữ tín ngưỡng truyền thống trở
thành thiểu số và họ lại bị tẩy chay và cô lập. Kết quả là họ cũng buộc phải di cư đi
những nơi khác.
3.2.5 Vai trò của người phụ nữ Hmông
Gia đình của người Hmông truyền thống là gia đình nhỏ theo chế độ phụ
quyền, người đàn ông được quý trọng. Trong gia đình người Hmông, quyền hành
tập trung ở người chồng, người cha. Vợ phải phục tùng chồng, con cái phải phục
tùng cha. Người cha quyết định việc chi tiêu, mua bán, điều hành công việc hàng
ngày, cho đến các việc hệ trọng như tang ma, cưới xin, làm nhà. Người phụ nữ
Hmông luôn bận rộn lo toan mọi việc, nhưng công sức bỏ ra lại không được trân
trọng mà chỉ được coi là nghĩa vụ thực hiện.
Sự tiếp nhận đạo Tin lành cũng gây ra sự biến đổi trong mối quan hệ
giới. Cụ thể, khi theo Tin lành thì đàn ông phải bỏ rượu, bỏ thuốc lá, không được
đánh chửi vợ con, phải để cho vợ con nghỉ ngơi đi cầu nguyện tập trung vào
ngày Chủ nhật,…
Trong các gia đình theo đạo Tin lành, địa vị của người phụ nữ được đề cao
sánh ngang với người đàn ông. Họ không phải làm quần quật mà không được hưởng
thụ, không phải lo toan mọi việc, nhất là không phải lo thu vén để trả các món nợ do
chi phí quá lớn trong các cuộc tế lễ hay làm ma khô cho bố mẹ.
Theo đạo Tin lành, người phụ nữ Hmông được khẳng định vị trí của mình
trong xã hội, được tham gia quyết định các công việc của cộng đồng – điều mà
trước đây họ ít được tham dự. Người phụ nữ có cơ hội để giao tiếp, thể hiện mình
trước cộng đồng, từ đó người phụ nữ có cơ hội để thể hiện vẻ đẹp, sự duyên dáng
của mình. Họ cũng chăm chú hơn trong cách ứng xử và càng chăm chỉ, khéo léo
trong chức năng phụ nữ. Mặc dù vậy, người phụ nữ Hmông vẫn luôn thể hiện sự
khiêm nhường, kính trọng người đàn ông và các thành viên khác trong gia đình bởi
đó cũng là một phần bản sắc của người phụ nữ Hmông.
Nói tóm lại, người phụ nữ được giải phóng trong gia đình và xã hội của
83
người Hmông truyền thống, nhất là giải phóng các hủ tục đè nặng lên vai họ. Chính
điều này mà người phụ nữ Hmông “mê” đạo Tin lành, đến với đạo Tin lành sớm
hơn và đông hơn so với đàn ông.
Bảng 3.4: Số lượng phụ nữ/đàn ông Hmông theo Tin Lành ở 9 huyện
của Lào Cai (năm 2012)
STT Huyện
Hộ
Khẩu
Nam
Nữ
Ghi
chú
1
Bảo Yên
642
3834
2015
1819
2
Bắc Hà
1050
5959
2931
3028
3
Bát Xát
775
3953
1944
2009
4
Văn Bàn
103
619
291
328
5
Sa Pa
1053
5506
2692
2814
6
Bảo Thắng
700
3620
1729
1891
7
TP.Lào Cai
13
73
36
37
8
10
62
23
39
Mường Khương
9
SiMaCai
7
29
16
13
Tổng số
4353
11677
11978
23655
(Nguồn Ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2012)
Tỷ lệ nam và nữ người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai gần tương đương
nhau, nhưng tỷ lệ nam và nữ tham dự các lớp tập huấn về pháp luật thì nữ chỉ chiếm
4,16%; con số này cho thấy, mặc dù cũng có phụ nữ người Hmông theo đạo, nhưng
được tham gia tìm hiểu luật pháp tôn giáo, nâng cao trình độ vẫn ở mức độ thấp.
Tuy nhiên, điều này cũng là sự khẳng định địa vị của phụ nữ Hmông, tỷ lệ này trong
tương lai sẽ được cải thiện theo chiều hướng tăng lên. Lý do là, khi phỏng vấn
những người phụ nữ Hmông theo Tin lành, họ không ngần ngại chia sẻ rằng sẽ phấn
đấu học tập để trở thành Trưởng nhóm Tin lành, thậm chí làm cả Mục sư. Nhưng
thực tế tại Lào Cai hiện nay chưa có một Trưởng nhóm hay Mục sư nào là nữ; hiện
nay ở Lào Cai có một Mục sư (mục sư tự phong) là người Hmông theo hệ phái Tin
lành Việt Nam Miền Bắc và Liên hữu Cơ đốc không được công nhận. Chỉ có 01 tín
84
đồ thuộc hệ phái TLVNMB cử đi đào tạo mục sư (chưa học xong).
Bảng 3.5: Số lượng người Hmông tham dự lớp tập huấn Sinh hoạt đạo
Tin lành theo pháp luật ở Lào Cai (tháng 3/2013)
Nam Tổng Nữ
115 người 120 người 5 người
95,84 % 100% 4,16%
(Nguồn tài liệu điền dã của tác giả)
Biểu đồ 3.2. : Tỷ lệ nam/nữ người Hmông tham dự lớp tập
huấn sinh hoạt đạo Tin lành theoi pháp luật ở Lào Cai
tháng 3/2013
Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ Hmông theo Tin lành làm công tác xã hội như
Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ,… cũng không nhỏ và tham gia tích cực, đóng góp
tiếng nói của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Bảng 3.6 :Số lượng phụ nữ Hmông tham gia tổ chức xã hội
STT
Huyện
Ghi chú
Số phụ nữ Hmông tham gia tổ chức xã hội
Số phụ nữ Hmông theo Tin lành tham gia tổ chức xã hội
1 Bảo Thắng
2048
1344
đạt 65,6%
2 Bát Xát
3135
2018
đạt 64,41%
3 Bắc Hà
2933
1936
đạt 66%
(Nguồn: Ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2012)
85
Việc bình đẳng giới cũng như việc động viên người phụ nữ tham gia vào
công tác xã hội dù là theo đạo hay vẫn giữ văn hóa truyền thống cũng dễ vấp phải
những vấn đề tương tự nhau: xuất phát từ lý do sức khỏe, công việc gia đình, điều
kiện kinh tế,… và đại đa số trong sâu thẳm tư duy của cộng đồng và mỗi người
Hmông về vị trí, vai trò của phụ nữ Hmông là ở nhà, phục vụ chồng con. Tư tưởng
này vẫn ít nhiều chi phối trong những người Hmông theo Tin lành. Đó chính là
những rào cản đối với phụ nữ Hmông theo Tin lành và không theo đạo.
Chính vì vậy, để giảm dần sự bất bình đẳng giới, tăng cường vai trò của phụ
nữ Hmông cần được thực hiện chủ động, từng bước mới đạt được hiệu quả.
3.2.6. Vai trò của người có uy tín
Trong xã hội của người Hmông, có những người giữ vai trò quan trọng đó
là những người có uy tín trong cộng đồng như trưởng họ, người cầm quyền ma,
quyền khách, bà cô, thầy ma, ông cậu.
Về trưởng họ, trong dòng họ của người Hmông có một người giữ vai trò
chủ đạo, đó là trưởng họ (hâuxx pâuz-cái gốc). Vai trò của người trưởng họ rất lớn.
Trưởng họ là người am hiểu sâu sắc phong tục tập quán của người Hmông, đặc biệt
là tập tục lễ nghi của dòng họ mình. Ông ta là người thay mặt cả dòng họ đứng ra
giải quyết mọi tranh chấp trong nội bộ dòng họ và với người thuộc dòng họ khác và
thường chủ trì mọi nghi lễ cúng tế, ma chay, cưới hỏi của những người trong dòng
họ. Bên cạnh trưởng họ, ý kiến của người già cũng có sức nặng. Người già và
trưởng họ tạo thành một trụ cột vững chắc liên kết các thành viên khác trong
dòng họ.
Vai trò của người trưởng họ trong những sự kiện của đời người, gia đình
như cưới xin, tang ma,… rất quan trọng. Trưởng họ là trung tâm đoàn kết, là cầu
nối giữa các thành viên trong dòng họ với nhau và với dòng họ khác trong cộng
đồng người Hmông.
Khi nhà có việc cưới xin thì người chủ gia đình nhất thiết phải hỏi ý kiến
trưởng họ. Mọi thủ tục, lễ nghi, lễ vật,... từ khi ông mối đến nhà gái nói chuyện tới
86
việc dạm ngõ, ăn hỏi, cưới xin,... trưởng họ đều có trách nhiệm quán xuyến, lo toan.
Việc làm nhà cũng vậy, gia chủ nói dự định của mình với trưởng họ, trưởng
họ tới nhà xem xét, kiểm tra sự chuẩn bị nguyên vật liệu và chỉ bảo cách thức làm
nhà theo đúng truyền thống của người Hmông. Nếu thiếu nguyên vật liệu thì trưởng
họ vận động người trong dòng họ đóng góp. Việc làm nhà cần nhiều người giúp như
dựng nhà, lợp mái... lúc đó trưởng họ sẽ tới nhà trưởng bản và trưởng các dòng họ
khác nhờ giúp đỡ. Ở các bản Hmông thường có cảnh “một người làm nhà cả bản
đến giúp”.
Ngày nay, trong điều kiện mới, trưởng họ còn là người đóng vai trò tích cực
trong việc giúp đỡ các thành viên dòng họ tìm hướng phát triển mới phù hợp với
kinh tế thị trường, giúp nâng cao đời sống của cả dòng họ và bảo vệ nguồn tài
nguyên cộng đồng một cách bền vững.
Người cầm quyền ma, quyền khách (Cho đaz khuô): là người rất am hiểu
các nghi lễ, cách thức làm ma của dòng họ và trực tiếp phụ trách những phần việc
liên quan đến tín ngưỡng của dòng họ mình. Người này còn được coi như một cố
vấn của trưởng họ trong việc quyết định những hoạt động liên quan đến đối ngoại.
Đây là người đảm nhận chức năng hoạt động tín ngưỡng của dòng họ.
Bà cô cũng là người có tiếng nói quan trọng trong nhiều mặt đời sống của
dòng họ. Một người phụ nữ có thể được bầu hoặc suy tôn làm bà cô dòng họ phải có
những tiêu chuẩn như: có gia đình, con và cháu; cần cù lao động, gương mẫu trong
sinh hoạt; có trách nhiệm chăm lo, giúp đỡ mọi người; am hiểu phong tục tập quán
và những quy định của dòng họ. Mặc dù khi đi lấy chồng, Bà cô trở thành người
nhà chồng và thuộc ma nhà chồng, song vẫn có trách nhiệm đối với con cháu của
anh, em trai mình. Bà cô còn là nhân vật có trách nhiệm giám sát các thành viên
trong dòng họ thực hiện các quy định của luật tục.
Thầy ma (Txikayđa) là người chuyên đảm trách các công việc liên quan đến
cúng ma, kể cả ma nhà, ma người chết. Những người này gắn bó với công việc
dòng họ của mình và không đi làm cho những dòng họ khác. Mỗi họ tộc có một
87
hoặc vài thầy ma chuyên phục vụ cúng bái của dòng họ.
Ông cậu (Tsi đangz) trách nhiệm về cơ bản là giống với vai trò của bà cô.
Trong việc hôn nhân, vai trò hay quyền quyết định của ông cậu không bằng bà cô.
Ngược lại, trong ma chay, uy tín của ông cậu thường lớn hơn. Ông cậu cho ý kiến
quyết định về các vấn đề trong việc tang ma như thời gian để người chết trong nhà
là bao lâu, số lượng trâu, bò, lợn dùng trong đám ma, phân công nhiệm vụ cho các
thành viên dòng họ trong đám ma.
Như vậy, trong xã hội người Hmông, vai trò của những người có uy tín là
rất quan trọng, nó không chỉ đảm bảo chức năng quản lý mà còn là chất keo tạo nên
sự cố kết của những người cùng huyết thống.
Sự du nhập của Tin lành gây ra những xung đột giữa các thế hệ, cụ thể là
giữa thế hệ trẻ và thế hệ già. Những xung đột này thể hiện qua nghi lễ mà người
Hmông gọi là “pe tsiab”. Cụ thể, theo phong tục của người Hmông, vào ngày đầu
Năm mới hay vào ngày Tết cổ truyền của người Hmông, những người trẻ phải đi
thăm và cúi lạy những người già trong thôn bản. Nhưng sau khi theo Tin lành,
những người trẻ không cúi lạy bất cứ ai ngoài Chúa.
Với sự du nhập của đạo Tin lành, vai trò của già làng, trưởng bản bị giảm
sút, thậm chí mất đi, nhường chỗ cho “một tầng lớp mới” – người đứng đầu các
điểm nhóm Tin lành theo bản, hoặc là Mục sư, Truyền đạo; những người tích cực
truyền đạo, mà tuổi đời hầu hết là thanh niên, trung niên và tầng lớp thanh niên chịu
ảnh hưởng của Tin lành. Những người này đã coi nhẹ ý thức tiếp nhận thuần phong
mỹ tục truyền thống mà cha ông muốn truyền lại. Lớp người cao tuổi, già làng,
trưởng bản, trưởng họ không thể bảo ban, lưu truyền lại những giá trị văn hoá dân tộc
cho thế hệ sau, dẫn đến hậu quả là nền văn hoá truyền thống của dân tộc Hmông có
nguy cơ bị mai một nhanh, dòng chảy văn hoá dân tộc có thể bị đứt đoạn, đổi hướng.
3.3. Văn hóa tâm linh và tôn giáo của người Hmông theo Tin lành
3.3.1. Tín ngưỡng truyền thống trong đời sống người Hmông ở Lào Cai
Tín ngưỡng, tôn giáo là đời sống tâm linh, là niềm tin của con người vào thế
giới siêu nhiên (phi tự nhiên). Trên thực tế có nhiều loại hình tìn ngưỡng, tôn giáo
88
của các dân tộ, các vùng địa lý, văn hóa khác nhau. Do đặc điểm lịch sử, văn hóa và
tộc người, người Hmông sinh sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở Lào
Cai nói riêng đều có đời sống tín ngưỡng rất phong phú với nhiều loại hình thờ cúng
của tín ngưỡng đa thần mang tính nguyên thủy, đã được hình thành và lưu giữ từ rất
lâu. Tâm linh và tín ngưỡng truyền thống của người Hmông bao gồm những quan
niệm về vũ trụ, quan niệm về linh hồn, quan niệm về các loại ma, các hình thức thờ
cúng và các nghi lễ nông nghiệp [44].
Có thể phân loại các dạng thức trong tín ngưỡng truyền thống của người
Hmông ở Lào Cai như sau:
Bảng 3.7: Các dạng thức trong tín ngưỡng truyền thống của
Tín ngưỡng
truyền
Hệ thống ma nhà
Lễ thức dân gian
Vật linh giáo
Saman giáo
Thờ cúng tổ tiên
thống
Tô tem giáo
Ma nhà – Xưv cangz
Chu kỳ đời người
Lễ ăn ước – Nào xồng
Thần cộng đồng làng
Lễ hội Gầu Tào
Ma cột chính
Sinh đẻ
Ma cửa
Cưới xin
Ma buồng
Tang ma
Ma bếp lò
người Hmông
Các nghi lễ tín ngưỡng của người Hmông có liên quan đến sản xuất không
nhiều so với những tín ngưỡng liên quan đến sức khỏe, chữa bệnh và sinh hoạt.
Trong sản xuất chỉ cần cúng khi gieo hạt, thu hoạch; còn hầu như không có một
nghi lễ theo chu kỳ sản xuất, khi cúng cũng đơn giản, một mâm cơm, con gà. Hình
ảnh các vị thần nông nghiệp ít xuất hiện, lý do sản xuất của người Hmông chủ yếu
theo gia đình, ít liên quan đến tập thể, điều kiện tự nhiên ít phải chống chọi bão lụt,
thiên tai, do đó các nghi lễ liên quan đến sản xuất ít được hình thành và phát triển.
89
Ngược lại, do điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đời sống khó khăn, bệnh tật nhiều,
thiếu thuốc chữa bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe nên các nghi lễ liên quan đến chữa
bệnh, liên quan đến sinh hoạt hàng ngày lại phát triển mạnh.
Tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của người Hmông là đa thần. Người
Hmông thờ nhiều thần linh nhưng không lập một đền thờ nào. Nguyên nhân là họ
theo đa thần giáo, xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh; mặt khác theo quan
niệm của người Hmông, các thần đều bình đẳng, nên thần linh đã có mặt ở khắp
nơi, không thể lập đền thờ thần này mà không thờ thần khác. Cùng với đó là tập
quán du canh, du cư, sinh sống không ổn định, nên cách thờ cúng của họ cũng
đơn giản.
Bởi các quan niệm trên mà dân tộc Hmông dù ở đâu cũng luôn luôn tôn
trọng và thực hiện nghiêm ngặt các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, các vị thần trong nhà:
không được ăn cỗ trước khi báo cáo với tổ tiên một sự việc nào đó như ăn tết, cưới
sinh, bữa cơm đầu tiên của vụ thu hoạch hoạch (lễ mừng cơm mới), lễ đặt tên cho
trẻ sơ sinh,... Tất cả các nghi lễ đó, trước tiên chủ nhà phải đặt mâm cúng, khấn bái
gọi tổ tiên, điểm tên từng người đã khuất (ít nhất trong vòng ba đời trước đó) về để
hưởng lộc, sau đó chủ nhà và những người khác mới được ăn. Điều này vừa thể
hiện lòng biết ơn, kính trọng tổ tiên, đồng thời mong muốn không làm phật ý các
thần thánh để họ luôn che chở giúp người trần thế chống lại các thế lực "ma dữ",
bảo vệ cuộc sống bình yên của gia đình, dòng họ,... Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là
một biểu hiện của bản sắc văn hóa về với cội nguồn, tỏ lòng kính trọng và biết ơn
đối với tổ tiên, luôn coi tổ tiên là người chứng giám tối cao, là nguồn sức mạnh cho
sự trường tồn, phát triển của con cháu.
Những nét đặc trưng riêng có trong lễ nghi thờ cúng tổ tiên, ma chay là yếu
tố rất quan trọng nhằm liên kết, ràng buộc các thành viên của dòng họ, đồng thời là
đặc điểm để phân biệt các nhánh của dòng họ hay dòng họ này với dòng họ khác
Tín ngưỡng dòng họ cũng có vai trò cố kết nhất định, thậm chí còn
là hạt nhân quan trọng trong tín ngưỡng cộng đồng... Tín ngưỡng
dòng họ của người Hmông như là cơ sở để các thành viên cùng
dòng tộc nhận biết và gắn bó với nhau, có trách nhiệm giúp đỡ và
bảo vệ nhau. [101, tr.192].
90
của người Hmông.
Ngày nay, việc thờ cúng tổ tiên dưới góc độ văn hóa, đạo lý vẫn còn ý nghĩa
duy trì, gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc Hmông, củng cố ý
thức cộng đồng. Tuy nhiên, ở các nghi lễ của người Hmông truyền thống có thể
thấy nhiều thủ tục rườm rà, thậm chí tốn kém, nhiều bài cúng khó, nhiều nghi lễ còn
mang nặng tính hủ tục không còn phù hợp với nếp sống mới, trong đó đáng kể nhất
là sự rườm rà đến tốn kém về sức lực, thì giờ và tiền của. Dưới tác động của nhiều
yếu tố, từ yếu tố nội sinh như tâm lý tộc người, sự mất dần uy tín của tín ngưỡng
truyền thống đến yếu tố khách quan như toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học,
tiếp xúc các luồng tư tưởng mới, trong đó có Tin Lành thì tín ngưỡng truyền thống
của người Hmông đã có sự chuyển biến, thay đổi nhất định.
3.3.2. Sự biến đổi tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông theo Tin lành ở
tỉnh Lào Cai
Cải đạo (conversion) là thuật ngữ dùng để biểu thị quá trình thay đổi căn
bản niềm tin tôn giáo của một người (Southard, 1992:9). Cải đạo là một hình thức
thay đổi cao nhất của đời người trong đó người ta từ bỏ truyền thống tôn giáo chính
của mình để chuyển sang một đức tin khác. Đó là sự thay đổi cả thế giới quan chứ
không đơn giản chỉ là định hướng cá nhân.
Việc chuyển sang đạo Tin lành của người Hmông ở Lào Cai vừa có thể hiểu
là Biến đổi tín ngưỡng tôn giáo hay thay đổi tín ngưỡng. Giữa biến đổi và thay đổi
có sự phân biệt về mức độ, một bên là sự chuyển dần dần, trong cái mới ta vẫn nhận
thấy bóng dáng của cái cũ - đó là biến đổi; còn việc cái cũ bị thay thế hoàn toàn trở
thành một cái mới - đó là thay đổi. Do vậy, trong việc nghiên cứu về văn hóa tín
ngưỡng việc sử dụng cố định thuật ngữ biến đổi hay thay đổi cần có sự linh hoạt tùy
vào mỗi thành tố. Với các nghi lễ cầu cúng trong đám cưới, đám ma, nhà mới,…
những gì liên quan đến tín ngưỡng thì sự thay đổi là rõ ràng. Đối với các thiết chế
xã hội truyền thống thì là biến đổi dần dần, ở đó vẫn có thể nhìn thấy những điểm
chung của văn hóa truyền thống với văn hóa Tin lành, khi cả hai luôn hướng con
91
người tới những giá trị tốt đẹp, cuộc sống hài hòa.
Những biến chuyển trong tôn giáo, tín ngưỡng của người Hmông theo
Tin lành:
Thứ nhất, chuyển từ thờ đa thần sang thờ nhất thần
Một đặc điểm chung nhất của các tôn giáo hiện đại giúp phân biệt rõ nhất
với tôn giáo nguyên thủy - tín ngưỡng dân gian chính là thờ nhất thần, mà tôn giáo
hiện đại còn được gọi là tôn giáo độc thần. Đây chính là điểm nhận thấy đầu tiên
trong sự biển đổi tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông từ việc tin, việc thờ nhiều
Ma đến việc chỉ tin, chỉ thờ một con Ma là Chúa - Giê su.
Khi những thành tố văn hóa là tín ngưỡng truyền thống, thì theo Tin lành
những thành tố đó đã thay đổi, tức là những dấu vết của các hình thức tín ngưỡng
truyền thống không còn. Từ đây hình thành nên một tiểu văn hóa (subcultures)4 đó
là văn hóa Hmông Tin Lành. Văn hóa Hmông theo Tin lành có sự đối lập với văn
hóa Hmông truyền thống, vì một bên là có niềm tin vào Chúa, một bên là niềm tin
vào Ma. Với việc đặt niềm tin vào Chúa hay Ma, sẽ tác động đến cách thực hành
nghi lễ, cách thức ứng xử khác nhau. Nếu miền tin vào Chúa sẽ thực hành nghi lễ
thờ phượng Chúa theo cách riêng, khác với việc cúng ma theo tín ngưỡng truyền
thống, mà điều này liên quan đến bản sắc văn hóa của tộc người Hmông được hình
thành và lưu giữ từ nhiều đời nay.
Theo văn hóa tâm linh truyền thống của người Hmông, quan niệm về vũ trụ
có hai thế giới cùng tồn tại là thế giới trên trời và thế giới trên mặt đất; bầu trời và
mặt đất là do bà Chầy và ông Chầy sinh ra và người Hmông sinh ra từ lòng đất. Khi
thay đổi sang đạo Tin lành, quan niệm về vũ trụ và nguồn gốc tộc người của người
Hmông đã khác hoàn toàn; dựa trên thế giới quan và nhân sinh quan của tôn giáo -
đạo Tin lành.
Quan niệm về linh hồn: đối với tâm linh truyền thống thì linh hồn có mối
liên hệ mật thiết với ông bà tổ tiên, điều đó chi phối đến nghi thức thờ cúng với
4 Nguyễn Văn Chính, Báo cáo tại Viện Dân tộc học, ngày 04/11/2013
92
những yếu tố văn hóa đặc sắc của người Hmông. Trong hệ thống tín ngưỡng truyền
thống của người Hmông, thờ cúng tổ tiên là hình thức cơ bản nhất. Thờ cúng tổ tiên
thể hiện trong quan niệm, nghi lễ, câu chuyện xung quanh tổ tiên dòng họ. Bên cạnh
đó, các thành viên trong gia đình, dòng họ gắn bó với nhau không những cùng tổ
tiên mà còn vì những quy định và nghi lễ thờ cúng đó. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên,
người Hmông còn thờ thần bản mệnh cộng đồng, dòng họ. Những nghi lễ liên quan
đến chu kỳ đời người cũng là những yếu tố mang đậm tín ngưỡng truyền thống. Tất
cả các nghi lễ này vừa là động lực tinh thần, vừa là chất keo cố kết mọi thành viên
trong gia đình, dòng họ và cộng đồng.
Khi theo Tin lành, quan niệm về linh hồn đã khác, linh hồn khi chết đi là về
với Chúa, được Chúa che chở, chính vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên đã bị xóa bỏ, thay
vào đó là việc cầu nguyện theo nghi thức tôn giáo. Cũng như vậy, quan niệm về các
loại ma và các hình thức cúng ma của người Hmông theo Tin lành đã không còn; tất
cả chỉ tập trung vào Chúa, chỉ có Chúa hiện diện trong tâm linh và niềm tin tôn
giáo mới; Chúa đã chiếm một vị trí độc tôn với quyền năng vô hạn đối với niềm
tin của họ.
Với người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, trong sinh hoạt tôn giáo, ngoài
những buổi đọc Kinh thánh và cầu nguyện tập thể (xem thêm mục 2.2.), người
Hmông còn cầu nguyện cả trong sinh hoạt hàng ngày như trước khi ăn cơm, trước
khi làm việc gì, khi gặp rủi ro trong cong việc,... Như vậy, mối liên hệ với Chúa
được duy trì ít nhất 3 lần trong một ngày (cầu nguyện trước bữa ăn), và diễn ra đều
đặn hàng ngày, dần thấm sâu vào trong tâm thức người Hmông. Và trong đời sống
tâm linh, hình ảnh Chúa gần gũi, thân thiện, mà vẫn mang tính chất siêu nhiên.
Niềm tin tôn giáo của người Hmông đối với đạo Tin lành còn được thể hiện
thông qua hệ thống giáo lý đơn giản, khuyên răn con người sống lương thiện và
được hiện thực hóa thông qua các bài kinh.
Nếu các nghi lễ thờ cúng trong tín ngưỡng truyền thống rất rườm rà, rắc rối,
tốn kém, nặng nề thì các nghi thức thờ cúng của đạo Tin lành được giảm lược, thậm
chí không phải tổ chức cúng bái linh đình. Theo kết quả khảo sát thực tế tại Lào
93
Cai, 100% các hộ theo Tin lành không có bàn thờ tổ tiên.
Bảng 3.8: Thay đổi trong tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông theo đạo
Tin lành
Tín ngưỡng truyền thống Tin vào Ma Thờ cúng Tổ tiên, các Ma, các
Đạo Tin lành Tin vào Chúa Thờ Chúa
Thần
Có bàn thờ Tổ tiên Tổ chức các ngày cúng giỗ, làm
Không có bàn thờ Tổ tiên Không làm cúng giỗ, không
1 2
ma khô
làm ma
3 4
Nghi thức thờ cúng cầu kỳ, rườm rà, không thống nhất, tùy theo các họ
Nghi thức thờ cúng đơn giản – cầu nguyện, có tính thống nhất theo quy định của tôn giáo
Vai trò của thầy cúng Saman
5
Vai trò của Chúa, Kinh thánh (có thể có sự hướng dẫn của Mục sư hay trưởng nhóm)
6
(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm2014)
Như vậy, khi theo đạo Tin lành đã làm thay đổi từ tín ngưỡng vật linh giáo,
đa thần nguyên thủy sang tôn giáo nhất thần, kéo theo đó là sự chuyển đổi từ chỗ
thực hành đức tin không thường xuyên, không có quy tắc sang thực hành thường
xuyên, có quy tắc. Các nghi thức trong sinh hoạt tâm linh cũng biến đổi sang nghi lễ
tôn giáo, với đặc trưng của đạo Tin lành là lấy tín đồ làm trọng. Các nghi lễ liên
quan tới chu kỳ đời người đểu cắt bỏ, hoặc được tổ chức đơn giản bằng việc cầu
nguyện với sự chứng giám của Chúa và có sự giúp đỡ của Mục sư hay Trưởng
nhóm. Người theo đạo Tin lành không lập bàn thờ, không thực hiện các ngày giỗ.
Thứ hai, những lễ hội truyền thống được thay thế bằng các buổi cầu nguyện
tập thể tại một địa điểm (nhà Trưởng nhóm, nhà nguyện hay nhà người dân) và các
ngày lễ trọng của tôn giáo – sinh hoạt tôn giáo.
Việc thay thế tín ngưỡng truyền thống bằng đức tin tôn giáo mới – đạo Tin
lành đã làm thay đổi những phong tục, tập quán đã có từ lâu đời, nhất là các lễ hội
truyền thống. Người Hmông có nhiều lễ hội dân gian tạo nên sự phong phú trong
94
sinh hoạt văn hóa, như:
Ý nghĩa
Thời gian tổ chức
Tên lễ, lễ hội Lễ Tạ ơn
1
Đầu năm
Thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha mẹ đã mất trong gia đình
2
Lễ Nào cống
(Naox côngz)
Quy ước cùng nhau thực hiện những quy định chung của cộng đồng vùng
Ngày Thìn tháng Giêng hoặc ngày mùng 06 tháng 6 âm lịch
Ngày Thìn tháng 2 hoặc
3
tháng 3 âm lịch
Lễ Nào sồng (Naox yôngx) – lễ ăn ước
Quy ước cùng nhau thực hiện những quy định chung của giao.
Lễ cúng
thần
Tùy vào thầy cúng lựa
4
xóm, thôn (tsưr)
chọn
Thần linh che chở và giúp dân bản làm ăn thuận lợi, cuộc sống bình yên.
Lễ hội Gầu tào
Khoảng từ mùng 02 đến
5
(Grâuk taox)
15 tháng giêng.
Gia chủ cầu con. Cộng đồng cầu được mùa. Trai gái trao duyên hẹn ước nên đôi vợ chồng.
(nếu tổ chức hàng năm thì lễ hội kéo dài ba ngày. Nếu ba năm tổ chức một lần thì kéo dài chín ngày)
Bảng 3.9. Lễ, lễ hội truyền thống của người Hmông
(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm2014)
Sau những công việc của cuộc sống thường nhật, tham gia lễ hội đã tạo điều
kiện cho người Hmông giao lưu, giải trí, sáng tạo, học hỏi lẫn nhau. Không những
thế, các lễ hội này còn lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình,
dòng họ, cộng đồng và tăng cường sự cố kết cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, các lễ hội
của người Hmông được tổ chức khá tốn kém về kinh tế, để tham gia các lễ hội
nhiều người phải đi vay mượn, phải tuân theo những quy tắc lễ nghi rườm rà nên đã
có nhiều người Hmông không tham dự.
Đối với người Hmông theo đạo Tin lành, 70% số người được hỏi trả lời là
không tham gia bất kỳ tổ chức lễ, lễ hội truyền thống, bỏ sinh hoạt văn hóa truyền
thống của gia đình, dòng họ, cộng đồng. Đây cũng là lý do tạo ra khoảng cách giữa
những người theo đạo và người không theo đạo, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa
họ. Đối với những người Hmông không theo đạo, họ khó chập nhận được việc
không tham gia các lễ hội truyền thống của dân tộc mình, họ cho rằng, như thế sẽ
95
làm phai nhạt đi bản sắc văn hóa của dân tộc, không tôn trọng văn hóa truyền thống.
Trong các lễ hội truyền thống thường sử dụng khèn, múa khèn mà khèn là
một trong những phương tiện để người Hmông giao tiếp với ông bà tổ tiên, với các
ma. Theo Tin lành tức là theo Chúa, tin vào Chúa; không tin vào Ma nhà, chính vì vậy
đây cũng là lý do mà người Hmông ít hoặc không tham dự các lễ hội truyền thống.
Bảng 3.10. Ứng xử của người Hmông theo đạo Tin lành với lễ hội
truyền thống
Có tham dự các lễ hội truyền thống 12 phiếu 30%
Không tham dự các lễ hội truyền thống 28 phiếu 70%
Tổng cộng 40 phiếu 100%
(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm 2013)
Người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai chỉ tập trung cầu nguyện tại nhà
nguyện vào thứ Năm và Chủ nhật hàng tuần. Đặc biệt, người Hmông theo Tin lành
ở Lào Cai rất hòa hứng tổ chức và tham gia các ngày lễ trọng của tôn giáo như ngày
Giáng sinh, Phục sinh.
Bảng 3.11. Các ngày lễ của người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai
STT
Ngày lễ
Ý nghĩa
Thời gian
Giáng sinh
Kỷ niệm ngày sinh
Ngày 25/12
1
của Chúa Giê su
Lễ Thương khó
Chúa Giê-su chịu
trước lễ Phục sinh 3
2
ngày
nạn
Lễ Phục sinh
Kỷ niệm ngày
3
Chúa Giê su sống
lại
Lễ Chúa Giê-su lên trời
sau lễ phục sinh 40 ngày
4
Lễ Ngũ tuần
Chúa Thánh linh
sau lễ Chúa Gie-su lên
5
hiện xuống
trời 10 ngày
Lễ ngày Chúa nhật
6
96
(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm 2013)
Thứ ba, những quy định của dòng họ, làng bản được thay thế bởi luật lệ
tôn giáo
Hầu hết các tộc người quản lý xã hội theo hình thức hẹp, thường giới hạn
trong một bản, một làng. Người Hmông cũng quản lý xã hội truyền thống theo hình
thức quản lý giao – làng. Giao của người Hmông ở tỉnh Lào Cai khá đa dạng, có tập
trung, có xen kẽ, có lẻ tẻ. Mỗi giao có từ một đến vài họ cùng sinh sống, dòng họ
nào đông hộ hoặc có khả năng kinh tế nổi trội hơn thì trưởng họ đó đứng đầu giao.
Giao của người Hmông có những quy ước điều hành với sự chỉ bảo, kiểm soát của
các già làng, Trưởng họ. Hình thức quản lý theo cách truyền thống này đôi lúc còn
mang tính áp đặt, buộc mọi người phải tuân theo; nhưng cũng trọng tình cảm và
trọng lời hứa.
Xã hội truyền thống của người Hmông có các quy ước (txux tenhv chei),
khoản ước (ntu xăngr txăngr), luật tục rất cụ thể, nghiêm ngặt và bắt buộc mọi
người phải thực hiện. Có thể nội dung của các quy ước, khoản ước của mỗi giao có
sự khác nhau, nhưng đều chung một mục đích là điều chỉnh lợi ích của cộng đồng,
duy trì trật tự xã hội. Các quy ước, khoản ước hay luật tục hầu như là bất thành văn,
nhưng mọi người đều tuân theo và được Trưởng họ, già làng nhắc nhở thực hiện.
Nếu ai vi phạm thì người đó sẽ bị phạt vạ nghiêm khắc để nêu gương cho những
người khác; thậm chí còn bị dân bản chê cười, xa lánh, nhất là tội ăn cắp, tội ngoại
tình và tội loạn luân [117, tr. 65].
Quy ước, khoản ước, luật tục trong xã hội truyền thống của người Hmông
đã góp phần tạo dựng nên một thiết chế bền vững, phát huy tính cố kết cộng đồng.
Tuy nhiên, với sự vận động và phát triển của xã hội hiện tại, việc mở rộng giao lưu
với thế giới mới, khoa học công nghệ,... nhất là một lượng người Hmông tiếp xúc
và theo đạo Tin lành đã tuân thủ luật lệ tôn giáo thay cho quy ước, khoản ước, luật
tục truyền thống.
Một trong những điều kiện để xác định tôn giáo là có luật lệ, mỗi một tôn
97
giáo đều xây dựng cho mình một hệ thống giáo luật chặt chẽ, quy định được làm
hay không được làm của tín đồ và đã là tín đồ tôn giáo thì tự nguyện chấp hành. Ý
thức trong thực hiện nghiêm túc các luật lệ của đạo Tin lành xuất phát từ niềm tin
của tín đồ, người Hmông theo đạo Tin lành tin rằng, làm theo gương của Chúa, yêu
Chúa, làm việc thiện tránh việc ác sẽ được ân sủng của Chúa và khi chết sẽ được lên
Thiên đường với Chúa. Chính niềm tin tôn giáo này đã điều chỉnh hành vi của tín
đồ và hướng họ đến những điều được quy định trong tôn giáo một cách tự thân nhất.
Luật lệ trong đạo Tin lành phát xuất từ Kinh Thánh, khi đưa ra những điều
khuyên răn cho tín đồ nên làm hoặc không nền làm, những điều cấm kỵ thì người
truyền đạo bao giờ cũng lấy dẫn chứng cụ thể trong Kinh thánh. Có thể tóm gọn luật
lệ trong Thập giới – mười điều răn của Thiên Chúa như sau [90]:
Thứ nhất, thờ phụng một đức Chúa trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
Thứ hai, chớ kêu Chúa trời vô cớ.
Thứ ba, Giữ ngày Chúa nhật.
Thứ tư, thảo kính cha mẹ.
Thứ năm, chớ làm sự dâm dục.
Thứ bảy, chớ lấy của người.
Thứ tám, chớ làm chứng dối.
Thứ chín, chớ muốn vợ chồng người.
Thứ mười, chớ tham của người.
Trong mười điều răn của Chúa thì có bảy điều buộc con người phải tôn
trọng người khác, đầu tiên là hiếu thảo với cha mẹ, sau đó là không được làm những
việc ảnh hưởng đến người khác như không lấy đồ của người, không ham muốn vợ
chồng người, không nói dối. Thày ban cho chúng con một điều răn mới, là chúng
con phải yêu thương nhau. Thày đã yêu chúng con thế nào, chúng con phải yêu
Bên cạnh đó, người Hmông theo đạo Tin lành cụ thể hơn 10 điều răn
của Thiên Chúa như sau (Nguồn tư liệu điền dã của tác giả):
1, Yêu Chúa như yêu bố mẹ, yêu bố mẹ như yêu Chúa
98
nhau như vậy [47, tr. 1977].
2, Không được uống rượu, không ăn thịt chó, không ăn tiết canh
3, Không được yêu đương lung tung (không quan hệ tình dục trước
hôn nhân)
4, Có vợ (hoặc có chồng) thì không được yêu người khác (không
ngoại tình)
5, Không được trộm cắp
6, Không được đánh nhau, không được cãi nhau
7, Không được cờ bạc
8, Không được nghiện hút
9, Không được nói bậy, văng tục, không được nói xúc phạm người
khác, không hát dân ca
10, Không được cúng các loài ma, không bói toán.
Chính những điều Không này đã hình thành nên những ràng buộc của con
người trong xã hội, cộng đồng người Hmông theo đạo Tin lành, trở thành những
quy định, chuẩn mực trong lối sống dần thay thế các luật tục.
Thứ tư, các nghi thức trong chu kỳ vòng đời (sinh đẻ, cưới xin, ma chay),
làm nhà,... mang đặc sắc riêng của từng dòng họ, địa phương của người Hmông
thay thế bằng nghi thức tôn giáo mang tính thống nhất.
Trong đời sống con người, dù theo bất kỳ tín ngưỡng, tôn giáo nào thì việc
cưới xin và tang ma đều là những dấu ấn của cuộc đời, không chỉ liên quan đến cá
nhân mà liên quan đến cả cộng đồng. Mỗi loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đều có
những quan niệm và nghi thức riêng trong việc cưới xin và tang ma đã trở thành
những tập tục mang những nét văn hóa riêng. Cũng vì vậy, tín ngưỡng truyền thống
của người Hmông và đạo Tin lành có sự khác nhau trong quan niệm và nghi lễ về
cưới xin và tang ma. Đối với người Hmông, tang ma và cưới xin là những yếu tố
truyền thống mang nhiều tính cổ hủ, lạc hậu nhất.
Cưới xin và tang ma là hai hình thái thể hiện rõ nhất sự thay đổi trong tín
ngưỡng truyền thống sang tôn giáo mới, vì vậy tác giả luận án tập trung phân tích
99
hai hoạt động này để làm rõ vấn đề.
* Thay đổi trong thủ tục, nghi thức cưới xin
- Cưới xin theo phong tục truyền thống.
Trong cuộc sống đời thường, chuyện dựng vợ gả chồng gia đình nào, vùng
nào cũng đều thận trọng bởi phần lớn những đám cưới đều là một sự quyết định cho
cả cuộc đời mỗi con người,… Do đó người nào cũng coi việc cưới hỏi là một trong
những việc lớn và quan trọng của đời người. Cho dù mỗi vùng miền, mỗi dân tộc,
mỗi tôn giáo đều có những tập quán cưới hỏi khác nhau, nhưng ý nghĩa chủ đạo
trong việc cưới hỏi đều giống nhau.
Việc cưới hỏi ở vùng người Hmông nói chung và ở người Hmông Lào Cai
nói riêng không nằm ngoài suy nghĩ đó. Sự quan tâm của đồng bào còn sâu sắc hơn,
mỗi khi có đôi trai gái trẻ yêu nhau say đắm, thề thốt sẽ cùng xây dựng tổ ấm chung
sống đến “đầu bạc răng long”. Đối với người Hmông ở Lào Cai, khi đôi trai gái yêu
nhau và có thời gian tìm hiểu nhau vài ba năm tới lúc họ thực sự muốn tổ chức kết
hôn thành vợ thành chồng, người con trai thổ lộ ý định của mình với cha mẹ, và cha
mẹ tìm hiểu ý định của con trai qua những người bạn của con mình, bàn bạc với chú
bác cùng góp ý thận trọng tiến hành từng bước một.
Tục nắm bắt thông tin: Qua vài lần hội ý thống nhất, nhà trai cử người thân
thiết như bà cô, bà dì, hay chị gái, em gái của chàng trai, có khi là mẹ chàng trai lấy
cớ tới thăm thú họ hàng người thân ở làng nhà gái chơi với mục đích ngầm theo dõi
những hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, lối ứng xử giao tiếp của người con gái mà
con trai mình đã yêu. Ngoài ra còn thăm dò tin tức nhận xét đánh giá về đạo đức, lối
sống, tính tình của người con gái qua hàng xóm láng giềng ở bản nhà gái. Khi đã có
đầy đủ thông tin, bố của người con trai mời bác chú đến cùng nhận xét đánh giá,
cùng đưa ra nhận định chung: nếu như mọi người cùng chấp nhận thì bước tiếp theo
được tiến hành, còn nếu không chấp nhận thì buộc con trai từ bỏ ý định của mình.
Tục bói số vợ chồng: Trong phong tục cưới hỏi của người Hmông, tục bói
số hợp vợ, hợp chồng là một khâu hết sức quan trọng; việc làm này quyết định cho
100
sự thành hôn hay không của đôi trai gái trẻ. Qua khâu nắm bắt thông tin về người
con gái được người nhà trai chấp nhận thì nhà trai tiến hành làm thủ tục bói số để
đoán biết số mệnh của cô dâu tương lai và con trai nhà mình có hợp số mệnh
không? Có sống được cả đời tới khi già không?
Qua việc tìm hiểu nắm bắt thông tin và tục bói số vợ, chồng, nhà trai cảm
thấy thuận chiều thì các bước tổ chức sẽ được triển khai tiếp theo. Điều đặc biệt là
người Hmông không bao giờ được kết hôn với người cùng dòng họ.
Phong tục cưới xin của người Hmông được phân ra làm ba loại hình khác
nhau đó, là: Đại cưới, trung cưới, tiểu cưới.
Tục kéo vợ: Truyền thống người Hmông vốn rất tôn trọng nhau, nhất là
phái nam tôn trọng phái nữ gần như mẫu hệ, phụ chủ đã ăn sâu vào tiềm thức người
Hmông. Trong cuộc sống đời thường cái gì to cũng là của người mẹ, kể từ chức
quan, nhà cửa, ruộng nương,… Ngược lại người mẹ, người vợ rất thương người cha,
người chồng. Những hình ảnh người đàn ông say rượu nằm ngủ cạnh đường được
người phụ nữ cầm ô che nắng, tay dắt ngựa chở chồng về bản là một hình tượng đẹp
chỉ có ở người Hmông.
Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu nhau đắm đuối, từng thề thốt cùng
chung sống với nhau cả đời, nhưng lúc lấy nhau thật cũng phải tổ chức kéo thì cô
gái mới chịu về nhà chồng, không có cô gái nào tự bước chân về nhà chồng cả, ý
nghĩa chính của tục kéo vợ thể hiện sự danh giá của người con gái qua ba nghĩa
chính: (1). Ý cô gái không bị xã hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay theo con trai
một cách mù quáng và hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai; (2). Người con trai thực sự
cần lấy cô gái làm vợ thật với thiên chức của người mẹ mới tổ chức kéo vợ, thể hiện
thái độ rõ ràng cụ thể; (3). Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã hội và sự ngược
đãi sau này của người chồng và người nhà trai.
Tổ chức đám cưới của người Hmông truyền thống tại Lào Cai, xin đưa ra
101
lời của người trong cuộc.
Ông Mã A Chớ, 50 tuổi, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Sa Pả, huyện Sa Pa:
Khi bố mẹ người con trai nhắm được một cô gái, đã biết trước nhà cửa thì bố mẹ
sẽ dẫn con trai đi tìm con dâu. Khi thấy được thì 3 ngày sau sẽ cử người đến nhà người
con gái để xem thách cước là bao nhiêu. Rồi hai bên nội ngoại xem ngày nào tổ chức.
Thực ra không theo quy định thách cưới, nhà gái thách bao nhiêu thì tùy. Nhà
gái thường thách cưới cao với nhiều thứ nhưng phải có một tạ lợn và tiền mặt khoảng 40
đến 50 triệu đồng,... Bố cô dâu có nhiều anh em thì trong phần thách cưới có tính cả
phần chia cho anh em. Có trường hợp nhà gái thách cao quá, mà nhà trai bỏ cuộc thì nhà
trai phải làm cái lý rửa mặt cho nhà gái, chứ không phải bỏ trắng.
Nhà trai khi chuẩn bị đủ số lễ vật và tiền thách cưới thì tiến hành trao đổi ngày
tổ chức.
Phần lý để làm lễ rất phức tạp, người trẻ cũng khó có thể hiểu, những bài nói
mang tính ngụ ý, nội dung dài, thường phải mất một ngày, sau khi nói lý nói lẽ xong thì
mổ lợn ăn. Tổ chức tốn kém, uống nhiều rượu, lấy rượu làm lý , làm cho phần nội dung
lộn xộn, lòng vòng.
Còn về tục kéo vợ, có hai trường hợp, một là con trai dẫn nó về; hai là bắt về.
Nó thể hiện sự tôn trọng và giá trị, danh giá của người con gái. Khi đi kéo vợ thì người ta
phải xem ngày đẹp. Khi kéo vợ thì người con trai và người con gái đã biết và tìm hiểu
nhau. Ít trường hợp không biết gì về nhau. Và vẫn có trường hợp chỉ có bố mẹ hai bên đã
biết và ưng thuận.
Kéo về nhà 3 ngày sau thì cử một người mang rượu đi báo tin, sau 3 ngày nữa
thì cho người con gái mang xôi, trứng cùng 4 hoặc 5 người của nhà trai đưa về nhà lấy
quần áo mặc.
Tổ chức cưới có hai cách: Một là người mà có quan hệ rộng rãi với người Kinh,
Dao, Giáy thì tổ chức to, sắp xếp trật tự, tổ chức theo mâm, làm cỗ giống như người
Kinh. Hai là những người cổ truyền, chỉ có quan hệ trong cộng đồng, không có thay đổi,
tập trung nấu thắng cố và uống rượu rất nhiều.
Đám cưới diễn ra trong 2 ngày, hôm thứ nhất, nhà trai vào nhà gái, làm lý xong đến
đêm mới ăn, ngày thứ hai, đưa cô dâu về nhà trai, về sớm thì tổ chức ăn uống cảm ơn.
Người đến dự cũng mang đồ mừng đến: bát, chậu, tấm vải, quần,... nhà gái có
ghi và có sự giúp lại.
(Nguồn tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014 )
102
Hộp 6:
Như vậy, người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống rất quan tâm đến việc
cưới xin với nhiều nghi thức, nhưng vẫn ẩn chứa hủ tục, lạc hậu như tảo hôn, ăn
uống linh đình tốn kém, nhất là uống rất nhiều rượu, việc tổ chức rườm rà với nhiều
nghi thức.
+ Cưới xin khi theo đạo Tin Lành
Điều chung hết, khi theo đạo Tin lành, người Hmông tiếp cận quan niệm
hôn nhân theo lối hiện đại của đạo Tin lành, tổ chức đơn giản, không tốn kém. Đặc
biệt, người Hmông theo Tin Lành đã bỏ việc tảo hôn, thực hiện nghiêm túc chế độ
hôn nhân một vợ một chồng. Nghi lễ hôn nhân, ngoài việc đăng ký kết hôn được
chính quyền chấp nhận, còn có thêm nghi lễ tôn giáo. Nghi lễ tôn giáo được thực
hiện ở nhà thờ, nếu không có nhà thờ thì thực hiện ở nhà nhóm hay điểm nhóm- ở
một gia đình trong bản được mượn để nhóm làm lễ. Thực hiện nghi lễ hôn nhân
theo quan niệm của Tin lành là có sự chuẩn nhận của Thiên Chúa.
Việc thực hiện nghi lễ tôn giáo ở nhà thờ thì yêu cầu khá khắt khe. Đó là cô
dâu và chú rể phải thật sự thông hiểu giáo lý, luật lệ, lễ nghi; có lối sống đúng mực
theo quy định của Tin lành, không vi phạm luật pháp; đặc biệt là đôi bạn trẻ phải
giữ mình không có quan hệ trước khi tổ chức hôn lễ. Ngoài ra, về phía Hội thánh thì
cũng yêu cầu có sự đăng ký, chấp thuận của chính quyền. Để thực hiện một nghi lễ
hôn nhân tại nhà thờ khá tốn kém- vì ở Lào Cai chưa có nhà thờ nên phải đi xa,
chính vì vậy, việc tổ chức tại nhà thờ chưa thông dụng.
Trong hôn nhân của người Hmông truyền thống, người con trai và người
con gái không có nhiều cơ hội tìm hiểu nhau, thường phải thông qua bố mẹ. Nhà
trai đã biết và hiểu khá kỹ về nhà gái cũng như cô gái chuẩn bị làm vợ, rồi sau đó
mởi cử một đội đi để kéo vợ cho con trai. Còn đối với người Hmông theo Tin lành
thì việc đi đến hôn nhân hay không phải xuất phát tự sự tự nguyện của người con
trai và người con gái. Và người con trai và con gái phải có vật làm tin như thư từ để
chứng minh cho Chúa cũng như mọi người thấy được sự tìm hiểu kỹ càng và việc đi
đến hôn nhân là sự tự nguyện và dựa trên tình yêu, không bị ép buộc.
Cũng như hôn nhân của người Hmông truyền thống, hôn nhân của người
103
Hmông theo đạo Tin lành bền vững, ít có vụ ly hôn. Tuy nhiên, sự bền vũng trong
cuộc sống gia đình có sự khác nhau. Với hôn nhân truyền thống thì dù có sự bất
đồng giữa vợ và chồng thì người phụ nữ lại chọn sự cam chịu, chấp nhận để tránh
sự đổ vỡ. Còn đối với người Hmông theo Tin lành, sự bền vững trong cuộc sống gia
đình là do niềm tin tôn giáo vì họ cho rằng cuộc hôn nhân của mỗi gia đình Tin lành
là có sự chuẩn nhận của Thiên Chúa, đồng thời khi tổ chức cưới, họ nhận được
những lời khuyên răn của mục sư theo Kinh Thánh về nguyên tắc ứng xử, trách
nhiệm của vợ, của chồng với con cái, gia đình và sự thủy chung.
Về việc tổ chức đám cưới của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, xin
dẫn lời của Mục sư - người chủ tọa của hầu hết các đám cưới tại địa bàn nghiên cứu.
Mục sư Chang A Căng (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội Hội
thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn):
Tin lành lấy sự yêu thương là lớn lao, hai người yêu nhau gửi thư tỏ tình, nhất
trí, sau đó tìm hiểu, yêu thực sự rồi mới nhờ Mục sư đi hỏi, hay đưa người con trai gặp
trực tiếp mục sư để đến nhà gái hỏi. Ăn hỏi trực tiếp, hay đưa người con trai đến trực tiếp
gặp bố mẹ vợ, họ hàng của người con gái để hỏi. Đoàn hỏi thì không nhất thiết có bố mẹ
đi cùng. Nếu bên nhà gái nhất trí mới đặt lễ cưới, thời gian, địa điểm.
Đoàn đi ăn hỏi mời đại diện Hội thánh hai bên trai - gái. Người con trai sẽ nhờ
người đứng đầu một Hội thánh, con gái nhờ một Hội thánh khác. Người đứng đầu sẽ
thông tin cho nhau, hẹn ngày, thời gian, mục đích đến. Lấy thư để làm chứng, sau đó
người đứng đầu hỏi: Có thích lấy nhau không?, nếu ưng rồi thì đôi trai gái tự hứa với
nhau. Mục sư sẽ hỏi về hình thức cưới như tiền thách cưới, việc tổ chức ăn uống ...
Những điều này là do bên nhà gái quyết định.
Khi đi hỏi thì nhà trai mang theo 2 con gà, bánh kẹo, mấy lon bò húc. Nhất trí
rồi thì làm một bữa ăn với lễ vật mang theo.
Đối với mức thách cưới chung, không cho nhiều tiền quá, không như là bán con
đi. Mức thách cưới của người theo Tin lành là 10 triệu đồng.
Khi làm lễ cưới, không cúng ở nhà, chỉ làm lễ, với lời cầu nguyện của chủ tọa
Hội thánh (điểm nhóm).
Hôm cưới thì có đầy đủ bố mẹ. Trong hôm cưới, làm lễ theo phong tục của Tin
lành: Có cầu nguyện, hát Thánh ca, đeo nhẫn, người chủ lễ là Mục sư sẽ hỏi người con
104
Hộp 7:
trai, người con gái là quen nhau lâu chưa, tìm hiểu kỹ chưa, có gì làm tin. Lúc đó, đôi trai
giái sẽ lấy thư từ mà họ viết cho nhau để làm chứng. Người chủ tọa là mục sư sẽ hỏi cô
dâu chú rể hứa là yêu thương nhau và cùng nhau chung sống, làm ăn, nuôi dạy con cái;
hỏi bố mẹ chồng/vợ hứa có yêu thương con rể/ con dâu như con cái trong nhà không?;
hỏi người làm chứng là đã nghe được những lời hứa của đôi trai gái với nhau không. Sau
đó là lấy nhẫn làm bằng chứng. Mục sư cầu nguyện, chúc phước, từ bây giờ hai người là
vợ chồng.
Về tổ chức cỗ bàn: Gần giống như người Kinh và tùy theo điều kiện. Có nhiều
món, mỗi mâm sáu người. Có mổ lợn nhưng khi ăn không uống rượu, chỉ uống nước ngọt.
Nếu có người Hmông không theo đạo thì làm mâm riêng có rượu.
Thời gian tổ chức lễ cưới một ngày, khoảng cách từ hỏi đến cưới 10-15 ngày.
Nghi lễ đơn giản, không thiệt hại kinh tế đối với người nghèo. Tổng tiền thực hiện cưới là
khoảng 20 triệu đồng. Người dự có mang theo phong bì chúc mừng 50 ngàn đồng đến
100 ngàn đồng.
(Nguồn thực địa của tác giả, năm 2014)
Bảng 3.12. So sánh đám cưới của người Hmông theo Tin Lành và người
Hmông truyền thống
Truyền thống
Tin Lành
- Có tục Kéo vợ
- Không có Kéo vợ
- Có sự tham gia sắp đặt của bố mẹ, gia
- Dựa trên sự tự nguyện của người con trai
đình
và người con gái
- Làm lễ, làm lý cúng
- Cầu nguyện
- Múa khèn
- Hát Thánh ca
- Người chủ lễ là trưởng họ
- Người chủ lễ là mục sư hoặc trưởng
nhóm
- Tiền thách cưới là 30 – 45 triệu đồng
- Tiền thách cưới 10 triệu đồng
- Tổng tiền để tổ chức đám cưới là: 70
- Tổng tiền để tổ chức đám cưới là: 20 triệu
triệu đồng
đồng
- Sử dụng rượu trong đám cưới: khoảng
- Không sử dụng rượu bia, chỉ uống nước ngọt
100 lít
105
(Nguồn tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014).
Như vậy, việc cưới xin của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống và
người Hmông theo Tin lành có sự khác nhau căn bản, một bên rườm rà và tốn kém,
một bên đơn giản gọn nhẹ, ít tốn kém. Điều quan trọng của sự khác biệt đó là liên
quan đến tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, vẫn có điều tương đồng cần lưu ý và
phát huy là hai bên đều giáo dục việc xây dựng một gia đình hạnh phúc bền vững,
có cuộc sống no đủ, nuôi dậy con cái trưởng thành.
* Thay đổi trong thủ tục, nghi thức tang ma
+ Tang ma theo tín ngưỡng truyền thống
Từ xa xưa, người Hmông quan niệm rằng đám tang, đám dỗ được tổ tông
quy định tổ chức có lề có lối, có đầu việc lớn, đầu việc nhỏ khác nhau, nam có đầu
việc riêng của nam, nữ có đầu việc riêng của nữ.
Khi gia đình người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống có người chết, họ
sẽ bắn ba phát súng để báo tin cho dân bản biết. Tùy điều kiện mỗi gia đình quyết
định việc tang lễ, nhưng trước hết anh em phải thống nhất sau đó tắm rửa thay quần
áo cho người chết rồi đặt lên tấm ván thực hiện bài tang ca.
Trong đám ma của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống có Chủ ma,
Quan làng, Ban quản lý đời sống, Ban khèn trống. Có nhiều công việc phải thực
hiện và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Những đầu việc nhỏ chỉ đặt tên gọi là ông quản
như: quản súng, quản bếp (đầu bếp), quản lý củi đóm, quản lý bát đĩa, quản rượu,…
những đầu việc này là các đầu việc nhỏ do đàn ông đảm nhiệm.
Người ta đặt tên gọi các đầu việc của nữ giới là cây gốc, gồm có: Gốc cối
xay, Gốc cối giã, Gốc nấu cơm,… Tóm lại, có tất cả hơn một chục (mười bốn) loại
tên gọi đầu việc cả lớn nhỏ, trong đó những tên gọi đầu việc lớn, quan trọng có 5
tên gọi:
Ông Mủ là một tên gọi theo đầu việc quan trọng lớn nhất qua các đầu việc
khác trong đám tang. Trách nhiệm chính của ông Mủ là phải dạy (mách) cho linh
hồn người chết biết nguồn gốc sinh trời, sinh đất, đường lối đi theo tổ tiên về với
cõi âm, lên trên trời, trở lại trái đất, biết đường đi đầu thai, trở thành con người mới
sinh nở tại kiếp khác. Bài tang ca của ông Mủ không phân biệt nhóm Hmông, họ
106
Hmông mà sử dụng như nhau, phủ khắp đời sống dân tộc Hmông.
Ông Quan làng là tên gọi đầu việc quan trọng, xếp thứ hai sau ông Mủ. Ông
Quan làng là một vị đương chức tại bản do gia chủ mời. Trách nhiệm chính của ông
Quan làng không liên quan tới cúng khấn ma cho người chết, mà chủ yếu là giúp
cho gia chủ tránh không xảy ra chuyện gì bằng việc duy trì trật tự và giải quyết
những vấn đề xích mích hay những người đến dự đám tang lợi dụng rượu để gây gổ
mọi chuyện có thể ảnh hưởng tới đám tang hay những người đến dự đám tang.
Ông Chủ ma là tên gọi đầu việc của người quan trọng thứ ba, sếp sát gần
sau ông Mủ, bên dưới ông Quan làng. Ông Chủ ma là người có trách nhiệm chính
trong việc giúp gia chủ duy trì cúng khấn ma cho người chết, vì vậy khi người ta
chọn người làm Chủ ma, bao giờ cũng chọn người thân anh em trong họ, biết thông
thạo lý lẽ cúng khấn ma trong họ mình. Hàng ngày ông phải làm lý lẽ cầu khấn ma
cho người chết, trong lúc ông Mủ trình bày xong tang ca thì ông Chủ ma làm việc
khấn mời người chết lên quan tài hay lên ma ngựa5.
Khấn giao cho người bị chết các loại bài khèn như: Khèn dựng xác, khèn ăn
sáng, trưa, chiều, khèn mổ lợn, trâu, khèn đốt giao vàng mã, khèn nâng đỡ tang,
khèn đưa đám,…
Ông Bố chọn, là tên gọi một đầu việc quan trọng của người Hmông xếp thứ
tư sát sau ông Mủ, bên dưới ông Chủ ma. Trách nhiệm chính của đầu việc này
không liên quan đến công việc cúng khấn ma cho người chết, mà chủ yếu là duy trì
công việc đời sống liên tục cho cả đám tang, sai khiến những người khác giúp việc
cho đám, tiếp nhận quà ủng hộ, vật chất giúp đỡ của những người đến dự đám tang.
Ông Bố khèn, Bố trống là tên gọi đầu việc của người có trách nhiệm luôn tổ
chức và duy trì việc đánh trống, thổi khèn trong đám tang, trực tiếp thổi các bài
khèn quan trọng từ khởi đầu đến kết thúc đám tang. Sai khiến những người biết thổi
khèn tham gia thổi khèn liên tục suốt trong đám tang, không cho ngừng nghỉ. Khởi
5 Theo tục của người Hmông, thi thể người chết được treo ở gian giữa nhà với ý nghĩa
như là đưa lên ngựa để thồ linh hồn người chết về với tổ tiên.
107
đầu đám tang, Bố khèn (Thầy khèn) thổi bài khèn lên quan tài hay lên ma ngựa,
tiếp đến bài khèn dựng xác, khèn dựng trống, khèn tắt sự sống, khèn sát thú, khèn
ăn sáng, trưa, chiều, khèn chỉ khách, chỉ cột khèn, khèn dựng đội tang, khèn đốt
vàng mã, khèn ban sáng, khèn ban trưa, khèn ban chiều, khèn ban đêm, khèn chia
buồn, khèn múa, nhảy… Những bài khèn này thổi đến bài nào, khi thổi đến nửa
chừng người thổi đem cây khèn đến đưa cho ông chủ ma “zơưv Txir Zêl” khấn giao
cho người chết từng bài một, sau đó lại tiếp tục thổi cho kết thúc bài. Lý lẽ thổi
khèn bao giờ cũng cần hai người, một thổi khèn, một đánh trống, hai người này cần
biết thổi khèn và đánh trống ngang hàng nhau. Do đó, người già thường ví câu cửa
miệng nói rằng: “Thổi khèn phải nghe nhịp trống”, hay là“ Đánh trống phải nghe
nhịp khèn” là một lời thường răn dạy cho người đối xử nhau phải có lề lối, có trên
có dưới, ăn nói cho đúng tình người và luôn thương yêu nhau.
Những tên gọi các đầu việc nhỏ gồm chín đầu việc khác nhau; trách nhiệm
chính của những đầu việc này chủ yếu giúp đám tang làm mọi thứ việc, khi xong
việc dọn dẹp lại sao cho đảm bảo mọi công việc trong đám tang trôi chảy liên tục.
Bởi vì, trong lúc gia chủ có người chết, người nào cũng buồn bã phiền lòng, cơm ăn
không ngon, việc không muốn làm, vì lẽ đó mới cần đến các các đầu việc giúp dọn
dẹp để đảm bảo đám tang trôi chảy.
Đám tang thường tổ chức từ 3 đến 5 ngày và nếu xem ngày đưa người chết
ra đồng trùng với ngày mà người nhà ai trước đó đã chọn thì phải để kéo dài thêm,
do đó có đám phải để đến 10 ngày, thậm trí còn lâu hơn. Khi đưa ra đồng để
chôn ,cất họ chọn chỗ chôn, tìm chỗ mổ trâu làm lý ăn uống sáng đưa quan tài
ra, sau đó mổ trâu ăn uống tại đó và chờ đến 4 hoặc 5 giờ chiều mới thực hiện
hạ huyệt, chôn lấp.
Khi có người chết, các hộ gia đình đến tự nguyện mang theo rượu, gạo, thức
ăn để đóng góp với gia đình có người chết; trong suốt quá trình tổ chức làm ma cho
người chết việc uống rượu và mời rượu được diễn ra liên tục. Họ mời người chết
uống rượu, và bón cơm cho người chết (mời uống và bón cơm là tượng trưng; rượu
mời sau đó đổ vào một cái hũ để cạnh và cơm mời xong cho vào âu, sau khi đưa
108
người chết ra đồng người ta mang rượu, cơm đi chôn).
Ông Mã A Chớ, 50 tuổi, ở xã Sa Pả, huyện Sa Pa, hiện là Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã:
Khi trong nhà có người chết, mời một người thầy làm cái lý để dẫn hồn người
chết đi, mời một ông thổi khèn, một ông đánh trống,… thời gian làm lý khoảng 3 tiếng,
chủ nhà làm một con gà cùng với một con dao để làm lý cho người chết đi lên trời. Chia
cho hai người thổi khèn hai quả trứng, hai bát gạo mang về ăn, không được ăn ở gia
đình. Riêng người thầy chủ lễ phải có một con gà, nhà phải có một con lợn để làm lý.
Làm xong lý thì người chủ lễ bàn với gia chủ để phân công: hai ông thổi khèn,
hai người nấu cỗ, hai người làm áo quan, một người chủ lễ là người cùng họ, gần gũi;
một người dẫn hồn. Sau đó, cử người đi gọi, xong xuôi thì cảm ơn bằng hai chén rượu.
Thông thường người chết để ít nhất 4 ngày mới chôn: ngày đầu tiên khi người
chết, trong gia đình bàn nhau về tang lễ và để cho những người thân quen, thông gia đến
viếng; ngày thư hai, thứ ba khách đến viếng; ngày thứ tư mới đưa đi chôn. Người Hmông
theo tín ngưỡng truyền thống quan tâm đến việc chọn ngày, chọn đất, địa điểm đẹp để
chôn người chết. Ngày mà họ mang đi chôn thì phải là ngày đẹp. Người Hmông kỵ thứ
nhất chôn trùng ngày với ngày của những người đã chết trước mà họ biết. Kỵ thứ hai là
khi ông bà già có tuổi chết thì người ta chọn đầu tháng (khi mặt trăng to dần lên) để
chôn. Nếu chết khoảng ngày 22 -25 thì phải đợi đến mùng 3 của tháng sau mới chôn. Để
lâu như vậy là mất vệ sinh đấy, những mình vẫn phải theo thôi.
Trong lúc đợi chôn thì thi thể người chết để trong áo quan, không được đóng
đinh đóng nắp áo quan. Có dòng họ thì để được trong quan tài; có dòng họ thì không để
được trong quan tài thì đăng lên cây tre, rồi buộc trên sà nhà. Khi đưa ra đồng chôn, nếu
chôn lúc 7 giờ thì 4 giờ đem ra đồng; thổi khèn, ăn uống ở đó luôn.
Phong tục của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống khi có người chết họ
sẽ mổ một con lợn hay mổ con gì thì cái linh của con lợn đó sẽ được người chết mang đi
với cái lý và phong tục của họ.
Người đến dự đám ma sẽ mang theo lợn đến (nhiều con cái, họ hàng, quan hệ
rộng là phải mang lợn đến) kết hợp với hai con của người nhà. Có bao nhiêu con lợn
được mổ thì đều chia 3 dẻ sườn cho người thổi kèn; mổ trâu chia cho một người chủ lễ,
một đại diện chính quyền,... một con trâu thì chia gần hết, chỉ còn một phần đùi thì nấu
109
Hộp 8:
lên ăn.
Con cháu khóc than, hàng xóm khóc than để làm lý.
Chi phí cho một đám ma ít nhất là 20 triệu đồng cộng tiền trâu 20 triệu đồng;
tổng cộng là khoảng 40-50 triệu đồng.
(Nguồn thực địa 2014)
+ Tang ma khi theo đạo Tin Lành.
Khi gia đình có người chết thì báo cho Trưởng nhóm và thông báo cho anh
em, dân bản biết và đến để thống nhất bầu ra các ban như: Ban lễ tang, Ban thực
phẩm, Ban thư ký để lo liệu quán xuyến.
Ban tang lễ gồm Mục sư hoặc Trưởng nhóm và đoàn để hát Thánh Kinh,
đồng thời giúp đỡ gia đình và thực hiện n ghi lễ cầu nguyện.
Tổ chức thực hiện tang lễ cho người mất trong vòng 2 ngày (chết hôm nay,
ngày mai đưa) trừ khi gia đình có người ở xa đang về chưa tới nơi mới để lùi lại
ngày hôm sau. Chôn cất không cần chọn ngày và chọn giờ mà có thể chôn người
chết vào bất kỳ lúc nào để đảm bảo vệ sinh; không cần thực hiện các nghi lễ chỉ
đường, thổi kèn, đuổi ma người Hán; không còn phải đưa quan tài người chết từ
trong nhà ra ngoài làm ma; không cần các nghi lễ cúng ba ngày, cúng ma tươi, ma
khô, ma bò,... Còn khi ốm đau, người truyền đạo khuyên hãy cầu nguyện Thiên
Chúa và quan trọng hơn là phải đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh, không mời thầy
cúng đến cúng ma; phải ăn ở hợp vệ sinh để phòng ngừa bệnh tật.
Không còn trình tự như phong tục truyền thống, không tổ chức ăn uống
ngoài bãi và kéo dài ngày, tổ chức đưa ra đồng chôn cất xong là ra về, thực hiện
theo Kinh thánh.
Mục sư Chang A Căng (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội Hội
thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn):
Khi trong nhà có người chết họ sẽ giao hết việc tổ chức cho Mục sư. Họ chỉ cần
gọi điện. Vì Tin lành quan tâm đến người bệnh tật, khó khăn và người chết. Trường hợp
thấy người nhà yếu và sắp chết thì thay nhau túc trực, Mục sư sẽ cử 1 -2 người đi ngủ ở
nhà người sắp chết.
110
Hộp 9 :
Khi chết, Mục sự cầu nguyên dâng linh hồn cho chúa. Làm cái lễ cho người chết,
không qua 48 tiếng, bắt buộc phải để trong quan tài, vì sẽ ảnh hưởng đến người sống,
đảm bảo vệ sinh an toàn cho đám tang. Có hát Thánh ca đưa linh đó lên với Chúa trời.
Thường chỉ để người chết trong vòng hai ngày, ngày thứ nhất để thông báo cho
họ hàng, họ đạo biết đến tạm biệt, có thể báo tin bằng điện thoại. Sau đó thì cho vào quan
tài đóng kín, đến ngày thứ hai thì đem đi chôn. Trong quá trình chôn thì có cầu nguyện,
hát Thánh ca, đọc Kinh Thánh. Chôn xong là về, nếu nhà nào có điều kiện thì có thể xây
lên cho đẹp.
Trong việc tổ chức tang lễ sẽ bầu các tổ, ban: Ban lễ tang _ chuyên làm lễ, Ban
giúp đỡ - chia buồn, động viên; Ban chuyên nấu ăn. Tuân theo Kinh thánh, không mổ gà,
mổ lợn trâu.
Tất cả mọi người đến dự đám tang phải đóng góp – những người theo đạo cùng
trong Hội thánh giúp đỡ cho đám tang: góp 100 ngàn đồng/ hộ, 5 kg gạo, ở Tả Phìn
khoảng 100 hộ, củi; tổng cộng là 10 triệu đồng. Mục sư sẽ gửi thư cho các Hội thánh
khác để mời đến chia buồn, mỗi hộ đóng 10 ngàn đồng. Thừa ra đưa lại gia đình, có thủ
quỹ viết thu chi rõ ràng. Đỡ được mổ trâu, không phải bán ruộng đất để mua trâu. Dùng
tiền đó để mua thịt lợn, thịt trâu, thịt gà, ...đủ để ăn uống, không để thừa; chứ không nhất
thiết phải giết mổ trâu, lợn.
Người thân theo đạo không khóc than, kêu lăn. Lý do, khi theo đạo Tin lành thì
cho rằng, người chết đã hoàn thành công việc trên thế gian, được lên thiên đàng, về với Chúa,
được Chúa thu nhận, che chở, được gặp mọi người, được sung sướng, vậy nên không có gì phải
khóc than. Còn tình yêu thương dành cho người chết là không có gì thay đổi, chỉ là cách thể
hiện có sự khác nhau so với người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống.
Việc ăn uống trong đám tang cũng sắp xếp trật tự không uống rượu, mọi người
đồng loạt giúp là chính chứ không chú trọng việc ăn uống. Người không theo Chúa cũng
đến dự, mang theo rượu với cái lý của họ, mang củi, gạo, ... chúng tôi đều ghi lại, rượu
của họ mang đến thì họ uống. Người theo Chúa thì khi dự thì uống nước ngọt.
(Nguồn thực địa 2014)
Trong nghi lễ tang ma của người Hmông thể hiện đậm đặc nhất những đặc
trưng của tín ngưỡng truyền thống, nhưng nghi lễ này đã thay đổi hoàn toàn trong
111
cộng đồng người Hmông theo Tin lành, đây có thể còn được gọi là sự từ bỏ tín
ngưỡng truyền thống. Vì người Hmông theo Tin lành đã không làm đám tang theo
các nghi thức truyền thống, bỏ khèn, bỏ trống, không thờ ông bà tổ tiên, vai trò của
thầy cúng mất đi,… [Theo kết quả của các cuộc phỏng vấn sâu tại thực địa (Sa Pả,
Xín Chải, Tả Phìn,...), gần 100% người Hmông theo Tin lành không sử dụng khèn,
trống trong đám ma; không có bàn thờ tổ tiên].
Trong nghi lễ tang ma theo tín ngưỡng truyền thống là sự tập hợp những
nét đặc sắc trong văn hóa Hmông với những điệu khèn, điệu trống, bài cúng, các
bước nghi thức. Tuy nhiên, thực hiện các nghi lễ tang ma theo nghi lễ tín ngưỡng
truyền thống đã bộc lộ những hủ tục lạc hậu. Khi theo đạo Tin lành, tất cả những giá
trị văn hóa cùng những yếu tố tiêu cực trong đám tang truyền thống không còn
trong tang lễ thực hiện theo nghi thức đạo Tin lành.
Theo đạo Tin lành, khi chết linh hồn của người Tin lành sẽ được lên thiên
đàng, nhập vào thế giới sáng sủa và trong sạch của Thiên Chúa, ngược lại, linh hồn
của những người không theo đạo Tin lành sẽ nhập vào thế giới tối tăm và bẩn thỉu
của các quỷ thần. Đạo Tin lành cũng nhấn mạnh tới Ngày phán quyết ngay sau khi
Thiên Chúa giáng thế lần thứ hai. Vào ngày đó, nếu ai theo đạo Tin Lành sẽ được
lên thiên đường còn những người không theo Tin lành sẽ bị đày xuống địa ngục.
Những điều này cũng góp phần vào việc chia rẽ giữa những người Hmông theo đạo
Tin lành và những người không theo đạo. Đặc biệt, một số người Hmông cao niên
có vợ hoặc chồng đã quá cố và đã được tổ chức tang lễ theo nghi thức truyền thống,
sau khi cải đạo theo Tin Lành họ đều có sự băn khoăn và lo lắng liệu linh hồn của
họ có thể tìm được người bạn đời của mình ở thế giới bên kia hay không.
Bảng 3.13. So sánh giữa đám tang của người Hmông truyền thống và
người Hmông theo Tin lành
Truyền thống
Tin Lành
Để lâu, khoảng 3- 7 ngày
Không để quá 48 tiếng
Chọn ngày, chọn giờ đẹp
Không cần chọn ngày, chọn giờ
Kỵ chôn trùng ngày
Không kỵ ngày trùng
112
Một ban tổ chức với nhiều người tham gia
Mục sư đứng ra tổ chức
Uống nhiều rượu, tổ chức to
Không uống rượu, không tổ chức to
Chi phí khoảng 40- 50 triệu đồng
Chi phí khoảng 10 triệu đồng
Có khóc than nhiều
Không khóc than
(Nguồn tư liệu thực địa của tác giả, năm 2014)
3.4. Văn hóa lối sống của người Hmông theo Tin lành
Đạo đức Tin lành được hình thành từ đức tin tôn giáo; đức tin tôn giáo và
lối sống đạo đức thể hiện ở câu trong Kinh thánh: Người công chính sẽ sống bởi
đức tin [104]. Theo quan điểm thần học Tin lành, đức tin thể hiện qua ba điểu cơ
bản: chỉ có Đức Chúa trời (Đức Chúa trời có lòng xót thương, nhân từ và công
minh), chỉ có Kinh thánh và chỉ có ân điển.
Đạo đức Tin lành nhấn mạnh đến nguồn gốc đạo đức lưu xuất từ bản thể
của Đức Chúa trời, bản chất của đạo đức phản ánh ý chí của Đấng Tối cao trong sự tạo
dựng và cứu rỗi nhân loại, yếu tố cơ bản của đạo đức chân chính được Đức Chúa Trời
cung cấp qua Kinh thánh, qua thế giới tự nhiên, qua con người và lịch sử [104].
Những điểu răn dạy trong Kinh thánh hình thành nên những chuẩn mực
trong hành động của tín đồ nhằm hoàn thiện con người. Những chuẩn mực này dần
Lối sống là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những
hình thức mang tính ổn định, đặc trưng cho cá nhân hay nhóm. Những
hình thức này được quy định bởi trình độ nhận thức về lẽ sống cũng như
điều kiện thỏa mãn những nhu cầu liên quan đến giá trị văn hóa [65 ;tr.
21]. Lối sống hay phong cách sống, nếp sống là những nét điển hình,
được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời
sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa.
trở thành nếp sống của tín đồ và được mọi người chấp nhận thực hành tự nguyện.
Khi đã là tín đồ của một tôn giáo nào thì người đó sẽ chịu sự chi phối của
các quy định trong giáo luật và những luật lệ này ảnh hưởng tới cuộc sống thường
113
nhật của họ. Người Hmông theo Tin lành cũng đồng nghĩa với việc đạo đức, lối
sống của họ mang hơi hướng tôn giáo, đạo đức là một phần trong giáo lý tôn giáo
dạy con người phải ăn ở ứng xử như thế nào [104 ].
Giáo lý của đạo Tin lành quan niệm đạo đức có nghĩa là người tín đồ có
nhiệm vụ với tôn giáo gắn liền với trách nhiệm xã hội. Khi hoàn thành các trách
nhiệm bổn phận với xã hội thì tức là cũng mang giá trị tôn giáo, đều đáng trân trọng
và có ý nghĩa đối với xã hội.
Theo đạo Tin lành, mỗi người nên có một nghề nghiệp chân chính, và chính
công việc này là hoạt động đạo đức tạo nên một cuộc sống hợp với Đức Chúa Trời.
Trong xã hội truyền thống ít ai nghĩ công việc mình làm, xã hội thế tục
mình đang sống có giá trị với ý nghĩa tích cực. Giáo lý đạo Tin lành đã đưa cuộc
sống xã hội hằng ngày lên tầm cao trong ý nghĩa tôn giáo, một bước san bằng quan
trọng trong hệ thống thân phận của giai cấp và một tư tưởng góp phần chuyển biến
nên xã hội hiện đại [104, tr. 56].
Điều này góp phần lý giải vì sao Tin lành hợp với các nước phát triển, nước
đang phát triển với sự tăng trưởng các khu công nghiệp. Vừa tạo động lực trong sản
xuất kinh tế, vừa góp phần điều chỉnh, bổ sung thêm các giá trị đạo đức cho phù
hợp ở mỗi địa bàn Tin lành hoạt động, cũng như hình thành nên một lối sống mang
đậm chất Tin lành. Còn đối với những vùng xa xôi có đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống thì sự suy giảm niềm tin vào văn hóa truyền thống chính là cơ hội để đạo
đức và lối sống Tin lành du nhập và phát triển.
Đạo Tin lành đề cao vai trò của Kinh thánh, coi đó là chuẩn mực của đức
tin và đạo đức, mọi người sống và hành động theo Kinh thánh. Tín đồ đạo Tin lành
dù theo hệ phái nào cũng có đựa trên lập trường Kinh thánh rồi mới đến quyền uy
của Giáo hội, các ý kiến đưa ra của giáo hội hay những giáo sỹ phải được kiển
nghiệm thông qua Kinh thánh mới có giá trị.
Theo quan niệm của đạo Tin lành, cuộc sống trần thế có được là do Đức
Chúa trời chịu phạt để cho loài người, nên đạo Tin lành rất coi trọng lòng biết ơn.
Trong lối sống của tín đồ đạo Tin lành biết ơn Đức Chúa trời đi cùng với việc nêu
114
cao những giá trị nhân văn trong tôn giáo và xã hội trần thế. Con người vinh danh
Chúa bằng những việc làm tốt đẹp, lương thiện, xuất phát từ sự tự nguyện và thành
thật chứ không phải chỉ là hình thức.
Cũng chính lòng biết ơn này là động động lực thúc đẩy tín hữu Tin lành tin
thờ Đức Chúa trời và tham gia tích cực vào đời sống xã hội, bảo vệ môi trường, chia
sẻ giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Mỗi tín đồ đạo Tin lành cần phải có nếp sống đạo
đức làm gương tốt cho người khác trong xã hội [47, tr.269, 270. Tít 2: 1-15:3;1-11].
Giá trị của lối sống Tin lành đã góp phần duy trì đạo đức chung, tiến tới
hoàn thiện nhân cách và tác động đến sự phát triển xã hội. Phát huy lối sống đạo
đức Tin lành phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, hoàn cảnh xã hội hiện tại
giúp cho văn hóa giáo dục, xây dựng con người văn hóa, trật tự xã hội, phát triển
các hoạt động sản xuất kinh tế để phát triển đất nước.
Có thể ghi nhận những đóng góp từ những giá trị nhân bản của đạo Tin lành
khi thâm nhập vào văn hóa tộc người, văn hóa Hmông, đó là lòng bác ái thương
người, sự chính trực, tính hướng thiện, sự bền vững của hôn nhân gia đình, tôn
trọng sự sống, thanh lọc một số phong tục giảm bớt mê tín dị đoan.
Người theo đạo Tin lành cho rằng, những điều răn dạy trong Kinh thánh là
những quy định của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể thấu suốt mọi việc của dân
chúng ở trần gian, nên những lời răn dạy trong Kinh thánh là sự dẫn lối thiêng liêng.
Do đó, những người theo đạo sống có nguyên tắc, kính Thiên Chúa. Họ thực hiện
nghiêm túc và tự nguyện tuân theo những lời dạy bảo của Thiên Chúa và Hội thánh
của Thiên Chúa.
Một bộ phận người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai đã thực hiện lối
sống khoa học, lành mạnh và từ bỏ những hủ tục như không lấy vợ hai, không
nghiện thuốc phiện, không cướp của, giết người. Họ làm theo những điều răn dạy
trong Kinh thánh, đó là luôn làm điều thiện, tránh điều ác, và luôn hoàn thiện đạo
đức cá nhân, nên đã góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội.
Việc theo đạo Tin lành đã làm thay đổi nếp sống của người theo đạo; đáp
ứng nhu cầu tâm linh của họ, ước mơ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những điều
115
răn dạy mà đạo Tin lành nêu ra phù hợp với nhu cầu của đồng bào, giúp hoàn thiện
đạo đức cá nhân, giúp đồng bào giảm bớt gánh nặng vì những phong tục tập quán
lạc hậu trong tổ chức ma chay, cưới xin, chữa bệnh. Sinh hoạt tôn giáo cộng đồng
hấp dẫn quần chúng, đặc biệt là lớp trẻ và phụ nữ.
Một trong những hạn chế của văn hóa Hmông truyền trống là việc cầu cúng
khi bị bệnh, xuất phát từ niềm tin rằng, con người bị ốm là do Ma, do không cúng
bái đúng. Chính vì vậy, thay vì phải đến trạm xá thăm khám, điều trị theo phác đồ
của bác sỹ thì nhiều người Hmông mời thầy cúng, tốn kém tiền của cho những buổi
cúng ma chữa bệnh mà không có kết quả.
Đối với người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, việc đến trạm xã, hỏi ý kiến
của bác sỹ khi bị đau ốm là rất thường xuyên. Nó xuất phát từ thay đổi trong tư duy,
họ nhận biết rằng, bị ốm không phải do ma làm, không phải vì liên quan đến cúng
bái mà là cơ thể yếu thì bị nhiểm bệnh. Vì vậy, thay vì cúng bái rườm rà, tốn kém,
người Hmông theo Tin lành khám chữa bệnh tại cơ sở y tế. Điều này giúp nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người dân, nhất là việc sinh đẻ của người phụ nữ, giảm tỷ
lệ biến chứng sau sinh.
Biểu đồ 3.3. Thực trạng khám chữa bệnh của người Hmông ở Lào Cai
Từ Biểu đồ về thực trạng khám chữ bệnh của người Hmông, ta dễ dàng
nhận ra rằng, khi có bệnh mà không thể tự khỏi, nhất là khi sinh nở thì 100% người
Hmông theo Tin lành đến trạm y tế, tỷ lệ này đối với người Hmông theo tín ngưỡng
116
truyền thống chỉ chiếm 57,5%. Đặc biệt, khi đã cải đạo thì việc nhờ thầy cúng ma
khi bị ốm đau trong cộng đồng người Hmông hoàn toàn không còn nữa; tỷ lệ này
đối với người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống vẫn cao 77,5%. Nhìn vào đây,
có thể nhận thấy rằng, ý thức về việc khám chữa bệnh của người Hmông theo Tin
lành cao hơn hẳn so với người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống. Điều này rất
có lợi về sức khỏe và chi phí kinh tế. Việc nhờ thầy cúng ma khi bị ốm đau khá tốn
kém, nhiều khi chậm chễ còn ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe, có khi tử vong.
Đạo Tin lành còn khuyên con người nên sinh đẻ ít con để nuôi dạy con cho
tốt, con gái cũng như con trai. Trước đây, tâm lý của người Hmông là thường muốn
sinh con trai hơn con gái, bởi theo tập tục, con trai sẽ là người thờ cúng bố mẹ,
không có con trai thì kể như người chết không có người chôn, không có người thờ
cúng, linh hồn sẽ lang thang, đói khổ và không trở về với tổ tiên. Còn với giáo lý
Tin lành, con người khi chết, dù có con trai hay gái, hoặc không có con, nếu là
người tốt thì linh hồn đều được lên thiên đàng với Thiên Chúa. Vì thế, tâm lý muốn
sinh con trai phần nào cũng giảm bớt trong tâm lý đồng bào.
Đạo Tin lành còn đưa đến một số yếu tố tích cực khác về lối sống như: tuân
thủ pháp luật, tích cực lao động sản xuất, học tập, ham muốn làm giàu, giảm hẳn
uống bia rượu, hút thuốc,… kêu gọi bỏ đi những tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, dễ đi
vào lòng người, phù hợp tâm lý bị kìm nén bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh
thần còn nhiều khó khăn.
Theo khảo sát thực tế của Tổng hội HTTLMB, trước khi tin Chúa thì đại đa
số nam giới nghiện rượu, nhiều người nghiện thuốc phiện và ma túy, đã có nhiều
bản trồng thuốc phiện để “tự sản tự tiêu”. Nên có thể nói, người Hmông khi chưa tin
Chúa, thì họ không chỉ bị trói buộc trong vòng kiềm tỏa của tín ngưỡng mà còn bị
các tệ nạn xã hội khống chế. Với những gia đình tin Chúa, họ đã loại bỏ tất cả các
ma, nếu bị ốm đau, họ đi khám bác sĩ thay vì đến thày cúng; các chị em được tôn
trọng, được đi sinh hoạt vui vẻ, được thể hiện mình, được ăn mặc đẹp trong những
buổi sinh hoạt thờ phụng thay vì phải hầu hạ ông chồng say xỉn như trước đây.
117
Những gia đình theo Tin lành đều có con cái đi học hành; từ bỏ việc trồng và hút
thuốc phiện; thanh niên không còn nghiện rượu, yêu thương vợ hơn thay vì đánh vợ
như trước kia. [114, tr. 79].
Trong đó nổi bật là lối sống tiết kiệm. Do những nghi lễ cầu kỳ, phức tạp
trong các buổi cúng như trong đám ma, đám cưới,... gây tốn kém về tiền bạc rất lớn,
và việc thực hiện các nghi lễ này dần trở thành gánh nặng về vật chất và tinh thần
cho người Hmông. Khi theo Tin lành, ảnh hưởng bởi sự tiết kiệm trong sinh hoạt
đời thường và đơn giản trong tổ chức nghi lễ tôn giáo mà đã thu hút được người
Hmông theo đạo.
Bảng 3.4. Chi phí trong cưới xin, tang ma của người Hmông ở Lào Cai
Truyền thống
Tin lành
Cưới xin
- Tiền thách cưới là 30 – 45
- Tiền thách cưới 10 triệu đồng
triệu đồng
- Tổng tiền để tổ chức đám
- Tổng tiền để tổ chức đám
cưới là: 70 triệu đồng
cưới là: 20 triệu đồng
- Sử dụng rượu trong đám
- Không sử dụng rượu bia, chỉ
cưới: khoảng gần 100 lít
uống nước ngọt
Đám ma
Để lâu, khoảng 3- 7 ngày
Không để quá 48 tiếng
Chi phí khoảng 40- 50 triệu
Chi phí khoảng 10 triệu đồng
đồng
Uống nhiều rượu, tổ chức to
Không uống rượu, không tổ
chức to
(Nguồn tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014)
Tin lành còn mang đến cho đồng bào Hmông cách tiếp cận và thực hiện nếp
sống văn minh rất thiết thực. Sau khi tiếp nhận Tin lành, sự thay đổi trong đời sống
của người Hmông không chỉ dừng lại ở một vài nếp sống sinh hoạt, mà có thể ví
như một “cách mạng văn hóa”. Những hủ tục, tập quán lâu đời nhưng lạc hậu, kìm
hãm sự phát triển của người Hmông nay dễ dàng được đồng bào từ bỏ. Đồng bào
tiết kiệm (thờ nhiều ma tốn kém, nay chỉ thờ một con ma Giê su), con ốm đồng bào
118
biết đưa đến thầy thuốc, đến cơ sở y tế để chữa trị (thay vì mời thầy mo, cúng con
ma). Người đàn ông ít hoặc không uống rượu; người phụ nữ bước ra ngoài không
gian nhỏ hẹp quanh bếp, quanh nhà. Người Hmông theo đạo thay thổi sáo, múa
khèn bằng hát Thanh ca đệm nhạc điện và chơi pianô. Có thể nói một cuộc sống
mới vệ sinh hơn, văn minh hơn, trong đó nhiều sinh hoạt văn hóa, tinh thần đã thay
đổi đang dần dần hình thành trong cộng đồng người Hmông theo Tin lành ở miền
núi phía Bắc Việt Nam [114, tr,193].
So với các tôn giáo khác, đạo Tin lành có một ưu thế rất lớn trong hoạt
động xã hội từ thiện, đây còn là một đặc trưng nhận biết của Tin lành và là một
trong những bổ trợ trong việc truyền đạo. Chính vì vậy, không khó để thấy những
hoạt động xã hội của đạo Tin lành trong người Hmông ở Lào Cai.
Tiểu kết chương 3
Khi đã là nhu cầu tôn giáo chính đáng của một bộ phận người Hmông, Tin
lành cũng có những đóng góp đối với đời sống văn hóa; hình thành nên một nền văn
hóa mới của người Hmông. Dưới sự tác động của đạo Tin lành, văn hóa truyền
thống của người Hmông đã có sự biến đổi, thậm chí có những yếu tố thay đổi căn
bản. Nó được thể hiện trên các mặt như thiết chế xã hội truyền thống với vai trò của
gia đình, dòng họ, cộng đồng; các lễ thức dân gian trong chu kỳ đời người; chuyển
đổi trong niềm tin tôn giáo, phong tục tập quán… Tất nhiên bên cạnh đó vẫn có
những yếu tố cực đoan khi người Hmông theo đạo Tin lành. Đó lầ, những giá trị của
tín ngưỡng truyền thống bị gạt bỏ.
Những thành tố trong văn hóa vật chất của người Hmông theo đạo Tin lành
có sự chuyển biến dần dần có sự kế thừa từ truyền thống, sự kết hợp giữa mới và cũ
để tạo ra sự thuận tiện trong sinh hoạt hàng ngày. Sự chuyển biến trong trang phục
và nhà cửa của người Hmông không chỉ vì theo đạo Tin lành, mà đây cũng là xu
hướng của sự phát triển và hội nhập. Với sự phát triển của kinh tế, xã hội, chữ
Hmông la tinh có nhiều ưu điểm để tồn tại và phát triển trong cộng đồng người
119
Hmông theo đạo Tin lành. Với việc sử dụng thường xuyên Kinh Thánh, Thánh ca,
kể cả việc sử dụng tin nhắn điện thoại,...là môi trường thuận lợi đối với chữ Hmông
la tinh trong người Hmông theo đạo Tin lành.
Những yếu tố văn hóa tinh thần, nhất là những yếu tố liên quan đến tâm linh tín
ngưỡng thì có sự thay đổi nhanh chóng, tạo sự khác biệt căn bản so với truyền thống.
Những biến đổi văn hóa của người Hmông theo Tin lành, bên cạnh những
mặt tích cực như xóa bỏ một số hủ tục không phù hợp trong việc thực hành các nghi
lễ, làm giảm bớt đi những tệ nạn xã hội,… vẫn có cả mặt hạn chế, như làm mai một
một số đặc trưng văn hóa của tộc người, gây mất đoàn kết trong gia đình, dòng họ
120
và cộng đồng làng bản của người Hmông tại địa bàn tỉnh Lào Cai.
CHƯƠNG 4
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN HÓA HMÔNG
THEO TIN LÀNH Ở LÀO CAI
4.1. Những ảnh hưởng của việc truyền đạo và theo đạo Tin lành
Quá trình truyền đạo và theo đạo Tin lành trong vùng đồng bào Hmông
ở Lào Cai đã góp nhất định trong văn hóa, lối sống; có nhiều ảnh hưởng cả tích
cực lẫn những tác động tiêu cực, ảnh hưởng tới nhiều mặt trong đời sống xã hội
của tộc người.
4.1.1. Ảnh hưởng tích cực
Việc người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai cũng là một trong nhiều cách
lựa chọn, một sự thích ứng giúp người dân khắc phục những mặt hạn chế không còn
phù hợp của văn hóa truyền thống.
- Xây dựng lối sống văn hóa mới: Xuất phát là một tôn giáo cải cách, đạo
Tin lành luôn đề cao tư tưởng tự do, dân chủ; là tôn giáo gắn với thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đạo Tin lành đã có ảnh hưởng lớn trong việc ưu tiên sản
xuất kinh tế, tiếp thu khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Với tư tưởng tiến bộ, người
Hmông theo đạo Tin lành giúp xây dựng nếp sống mới, vệ sinh, tiết kiệm; xóa bỏ
được một số tập tục văn hóa không còn phù hợp, rườm rà, là gánh nặng về kinh tế
và tinh thần cho người Hmông trong cưới xin, tang ma, cúng bái khi bị ốm đau,...
Những điều răn dạy trong Kinh thánh mà đạo Tin lành áp dụng đối với tín
đồ giúp cho người Hmông điều chỉnh được thói quen như không uống rượu, chơi cờ
bạc, không nghiện hút, làm điều lành, tránh làm điều dữ,...
- Mở rộng thêm mối quan hệ cố kết tôn giáo: Bên cạnh các mối quan hệ
dòng họ, người Hmông theo Tin lành còn có mối quan hệ Đạo. Nếu trong quan hệ
dòng họ truyền thống chỉ những người “cùng họ, cùng ma” mới giúp đỡ nhau trong
121
tang ma, cưới xin hay khi gặp khó khăn; khi theo Tin lành nếu có những vấn đề cần
giúp đỡ những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thì tất cả những người Hmông đồng
đạo đều đóng góp sức và coi đây là trách nhiệm không phân biệt cùng họ, cùng ma
hay khác họ, khác ma; thậm chí cả những tín đồ ở vùng lân cận cũng tham gia khi
có sự giúp đỡ, chia sẻ về vật chất lẫn tinh thần.
Người Hmông không chỉ có quan hệ đồng tộc, họ tộc trong vùng mà còn có
các mối quan hệ xuyên biên giới, xuyên quốc gia; người Hmông theo Tin lành cũng
có các mối quan hệ đồng đạo xuyên/liên quốc gia mà không chỉ bó hẹp trong một
dòng họ. Điều này giúp cho người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai có thêm cơ hội
tiếp xúc với những cái mới, cái tiến bộ và điều kiện phát triển cá nhân. (xem thêm
mục 3.2.2.4.). Như vậy, các mối quan hệ của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai
mở rộng nhiều chiều hơn so với người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống.
- Góp phần bảo đảm bình đẳng giới, người Hmông theo Tin lành đã tạo ra
bước chuyển trong nhận thức đối với vai trò của người phụ nữ, hướng mối quan hệ
về giới theo thế cân bằng, bình đẳng hơn. Hàng tuần, người phụ nữ Hmông được
nghỉ ngơi để đi cầu nguyện tập trung, giao lưu tiếp xúc với nhiều người để mở rộng
quan hệ; theo Tin lành, nhiều phụ nữ Hmông ở Lào Cai còn khẳng định được vị thế
của mình (xem thêm mục 3.2.3). Cũng chính vì lẽ đó mà người Hmông theo Tin
lành quan niệm không quan trọng sinh con trai hay con gái, góp phần thực hiện kế
hoạch hóa gia đình trong cộng đồng người Hmông ở tỉnh Lào Cai.
Tóm lại, đạo Tin lành với những điểm mạnh của tôn giáo hiện đại, dân chủ,
đề cao con người, đề cao cá nhân, đề cao sự tiến bộ đã ít nhiều giúp người Hmông
bỏ được những cái cổ hủ, rườm rà trong văn hóa, tín ngưỡng truyền thống để tiếp
thu những cái mới, cái văn minh. Thực tế ở Lào Cai, một bộ phận người Hmông
theo Tin lành có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Các tín đồ đạo
Tin lành bỏ những tập tục lạc hậu, áp dụng y học hiện đại để chữa bệnh, thực hiện
tốt kế hoạch hóa gia đình; trẻ em đi học đông hơn, giảm hẳn tình trạng bỏ học; bỏ đi
122
các tệ nạn xã hội;... đều có ảnh hưởng tốt đến kinh tế - xã hội – văn hóa ở Lào Cai.
4.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Một vấn đề luôn có tính hai mặt, đối lập với những ưu thế mà đạo Tin lành
đem lại trong cộng đồng người Hmông ở Lào Cai thì việc cải đạo của người Hmông
cũng có những hạn chế nhất định.
- Việc một bộ phận người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai sẽ làm mất dần
những giá trị văn hóa - xã hội truyền thống. Khi theo Tin lành những phong tục,
tập quán (nhất là liên quan đến tín ngưỡng như thế giới quan truyền thống, nghi lễ
thờ cúng tổ tiên, cúng ma,...)bị xóa bỏ hoàn toàn. Vì không thực hiện những nghi lễ
truyền thống thì bản sắc văn hóa sẽ bị mờ nhạt dần trong cộng đồng người Hmông
theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai.
Thanh niên Hmông theo Tin lành ở Lào Cai ít hoặc không tham gia các
buổi sinh hoạt văn hóa văn nghệ; trong những dịp lễ hội truyền thống, họ không thổi
khèn thổi sáo, hát dân ca,...mà là hát Thánh ca, đọc Kinh Thánh, cầu nguyện; nhất là
thế hệ trẻ kế cận hiện nay đã ít nhiều làm cho nền văn hóa dân tộc bị mai một.
Trong các mối quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng xã hội, hoạt động của
đạo Tin lành cũng có ảnh hưởng không tốt, tạo ra nhiều tình huống phức tạp, chia rẽ
các mối quan hệ giữa vợ và chồng; giữa bố mẹ và con cái; đến mối quan hệ giữa các
thành viên trong dòng họ; mối quan hệ giữa các dòng họ, cũng như quan hệ trong
cộng đồng làng bản. Thậm chí, trong nhiều trường hợp còn liên quan đến những
khu vực, địa phương khác, với các dân tộc khác; làm phá vỡ những mắt xích trong
cố kết cộng đồng.
- Vai trò của tín ngưỡng truyền thống bị giảm dần: Tín ngưỡng, tôn giáo là
một trong những thành tố của văn hóa, khi người Hmông theo đạo Tin lành, tức là
những yếu tổ văn hóa trong tín ngưỡng truyền thống đã bị mất đi, như quan niệm về
thế giới, về con người; các nghi thức thờ cúng, cách thức thực hành nghi lễ, các loại
nhạc cụ cổ truyền sử dụng trong các buổi sinh hoạt tín ngưỡng,... Vì vậy, theo đạo
123
Tin lành, bản sắc văn hóa của người Hmông đã bị mai một.
- Hình thành nên các nhóm với những mâu thuẫn đan xen: Việc thực hành
các nghi lễ trong tín ngưỡng truyền thống là phương tiện để củng cố mối quan hệ
thân tộc, góp phần cố kết cộng đồng, xã hội. Với một bộ phận người Hmông bỏ tín
ngưỡng truyền thống để theo đạo Tin lành, thì mối quan hệ đồng tộc bị rạn nứt, tạo
ra sự phân chia, đối lập giữa các nhóm, từ nhóm giữa tín ngưỡng truyền thống với
nhóm theo Tin lành đến các nhóm theo Tin lành ở các hệ phái khác nhau.
Những người Hmông trước đây là anh em cùng họ, nhưng khi theo Tin lành
giữa họ xuất hiện khác biệt về nhận thức dẫn đến xung đột. Thậm chí xung đột này
còn xuất hiện giữa các thành viên trong một gia đình có người theo đạo và không
theo đạo Tin lành, gây ra sự chia rẽ trong nội bộ gia đình.
Theo Tin lành cũng gây ra mâu thuẫn về giới. Trong một gia đình nếu
người chồng không theo Tin lành thì rất khó chấp nhận việc người vợ theo Tin lành.
Vì người phụ nữ theo đạo Tin lành có những hoạt động mang tính hướng ngoại,
được nghỉ ngơi vào ngày thứ Bảy hoặc Chủ nhật để đi cầu nguyện tập trung, gặp gỡ
giao lưu, được khẳng định mình với xã hội. Người đàn ông muốn theo Tin lành thì
buộc phải bỏ rượu, bỏ cờ bạc, chí thú làm ăn,... vậy nên đa số đàn ông, đặc biệt là
trung tuổi trở lên, nghiêng về truyền thống thì không thích Tin lành.; cũng không
thích người phụ nữ theo Tin lành. Chính vì vậy đã có xung đột giữa người phụ nữ
và người đàn ông Hmông về việc theo hay không theo Tin lành trong gia đình, dòng
họ, cộng đồng xã hội.
Sự cải đạo sang Tin lành đã gây ra xung đột thế hệ, giữa thế hệ trẻ và thế hệ
già. Theo truyền thống người Hmông, vào ngày đầu năm mới, những người thuộc
thế hệ trẻ phải đi thăm và vái lạy những người già trong bản. Theo Tin lành, họ lại
không thực hiện nghi thức đó, họ chỉ kính lạy trước Chúa. Trong văn hóa của người
Hmông, vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ - người có uy tín - đa số là
những người có tầm ảnh hưởng đối với cộng đồng, với các thành viên khác, nhất là
124
với lớp con cháu. Theo Tin lành, thanh niên Hmông có nhiều cơ hội tiếp thu những
cái mới, và giao lưu với những người khác với ông cha, đó là những người truyền
đạo; cho nên họ thấy được nhiều cái “lạc hậu” trong quan niệm và nhận thức của
già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ; và họ không còn nghe theo nữa.
Bản thân những người Hmông theo Tin lành cũng có sự phận biệt, đối lập.
Ở các hệ phái khác nhau trong cùng một địa bàn nhưng tổ chức cầu nguyện tập
trung ở một địa điểm riêng, như Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Liên
Hữu Cơ đốc,... Bên cạnh đó, việc tranh giành tín đồ giữa các hệ phái cũng đã xảy ra,
gây chia rẽ khối đại đoàn kết, làm cho tình hình càng thêm phức tạp.
Một trong những giáo luật của Tin lành là không uống rượu, cờ bạc, nghiện
hút, cãi chửi nhau, ăn trộm,... nhưng không phải người Hmông nào theo Tin lành
cũng giữ đúng luật lệ, vẫn có trường hợp nghiện hút, nghiện rượu, đánh chửi vợ
con, ... Điều này gây ra mâu thuẫn giữa những người Hmông thật sự theo Tin lành
với những người Hmông vi phạm các nguyên tắc.
Những mâu thuẫn đan xen nói trên đã gây ra không chỉ gây ra xung đột về
văn hóa mà còn tạo ra mất ổn định xã hội, nhất là thời kỳ đẩu mới truyền đạo và
theo đạo Tin lành.
- Gây ra tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép. Người Hmông từ xa
xưa trong lịch sử đã gắn với các cuộc di cư, họ là dân tộc có tỷ lệ phát triển dân số
nhanh và tốc độ di chuyển dân cư rất lớn [62, tr.28]. Người Hmông di cư với nhiều
đặc điểm như: di cư không chỉ trong một quốc gia mà liên/xuyên biên giới, xuyên
quốc gia; thời gian di cư không đồng nhất giữa các luồng di cư; phương thức di
chuyển đa dạng... [62, tr. 63-73].
Năm
Hộ
Khẩu
Ghi chú
2005
177
961
Địa bàn di cư đến là Tây Nguyên,
Thanh Hóa
2006- 2010
610
3.069
125
Bảng 4.1: Tình hình di cư của người Hmông ở tỉnh Lào Cai
2007-2012
637
3.262
2011
121
619
Chủ yếu di cư vào Điện Biên
Trong số các hộ dân tộc Hmông di cư đến có 50% là theo đạo Tin lành
(Nguồn ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2012)
Một đặc điểm quan trọng trong di cư của người Hmông chính là có liên
quan đến tôn giáo gắn với nhu cầu cải đạo theo Tin lành. Để tránh cô lập, phân biệt,
người Hmông thường di chuyển đến vùng đã có nhiều người Hmông theo Tin lành
sinh sống để dễ dàng hòa nhập. Và cũng không ít người Hmông vượt biên trái phép
để gặp người đồng tộc, đồng đạo hay với những nguyên nhân khác như để được học
thành Mục sư, được định cư ở nước ngoài,... mà thực chất là do sự lôi kéo của đối
tượng bên ngoài.
Có điều cần nói thêm, là việc di dịch cư của người Hmông theo Tin lành
thời gian còn có lý do không phải trực tiếp từ phía Tin lành mà ở một số cơ sở đối
xử nặng nề với việc theo đạo nên một bộ phận người Hmông di cư để tìm nơi thuận
lợi cho việc sinh hoạt đạo Tin lành.
Khi xem xét sự ảnh hưởng của đạo Tin lành đối với văn hóa, xã hội của
người Hmông ở Lào Cai, tác giả luận án nhận thấy rằng, Tin lành không phải hoàn
toàn không phù hợp; ở Tin lành vẫn có những ưu điểm đóng góp cho văn hóa của
người Hmông. Thực tế ở Lào Cai, những điểm nhóm đã đăng ký và được công nhận
sinh hoạt ổn định, các tín đồ người Hmông có ý thức chấp hành đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nếp sống văn hóa trong cộng đồng người
Hmông theo Tin lành được hình thành và duy trì như: tình trạng rượu chè, nghiện
hút, cờ bạc, trộm cắp,...rất ít xảy ra. Bên cạnh đó, đạo Tin lành ở Lào Cai đã kết hợp
với các chương trình từ thiện nhân đạo, phát triển cộng đồng đem lại hiệu quả kinh
tế cho người dân, góp phần ổn định và phát triển xã hội. Khi theo đạo Tin lành,
126
người Hmông ở Lào Cai bỏ được nhiều tập quán không còn phù hợp, nghi lễ rườm
rà, tốn kém để tập trung làm ăn,... Những điều này khá phù hợp với công cuộc xây
dựng đời sống văn hóa mới của Nhà nước ta hiện nay.
Hiện nay, đạo Tin lành trong một bộ phận người Hmông ở Lào Cai là một
hiện thực, nó đã và đang mang lại những yếu tố tích cực, góp phần thay đổi lối
sống, niềm tin tôn giáo. Tuy nhiên, đạo Tin lành cũng gây ra không ít những khoảng
trống trong văn hóa truyền thống của người Hmông, ảnh hưởng không mong muốn
đến nhiều mặt của đời sống xã hội, an ninh, quốc phòng.
4.1.3. Thái độ của cộng đồng không theo Tin lành và của chính quyền
đối với vấn đề nghiên cứu
4.1.3.1. Thái độ của cộng đồng không theo đạo Tin lành
Đạo Tin lành có hơn 100 năm du nhập vào Việt Nam, cho đến hiện nay đạo
Tin lành đã là một trong sáu tôn giáo lớn ở Việt Nam và các tổ chức,hệ phái Tin
lành dần được công nhận tư cách pháp nhân và đi vào hoạt động bình thường, đúng
pháp luật.
Đối với dân tộc Hmông, đạo Tin lành đã có một quá trình du nhập và phát
triển từ những năm 1980 đến nay với ba giai đoạn chính (Xem Mục 2.1.1). Từ một
tôn giáo “lạ”, “mới” và ít nhiều có những “uẩn khúc” trong nhận thức của cán bộ
cũng như người dân địa phương; giờ đây đạo Tin lành trong dân tộc Hmông đã trở
thành một thực thể và hoạt động ổn định, tuân thủ theo pháp luật.
Ở Lào Cai có 24.166 người Hmông theo đạo Tin lành với 6 hệ phái, chiếm
khoảng 17% tổng số người Hmông của tỉnh (Xem Mục 2.1.2); việc một bộ phận
người Hmông theo đạo Tin lành đã gây ra những phản ứng trong cộng đồng người
Hmông vẫn đang giữ văn hóa truyền thống.
Giai đoạn đầu, khi mới tiếp cận với đạo Tin lành cũng như những người
Hmông theo Tin lành, những người giữ văn hóa truyền thống đã có sự phản ứng
mạnh mẽ và coi là không thể chấp nhận được. Đây là giai đoạn xảy ra xung đột về
văn hóa nhất, từ đó nảy sinh mâu thuẫn trong cộng đồng người Hmông và ít nhiều 127
cũng ảnh hưởng tới mối quan hệ xã hội của các dân tộc cận cư. Thái độ của người
Hmông giữ văn hóa truyền thống và cộng đồng đã cải đạo là khắc nghiệt, có nhiều
lúc dẫn tới cực đoan khi cô lập làm cho nhiều trường hợp phải chuyển đi nơi khác –
di cư. Lý do được đưa ra là những người Hmông theo Tin lành đã làm mất đi ông bà
tổ tiên, mất đi nguồn gốc tộc người, mất đi những điệu khèn, điệu múa, lễ hội... Khi
được hỏi các chủ thể, họ cho rằng trong gia đình hoặc dòng họ có người theo Tin
lành đã làm đảo lộn trật tự và việc không thực hiện nghi lễ trong tang ma, cưới hỏi
đã làm mất đi văn hóa truyền thống của người Hmông. Tuy nhiên, không phải cộng
đồng phủ nhận hoàn toàn mà vẫn công nhận những ưu điểm của đạo Tin lành đóng
góp trong lối sống.
Hộp 10:
Hạng A Sang - Tả Văn - Sa Pa (Nam, 51 tuổi, chủ gia đình, nông dân)
1. Ông (bà) thấy thế nào khi trong dòng họ hoặc gia đình của mình có người
theo đạo Tin lành: Làm đảo lộn trật tự trong gia đình, họ hàng. Khi đạo Tin lành không
cúng tổ tiên, không thực hiện nghi lễ của người Hmông trong tang ma và cưới hỏi. Như
thế này thì đã làm mất đi truyền thống của người Hmông.
2. Ông (bà) thấy theo đạo Tin lành có đưa lại điều gì tích cực tiến bộ không (Ví
dụ không uống rượu, không hút thuốc,…): Theo đạo Tin lành cũng có mặt tiến bộ như
không uống rượu, không hút thuốc, không thách cưới cao, các nghi lễ trong tang ma,
cưới xin không rườm rà, khi ốm đau không cúng. Tuy nhiên cũng có mặt hạn chế như
khi ốm đau không kịp thời đi chữa bệnh tại các cơ sở y tế mà phải cầu chúa, có khi các
cháu học sinh đang học ở trường bỏ về để đi học hát thánh ca …
(Nguồn thực địa của tác giả, năm 2015)
Theo thời gian, đã có nhận định rõ ràng giữa nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng
với việc lợi dụng tôn giáo, sự thay đổi về nhận thức được đánh dấu bằng Nghị quyết
số 25 (Khóa IX), của Bộ Chính trị, Về công tác tôn giáo, Hà Nội (12/3/2003), cũng
128
từ đây hoạt động của đạo Tin lành đã đi vào ổn định, đúng pháp luật. Cái nhìn của
cộng đồng đối với người Hmông theo Tin lành đã cởi mở hơn, có sự tôn trọng đối
với bộ phận người Hmông theo Tin lành.
Tuy nhiên, chính sự chấp nhận này cũng có nhiều điều đáng lưu ý. Từ việc
cực lực phản đối đến việc chấp nhận, người Hmông theo Tin lành sống cùng với
cộng đồng người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống đã không còn xảy ra những
mâu thuẫn mang tính “bề nổi” tức là không có cãi cọ, không to tiếng với nhau, vẫn
tham dự lễ cưới, đám ma của nhau. Nhưng giữa hai cộng đồng này vẫn có một ranh
giới vô hình, vẫn chưa có sự chấp thuận thực sự, đây là những mẫu thuẫn “ngầm”.
Nhiều khi loại mâu thuẫn này mới là mức cao nhất của thang đánh giá, và sự xung đột
văn hóa vẫn còn diễn ra hoặc tiềm ẩn, tùy vào mức độ ở những thời điểm khác nhau.
1. Thào A Chảo - San Sả Sả Hồ - Sa Pa (Nam, 50 tuổi, chủ gia đình, nông dân).
Ông (bà) bây giờ có quan hệ với những người, những gia đình theo đạo Tin lành
không. Nếu là người trong dòng họ gia đình thì có nhận nó không. Trong anh, em họ
hàng cũng có người theo đạo Tin lành, mình cũng quan hệ với họ nhưng không được
gần gũi lắm, vì họ theo đạo Tin lành họ không thích sống gần gũi với những người, gia
đình không theo đạo, khi có hội họp họ hàng, làng xóm họ thường ngồi riêng một chỗ...
Hộp 11:
2. Vàng Seo Sần cán bộ ban dân vận huyện ủy Bắc Hà
Sinh năm: 1980. Địa chỉ: thôn Phéc Bủng I - xã Bản Phố - Bắc Hà - Lào Cai.
Ông (bà) bây giờ có quan hệ với những người, những gia đình theo đạo Tin lành
không. Nếu là người trong dòng họ gia đình thì có nhận nó không?
Tôi có quan hệ với những người, những gia đình theo đạo Tin lành. Tuy nhiên
mối quan hệ chỉ là quan hệ giữa bản thân với góc cùng đồng bào, cùng là người dân của
nước Việt Nam. Tôi tôn trọng quyền tự do theo đạo của những theo đạo Tin lành, miễn
là họ “sống tốt đời, đẹp đạo”, “kính chúa, yêu nước’, tuân thủ pháp luật. Luôn có mối
quan hệ với họ để thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết
129
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Nếu là
người trong dòng họ gia đình thì cũng sẽ chấp nhận họ.
(Nguồn thực địa của tác giả, năm 2015)
Chính vì vậy, vấn đề là phải hóa giải mâu thuẫn, xung đột thực sự, xuất phát
từ bản chất sự việc để hướng tới một cộng đồng xã hội thống nhất, đồng thuận, cùng
hướng tới mục tiêu chung của đất nước.
4.1.3.2. Thái độ của chính quyền
Đạo Tin lành truyền vào vùng đồng bào Hmông, có hai vấn đề được đặt ra
đối với chính quyền: Một là, tồn tại một thực thể cộng đồng người theo đạo Tin
lành; Hai là, sự hiện diện của một môi trường văn hóa mới- văn hóa Tin lành. Hai
vấn đề này có liên quan chặt chẽ với nhau, đôi khi là một. Do vậy, nội dung này
luận án trình bày thái độ của chính quyền đối với đạo Tin lành, cũng là thái độ đối
với văn hóa Tin lành trong cộng đồng người Hmông.
Thời kỳ đầu, khi đạo Tin lành truyền vào vùng người Hmông, hay nói cách
khác, khi dân tộc Hmông có người theo đạo Tin lành, chính quyền ở các tỉnh miền
núi phía Bắc, trong đó có tỉnh Lào Cai rất bất ngờ và không chấp nhận. Chính
quyền cho rằng, đây không phải là đạo Tin lành mà là đạo Vàng Chứ- một thứ tà
giáo cần loại trừ trong đời sống của người Hmông. Thật ra, câu chuyện là Tin lành
hay là Vàng Chứ được tranh cãi nhau gần mười năm, mãi đến đầu những năm 1990
mới xác định là Tin lành. Tuy nhiên, khi xác định là đạo Tin lành thì không ít ý kiến
cho rằng, đây là đạo Mỹ (đạo của Mỹ) nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”
chống Việt Nam”, và do đó, càng phải loại trừ. Ở đây có điều phải nói thêm là, khi
một bộ phận người Hmông mới theo đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ đã gây ra
những khác biệt về văn hóa, làm mất ổn định xã hội ở nhiều nơi nên dẫn đến sự
130
nghi ngại của chính quyền, nhất là cấp cơ sở.
Nhận thức như vậy, nên ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Lào
Cai nói riêng đã có những kế hoạch công tác nhằm ngăn chặn việc một bộ phận
người Hmông theo Tin lành Vàng Chứ, kể cả những biện pháp hành chính. Các địa
phương cũng cố gắng vận động đồng bào theo Tin lành trở về tín ngưỡng truyền
thống, nhưng hầu như không đem lại kết quả như mong muốn. Một bộ phận người
Hmông vẫn theo Tin lành, và số người theo Tin lành càng tăng lên theo thời gian.
Trong Báo cáo kết quả 10 năm thực hiện Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ trên địa bàn tỉnh Lào Cai, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã nói rõ:“Do
đạo Tin lành khi mới xuất hiện được nấp dưới hình thức tín ngưỡng thờ Vàng Chứ
và Thìn Hùng, hoạt động chưa rõ nét là tôn giáo và luôn có diễn biến phức tạp, gây
ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội. Các địa phương khi
đó chưa nhận diện được vấn đề đồng bào theo đạo Tin lành; có một số địa phương
cho rằng đồng bào bị các thế lực thù địch lôi kéo theo tà đạo,… Vì vậy, các địa
phương trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã rất lúng túng trong việc xác định hoạt động
của đồng bào thuộc tín ngưỡng hay tôn giáo,… Một số cán bộ địa phương đã nôn
nóng và dùng biện pháp hành chính ép đồng bào trở lại với tín ngưỡng truyền
thống, gây căng thẳng giữa đồng bào theo đạo với chính quyền”[7, tr.3].
Ngày 05 tháng 02 năm 2005, Chỉ thị số 01/2005/TTg của Thủ tướng Chính
phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành chỉ rõ tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có việc đồng bào Hmông ở các tỉnh
miền núi phía Bắc theo đạo Tin lành. Cụ thể: (1) Nếu đồng bào thật sự có niềm tin,
tình cảm tôn giáo được sinh hoạt tôn giáo tại gia đình; (2) khi hình thành các điểm
nhóm theo làng (bản, buôn) được đăng ký sinh hoạt tôn giáo với chính quyền cơ sở;
(3) nếu các sinh hoạt tôn giáo ổn định thì sẽ bình thường như mọi hoạt động như
các tôn giáo khác. Sau này, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, ngày 08 tháng 11 năm
2012 của Chính phủ Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng,
131
tôn giáo cũng đã mở ra: công dân (cả đồng bào dân tộc thiểu số) có nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo (tất nhiên kể cả của đạo Tin lành) có nhu cầu tập trung để thực hành
các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bầy tỏ đức tin về tôn giáo mà mình tin theo thì
người đại diện gửi hồ sơ đăng ký sinh hoạt tôn giáo đến Ủy ban nhân dân cấp xã-
mặc dù tổ chức tôn giáo đó chưa được công nhận tư cách pháp nhân (Điều 5),…
Thực hiện chính sách đối với chính sách mới của Nhà nước đối với tôn giáo
và đối với đạo Tin lành như nói trên, thời gian vừa qua, Tỉnh Lào Cai đã ban hành
09 văn bản chỉ đạo, 03 kế hoạch về công tác đối với Tin lành ở địa phương, lập 02
tổ công tác để triển khai việc đăng ký điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo theo bản. Cùng
với các văn bản chỉ đạo, kế hoạch công tác, tỉnh Lào Cai đã tổ chức 73 hội nghị tập
huấn về công tác tôn giáo, về đạo Tin lành và công tác đối với đạo Tin lành cho
5.550 lượt cán bộ chủ chốt của tỉnh, huyện, xã, thôn bản để thống nhất việc giải
quyết và ứng xử với đạo Tin lành.
Năn 2006, chính quyền tỉnh Lào Cai cho đăng ký thí điểm 04 điểm nhóm
Tin lành thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), sau đó rút kinh nghiệm và
mở rộng việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo theo điểm nhóm. Năm 2007, các điểm còn
lại của Lào Cai đã chọn 02 điểm nhóm của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc) cho đăng ký thí điểm cũng là để rút kinh nghiệm. Từ năm 2008 trở đi, chính
quyền tỉnh Lào Cai đã mở rộng việc cấp đăng ký điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo cho
các tổ chức, hệ phái Tin lành khi có đủ điều kiện theo quy định.
Với những việc làm như nói trên của chính quyền, đến tháng 12 năm 2014,
Lào Cai đã có 130 điểm nhóm Tin lành đã đăng ký sinh hoạt tôn giáo với 23.063
người, chiếm 96, 94% số người theo đạo Tin lành ở 227 bản của 53 xã, thị trấn
thuộc 07 huyện, thành phố, trong đó có 77 điểm nhóm với 14.968 người thuộc Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), có 37 điểm nhóm với 6.239 người thuộc Hội
thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, có 11 điểm nhóm với 1.128 người thuộc Hội
thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam,… Năm 2015, chính quyền tiếp tục cấp đăng ký
132
cho 20 điểm nhóm với 1.197 người của các Hội thánh Tin lành.
Bảng 4.2: Điểm nhóm Tin lành đã đăng ký tại Lào Cai năm 2014
STT
Huyện
Số điểm nhóm
Số lượng tín đồ
1
Bảo Yên
26
3.508
2
Bát Xát
20
3.979
3
Bảo Thắng
19
3.629
4
Sa Pa
29
6.077
5
Bắc Hà
30
5.030
6
Văn Bàn
05
449
7
TP Lào Cai
01
72
(Nguồn: Sở Nội vụ, Ban Tôn giáo tỉnh Lào Cai, năm 2014)
Ngoài việc giải quyết cho các điểm nhóm Tin lành đăng ký sinh hoạt tôn
giáo, chính quyền tỉnh Lào Cai còn xem xét tạo điều kiện cho các tổ chức Tin lành
mở các lớp bồi dưỡng thần học và pháp luật cho những người đại diện, người đứng
đầu điểm nhóm; lựa chọn người đi đào tạo chức sắc; chấp thuận mối quan hệ về tổ
chức giữa các điểm nhóm ở Lào Cai với các tổ chức Tin lành đã được Nhà nước
công nhận,...
Nói tóm lại, hoạt động của đạo Tin lành trong đồng bào Hmông ở Lào Cai
đang ổn định và được hợp thức hóa. Và như vậy, văn hóa, lối sống Tin lành trong cộng
đồng người Hmông cũng đang từng bước được chính quyền thừa nhận và tôn trọng.
4.2. Xu hướng phát triển của đạo Tin lành trong người Hmông ở
Lào Cai
4.2.1. Bối cảnh toàn cầu hóa đối với xu hướng phát triển của Tin lành
Toàn cầu hóa làm cho các quốc gia xích lại gần nhau, làm xuất hiện một
ranh giới mềm, đó là mối quan hệ liên văn hóa được mở rộng, các nền văn hóa ngày
133
càng có sự giao lưu, giao thoa, tiếp biến mạnh mẽ. Điều này cũng làm nảy sinh
nguy cơ đồng hóa văn hóa, đánh mất bản sắc ở nhiều nước. Trong quá trình toàn
cầu hóa, các đặc trưng văn hóa ngày càng giữ vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ
đến tiến trình và định hướng phát triển của từng dân tộc, trong đó Việt Nam không
phải là ngoại lệ [63, tr.3].
Toàn cầu hóa (Globalization), được hiểu như
cách thức diễn đạt ngắn gọn cái quá trình mở rộng phổ
và các mối liên hệ của sản xuất, của giao tiếp và của
công nghệ ra khắp thế giới. Quá trình mở rộng vậy đã
làm cho các hoạt động kinh tế và văn hóa đan bện vào
nhau [115, tr.21].
Trong điều kiện mở cửa hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, toàn cầu hóa
không chỉ diễn ra ở lĩnh vực kinh tế ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới mà còn
diễn ra trên lĩnh vực văn hóa - toàn cầu hóa về văn hóa. Quá trình toàn cầu hóa ở
lĩnh vực văn hóa tất yếu cũng đã và đang diễn ra trên lĩnh vực tôn giáo. Từ đây, có
một khái niệm mới xuất hiện, đó là toàn cầu hóa tôn giáo với những biến đổi và tác
động của nó.
Trong thời đại toàn cầu hóa, mọi lĩnh vực, mọi vấn đề, mọi hiện tượng đều
thay đổi nhanh chóng, chúng ta cần nhận thức những hiện thực mới đang diễn ra,
trong đó có tôn giáo. Đặt trong bối cảnh hiện đại hóa gắn với toàn cầu hóa, mối
quan hệ tác động qua lại giữa văn hóa và tôn giáo càng được thể hiện, nhất là vai trò
của tôn giáo trong việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Chính vì vậy, trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta
xác định không thể bỏ qua những giá trị tâm linh và đạo đức của các tôn giáo có mặt
ở Việt Nam. Bộ Chính trị cũng đã công nhận tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài.
Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Vấn đề
đặt ra là cần có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền thống dân tộc với giá trị tâm
134
linh và đạo đức của tôn giáo trong giai đoạn, tình hình mới hiện nay của đất nước.
Toàn cầu hóa tôn giáo là quá trình chuyển từ tính quốc tế, vốn được hiểu
theo nghĩa liên nhà nước sang tính xuyên quốc gia: các chiến lược bành trướng tôn
giáo không còn hoặc ít liên quan đến các quyền bá chủ về chính trị và thường phụ
thuộc vào phạm vi của các logic mới, mà những logic này không còn phụ thuộc vào
mối quan hệ giữa các nhà nước nữa [45, tr. 9-17] .
Toàn cầu hóa tôn giáo đang tạo ra những cơ hội và thách thức cho mọi tôn
giáo có thể quảng bá chính mình, mở rộng ảnh hưởng của mình, chiếm ưu thế hơn
so với các tôn giáo khác.
4.2.2. Đạo Tin lành trong vùng đồng bào Hmông trong thời gian tới
Do những đặc điểm riêng của mình, đạo Tin lành khá thích hợp với các dân
tộc thiểu số (tộc người) không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, trong khi đó Việt
Nam lại là quốc gia có nhiều dân tộc thiểu số. Cho nên, những năm tới, đạo Tin
lành sẽ mở rộng hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,
Tây Bắc, trong đó có dân tộc Hmông ở tỉnh Lào Cai. Đạo Tin lành vẫn tiếp tục phát
triển, phân tách thành nhiều điểm nhóm nhỏ, và có hiện tượng chuyển đổi từ hệ phái
này sang hệ phái khác.
Truyền giáo là hoạt động của các tôn giáo, nhưng đối với đạo Tin lành đây
là một hoạt động đặc trưng nhất ngay từ khi tôn giáo này ra đời. Tin lành cũng xác
định một trong những đối tượng truyền đạo là dân tộc thiểu số ở những vùng xa xôi,
nơi mà các tôn giáo khác chưa phát triển tới. Trong quá trình đó, Tin lành còn
hướng mục tiêu vào những đối tượng là thanh niên, thiếu niên, phụ nữ; đây là
những đối tượng có ưu thế về cả số lượng và chất lượng. Ngoài ra, trẻ em là con em
của người Hmông theo Tin lành rất được quan tâm, đây có thể coi là thế hệ F2, F3
của cộng đồng người Hmông theo Tin lành, được đầu tư ăn học bài bản, tạo nên
một nền tảng vững chắc. Khi số lượng tăng dần lên, nơi sinh hoạt tôn giáo trở nên
chật hẹp thì sẽ tách thành những nhóm nhỏ- một đặc trưng sinh hoạt tôn giáo của
135
đạo Tin lành.
Hiện nay ở Lào Cai có sáu tổ chức, hệ phái đang hoạt động, chính vì vậy
vẫn xảy ra trường hợp tín đồ chuyển từ hệ phái này sang hệ phái khác. Việc chuyển
đổi này cũng có nhiều nguyên nhân: (1). Có thể là chính các hệ phái với những ưu
điểm của mình được sử dụng để lôi kéo tín đồ. (2). Do đặc tính di cư của tộc người,
khi một hộ gia đình người Hmông chuyển cư đến nơi khác sinh sống thì chuyển
theo hệ phái tại địa bàn mình để tiện cho việc sinh hoạt và đi lại.
- Hoạt động của đạo Tin lành dần đi vào ổn định, đúng pháp luật.
Đánh dấu từ Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về một số
công tác đối với đạo Tin lành, chính quyền các cấp tỉnh Lào Cai đã từng bước cho
đăng ký điểm nhóm sinh hoạt khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện và từng bước hướng
dẫn các điểm nhóm khác hoàn chỉnh hồ sơ để được cấp phép. Chính vì thế, hoạt
động của đạo Tin lành ở Lào Cai ngày càng đi vào ổn định, nề nếp, tuân thủ pháp
luật, hạn chế tối đa những vụ việc phức tạp. Điều này cũng làm cho tín đồ người
Hmông ở Lào Cai tin tưởng vào chính s ách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, khi
các sinh hoạt của đạo Tin lành đi vào ổn định, các mặt tiêu cực do quá trình truyền
đạo và theo đạo giảm đi, các yếu tố tích cực về xã hội, về văn hóa, lối sống bộc lộ
và phát huy, tạo ra ảnh hưởng quan trọng trong đời sống của người Hmông ở các
tỉnh miền núi phía Bắc nói chung cũng như ở tỉnh Lào Cai nói riêng.
4.3. Một số nhận thức mới qua việc biến đổi văn hóa của người
Hmông theo Tin lành
4.3.1. Biến đổi văn hóa, tín ngưỡng
Thứ nhất, biến đổi tôn giáo tín ngưỡng là một hiện tượng khách quan: Khi
kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống tâm linh của con người
cũng không thể giữ mãi như cũ mà phải biến đổi theo. Tuy nhiên, sự biến đổi diễn
ra nhanh hay chậm và theo xu hướng nào lại phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tác
136
động của bên trong và từ bên ngoài.
Ở đây có điều cần lưu ý, việc đồng bào dân tộc thiểu số tin theo các tôn giáo
là nằm trong tiến trình phát triển của tâm linh tôn giáo, đi từ tôn giáo đa thần (tôn
giáo nguyên thủy) đến tôn giáo nhất thần (Công giáo, Tin Lành, Phật giáo,…)
không riêng ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới, không phải bây giờ mà đã
diễn ra từ lâu.
Thứ hai, việc biến đổi văn hóa xuất phát từ tín ngưỡng truyền thống của
dân tộc Hmông:
Sự biến đổi về văn hóa nói chung và trong tang ma, cưới xin của người
Hmông nói riêng đều do sự thay đổi tôn giáo, từ tín ngưỡng truyền thống sang theo
đạo Tin lành. Sự thay đổi tôn giáo do tập hợp nhiều nguyên nhân mà tác giả luận án
đã trình bày. Văn hóa truyền thống của dân tộc Hmông nhìn chung là tín ngưỡng
đơn giản nhưng một số phong tục tập quán gắn với tín ngưỡng lại quá nhiều, quá
rườm rà, khắt khe, có mặt trở thành lực cản, tốn kém. Đến một lúc nào đó, nhất là
khi cuộc sống gặp khó khăn thì những phong tục tập quán gắn với tín ngưỡng
truyền thống trở thành gánh nặng cho cuộc sống, cản trở sự tiến bộ, phát triển. Từ
đó tạo ra sự khủng hoảng trong cộng đồng người Hmông, dẫn đến việc họ tìm đến
chỗ dựa tinh thần, tâm linh mới. Các nghi lễ cầu cúng truyền thống của người
Hmông khi thực hiện rất tốn kém. Ngoài khoản chi phí vật chất có thể tính ra tiền
còn là thời gian và công sức phục vụ cho việc nấu nướng, tiến hành nghi lễ và ăn
uống. Tổng các khoản chi phí này là một gánh nặng đối với nhiều hộ gia đình người
Hmông, nhất là đối với các hộ gia đình nghèo, neo đơn. Vì vậy, nhiều người Hmông
đã tránh phải thực hiện các nghi lễ tốn kém thì họ đã lựa chọn theo Tin lành.
Thứ ba, biến đổi văn hóa từ tín ngưỡng truyền thống sang theo Tin lành là
sự tiến bộ:
Những mặt tiến bộ về văn hóa, lối sống của đạo Tin lành, trong đó có việc
tiến bộ trong tang ma và cưới xin là những điều cần được nhìn nhận. Những mặt
137
tiến bộ càng được bộc lộ và củng cố ở những nơi theo đạo Tin lành ổn định, có sự
hướng dẫn và giúp đỡ của chính quyền trong việc thực hiện chính sách đối với tôn
giáo. Ở những nơi này đã giảm đi, hoặc không còn va chạm, xung đột về văn hóa.
Cần nhận thấy rằng, việc thay đổi văn hóa, trong đó có tập tục về cưới xin, ma chay
dẫn đến va chạm, thậm chí xung đột văn hóa trên cơ sở ba yếu tố: (1). Trước hết, sự
cực đoan của đạo Tin lành; (2). Tâm lý tộc người, trong đó có người Hmông là rõ
ràng và dứt khoát về miền tin, đã tin thì không bỏ; (3). Tâm lý nhất thời mang tính
phổ biến của mọi sự thay đổi, trong đó có sự thay đổi về đức tin tôn giáo thường
hay biểu hiện cực đoan.
Thứ tư, khủng hoảng niềm tin, suy giảm ảnh huỏng của các thiết chế xã
hội truyền thống và bất bình đẳng xã hội:
Một yếu tố quan trọng dẫn đến sự suy giảm uy tín của tín ngưỡng truyền
thống là sự bất ổn của các thiết chế xã hội cổ truyền, cùng với sự khủng hoảng niềm
tin và những hạn chế trong sinh hoạt văn hóa tinh thần. Chính điều này đã dẫn đến
sự thay đổi niềm tin tôn giáo trong người dân, mà đi tiên phong chính là phụ nữ,
thanh niên, những người có khó khăn về kinh tế.
4.3.2. Về văn hóa của người Hmông theo Tin lành
Thứ nhất, dân tộc Hmông là một dân tộc có nhiều nét đặc thù về tộc người
và văn hóa tộc người:
Do những đặc điểm riêng về lịch sử và tộc người, văn hoá của người
Hmông có một hành trang rất phong phú và độc đáo, từ văn hoá vật chất đến văn
hoá tinh thần. Điều đó đã góp phần tạo nên sự đa dạng và phong phú của nền văn
hoá Việt Nam. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, văn hoá, tín
ngưỡng truyền thống của tộc người Hmông vẫn bảo lưu được bản sắc riêng. Tuy
nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, sự lưu giữ bền chặt và hầu như ít có sự thay đổi,
văn hoá, tín ngưỡng của người Hmông đã và đang bộc lộ những hạn chế không nhỏ
138
trong nhiều tập quán, như việc cưới xin, ma chay,… còn nặng nề, tốn kém, trở
thành gánh nặng cho mỗi gia đình. Chính những điều đó đã làm suy giảm “kháng
thể” văn hóa, tạo cơ hội cho đạo Tin lành thâm nhập, phát triển.
Thứ hai, đạo Tin lành trong quá trình truyền giáo ở Việt Nam đã gặp cơ hội
thuận lợi để mở rộng lực lượng đến vùng đồng bào dân tộc Hmông:
Việc truyền đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam
đã được các tổ chức Tin lành thực hiện từ đầu thế kỷ XX, riêng đối với người
Hmông từ những năm 70 của thế kỷ XX, nhưng đến giữa những năm tám mươi của
thế kỷ XX, gặp môi trường thuận lợi về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, tư
tưởng,… đạo Tin lành đã thâm nhập, lan tỏa rộng và phát triển mạnh. Đạo Tin lành
trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai hiện nay cũng là một ví dụ điển hình của sự
chuyển đổi tôn giáo ở Việt Nam, và ở đó cũng đã và đang diễn ra một cuộc tranh
chấp giữa văn hóa, tín ngưỡng truyền thống với văn hóa, lối sống Tin lành.
Thứ ba, Sự chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành của
người Hmông:
Bên cạnh bộ phận người Hmông theo Công giáo nhưng còn có những người
Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai, với số lượng là 24.166 người, chiếm
khoảng 17% tổng số người Hmông của tỉnh. Số lượng người Hmông theo đạo Tin
lành có xu hướng tăng lên, nói cách khác, thay đổi theo đạo Tin lành là xu hướng
chính trong tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay của người Hmông ở Lào Cai nói riêng và
cả nước nói chung.
Hoạt động của đạo Tin lành trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai được đẩy
mạnh và mở rộng, nhất là sau khi có Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 4 tháng 2 năm
2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành. Đối với
người Hmông đã theo đạo Tin lành trong một thời gian ở Lào Cai và có nhu cầu
tín ngưỡng thực sự, thì hướng dẫn đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo ở địa điểm
139
thích hợp.
Thứ tư, Tin lành đã tạo ra những giá trị văn hóa không chỉ cho cộng đồng
tôn giáo của mình mà còn làm đa dạng không gian văn hóa của dân tộc Hmông:
Sự phát triển lan rộng của đạo Tin lành, nhất là trong thời kỳ đầu đã gây ra
nhiều tác động tiêu cực như xóa bỏ tín ngưỡng, văn hóa truyền thống, dẫn đến sự
xung đột văn hóa gay gắt với văn hóa tín ngưỡng truyền thống, gây chia rẽ dòng họ,
gia đình, làng bản thành hai bộ phận theo và không theo đạo Tin lành, ảnh hưởng
tiêu cực đến tính cố kết cộng đồng và sự cố kết dân tộc. Tuy nhiên, dù nói thế nào đi
nữa thì sự xuất hiện của đạo Tin lành, cùng với thời gian, đã đem đến những giá trị
tiến bộ nhất định về văn hóa và xã hội, tạo nên khá nhiều sự chuyển biến tích cực
trong cộng đồng người Hmông. Những mặt tiêu cực của việc truyền đạo và theo đạo
Tin lành ngày càng giảm đi, những mặt tích cực của việc người Hmông theo đạo
Tin lành ngày càng được thể hiện, nhất là những nơi Tin lành hoạt động ổn định và
được chính quyền hướng dẫn, quản lý bằng pháp luật.
Thứ năm, ảnh hưởng của chuyển đổi tín ngưỡng tôn giáo:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới tác động của sự cải đạo theo
Tin lành của người Hmông. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường nhấn mạnh
nhiều đến tác động tiêu cực về chính trị - xã hội hơn là văn hóa của việc cải đạo. Đa
số các nghiên cứu đều nhấn mạnh rằng nguyên nhân chủ yếu khiến người Hmông
theo đạo là do bị Tin lành lôi kéo, bị dụ dỗ, mua chuộc; các đối tượng lợi dụng
truyền đạo để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong luận án, nhấn mạnh nguyên nhân manng tính then chốt khiến người
Hmông theo đạo Tin lành xuất phát từ sự suy giảm ảnh hưởng của văn hóa truyền
thống, từ đó mới là điểm yếu để lợi dụng.
4.4. Một số giải pháp đối với văn hóa của người Hmông theo đạo Tin
lành ở tỉnh Lào Cai
4.4.1. Đối với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của người Hmông
Trước tiên, cần phải tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện
140
văn hóa truyền thống của tộc người Hmông ở tỉnh Lào Cai. Trên cơ sở đó đánh giá
lại toàn bộ các giá trị văn hóa truyền thống của người Hmông để lựa chọn phương
thức, biện pháp giữ gìn và phát huy phù hợp đối với từng loại hình. Việc nghiên cứu
văn hoá truyền thống dân tộc Hmông ở Lào Cai cần phải được tiến hành theo những
định hướng sau:
- Những giá trị vĩnh cửu, tiến bộ thì bảo tồn, tạo mọi điều kiện phát triển và
phát huy tác dụng, như các lễ hội Đa Zồng, Sâu Su, Gầu Tào,… các điệu múa khèn,
các làn điệu dân ca Hmông, các gia phả dòng họ,…
- Những giá trị cũ, có thể cải biến, chắt lọc những yếu tố tích cực để phục
vụ cho sự phát triển. Chẳng hạn trong phong tục thờ cúng tổ tiên, tục làm vía (cho
người ốm, người già, trẻ mới sinh),… cần phải giữ lại những yếu tố tích cực như
lòng biết ơn tổ tiên, tính cố kết cộng đồng,… nhưng phải cải biến để tránh lãng phí,
tốn kém thời gian và tiền của.
- Những yếu tố văn hóa tuy cũ, nhưng không gây cản trở cho sự phát triển,
còn đáp ứng được một phần nhu cầu trong đời sống tinh thần của nhân dân thì
không nên vận động xóa bỏ. Chẳng hạn, như y phục giàu màu sắc, hoa văn phong
phú và cả đồ trang sức của người Hmông cũng là những nét đẹp truyền thống, vừa
nói lên tính cách tâm lý vừa thể hiện trình độ thẩm mỹ của người Hmông; tổ chức
dòng họ, vai trò của trưởng họ, trưởng bản không những vô hại trong xã hội mới mà
còn có thể có những đóng góp cho sự phát triển.
- Những yếu tố văn hóa thời gây cản trở cho sự phát triển thì phải tổ chức
vận động, thuyết phục để tự bản thân người dân thấy rõ tác hại và loại bỏ như tục lệ
tang ma kéo dài, chữa bệnh bằng các hình thức phép thuật, ma thuật làm hại,...
- Trong công tác bảo tồn, giữ gìn, phát huy và làm giàu văn hoá truyền
thống của người Hmông ở Lào Cai, việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội
ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn văn hoá nhằm đáp ứng yêu cầu công tác hiện
141
nay là một đòi hỏi cấp bách. Phải quan tâm thích đáng đến các nghệ nhân hoạt động
văn hoá và văn nghệ sĩ hoạt động trên lĩnh vực bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống và phải coi họ là vốn quí trong công tác này.
- Xây dựng một thiết chế văn hoá mang đầy đủ tính chất dân tộc, khoa học
và đại chúng ở các dân tộc ở miền núi nói chung, trong đó có dân tộc Hmông trên địa
bàn tỉnh Lào Cai nói riêng, để họ ngày càng có cơ hội, điều kiện tham gia vào công tác
xã hội hoá văn hoá góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người.
- Tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Hmông, có những biện
pháp thiết thực để khắc phục sự hụt hẫng, đứt đoạn với văn hóa truyền thống trên cơ
sở kế thừa, phát huy truyền thống nhân ái, nghĩa tình, thuần phong mỹ tục đi đôi với
bài trừ mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội.
4.4.2. Đối với việc chấp nhận và phát huy văn hóa, lối sống Tin lành
- Trước hết, cần có sự thống nhất trong nhận thức về đạo Tin lành. Phải
thấy , trong điều kiện mở của và hội nhập, nhất là sự bùng nổ của khoa học công
nghệ thông tin thì những hoạt động truyền giáo càng trở thành bình thường, không
những thế việc theo đạo, cải đạo là quyền của mọi người được pháp luật bảo hộ;
việc biến đổi văn hóa cũng là hệ quả tất yếu của thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong khoảng gần ba thập kỷ, Tin lành truyền vào người Hmông, đã có một số Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đối với đạo Tin lành và vấn đề truyền đạo và
theo đạo Tin lành của các tộc người thiểu số trong đó có người Hmông. Hơn nữa,
các địa phương cũng đã tiến hành những điều tra nghiên cứu để trên cơ sở đó có thể
tìm ra giải pháp cho vấn đề này. Nhưng cho tới nay, có thể nói rằng, nhận thức về
Tin lành của cán bộ đảng, chính quyền địa phương vẫn có nhiều bất cập. Những bất
cập này gợi lên yêu cầu cần phải tạo nên sự thống nhất trong nhận thức về đạo Tin
lành. Nếu không tạo ra sự thống nhất này sẽ khó có được cách giải quyết và quản lý tốt
vấn đề tôn giáo, trong đó có đạo Tin lành nhìn từ các chiều cạnh, kể cả mặt văn hóa.
- Cần có sự đánh giá khách quan những tác động hai mặt của đạo Tin lành
142
trong đời sống dân tộc Hmông. Cho tới nay, những nhận xét, đánh giá về ảnh hưởng
của Tin lành trong người Hmông chủ yếu nhấn mạnh tới những ảnh hưởng tiêu cực.
Cách đánh giá này tác động không tốt tới một phần mối quan hệ giữa người Hmông
vẫn một bên giữ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống với người Hmông theo Tin lành,
cũng như thái độ ứng xử trong cách giải quyết vấn đề. Vì vậy, cần có những nhận
xét, đánh giá một cách khách quan và đầy đủ cả hai mặt của đạo Tin lành, để từ đó
biết chủ động tác động phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
- Cần giúp chính quyền địa phương có được sự hiểu biết đầy đủ về những
nguyên nhân và bản chất của vấn đề Tin lành trong người Hmông. Với các hình
thức để giúp cho địa phương có được sự hiểu biết đúng đắn và đầy đủ nguyên nhân,
bản chất của vấn đề trên cơ sở đó có thể đề ra được những giải pháp cho việc giải
quyết phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng
như các đặc điểm riêng của địa phương mình.
- Hướng điều chỉnh để các tổ chức Tin lành sinh hoạt tôn giáo hòa nhập với
văn hóa tộc người Hmông. Đạo Tin lành trong cộng đồng người Hmông ở Lào Cai
đã và đang gây xung đột với văn hóa truyền thống của tộc người, mà nguyên nhân
chính là sự khác nhau trong đức tin - hệ tư tưởng dẫn đến thay đổi trong cách thức
sinh hoạt văn hóa, tôn giáo. Khi thực hành các nghi thức tôn giáo đã làm cho người
Hmông mờ nhạt dần nếp sống văn hóa truyền thống của tộc người gây ra mâu thuẫn
trong cộng đồng.
Trong bản thân đạo Tin lành cũng có những giá trị văn hóa tốt đẹp, những
sẽ nâng cao giá trị hơn nữa nếu có sự điều chỉnh, vận dụng, kết hợp với những giá
trị văn hóa truyền thống của người Hmông. Đây là điểm cần lưu ý đối với những
người làm chính sách tôn giáo - dân tộc - văn hóa nhằm hướng tới sự hài hòa, ổn
định, phát triển xã hội.
- Cần quán triệt tốt hơn nữa nội dung của Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ về công tác đối với đạo Tin lành. Tạo điều kiện cho đồng bào
143
Hmông theo Tin lành sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng quy định của pháp
luật, thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước. Tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng, chính quyền với quần chúng có đạo, khuyến khích quần chúng tín đồ
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, gắn bó với đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng đất nước.
- Nhà nước phải xây dựng cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý nhằm huy
động nguồn lực của toàn xã hội cho công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hoá truyền thống của các dân tộc. Hoàn thiện và bổ sung các chính sách cần thiết
để nâng cao nhu cầu hưởng thụ văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu, duy trì đều đặn
các chương trình phát thanh, truyền hình đến từng khu dân cư, làng bản.
- Tăng cường quản lý nhà nước về văn hoá trên lĩnh vực bảo tồn và phát
huy văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, gắn với việc thực hiện đại đoàn kết
dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xử
lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật làm tổn hại đến văn hoá truyền thống.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quản lý nhà nước của chính quyền,
đặc biệt là củng cố bộ máy cơ quan quản lý văn hoá thông tin thống nhất từ Trung
ương xuống địa phương với một cơ cấu hợp lý. Các đơn vị chuyên trách về văn
hoá cần tăng cường về nhân lực để có thể quản lý có hiểu quả mảng văn hoá ở
các dân tộc thiểu số nói chung cũng như đối với cộng đồng người Hmông ở Lào
Cai nói riêng.
Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo là:
Khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đảng và Nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; đồng thời nghiêm cấm mọi hành động lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo. Đối với đạo Tin lành, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước cũng rất rõ, thể hiện qua các văn bản như: Thông báo 184 (1998), Thông báo
255 (1999) của Bộ Chính trị khóa VIII, Quyết định 11 (2000) của Thủ tướng Chính
144
phủ, Thông báo số 160- TB/TƯ của Ban Bí thư (khóa IX) về chủ trương công tác
đối với đạo Tin lành, ngày 15/11/2004, Chỉ thị Số: 01/2005/ CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ.
4.4.3. Một số khuyến nghị
- Cần có sự thống nhất trong nhận thức về đạo Tin lành và các hệ phái của
đạo Tin lành cũng như bản chất của việc người Hmông theo đạo và có sự đánh giá
khách quan những tác động hai mặt của đạo Tin lành trong cộng đồng người
Hmông ở Việt Nam nói chung và ở Lào Cai nói riêng.
- Chính phủ có những văn bản chính thức đề cập đến việc các nhóm Tin
lành sinh hoạt theo giới và tổ chức các nghi lễ tôn giáo ở các nhóm đã đăng ký.
- Ban Tôn giáo – Bộ Nội vụ có những hướng dẫn cụ thể liên quan đến công
tác tôn giáo là đạo Tin lành như tổ chức sinh hoạt tôn giáo của các điểm nhóm đã
hoặc chưa được công nhận; vấn đề xây dựng nhà nguyện, sử dụng kinh sách, đào
tạo chức sắc, phong chức phong phẩm.
- Phát hành những tài liệu được biên tập ngắn gọn, xúc tích về chính sách,
pháp luật đối với đạo Tin lành để quần chúng nhân dân và người làm công tác dân
tộc - tôn giáo - văn hóa dễ tiếp thu.
- Điều chỉnh nội dung chương trình tiếng dân tộc - tiếng Hmông ở Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam cho phù hợp với nhu cầu, nhận
thức của người dân.
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi nói chung, ở tỉnh
Lào Cai nói riêng, thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho người dân.
- Có chính sách đặc thù đối với cán bộ làm công tác dân tộc - tôn giáo từ
tập huấn, nghiên cứu, học tập về chuyên môn, nghiệp vụ; kết hợp với quy hoạch
đào tạo.
Tiểu kết chương 4
Người Hmông là cộng đồng dân tộc có số lượng đông trong các dân tộc thiểu
145
số ở Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân, một bộ phận đồng bào
Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có người Hmông ở tỉnh Lao Cai theo
đạo Tin lành. Cùng với thời gian đến nay, người Hmông theo Tin lành là một thực
thể cần chủ động đối diện, ứng xử. Tới đây, trong những bối cảnh mới, cả nguyên
nhân chủ quan và khách quan, số người Hmông ở Việt Nam, trong đó có người
hmông ở tỉnh Lao Cai theo đạo Tin lành vẫn có xu hướng tăng lên.
Quá trình một bộ phận người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành là quá
trình biến đổi về văn hóa so với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống. Bên cạnh mặt
tích cực, tiến bộ về văn hóa mà Tin lành đưa tới, còn có những mặt hạn chế, thậm
chí tiêu cực. Quá trình đó đặt ra nhiều vấn đề liên quan tâm, trước hết là mối quan
hệ giữa văn hóa lối sống của văn hóa tín ngưỡng truyền thống của người Hmông
với văn hóa lối sống Tin lành, là các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo và văn
hóa rất tế nhị và nhậy cảm.
Những vấn đề đặt ra từ việc biến đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin
lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở tỉnh Lào Cai nói riêng cần được
đánh giá một cách khách quan, thận trọng của các cơ quan có liên quan và cần được
ứng xử đúng đắn của các cấp chính quyền. Đó là việc gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hóa truyền thống của người Hmông, là việc chấp nhận và phát huy văn hóa, lối
sống Tin lành, là sự giải quyết hài hòa tạo mối quan hệ, giao thoa tiếp biến tích cực
146
giữa văn hóa truyền thống của người Hmông với văn hóa,lối sống Tin lành.
KẾT LUẬN
1. Người Hmông ở Việt Nam là một trong những dân tộc thiểu số có số
lượng dân cư khá đông đảo. Và từ con số không rất tròn, tức là không đến đạo Tin
lành, vào những năm 1980, người Hmông ở Việt Nam, trong đó có người Hmông ở
Lào Cai đã theo đạo Tin lành- chủ yếu là các hình thức truyền đạo gián tiếp qua đài,
băng đĩa và kinh sách. Cùng với thời gian, đến nay, đạo Tin lành đã là một thực thể
tồn tại trong vùng đồng bào Hmông, cùng với niềm tin, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo
là một không gian văn hóa riêng- văn hóa, lối sống Tin lành.
Người Hmông có lịch sử tộc người rất đặc thù và riêng khác. Đặc biệt,
người Hmông luôn có ý thức gìn giữ và làm giàu những giá trị văn hóa độc đáo,
giàu bản sắc. Chính điều đó, văn hóa của người Hmông là mắt xích của đa dạng văn
hóa Việt Nam. Văn hóa là một phạm trù mang tính ổn định tương đối, trong nó luôn
có sự vận động mang tính tiệm tiến để phù hợp với hoàn cảnh, thời đại. Văn hóa
truyền thống của người Hmông ở Lào Cai cũng vậy, cũng có những chuyển biến
dần thích ứng với yêu cầu mới. Có nhiều yếu tố tác động dẫn đến sự biến đổi của
văn hóa người Hmông, trong đó có đạo Tin lành.
2. Một cách phổ biến, trong mọi tồn tại là tính hai mặt, bên cạnh sự tiến bộ
có yếu tố lạc hậu, bên cạnh tích cực có mặt hạn chế, bên cạnh mặt tốt có mặt xấu,
bên cạnh điều thuận có điều nghịch,… Cũng vậy, việc một bộ phận người Hông nói
chung và người Hmông ở Lào Cai nói riêng chuyển sang theo đạo Tin lành, đã tạo
ra một không gian văn hóa mới- văn hóa Tin lành, bao gồm cả hai mặt tích cực và
tiêu cực. Chúng tôi xin nhắc lại để nhấn mạnh những mặt tích cực, hạn chế của đạo
Tin lành, đúng hơn là của việc biến đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa, lối
sống Tin lành.
Về mặt tích cực, người Hmông theo Tin lành đã xóa bỏ được các hủ tục,
nhất là trong ma chay, cưới xin,…- một công viêc mà nhiều cuộc vận động, với sự
vào cuộc của chính quyền, ban ngành đoàn thể, sự nỗ lực của ngay chính người
147
Hmông nhưng hầu như không đem lại kết quả như mong muốn. Ngoài ra, người
Hmông theo đạo Tin lành đã hình thành nếp sống mang tính xã hội cao: tuân thủ
pháp luật, chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định
của địa phương, sống tiết kiệm, tích cực lao động sản xuất, và nhất là tiếp thu cái-
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, bỏ được các thói quen xấu, như uống rượi và hút
thuốc, kể cả thuôc phiện, tham gia tích cực các hoạt động xã hội, nhất là từ thiện xã
hội. Tuy nhiên, việc theo đạo Tin lành, đề cao đức tin nên có xu hướng loại bỏ, đôi
khi đi đến phủ nhận sách trơn văn hóa truyền thống, nhất là những điều liên quan
đến tín ngưỡng của người Hmông. Điều này đã tạo ra những xung đột văn hóa, tác
động tiêu cực đến đời sống xã hội của cộng đồng, nhất là giai đoạn đầu người
Hmông mới theo Tin lành. Điều đáng quan tâm là cùng với thời gian, mặt tiêu cực
giảm đi và loại trừ, mặt tích cực được phát huy mà trở thành xu hướng chính trong
cộng đồng người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai. Một bộ phận người Hmông theo
Tin lành ở Lào Cai đã hình thành nên một bức tranh văn hóa mang mầu sắc tôn giáo
hiện đại, tạo sự khác biệt với văn hóa truyền thống. Điều này vừa góp phần làm sự
đa dạng văn hóa của người Hmông, vừa là yếu tố gây nên những xung đột, mâu
thuẫn trong xã hội của người Hmông tại Lào Cai.
3. Gần 30 năm tồn tại, mặc dù trong một thời gian khá dài không được chấp
nhận, nhưng đạo Tin lành vẫn tồn tại. Tác giả luận án xin nhắc lại số lượng người
Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành với 25.830 (2015) người trên tổng số 137.649
người Hmông của tỉnh, chiếm 19.1%. Như vậy, người Hmông dù có theo đạo bằng
cách nào, trực tiếp hay gián tiếp, từ niềm tin hay vì lý do khuyến khích vật chất, dù
tự giác hay nghe theo lời khuyên dụ, thì đạo Tin lành và văn hóa Tin lành đang là
một tồn tại không thể phủ nhận,… Nói cách khác, người Hmông theo Tin lành đã
hình thành đức tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo và nhu cầu sinh hoạt tôn giáo- có thật
và hợp lý. Do đó, cần xác định một thái độ ứng xử khách quan và hợp lý đối với đạo
Tin lành và văn hóa Tin lành ở vùng người Hmông nói riêng và vùng đồng bào dân
tộc thiểu số nước ta nói chung.
Thái độ đối với cộng đồng người Hmông theo Tin lành, rộng ra là văn hóa
148
của người Hmông theo Tin lành, được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, xem xét kỹ
lưỡng và có chính sách đúng đắn. Đó là Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tưỡng
Chính phủ ban hành ngày 04 tháng 02 năm 2005. Với Chỉ thị số 01 Chính phủ đã
nhìn nhận việc một bộ phận người Hmông theo Tin lành, theo đó nhìn nhận văn
hóa, lối sống của Tin lành trong người Hmông. Tất nhiên là nhìn nhận và phát huy
mặt tích cực, hạn chế giảm thiểu những mặt tiêu cực.
Cùng với sự nỗ lực của chính quyền trong việc thực hiện chính sách tôn
giáo, các hoạt động của đạo Tin lành dần đi vào ổn định, các mặt tích cực của văn
hóa, lối sống Tin lành được chấp nhận càng bộc lộ và phát huy. Thời gian tới, bản
thân những người Hmông theo Tin lành cần phải phát huy; những người vẫn giữ
văn hóa, tín ngưỡng truyền thống cần có thái độ ứng xử tôn trọng, nhìn nhận văn
hóa, lối sống của đạo Tin lành trong cộng đồng dân tộc Hmông; các cấp chính
quyền cần thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Chính vì vậy, việc hoạch định và thực
hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo và văn hóa dựa trên tình hình thực tế, linh hoạt
điều chỉnh phỉnh phù hợp sẽ góp phần phát huy những giá trị mà Tin lành đem lại
cho văn hóa của người Hmông; hạn chế những khiếm khuyết của đạo Tin lành đối
với văn hóa truyền thống; đồng thời tăng cường bản sắc văn hóa dân tộc Hmông tại
Lào Cai.
4. Đạo Tin lành và văn hóa lối sống Tin lành, cùng thời gian đang là thực
thể tồn tại trong đồng bào Hmông, cả tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, nhận thức và
ứng xử với đạo Tin lành và văn hóa lối sống Tin lành trong vùng đồng bào Hmông
nói chung và người Hmông ở tỉnh Lào Cai nói riêng vẫn còn những thành kiến, đố
kỵ, từ cả hai phía: người Hmông giữ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống và chính
quyền, nhất là ở cơ sở. Do vậy, trong thời gian tới, điều quan trọng trước hết đối với
hệ thống chính trị là phải quán triệt và thực hiện tốt những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo, đối với dân tộc, đối với văn hóa, nhất là
chính sách đối với đạo Tin lành theo Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành, xóa bỏ thành kiến, mặc cảm với
đạo Tin lành. Chính quyền phải đứng ra giữ vai trò hòa giải và tháo gỡ những va
149
chạm, thậm chí những xung đột về văn hóa.
Đối với các tổ chức và cá nhân Tin lành phải thực hiện đúng chính sách tôn
giáo, chính sách dân tộc và chính sách về văn hóa của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt
các tổ chức, cá nhân Tin lành phải tôn trọng văn hóa và tín ngưỡng truyền thống,
không được vì lý do đức tin mà “phủ nhận sạch trơn” văn hóa, tín ngưỡng truyền
thống, phải đoàn kết giữa người theo đạo Tin lành và người không theo đạo Tin
lành trong khối đại đoàn kết dân tộc để xây dựng cộng đồng người Hmông ở Lào
Cai đoàn kết hòa hợp, giữ được sắc thái riêng của người Hmông trong sự đa dạng
về văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo cả các tộc người ở Việt Nam. Các chức sắc, chức
việc, những người đứng đầu các điểm nhóm Tin lành phải là người tiêu biểu và
gương mẫu trong việc giáo dục và hướng dẫn tín đồ trong việc thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cũng như trong mối quan
hệ với cộng đồng dân tộc và với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của người
Hmông.
5. Từ khi người Hmông có một bộ phận theo đạo Tin lành, đã nhận được
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu tập trung
chủ yếu ở các góc độ Chính trị học, Tôn giáo học, Triết học. Dưới giác độ Nhân học
thì chưa nhiều và mới ở tầm vĩ mô, chưa có nghiên cứu điểm, chưa xem xét một
cách hệ thống những biến đổi ở các dạng thức trong văn hóa từ văn hóa vật chất,
văn hóa xã hội, văn hóa tâm linh của người Hmông theo đạo Tin lành. Do vậy,
chúng tôi mong muốn những kết quả thu được của luận án sẽ đáp ứng được mục
đính, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Bên cạnh đó còn có những vấn đề mà
luận án chưa giải quyết thấu đáo, những thiếu sót và hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu
150
và sự đóng góp của các nhà khoa học./.
CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Quỳnh Trâm, Nước Mỹ và đạo Tin lành, Táp chí Công tác
Tôn giáo, số 03/2011.
2. Nguyễn Quỳnh Trâm, Nguyễn Thị Lan Phương, Tổng quan về
một bộ phận đồng bào Mông theo đạo Tin Lành,Tạp chí Công tác tôn
giáo, số 6/ 2013.
3. Vũ Hồng Hải, Nguyễn Quỳnh Trâm, Vấn đề người Mông theo Tin
Lành ở huyện Sapa, Lào Cai, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 202/2013.
4. Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Quỳnh Trâm, Giáo dục Phật giáo với
phát triển bền vững, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10(136)/2014.
5. Trần Minh Đức, Nguyễn Quỳnh Trâm, Bảo đảm quyền của các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số
222/2014.
6. Nguyễn Quỳnh Trâm, Các mối quan hệ xã hội của người Hômg theo
Tin lành ở tỉnh Lào Cai), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9 (186)/2015.
7. Nguyễn Quỳnh Trâm, Nguyễn Thanh Xuân, Nhìn lại việc truyền đạo
và theo đạo Tin lành trong đồng bào Hmông ở Tây Bắc, Tạp chí Công tác
Tôn giáo, số 10/2015.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Khổng Thị Kim Anh (2002), Kiêng cữ và nghi lễ liên quan đến ngôi nhà của
người Hmông, Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội
2. Báo cáo kết quả 10 năm thực hiện chỉ thị 01- UBND Lào Cai, 7 tháng 8 năm
2015, Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai, Lào Cai.
3. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương(2010): Tổng điều tra
dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả điều tra toàn bộ, Hà Nội.
4. Ban Dân tộc Trung ương (2011): Thông tư liên tịch, hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg, ngày 18/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ Về chính
sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, Văn bản, Hà Nội.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 01
của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành, ngày 28 tháng
02, Hà Nội.
6. Ban Tôn giáo Lào Cai (6/2012), Báo cáo tình hình hoạt động công tác tôn
giáo 6 thánh đầu năm 2012.
7. Ban Dân vận – Tỉnh ủy Lào Cai (30/7/2014), Báo cáo Tình hình kinh tế - xã
hội và công tác tôn giáo, dân tộc trên địa bàn tình Lào Cai (Làm việc với đoàn Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), Lào Cai.
8. Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Kế hoạch triển khai công tác đối
với đạo Tin Lành ở khu vực miền núi phía Bắc giai đoạn 2012-2015, số 15, ngày
12 tháng 10, Hà Nội.
9. Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo tổng kết 08 năm thực
hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, số 111, ngày 12 tháng 9, Hà Nội.
10. Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo tổng kết 10 năm thực
hiện Thông báo số160, ngày 15/11/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa
IX) về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong lĩnh vực quản lý Nhà nước,
152
số 63, ngày 27 tháng 5.
11. Vi Hoàng Bắc (1997), Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành với văn hóa truyền
thống ở vùng đồng bào Hmông huyện Bắc Hà, Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.
12. Trần Văn Bính (chủ biên)(2004), Văn hoá các dân tộc Tây Bắc. Thực trạng
và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
14. Đỗ Thúy Bình (1992), Gia đình Hmông trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện
nay (qua thực tế huyện Mộc Châu, Sơn La), Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.
15. Vũ Đăng Bút (2003), Vàng chứ hết thiêng, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số
50, Hà Nội.
16. Thanh Cao (2008), Ba năm thực hiện Chỉ thị 01 của Thủ tướng Chính phủ về
một số công tác đối với đạo Tin lành, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 05, Hà Nội.
17. Phan Hữu Dật (Chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách
liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
18. Nguyễn Văn Diệu (2003), Tìm hiểu quá trình truyền bá Kitô giáo vào các dân
tộc thiểu số, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, tháng 5, Hà Nội.
19. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ Văn hóa và phát
triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
20. Đặng Thế Đại, Tôn giáo- Cách nhìn văn hóa học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 12/ 2010, Hà Nội.
21. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2006), Một số vấn đề lý thuyết
và phương pháp nghiên cứu nhân học, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, Tp Hồ Chí Minh
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam , Nghị quyết Trung ương 10 khóa IX
24. Hồ Xuân Định (2013), Thực hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với
Tin Lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số
153
12 (126), Hà Nội.
25. Hoàng Minh Đô (2013), Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển Tin Lành
vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 9 (123), Hà Nội.
26. Nguyễn Khắc Đức (2013), Về một số đặc điểm của Tin Lành trong vùng dân
tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 8
(122), Hà Nội.
27. Gary Lee, Nick Tapp (2002), Các vấn đề về dân tộc Hmông hiện nay: 10
điểm chính, Tạp chí Dân tộc học, số 4, Hà Nội.
28. Guy Morechand (1955), Những đặc điểm chủ yếu của thuật saman của người
Mèo Trắng ở Đông Dương, bản dịch tư liệu, lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học,
Hà Nội.
29. Guy Morechand (1968), Thuật Saman của người Hmông, bản dịch tư liệu,
lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Song Hà – Hồ Xuân Định ( 2014), Nghi lễ trong chu kỳ đời
người của người Hmông, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (75), Hà Nội.
31. Đặng Thị Hoa, Khổng Thị Kim Anh (2004), Lễ cúng chữa bệnh của người
Hmông trắng (nghiên cứu ở bản Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La), Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Hùng (2000), Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin
Lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, Hà Nội.
33. Nguyễn Xuân Hùng (2011), Đạo Tin Lành trong mối tương quan với văn hóa
dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Văn
hóa Tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, NXB Tôn giáo, Hà Nội
34. Trần Trung Hiếu (2007), Tôn giáo và công tác tôn giáo vùng đồng bào dân
tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc, tạp chí Dân tộc học 4(148), Hà Nội.
35. Dương Hà Hiếu, Tục cưới xin của người Hmông trắng ở Thuận Châu, tỉnh
Sơn La, Tạp chí Dân tộc học, số 3, Hà Nội.
36. Nguyễn Huy Hoàng (2003), Mấy vấn đề triết học văn hóa, NXB Văn hóa
154
Thông tin, Hà Nội.
37. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,(2004), Lý luận về tôn giáo và
chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội
38. Đỗ Quang Hưng (2011), Đạo Tin Lành ở Việt Nam: Một cái nhìn tổng quát,
Tạp chí Công tác Tôn giáo (1+2), Hà Nội.
39. Đỗ Quang Hưng (2011), Tôn giáo và văn hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
quốc tế Văn hóa Tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
40. Đỗ Quang Hưng (2012), Kỷ nguyên truyền giáo của Ki tô giáo tại châu Á và
xung đột văn hóa- Trường hợp đạo Tin lành tại các quốc gia Đông Bắc Á nói
chung và Việt Nam nói riêng, trong Kỷ yếu Tọa đàm Đạo Tin Lành và văn hóa
Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hội Việt – Mỹ và Viện Liên kết toàn cấu
đồng tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2012.
41. Phạm Quang Hoan và Nguyễn Hồng Dương (2008), Quan hệ dân tộc, tôn
giáo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.
42. Phạm Quang Hoan (2001), Lễ cưới người Hmông Trắng huyện Đồng Văn
tình Hà Giang, Tạp chí Dân tộc học, số 6, Hà Nội.
43. Phạm Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh (1998), Văn hóa của người Hmông
và môi trường, Tạp chí Dân tộc học, số 4, Hà Nội.
44. Phạm Quang Hoan (Chủ biên) (2012), Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ
và vùng tái định cư thủy điện Sơn La, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
45. Nguyễn Thế Huệ (2007), Bạo lực trong gia đình người Mông tại vùng núi
phía Bắc Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
46. Jean Bauberot (2006), Lịch sử đạo Tin lành, Nxb Thế giới, Hà Nội.
47. Kinh Thánh trọn bộ Cựu ước và Tân ước, Hồng Y Giuse Trịnh văn Căn dịch,
Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1985, Tp Hồ Chí Minh.
48. Vũ Quốc Khánh (chủ biên)(2004), Người Hmông ở Việt Nam, Nxb Thông
tấn, Hà Nội.
49. Mã A Lềnh, Ly Seo Chúng (1998), Hội Gầu- Tào của người Hmông, Tạp chí
155
Dân tộc học, số 1, Hà Nội.
50. Mã A Lềnh (2009), Ghi chép về văn hóa dân gian Hmông, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
51. Nguyễn Đình Lợi (2012), Vài nét phương thức truyền giáo của đạo Tin Lành
vào cộng đồng người Mông ở Lào Cai,Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10, Hà Nội.
52. Hoàng Xuân Lương (2000), Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội
53. MS Nguyễn Hữu Mạc (2012), trong Kỷ yếu Tọa đàm Đạo Tin Lành và văn
hóa Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hội Việt – Mỹ và Viện Liên kết toàn
cấu đồng tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2012.
54. Hồ Chí Minh (2000) , Toàn tập- tập 3, NXB CTQG, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Minh (2006), Một số vấn đề đạo Tin Lành của dân tộc thiểu số
tại chỗ Tây Nguyên hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 4, Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Minh (2010), Một số vấn đề về đạo Tin Lành trong cộng đồng
người Hmông di cư tự do vào Tây Nguyên hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 5,
Hà Nội.
57. Nguyễn Văn Minh, Hồ Ly Giang (2011), Một số vấn đề thực tiễn về đạo Tin Lành
ở các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 5, Hà Nội.
58. Max Weber (2012), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản,
Nxb Tri thức, Hà Nội
59. Hoàng Nam(1998), Bước đầu tìm hiểu Văn hoá tộc người, văn hoá Việt Nam,
Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
60. Đậu Tuấn Nam (2010), Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đậu Tuấn Nam (2012), Quan hệ tộc người vùng biên giới các tỉnh miền núi
phía Bắc tác động đến sự ổn định và phát triển hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
62. Đậu Tuấn Nam (2013), Di cư của người Hmông từ đổi mới đến nay, Nxb
156
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Thị Thanh Nga (chủ biên) (2007), Văn hóa truyền thống một số tộc
người ở Hòa Bình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
64. Nghị quyết 9/BCH-TW khóa XI, Đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người.
65. Lê Đức Phúc (2006), Đề cương bài giảng môn Tâm lý học văn hóa, Tư liệu
khoa Tâm lý học, Đại học KHXH & NV, Hà Nội
66. Mục sư Lê Hoàng Phú, Ph.D (2010), Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam
(1911-1965), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
67. Vương Duy Quang (1987), Quan hệ dòng họ trong xã hội người Hmông, Tạp
chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.
68. Vương Duy Quang, Vấn đề người Hmông theo Kitô giáo hiện nay, tạp chí
Dân tộc học, số4/1994, Hà Nội.
69. Vương Duy Quang (2003), Hiện tượng xưng vua ở người Hmông, tạp chí
Dân tộc học, số2, Hà Nội.
70. Vương Duy Quang (2004), Người Hmông và những hiện tượng tôn giáo liên
quan đến sự phản ứng của họ ở Đông Nam Á: Quá khứ và hiện tại, Tạp chí Dân
tộc học, số 6, Hà Nội.
71. Vương Duy Quang (2005), Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam:
truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội .
72. Vương Duy Quang (2007), Sự cải đạo theo Ki tô giáo của mộ bộ phận người
Hmông ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á từ cuối thế kỷ XIX đến nay, Tạp chí
Dân tộc học, số 3, Hà Nội.
73. Nguyễn Duy Quang (1994), Dòng họ - một đặc thù của xã hội người
H’mông, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 2, Hà Nội.
74. Dương Kim Quý (2002), Ngẫm về tộc danh của người Mông, Tạp chí Dân
tộc và thời đại, số 43, Hà Nội.
75. Lê Ngọc Quyền (1993), Một vài đặc điểm về nhà cửa của người Hmông, Tạp
chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.
76. Savina F.M (1924), Lịch sử người Mèo, Hồng Kông, Bản dịch lưu tại Thư
157
viện Viện Dân tộc học, Hà Nội.
77. Thải Giàng Sán (2002), Tục “Háy Pú”trong cư dân Hmông, Tạp chí Dân tộc
và thời đại, số 41, Hà Nội.
78. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá Hmông, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
79. Trần Hữu Sơn (2001), Sa Man giáo của người Hmông ở Lào Cai, Tạp chí
Dân tộc học, số 6, Hà Nội.
80. Trần Hữu Sơn (2012), Đạo Tin Lành vùng đồng bào dân tộc Hmông ở Lào
Cai (nhìn từ văn hóa tộc người), trong Kỷ yếu Tọa đàm Đạo Tin Lành và văn hóa
Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hội Việt – Mỹ và Viện Liên kết toàn cấu
đồng tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2012.
81. Chu Thái Sơn (chủ biên)(2005), Người Hmông, Nxb Trẻ, Hà Nội .
82. Mai Thanh Sơn (2004), Người Hmông với việc giữ gìn những giá trị văn hóa
truyền thống, Tạp chí Dân tộc học, số 6, Hà Nội.
83. Kiều Trung Sơn (2013), Biến đổi tín ngưỡng Mông- thực tế và trăn trở, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 1 (145), Hà Nội.
84. Thào Xuân Sùng (chủ biên) (2010), Dân tộc Mông ở Sơn La với việc giải
quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Đỗ Ngọc Tấn (chủ biên) (2004), Hôn nhân gia đình các dân tộc Hmông, Dao
ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
86. Trần Lệ Thanh (2011), Sự lo ngại lực lượng thần linh, các ma trong tâm lý của
dân tộc Hmông ở khu vực phía Bắc Việt Nam, Tạp chí Tâm lý học, số 9, Hà Nội.
87. Thủ tướng Chính phủ, Chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào
dân tộc thiểu số đồng bào dân tộc thiểu số. Văn bản Quyết định số 18/2011/QĐ-
TTg, ngày 18/3/2011.
88. Nguyễn Ngọc Thanh (2000), Làng của người Hmông ở Việt Nam, Tạp chí
Dân tộc học, số 1, Hà Nội.
89. Nguyễn Ngọc Thanh (2002), Những quy ước của người Hmông, Tạp chí Dân
tộc học, số 6, Hà Nội.
90. PGS, TS Cao Văn Thanh- TS Đậu Tuấn Nam (Đồng chủ biên) (2011), Một
số vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, Nxb
158
Chính trị- Hành chính, Hà Nội.
91. Nguyễn Văn Thắng (2004), Sự thay đổi tôn giáo và ảnh hưởng của nó ở
người Hmông Thái Lan, Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.
92. Nguyễn Văn Thắng (2006), Về động thái ứng xử với bệnh tật của người
Hmông, tạp chí Dân tộc học, số 3(141), Hà Nội.
93. Nguyễn Văn Thắng (2009), Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”? Bản chất của
những phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo
Tin Lành, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
94. Lê Ngọc Thắng- Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
95. Ngô Ngọc Thắng (chủ biên) (2002), Văn hóa bản làng truyền thống các dân
tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
96. Lê Ngọc Thắng (1998), Môi trường văn hóa Hmông, nhân tố thúc đẩy sự
phát triển của cộng đồng, Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.
97. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
98. Đoàn Đình Thi (1998), Tết truyền thống của dân tộc Hmông, Tạp chí Dân
tộc học, số 2, Hà Nội.
99. Phạm Gia Thoan (2012), Đạo Tin Lành những tri thức cơ bản, Nxb Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
100. Vương Xuân Tình (2004), Những linh hồn bị cám dỗ, Tạp chí Dân tộc và
thời đại, số 76, Hà Nội.
101. Vương Xuân Tình (Chủ biên) (2014), Văn hóa với phát triển bền vững ở
vùng biên giới Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
102. Bùi Xuân Trường (1999), Tác dụng của luật tục đối với việc quản lý xã hội ở
các dân tộc Thái, Hmông Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
103. Lý Cẩm Tú, Hoàng Minh Lợi (1997), Một số tập tục của người Hmông xanh
tỉnh Lào Cai, Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.
104. Mã Phúc Thanh Tươi (2011), Vài nét tương đồng trong đạo đức Tin lành và
159
đạo đức truyền thống, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12, Hà Nội.
105. Mã Phúc Thanh Tươi (2013), Những vấn đề đặt ra đối với tín hữu Tin Lành
ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 05(119), Hà Nội.
106. Cư Hoà Vần- Hoàng Nam(1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội .
107. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên)(1996 ), Về tín ngưỡng Việt Nam hiện nay,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
108. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên)(1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn
giáo ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
109. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
110. Quốc Văn (2007), Ki-tô giáo trong thế kỷ XXI qua một số tài liệu nước
ngoài, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 5, Hà Nội.
111. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Quan hệ tộc
người và phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
112. Viện Dân tộc học (1970), Nguồn gốc người Mèo. (Tài liệu dịch)
113. Viện Dân tộc học (1972), Một số tài liệu về tổ chức dòng họ của dân tộc Mèo
ở Bắc Hà, Lào Cai (Tài liệu dịch)
114. Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Hội Việt – Mỹ, Viện Liên kết Toàn cầu (2012),
Đạo Tin lành và văn hóa Việt Nam, Tọa đàm bàn tròn Tin Lành lần thứ ba, ngày
28 tháng 11, Hà Nội
115. Hoàng Vinh(1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở
nước ta, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
116. Trần Vở (2007), Thực hiện Chỉ thị 01/ CT_TTg của Thủ tưởng Chính phủ ở
Lai Châu, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 3- 2007, Hà Nội.
117. Từ Ngọc Vụ (2014), Người Hmông đôi nét về sinh hoạt tộc người, Nxb Công
an Nhân dân, Hà Nội.
118. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà
160
Nội.
119. Nguyễn Thanh Xuân (2002), Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và
ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
120. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số điểm khác nhau giữa đạo Tin lành và
đạo Công giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 02, Hà Nội.
121. Nguyễn Thanh Xuân (2006), Đạo Ki-tô lịch sử những tên gọi, Tạp chí Công
tác tôn giáo, số 7, Hà Nội.
122. Nguyễn Thanh Xuân (2006), Một số vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu đạo
Tin Lành, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 9- 9/2006, Hà Nội.
123. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Vài nét khái quát về tôn giáo trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 02, Hà Nội.
124. PGS., TS. Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
125. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết nhân học, Nxb Đại học Quốc gia,
Thành phố Hồ Chí Minh.
126. H.Russel Bernard (2007), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học, Nxb
Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
Trang điện tử
127. www.cema.gov.vn
128. www.laocai.gov.vn
129. www. chinhphu.vn
130. www.hmongstudies.org/
Tài liệu tiếng nước ngoài
131. James F.Lewis (2006), Messianism as A Factor in Vietnam’s Hmong Mass
Conversion to Christianity: 1990-2005, _ Bethel University Regional AAR
meeting_ Luther Theological Seminary.
132. Timonthy T.Vang (1998), Coming a full circle: historical analysis of the
Hmong church growth 1950 – 1988, A dissertation submitted to the Faculty of the
161
School of Theology Fuller Theological Seminary.
133. Vuong Xuan Tinh and Tran Hong Hanh (2008), “Lessons learned and
recommendations for food security of ethnic minorities in the upland areas of
Vietnam and Lao PDR”, Anthropology Review, No. 1.
134. Nguyen Van Thang (2007), Ambiguity of Identity: The Mieu in North
Vietnam, First edition- Chieng Mai: Silkworm Book.
135. Vayong Moua (1995), Hmong Christianity: Conversion, Consequence, anh
Conflict, St. Olaf College; Northfield, Minnesota 1995 (Hmong Electronic
Resources Project )
136. Tran Huu Son (2004), Infuence of tourism on social institutions of Hmong
people in Sapa, Anthropology Review- Hanoi: Construction Publishing House, No
1(4), p.54-59.
137. William Barclay, Ethics in a Permissive Society, Harper & Row, Publishers,
162
Inc, New York, 1971, p.13
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------------
NGUYỄN QUỲNH TRÂM
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG
THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số:
62 31 03 02
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS, TS Phạm Quang Hoan
2. TS. Đậu Tuấn Nam
Hà Nội – 2016
163
Nguồn :www.laocai.gov
164
Ảnh 1: Bản đồ hành chính tỉnh Lào Cai
Ảnh 2: Tác giả chụp cùng người Hmông theo Tin lành tại Xín Chải
(Người chụp ảnh: Trần Mạnh Hưng)
Ảnh 3: Nhà nguyện tại Xín Chải
(Người chụp ảnh: Trần Mạnh Hưng)
165
Ảnh 4: Tinh thần cầu nguyện được dán ngoài cửa của nhà nguyện
tại Hội nhánh Xín Chải
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
166
Ảnh 5: Kinh Thánh của người Hmông
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
Ảnh 6: Trang trí sân khấu của điểm sinh hoạt tôn giáo ở Lào Cai
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
167
Ảnh 7: Quang cảnh bên trong ngôi nhà người Hmông theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
Ảnh 8: Quang cảnh bên trong ngôi nhà của người Hmông không theo Tin lành (Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
168
Ảnh 9: Ảnh cưới của người Hmông theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
169
Ảnh 10: Mặt trước ngôi nhà mới cất của người Hmông theo Tin lành
(Người chụp Trần Mạnh Hưng)
Ảnh 11: Bên ngoài ngôi nhà của người Hmông không theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
170
Ảnh 12: Quang cảnh chuồng bò của nhà người Hmông theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
Ảnh 13:Quang cảnh nuôi heo của người Hmông không theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
171
Ảnh 14: Căn bếp trong nhà người Hmông truyền thống
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
Ảnh 15: Buồng khách chính của nhà người Hmông truyền thống
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
172
Ảnh 16: Em bé trong gia đình người Hmông theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
Ảnh 17: Em bé trong gia đình người Hmông không theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
173
Ảnh 18: Đoàn nghiên cứu phỏng vấn người Hmông theo Tin lành
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
Ảnh 19: Tác giả chụp ảnh cùng một trưởng nhóm thuộc
Hội thánh Liên hữu cơ đốc
(Người chụp Trần Mạnh Hưng)
174
Ảnh 20: Buổi tập thể dục của học sinh tại bản Sa pả
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
Ảnh 21: Đường vào bản Sa Pả
(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)
175
176

