VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -------------------

NGUYỄN QUỲNH TRÂM

VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG

THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Nhân học

Mã số

: 62 31 03 02

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS, TS Phạm Quang Hoan

2. TS. Đậu Tuấn Nam

HÀ NỘI- 2016

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.

Tác giả luận án

Nguyễn Quỳnh Trâm

i

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành bản luận án này,

tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cơ quan, tập thể, cá nhân.

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS, TS Phạm

Quang Hoan và TS Đậu Tuấn Nam – người Thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ

tôi trong việc lựa chọn đề tài, tiếp cận các phương pháp nghiên cứu, định

hướng các nội dung nghiên cứu và sửa chửa bản luận án này để tôi hoàn thành

nhiệm vụ học tập của một nghiên cứu sinh.

Tôi trân trọng cảm ơn Khoa Dân tộc học, Học viện Khoa hộc xã hội

thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; khoa Dân tộc và Tôn giáo –

Học viện Chính trị khu vực I nơi tôi đang công tác đã tạo điều kiện thuận lợi

để tôi hoàn thành khóa học nghiên cứu sinh 2012-1025.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Tôn giáo Chính phủ, Sở Nội vụ

tỉnh Lào Cai, Ban Dân vận Tỉnh ủy Lào Cai, cùng cấp ủy đảng, chính quyền,

các cơ quan chức năng huyện Sa pa, Bảo Thắng, Bắc Hà,... đã tạo điều kiện

giúp đỡ trong quá trình điền dã thu thập tư liệu để viết luận án.

Với tinh thần cầu thị, học hỏi, tôi mong nhận được sự giúp đỡ, đóng

góp của mọi người để nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 29 tháng 7 năm 2015

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Quỳnh Trâm

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... v DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ................................................................ vi MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ............................................. 5 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 5 1.2. Một số khái niệm, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ............. 15 1.3. Địa bàn và đối tượng nghiên cứu ........................................................... 27 Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 31 CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 33 QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HMÔNG Ở TỈNH LÀO CAI .............. 33 2.1 Đạo Tin lành ở Việt Nam và quá trình theo đạo Tin lành của người Hmông tại Lào Cai ....................................................................................... 33 2.2. Tình hình hoạt động của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai ..................................................................................................................... 41 2.3. Nguyên nhân người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành ...................... 46 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 55 CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 57 THỰC TRẠNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI ......................................................................... 57 3.1. Văn hóa vật chất .................................................................................... 57 3.2. Văn hóa xã hội ...................................................................................... 67 3.3. Văn hóa tâm linh và tôn giáo của người Hmông theo Tin lành .............. 88 3.4. Văn hóa lối sống của người Hmông theo Tin lành ............................... 113 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 119 CHƯƠNG 4 .............................................................................................. 121 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN HÓA HMÔNG ................ 121 THEO TIN LÀNH Ở LÀO CAI .............................................................. 121 4.1. Những ảnh hưởng của việc truyền đạo và theo đạo Tin lành ............... 121 iii

4.2. Xu hướng phát triển của đạo Tin lành trong người Hmông ở Lào Cai 133 4.3. Một số nhận thức mới qua việc biến đổi văn hóa của người Hmông theo Tin lành ...................................................................................................... 136 4.4. Một số giải pháp đối với văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai................................................................................................ 140 Tiểu kết chương 4 ..................................................................................... 145 KẾT LUẬN ............................................................................................... 146 CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG BỐ ............................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 152

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

Ban chấp hành trung ương

BCHTW

The Christian and Missionary Alliance

CMA

Far East Broadcasting Company

FEBC

Giáo sư, tiến sỹ

GS, TS

Phó giáo sư, Tiến sỹ

PGS, TS

Hội đồng nhân dân

HĐND

Hội thánh Tin lành miền Bắc

HTTLMB

Hội thánh Phúc Âm Việt Nam

HTPAVN

HTLHCĐVN

Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam

HTTLTLVN

Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam

MNPB

Miền núi phía Bắc

Nxb

Nhà xuất bản

NCS

Nghiên cứu sinh

Tp

Thành phố

TS

Tiến sỹ

Tr

Trang

v

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Tỷ lệ dân số Hmông ở Lào Cai ..................................................... 30 Bảng 1.2: Cư trú của người Hmông ở Lào Cai ............................................. 31 Bảng 2.1. Phân bố tín đồ đạo Tin lành ở Lào Cai ......................................... 41 Bảng 2.2: Số lượng tín đồ người Hmông ở các hệ phái tại Lào Cai .............. 43 Bảng 2.3: Lý do theo Tin lành của người Hmông ......................................... 47 Biểu 3.1. Kiểu trang phục của người Hmông theo ........................................ 63 Bảng 3.1. Kiểu nhà của dân tộc Hmông ....................................................... 67 Bảng 3.2 : Số hộ có thành viên theo đạo Tin lành ......................................... 77 Bảng 3.3: Tên Họ của người Hmông ở Lào Cai ............................................ 79 Bảng 3.4: Số lượng phụ nữ/đàn ông Hmông theo Tin Lành ở 9 huyện ......... 84 của Lào Cai (năm 2012) ............................................................................... 84 Bảng 3.5: Số lượng người Hmông tham dự lớp tập huấn Sinh hoạt đạo Tin lành theo pháp luật ở Lào Cai (tháng 3/2013) ............................................... 85 Bảng 3.6 :Số lượng phụ nữ Hmông tham gia tổ chức xã hội ......................... 85 Biểu đồ 3.2. : Tỷ lệ nam/nữ người Hmông tham dự lớp tập huấn sinh hoạt đạo Tin lành theoi pháp luật ở Lào Cai ............................................................... 85 3.3. Văn hóa tâm linh và tôn giáo của người Hmông theo Tin lành .............. 88 Bảng 3.7: Các dạng thức trong tín ngưỡng truyền thống của người Hmông ......................................................................................................... 89 Bảng 3.8: Thay đổi trong tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông theo đạo Tin lành ....................................................................................................... 94 Bảng 3.9. Lễ, lễ hội truyền thống của người Hmông .................................... 95 Bảng 3.10. Ứng xử của người Hmông theo đạo Tin lành với lễ hội truyền thống ............................................................................................................ 96 Bảng 3.11. Các ngày lễ của người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai ....... 96 Bảng 3.13. So sánh giữa đám tang của người Hmông truyền thống và người Hmông theo Tin lành .................................................................................. 112 Biểu đồ 3.3. Thực trạng khám chữa bệnh của người Hmông ở Lào Cai ...... 116 Bảng 3.4. Chi phí trong cưới xin, tang ma của người Hmông ở Lào Cai .... 118 Bảng 4.1: Tình hình di cư của người Hmông ở tỉnh Lào Cai ...................... 125 Bảng 4.2: Điểm nhóm Tin lành đã đăng ký tại Lào Cai năm 2014 .............. 133

vi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

So với một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, người Hmông ở Việt

Nam chiếm một số lượng khá đông với dân số là 1.068.189 người [3, tr.134], đứng

hàng thứ sáu trong tổng số 54 dân tộc. Ở Việt Nam, người Hmông cư trú chủ yếu ở

vùng núi các tỉnh phía Bắc dọc biên giới Việt - Trung, Việt - Lào; đây là những khu

vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh và cũng là địa bàn khó khăn trong phát triển

kinh tế - xã hội.

Cùng với các dân tộc anh em khác, dân tộc Hmông có những nét đặc sắc về

văn hóa mưu sinh, tập quán, lối sống, ý thức cộng đồng, tâm lý tộc người, tín

ngưỡng truyền thống,… tạo nên một nền văn hóa phong phú, đạt được nhiều thành

tựu. Bên cạnh sự tương đồng văn hoá với các tộc người thiểu số khác, người

Hmông ở Việt Nam còn có những đặc điểm văn hóa riêng biệt, có giá trị nhân văn

sâu sắc.

Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay, đặc biệt là dưới tác động

của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đã ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế, xã hội và

văn hóa. Không nằm ngoài quy luật, văn hóa của các tộc người, trong đó có văn hóa

của người Hmông đã, đang chịu sự tác động và có những biến đổi nhất định. Ngoài

ra, văn hóa của người Hmông cũng chịu tác động bởi văn hóa tôn giáo, đó là đạo

Tin lành. Đạo Tin lành thâm nhập vào đồng bào Hmông năm 1985 dưới tên gọi là

Vàng Chứ, chỉ trong một thời gian ngắn, đến năm 2014 số người Hmông theo Tin

lành đã tăng lên rất nhanh, với tổng số 210.000 người, chiến hơn 20% số người

Hmông [7; tr. 5].

Dưới sự tác động của Tin lành, văn hóa truyền thống của người Hmông đã

có sự chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Nó được thể hiện trên các mặt như mối quan hệ

gia đình, dòng họ, xã hội; vai trò của những người có uy tín; niềm tin tôn giáo; lễ

thức trong hôn nhân, hay tang ma; văn hóa, lối sống,... Những biến đổi đó, bên cạnh

những mặt tích cực đối với xã hội như xóa bỏ một số hủ tục lạc hậu trong việc thực

1

hành các nghi lễ, làm giảm bớt đi những tệ nạn xã hội,… vẫn có cả mặt hạn chế,

như làm mai một đặc trưng văn hóa tộc người, gây mất đoàn kết trong xã hội, bị các

đối tượng xấu lợi dụng,… Vấn đề hiện nay là làm sao có thể bảo tồn và phát huy

những giá trị văn hóa của tộc người Hmông góp phần vào công cuộc xây dựng nền

văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung

ương 5 khóa VIII và tiếp tục triển khai theo Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về

xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước.

Lào Cai là địa phương có vị trí địa chính trị, địa văn hóa khá đặc trưng ở

các tỉnh miền núi phía Bắc. Ở Lào Cai, người Hmông có số lượng dân là 137.469

người, đứng thứ hai sau người Kinh. Người Hmông ở Lào Cai bắt đầu theo đạo Tin

lành từ năm 1989. Sau 25 năm, tính đến năm 2014, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có

24.166 người Hmông theo Tin lành của 6 tổ chức ở 8 huyện, thành phố; 64 xã, thị

trấn; với 133 điểm nhóm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt [7; tr.5].

Người Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai đã chịu tác động mạnh mẽ của đạo Tin

lành làm cho văn hóa truyền thống đã có sự biến đổi quan trọng. Điều đó đã ảnh

hưởng đến sự ổn định và phát triển văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của địa

phương và khu vực.

Với mong muốn đóng góp thêm vào sự hiểu biết về văn hóa dân tộc Hmông

đã thay đổi theo Tin lành tại Lào Cai, từ đó cung cấp những tư liệu khoa học giúp

Đảng và Nhà nước ta có những chính sách phù hợp trong việc phát huy những giá

trị văn hóa của tộc người Hmông theo Tin lành và hạn chế những yếu tố tiêu cực

nảy sinh góp phần phát triển bền vững tỉnh Lào Cai.

Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề: Văn hóa của người Hmông theo đạo Tin

lành ở tỉnh Lào Cai làm nội dung đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Nhân học.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành trong người

Hmông ở tỉnh Lào Cai, quá trình biển đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin

lành ở Lào Cai. Từ đó, đề xuất các kiến nghị và giải pháp trong chính sách dân tộc,

chính sách tôn tôn giáo nhằm vừa bảo tồn được những nét văn hóa truyền thống, 2

vừa phát huy những giá trị tích cực của văn hóa, lối sống của đạo Tin lành, góp

phần giữ vững ổn định xã hội trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu quá trình truyền bá đạo Tin lành trong vùng đồng bào Hmông

ở Lào Cai, cùng những nguyên nhân của việc một bộ phận người Hmông theo đạo

Tin lành.

- Nghiên cứu quá trình chuyển đổi từ văn hóa tín ngưỡng truyền thống sang

đạo Tin lành trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những tác động tích cực và

tiêu cực của việc người Hmông theo Tin lành đối với văn hóa, xã hội.

- Nghiên cứu những vấn đề đặt ra và xu hướng vận động của việc theo đạo

Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những đề xuất, kiến nghị.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1 Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa truyền thống của người Hmông, văn

hóa của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai.

3.2 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các thành tố của văn hóa của cộng

đồng người Hmông tỉnh Lào Cai theo đạo Tin lành, như: Văn hóa vật chất gồm ẩm

thực,trang phục, nhà cửa; Văn hóa xã hội với các mối quan hệ gia đình, dòng họ, xã

hội, vai trò của người phụ nữ, người có uy tín; Văn hóa tâm linh và tôn giáo với sự

biến đổi tín ngưỡng tôn giáo, thay đổi trong nghi thức cưới xin, tang ma; và văn hóa

lối sống. Đây là những yếu tố mà trong quá trình khảo sát (về định lượng và định

tính) cho thấy sự biến đổi khi theo đạo Tin lành so với yếu tố truyền thống.

Luận án xác định mốc 03 mốc thời gian nghiên cứu: (1) Chỉ thị 01/2005/CT-

TTg, Về một số công tác đối với đạo Tin lành, đánh dấu công tác đối với đạo Tin

lành được triển khai thực hiện ở tỉnh Lào Cai được qua việc đăng ký sinh hoạt các

điểm nhóm theo bản (làng) đưa đạo Tin lành hoạt động theo pháp luật; (2) năm

2012 là thời gian tôi bắt đầu nghiên cứu theo đề tài của luận án với số liệu về Tin

lành đã ổn định, ít biến động; (3) năm 2014 là thời mốc luận án hoàn thành việc

khảo sát và viết các chuyên đề.

3.3 Địa bàn nghiên cứu: Lựa chọn nghiên cứu một số điểm ở tỉnh Lào Cai

đáp ứng các tiêu chí là điểm có đa số đồng bào đã theo Tin lành; điểm có một bộ 3

phận theo Tin lành và một bộ phận vẫn giữ văn hóa truyền thống để tiến hành

nghiên cứu, so sánh, khai thác thu thập thông tin tư liệu.

4. Nguồn tư liệu, tài liệu

- Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ; đề án và đề tài nghiên cứu khoa học;

các sách, bài viết liên quan đến đề tài của các tác giả trong và ngoài nước đã được

công bố.

- Các văn bản của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo.

- Báo cáo về tình hình và công tác dân tộc, tôn giáo của cơ quan chức năng

ở địa bàn nghiên cứu.

- Tư liệu điền dã của tác giả.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

- Nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình truyền bá đạo Tin lành trong

người Hmông ở tỉnh Lào Cai; làm rõ quá trình chuyển đổi văn hóa của người

Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai.

- Cung cấp thêm nguồn tư liệu làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải

pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người Hmông trước bối

cảnh mới; đồng thời góp phần thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo đối với cộng

đồng người Hmông theo Tin lành.

- Làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề

dân tộc học, tôn giáo học.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các bài viết của tác giả được công

bố, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được kết cấu làm 4 chương.

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp

nghiên cứu.

Chương 2: Quá trình du nhập và phát triển của đạo Tin lành trong cộng đồng người

Hmông ở tỉnh Lào Cai.

Chương 3: Thực trạng văn hóa của người Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai.

4

Chương 4: Những vấn đề đặt ra đối với văn hóa Hmông theo Tin lành ở Lào Cai

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Nghiên cứu về người Hmông và văn hóa Hmông

Trong các tài liệu khoa học viết về người Hmông và văn hóa Hmông có

những cuốn sách có giá trị trực tiếp và tiêu biểu là Dân tộc Mông ở Việt Nam của

hai tác giả Cư Hoà Vần và Hoàng Nam [106]; Văn hoá Hmông của Tiến sĩ Trần

Hữu Sơn [78]; Người Hmông của Chu Thái Sơn [81]; Văn hóa người Mông ở Nghệ

An của Hoàng Xuân Lương [52].

Cuốn Dân tộc Mông ở Việt Nam của Cư Hoà Vần và Hoàng Nam được xuất

bản năm 1994 [106] đã cung cấp cho người đọc những tư liệu bổ ích về lịch sử cư

trú, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội và bước đầu cho thấy nét đặc trưng trong bản

sắc văn hóa của tộc người Hmông. Tuy nhiên, hai tác giả mới chỉ dừng lại ở góc độ

mô tả dân tộc học về một số nét văn hóa của tộc người này mà chưa lý giải, làm rõ

việc thực hành các văn hóa đó cùng với sự biến đổi văn hóa của người Hmông.

Năm 1996, tác giả Trần Hữu Sơn đã cho ra mắt cuốn sách Văn hóa Hmông.

Đây được coi là một chuyên khảo dân tộc học đầu tiên viết về văn hóa tinh thần

của người Hmông ở tỉnh Lào Cai. Trong cuốn sách này, tác giả Trần Hữu Sơn đã

giới thiệu những khái quát về điều kiện tự nhiên, dân cư, dân số, những đặc điểm

kinh tế - xã hội cũng như lịch sử tộc người và truyền thống đấu tranh của người

Hmông nhằm đặt cơ sở cho việc phân tích, đánh giá những yếu tố cơ bản trong quá

trình hình thành và phát triển văn hóa tộc người, văn hóa địa phương. Nội dung cơ

bản của cuốn sách được tập trung ở chương ba Những yếu tố mới trong đời sống

văn hóa tinh thần của người Hmông ở Lào Cai và những vấn đề đặt ra. Ở đây, bên

cạnh việc miêu tả những nét văn hóa truyền thống của người Hmông, tác giả cuốn

sách đã bước đầu đề cập đến đạo Công giáo và đạo Tin lành trong đồng bào

5

Hmông, quá trình chuyển tín ngưỡng truyền thống sang Tin lành và xác định Tin

lành là yếu tố văn hóa mới xuất hiện trong đời sống văn hóa tinh thần người Hmông

[78, tr.178].

Cũng viết về người Hmông và văn hóa của người Hmông, tác giả Hoàng

Xuân Lương lại chọn cho mình địa bàn cụ thể là tỉnh Nghệ An, một nơi giáp với

Lào và có nhiều người Hmông sinh sống để làm điểm nghiên cứu. Bằng nguồn tư

liệu có được, năm 2000 tác giả Hoàng Xuân Lương đã xuất bản cuốn Văn hóa

người Mông ở Nghệ An [52]. Cuốn sách làm sáng tỏ nguồn gốc lịch sử, các đặc

trưng văn hóa của tộc người Hmông tại Nghệ An. Những nội dung trong cuốn sách

được coi là nguồn tư liệu quý, góp phần quan trọng giúp Đảng và Nhà nước, đặc

biệt là tỉnh Nghệ An trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,

phát huy các giá trị tích cực của văn hóa tộc người vào sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Nội dung cuốn sách gồm ba chương, chương một và chương hai đề cập

đến điều kiện tự nhiên, lịch sử và sinh hoạt vật chất, văn hóa của người Hmông ở

Nghệ An; chương ba cung cấp cho bạn đọc những giải pháp nhằm bảo tồn và phát

huy các giá trị văn hóa của người Hmông ở Nghệ An, từ việc nhận thức đúng đắn

văn hóa truyền thống của người Hmông đến việc đưa ra các biện pháp trên lĩnh vực

kinh tế - xã hội - chính trị - văn hóa. Ở đây tác giả đã đề cập vấn đề truyền đạo Tin

lành gắn với khối đại đoàn kết dân tộc, tiếp cận Tin lành ở góc độ chính trị, nêu lên

hệ quả mà Tin lành - Vàng Chứ gây ra đó là Vàng Chứ phát triển tới đâu, cộng đồng

người Mông bị chia cắt tới đó [52,tr. 191].

Cuốn Văn hóa Hmông của Trần Hữu Sơn và Văn hóa người Mông ở Nghệ

An của Hoàng Xuân Lương nói trên là hai cuốn sách viết về người Hmông ở địa

phương cụ thể là Lào Cai và Nghệ An với những thông tin về nguồn gốc lịch sử,

đặc trưng văn hóa của tộc người. Cả hai tác giả cũng đã đề cập đến hiện tượng

người Hmông từ bỏ văn hóa tín ngưỡng truyền thống tạo nên sự biến đổi văn hóa

với yếu tố văn hoá ngoại lai là Tin lành hay Công giáo.

1.1.2. Nghiên cứu về người Hmông theo Tin lành

Trong những năm trở lại đây, vấn đề Tin lành và truyền đạo Tin lành vào

6

vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng người Hmông đang nổi lên. Vấn đề

này có tác động không nhỏ đến chính trị, văn hóa, xã hội của đồng bào dân tộc thiểu

số, vì thế có rất nhiều nhà khoa học chú ý nghiên cứu đến hiện tượng này.

Nghiên cứu tộc người Hmông đặt trong mối quan hệ với đạo Tin lành có hai

cuốn sách mà tác giả thấy rất cần thiết và gần sát với đề tài nghiên cứu của luận án

đó là Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam - truyền thống và hiện đại

xuất bản năm 2005 của Vương Duy Quang [71] và Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”,

bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với

ảnh hưởng của đạo Tin lành xuất bản năm 2009 của Nguyễn Văn Thắng [93].

Cuốn Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam - truyền thống và

hiện đại của Vương Duy Quang, đã bàn về bản chất và trình bày những nguyên

nhân của việc một bộ phận đồng bào Hmông theo tôn giáo mới - đạo Tin lành, cũng

như đã nêu lên những tác động đến xã hội, cộng đồng của người Hmông. Cuốn sách

có bốn chương, ngoài phần giới thiệu Đôi nét về người Hmông ở Việt Nam ở

chương một và phần viết về Văn hóa tâm linh truyền thống của người Hmông ở

Việt Nam ở chương hai là những tư liệu quý về dân tộc học. Phần sáng tạo, đóng

góp giá trị về phát hiện mới về Những biến đổi trong văn hóa tâm linh của người

Hmông ở Việt nam hiện nay được thể hiện rõ ở chương ba. Những trang viết trong

chương ba đã cung cấp những thông tin phong phú, sống động về những biến đổi

trong đời sống văn hóa tâm linh ở một bộ phận người Hmông tại các tỉnh miền núi

phía Bắc (đặc biệt trong giai đoạn 1987-1998). Chương bốn là Một số nhận xét và

những vấn đề đặt ra, Vương Duy Quang cho rằng: “Dù trong quá khứ hay hiện tại,

sự cải đạo của người Hmông đã cho thấy dân tộc này đã và đang trải qua những

thay đổi quyết liệt nhất trong văn hóa và tôn giáo của họ. Hành động tiếp nhận Kitô

giáo của người Hmông trong suốt thế kỷ qua đã chứng tỏ một bộ phận của cộng

đồng này mong muốn đổi đời, cảm nhận sự tự do bằng sự cải đạo thực sự… Tổn

thương trong mối quan hệ cộng đồng giữa người cải đạo và không cải đạo là điều

không thể tránh khỏi bởi cả hai phía đều cho đức tin của mình là chính thống”

7

[71, tr.269].

Cuốn sách Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”, bản chất của những cách phản

ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành của

Nguyễn Văn Thắng đã đề cập đến những nội dung: (1). Tín ngưỡng truyền thống

của người Hmông, từ quan niệm đến lý do tại sao người Hmông phải “làm cúng”,

“làm ma” và nêu lên vai trò của tín ngưỡng truyền thống đối với xã hội và văn hóa

Hmông; Tín ngưỡng truyền thống của người Hmông là một phần của văn hóa. Nó

phản ánh thế giới quan tôn giáo và hệ thống nghi lễ kèm theo và đóng vai trò như

dấu hiệu để cố kết người Hmông lại. (2). Quá trình thay đổi theo Tin lành của người

Hmông; Mối quan hệ của Tin lành với Ki tô giáo; việc truyền đạo vào các tộc người

thiểu số ở Việt Nam và người Hmông ở các nước khác. (3). Ảnh hưởng của sự thay

đổi theo Tin lành tới văn hóa, kinh tế- xã hội và an ninh, quốc phòng ở vùng biên

giới; Ảnh hưởng tiêu cực: Làm mất đi các chức năng của tín ngưỡng truyền thống;

gây ra sự phân chia, đối lập và sự căng thẳng trong nội bộ người Hmông; gây khó

khăn trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa - xã hội truyền thống; gây ra tình trạng di

cư tự do, vượt biên trái phép. Song việc theo đạo Tin lành của người Hmông cũng

có những ảnh hưởng tích cực, khắc phục những bất cập của tín ngưỡng truyền

thống. (4). Nguyên nhân, bản chất của sự thay đổi từ tín ngưỡng truyền thống

sang đạo Tin lành của người Hmông. Và nội hàm văn hóa truyền thống của

người Hmông đã xuất hiện những yếu tố suy thoái đến sự lôi cuốn, lôi kéo của

Tin lành [93].

Viết về người Hmông, văn hóa Hmông và người Hmông theo Tin lành còn

phải nói đến công trình Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng

tôn giáo hiện nay do Thào Xuân Sùng chủ biên, xuất bản năm 2009 [84]. Thào

Xuân Sùng và các tác giả nhìn vấn đề người Hmông và tôn giáo từ góc độ của nhà

quản lý, đề cập đến thực tế người Hmông ở Sơn La và đưa ra nguyên nhân của việc

đạo Công giáo và Tin lành thâm nhập và phát triển trong đời sống của người

Hmông tại địa phương này, từ đó đã nêu ra những kinh nghiệm, giải pháp và

phương hướng giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong dân tộc Mông ở Sơn La

8

[84,tr.98].

Cùng với các công trình được xuất bản, viết về người Hmông và văn hóa

Hmông, còn có những bài viết đăng trên các tạp chí. Nhà nghiên cứu Vương Duy

Quang đã có hàng loạt bài viết về đạo Vàng Chứ mà ông gọi là hiện tượng tôn giáo

mới ở người Hmông ở Việt Nam, về truyền thống văn hóa dân tộc trước các hiện

tượng tôn giáo mới. Ông đặt các hiện tượng tôn giáo mới trong phong trào cải đạo

theo Kitô giáo của người Hmông từ cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX trong tổng thể

cả khu vực Đông Nam Á như Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan - những nơi mà

cộng đồng người Hmông ở Việt Nam có quan hệ đồng tộc, thân tộc.

Các bài nghiên cứu của Vương Duy Quang trên Tạp chí chuyên ngành có

thể điểm lại như: (1). Hiện tượng xưng vua ở người Hmông [69] những năm gần

đây phát triển không chỉ ở Việt Nam mà còn ở cả khu vực Đông Nam Á. Bắt đầu

của phong trào này là hiện tượng “xưng vua”. Ở bài viết này, tác giả đã phân tích,

giải thích hiện tương xưng vua ở người Hmông, cũng như sự liên quan giữa xưng

vua và bạo loạn và vấn đề Vàng Chứ hiện nay. (2). Người Hmông và những hiện

tượng tôn giáo liên quan đến sự phản ứng của họ ở Đông Nam Á: Quá khứ và hiện

tại [70] điểm lại những sự kiện tôn giáo liên quan đến động thái phản ứng của người

Hmông trong quá khứ và hiện tại, từ đó làm sáng tổ bản chất và thực trạng vấn đề

tôn giáo và dân tộc ở người Hmông trong khu vực Đông Nam Á lục địa; đưa ra

nhận xét và kết luận về người Hmông. (3). Sự cải đạo theo Ki tô giáo của một bộ

phận người Hmông ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á từ cuối thế kỷ XIX đến nay

[72] đã phân tích quá trình cải đạo từ truyền thống sang đạo Ki-tô giáo của người

Hmông ở Việt Nam, Lào, Thái Lan. Do bị mất đất, người Hmông phải thiên di, ly

tán, bị chèn ép, bị đe dọa diệt vong. Điều kiện sống khó khăn đã tạo nên sự khủng

hoảng niềm tin trong một bộ phận người Hmông, dẫn đến trông chờ và mong đợi vị

cứu tinh. Chính điều này đã trở thành một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận

lợi để Ki tô giáo thâm nhập vào người Hmông.

Nguyễn Văn Thắng có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề được đăng trên các

tạp chí chuyên ngành này như: Về động thái ứng xử với bệnh tật của người Hmông

9

[92], bài viết được cơ cấu thành ba phần chính gồm: (i). Cách ứng xử truyền thống

với bệnh tật của người Hmông, (ii). Sự biến đổi cách ứng xử truyền thống với bệnh

tật và bản sắc của người Hmông, (iii). Tác động của hiện đại hóa/toàn cầu hóa tới sự

biến đổi cách ứng xử của người Hmông với bệnh tật. Sự biến đổi trong cách ứng xử

truyền thống với bệnh tật của người Hmông ít nhiều có liên quan đến tôn giáo, biến

thể theo các nhóm tôn giáo, như Công giáo, Tin lành (Vàng chứ). Ứng xử với bệnh

tật của người Hmông được chế định bởi văn hóa Hmông, trong đó tôn giáo là một

trong những yếu tố quan trọng và làm thành một phần bản sắc riêng của họ. Vì vậy,

việc sử dụng hệ thống y học cổ truyền là chính thì người Hmông sẽ bảo lưu được cơ

bản bản sắc riêng trong văn hóa, nhưng hạn chế trong việc kiểm soát bệnh tật. Trái

lại, khi áp dụng hệ thống y học hiện đại là chính, người Hmông theo Ki-tô giáo

kiểm soát được bệnh tật, nhưng lại làm mờ nhạt dần bản sắc riêng trong cách ứng

xử với bệnh tật của họ.

Những bài nghiên cứu khác như: Một số vấn đề thực tiễn về đạo Tin Lành ở

các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Minh và Hồ Ly

Giang [57] gồm ba nội dung chính: Nội dung thứ nhất giới thiệu về tình hình đạo

Tin lành ở Tây Bắc; nội dung thứ hai đưa ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến

việc đạo Tin lành phát triển ở vùng Tây Bắc, từ nguyên nhân chủ quan (như đường

lối chính sách, cán bộ đảng viên tại địa phương, tổ chức hệ thống chính trị) đến

nguyên nhân khách quan (như điểm lợi thế từ bản thân của đạo Tin lành); Nội

dung thứ ba trình bày những ảnh hưởng của sự phát triển Tin lành ở Tây Bắc, từ

ảnh hưởng trên lĩnh vực phát triển kinh tế đến sự ảnh hưởng trong đời sống xã hội,

văn hóa.

Về bài Vài nét về phương thức truyền giáo của đạo Tin lành vào vùng dân

tộc Mông ở Lào Cai [51] Nguyễn Đình Lợi đã tập trung trình bày khá chi tiết vào

hai phần chính. Đó là Phương thức truyền giáo của đạo Tin lành vào vùng người

Hmông ở Lào Cai và nguyên nhân phát triển đạo Tin lành trong cộng đồng người

Hmông ở Lào Cai. Trong phần đầu bài nghiên cứu, tác giả đã giới thiệu khái quát về

cộng đồng người Hmông ở Lào Cai với nền văn hóa đặc sắc cả về vật chất lẫn tinh

thần, người Hmông có đời sống tín ngưỡng phong phú [51,tr.44]. Quá trình xâm 10

nhập, phát triển của đạo Tin lành trong cộng đồng người Hmông ở Lào Cai được

chia làm bốn giai đoạn, ở mỗi thời điểm khác nhau, hoạt động truyền đạo của tôn

giáo này cũng khác nhau, khi âm thầm phát triển, lúc bùng phát thành phong trào

[51, tr.45]. Ở hai nội dung chính trình bày về phương thức truyền giáo của đạo Tin

lành có đưa ra các phương tiện truyền giáo từ nghe đài phát thanh FEBC, nghe băng

casette, thông qua khách du lịch, các hoạt động nghiên cứu khoa học như văn hóa

học, dân tộc học và phương thức truyền miệng,… cùng với các phương pháp truyền

giáo đã đánh trúng tâm lý người Hmông, từ đó nhiều đồng bào đã tin tưởng và theo

đạo Tin lành một cách tự nguyện [51, tr. 47]. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu đã đưa ra

năm nguyên nhân dẫn đến đạo Tin lành phát triển trong cộng đồng người Hmông tại

Lào Cai, có thể kể đến như: chủ trương truyền giáo của đạo Tin lành, đặc điểm lịch

sử- văn hóa, đời sống khó khăn của dân tộc Hmông, nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo

của đồng bào và do hệ thống chính trị cơ sở còn yếu kém. Như vậy, việc một bộ

phận không nhỏ đồng bào Hmông chuyển từ tín ngưỡng truyền thống sang Tin lành

có thể coi là một sự thay đổi niềm tin tôn giáo hay một sự cải đạo theo Ki-tô giáo

[51, tr.44] và đạo Tin lành thực sự đã có chỗ đứng trong đời sống tinh thần của một

bộ phận người Hmông [51, tr. 45].

Trong bài Biến đổi tín ngưỡng Mông - thực tế và trăn trở của Kiều Trung

Sơn đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian, năm 2013 [83] có nêu rằng, sự biến đổi

hay thay đổi tín ngưỡng truyền thống của người Hmông không chỉ vì nguyên nhân

từ việc ảnh hưởng truyền bá của tôn giáo mới là Công giáo hay Tin lành; mà sự

chuyển biến này xuất phát từ nội tại của tín ngưỡng người Hmông. Họ nhận thấy

trong tín ngưỡng văn hóa truyền thống của mình có nhiều điểm lạc hậu và nhận

thức rằng, cần có sự cải biến, loại bỏ hoặc đổi mới. Trong phần hai của bài nghiên

cứu đã nêu ra những yếu tố tín ngưỡng cổ truyền lạc hậu của người Hmông, đặc biệt

xoáy sâu phân tích về tang ma với những yếu tố lỗi thời, mang tính hủ tục. Cuối bài

nghiên cứu cũng đưa ra những động thái cải biến một số yếu tố lạc hậu trong tín

ngưỡng Hmông; người Hmông đã chủ động có những điều chỉnh số lượng lễ vật

11

trong nghi lễ, tránh tốn kém lãng phí; họ cũng đưa vào trong quy ước dòng họ, và

duy trì những yếu tố tích cực một cách sáng tạo. Điều này cho thấy, không chỉ có

cải đạo mới tạo ra sự thay đổi, mà ngày từ trong suy nghĩ, từ nội bộ tộc người cũng

đã có những thích ứng văn hóa.

1.1.3. Nghiên cứu về đạo Tin lành và văn hóa lối sống Tin lành

Trong các tôn giáo từ nước ngoài truyền vào Việt Nam, đạo Tin lành là tôn

giáo được coi là tôn giáo truyền vào muộn hơn cả. Năm 1911 là thời mốc đánh dấu

việc đạo Tin lành truyền vào Việt Nam. Trước năm 1975, đạo Tin lành phát triển

chủ yếu ở các tỉnh phía Nam với số lượng tín đồ, chức sắc ít hơn nhiều so với các

tôn giáo khác. Do vậy, việc nghiên cứu về đạo Tin lành dưới các góc độ lịch sử, tôn

giáo, văn hóa,… không được đặt ra. Trong giai đoạn này, ở miền Nam chỉ có một số

ấn phẩm, chủ yếu là hồi ký của giới Tin lành viết về thời kỳ đầu truyền đạo Tin

lành, về các tổ chức hệ phái Tin lành truyền vào Việt Nam.

Cuốn sách Bốn mươi sáu năm chức vụ của Mục sư Lê Văn Thái do Nhà in

Tin lành xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn, chủ yếu viết về thời kỳ đầu truyền đạo Tin

lành vào Việt Nam với vai trò của các giáo sỹ CMA về những khó khăn, thử

thách về xã hội mà các nhà truyền giáo phải đối diện. 46 năm chức vụ của mục

sư Lê Văn Thái có nói đến việc truyền giáo lên vùng dân tộc thiểu số, chủ yếu là

vùng Tây Nguyên.

Sau năm 1975, đúng ra phải đến đầu thế kỷ XXI, khi vấn đề đạo Tin lành ở

Việt Nam trở thành vấn đề “vừa mới, vừa lớn, vừa khó”, vừa mang tính thời sự

(tính cập nhật liên quan đến đạo Tin lành), vừa mang tính thời đại (liên quan đến

tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở của và hội nhập quốc tế, đạo

Tin lành phát triển ở Việt Nam tăng với tốc độ rất nhanh), các tác giả Việt Nam mới

quan tâm nhiều đến nghiên cứu về đạo Tin lành. Thời kỳ này phải kể đến các ấm

phẩm và công trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xuân, Đỗ Quang Hưng, Mã

Phúc Thanh Tươi, Nguyễn Xuân Hùng,…

Nguyễn Thanh Xuân trong Một số tôn giáo ở Việt Nam xuất bản năm 1992,

đã đề cập một cách khái quát đến đạo Tin lành ở Việt Nam về các phương diện như

lịch sử ra đời, quá trình du nhập, các đặc trưng của đạo Tin lành, đặc điểm đạo Tin 12

lành ở Việt Nam; việc hoạch định và thực thi các chính sách tôn giáo trong đó có

đạo Tin lành. 10 năm sau, năm 2002, Nhà xuất bản Tôn giáo cho xuất bản ấn phẩm

của Nguyễn Thanh Xuân về đạo Tin lành với tựa đề Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành

trên thế giới và ở Việt Nam. Nói là “bước đầu” nhưng ấm phẩm này nghiên cứu

chuyên biệt và cơ bản về đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam với gần 600 trang

từ hai góc độ lịch sử và tôn giáo. Đặc biệt, tác giả đã rút ra những nét đặc trưng về

đạo Tin lành, trong đó có nhận định từ phương diện tôn giáo học, đạo Tin lành thích

hợp với hai tầng lớp dân cư là thị dân của xã hội công nghiệp và dân tộc thiểu số-

tộc người, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới. Tác giả Nguyễn Thanh Xuân còn

có một số bài viết về Tin lành, đạo Tin lành và công tác đối với đạo Tin lành đăng

trên tạp chí Công tác tôn giáo, Nghiên cứu tôn giáo, như: Vài nét khái quát về tôn

giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, số 02/2007, Ba năm thực hiện chỉ thị số 01 Về Một số công tác đối với đạo

Tin lành- Tạp chí Công tác tôn giáo số 7/2008,…

Nhà nghiên cứu tôn giáo, GS.TS Đỗ Quang Hưng tuy không viết một công

trình chuyên biệt về người Hmông, văn hóa Hmông hay đạo Tin lành, nhưng qua

các công trình nghiên cứu về tôn giáo đã được công bố, chính sách tôn giáo ở Việt

Nam, quan hệ giữa nhà nước với giáo hội,... tác giả có bàn đến đạo Tin lành, việc

một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam theo đạo Tin lành: Đạo Tin

Lành ở Việt Nam: Một cái nhìn tổng quát [38], Kỷ nguyên truyền giáo của Ki tô

giáo tại châu Á và xung đột văn hóa- Trường hợp đạo Tin lành tại các quốc gia

Đông Bắc Á nói chung và Việt Nam nói riêng [40].

Trong những năm qua, Nguyễn Xuân Hùng đã công bố những kết quả

nghiên cứu về đạo Tin lành và đạo Tin lành ở Việt Nam, như: Tìm hiểu những hệ

quả của việc truyền giáo Tin lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng, tôn

giáo Việt Nam- Tạp chí Ngiên cứu Tôn giáo số 1/ 2000, Đạo Tin lành trong mối

tương quan với văn hóa dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Năm 2012, tác giả Mã Phúc Thanh Tươi- mục sư của Hội thánh Tin lành

13

Việt Nam (miền Nam) đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ triết học về đạo đức Tin

lành ở Việt Nam có bài Vài nét tuowg đồng trong đạo đức Tin lành và đạo đức

truyền thống [104].

1.1.4. Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước

Các tác giả nước ngoài nghiên cứu về người Hmông phải kể đến Savina với

tác phẩm Lịch sử người Mèo [75]; Những đặc điểm chủ yến của thuật saman của

người Mèo Trắng ở Đông Dương [28], Thuật Saman của người Hmông [29] của

Guy Morechand là những công trình nghiên cứu đầu tiên về đời sống văn hóa của

tộc người Hmông.

Các tác phẩm đề cập đến vấn đề người Hmông và sự cải đạo, ảnh hưởng

của việc theo tôn giáo là: Hmong Christianity: Conversion, Consequence, and

Conflict, By Vayong Moua (Đạo Cơ đốc trong người Hmông: Sự chuyển đổi, hệ

quả và xung đột của Vayong Moua) [135]; Coming a full circle: historical analysis

of the Hmong church growth 1950 – 1988, by Timonthy T.Vang, September1998

(Tiến tới một vòng tròn đầy đủ: Phân tích lịch sử về sự phát triển đạo Cơ đốc của

người Hmông giai đoạn 1950-1998, của Timonthy T.Vang) [132]; Messianism as A

Factor in Vietnam’s Hmong Mass Conversion to Christianity: 1990-2005, James

F.Lewis _ (Lòng tin vào Chúa cứu thế là yếu tố khiến số đông người Hmông ở Việt

Nam theo đạo Cơ đốc giai đoạn 1990-2005 của James F.Lewis [131],…

Đây là những công trình nghiên cứu về Tin lành và người Hmông cùng với

một vài dân tộc khác các nước như Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Mỹ. Các công trình

này có đề cập đến quá trình truyền bá và phát triển của Tin lành vào dân tộc

Hmông, đưa ra những điểm xung đột xảy ra trong cộng đồng dân tộc Hmông do sự

phát triển của Tin lành.

Viết về Tin lành không thể không nhắc đến công trình khá nổi tiếng với tựa

đề “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản” của Max Weber xuất bản

năm 1920 tại Đức. Max Weber cho rằng nền đạo đức Tin lành có một mối liên hệ

“tương hợp chọn lọc” với “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản, và do vậy đã tạo ra một

động lực tinh thần cần thiết và thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở

14

châu Âu [58, tr. 13].

Nói tóm lại, các công trình nghiên cứu được công bố ở trong nước và ngoài

nước nêu trên khá phong phú và có giá trị liên quan đến người Hmông, văn hóa

người Hmông nói chung hoặc người Hmông ở một địa phương cụ thể; về đạo Tin

lành, đạo Tin lành ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả là nguồn

tư liệu rất quan trọng và bổ ích để chúng tôi kế thừa trong quá trình thực hiện luận

án. Tuy nhiên, các nghiên cứu về quá trình người Hmông theo Tin lành và nhất là việc

chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa Tin lành của một bộ phận người

Hmông chưa được đề cập nhiều. Đó cũng là nỗ lực bù đắp của tác giả luận án.

1.2. Một số khái niệm, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

1.2.1. Các khái niệm cơ bản

- Văn hóa

Văn hóa - Cultura theo tiếng Latinh có nghĩa là trồng trọt, chỉ sự chăm sóc,

canh tác. Ở phương Đông, văn hóa với Văn và Hóa, với Văn là kiến thức, Hóa là

biến đối, giáo hóa, văn hóa là quá trình biến đổi nhận thức, bao gồm những sáng tạo

của đời sống tinh thần của con người.

Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hoá. Tuỳ theo góc

độ tiếp cận trên từng lĩnh vực nghiên cứu mà người ta đưa ra các định nghĩa khác

nhau về văn hoá.

Năm 1982, UNESCO - Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hiệp

quốc đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng

thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính

cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ

thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ

giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng (Tuyên bố về những chính sách văn hóa,

Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ 26-7 đến 06-8- 1982 tại Mêhicô).

Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa

nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,

15

tri thức và xúc cảm của một xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội và nó chứa

đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức, chung sống, hệ

thống giá trị, truyền thống và đức tin.

Từ điển Triết học định nghĩa: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội- lịch sử và tiêu

biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội… Văn hóa là một hiện

tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các các hình thái kinh tế - xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan điểm của mình về văn hóa như

sau: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo ra

ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật và

những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức ử dụng. Toàn

bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi

phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm

thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [54, tr. 431].

Trong Nhân học khái niệm văn hóa được E.B.Taylor (1871) đề cập đầu tiên

với tư cách là một tổng thể phức hợp gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,

luật pháp, phong tục và tất cả những khả năng và tập tục khác mà con người có

được với tư cách là một thành viên của xã hội . Với cách định nghĩa này của E.B.

Taylor thì văn hóa đầu tiên là bao gồm những đặc điểm của con người mà học được

hoặc có thể học được, chính vì vậy, nó mang tính xã hội và tinh thần; thứ hai, văn

hóa là một tổng thể phức hợp, nó bao trùm cả lĩnh vực rộng lớn của đời sống con

người, từ kỹ thuật sản xuất lương thực thực phẩm đến các lý luận về cuộc sống sau

khi chết của con người.

Các nhà Nhân học hiện đại tiếp cận văn hóa theo những cách khác nhau, tất

cả đều được thiết kế để nhận ra quan niệm theo một cách có chất lượng cao hơn và

có sức thuyết phục hơn, vượt ra khỏi lời khẳng định mang tính bảo vệ là văn hóa

không phải là đơn nhất mà là khác nhau tới mức không thể tưởng tượng được và nó

làm cho con người khác với các loài động vật khác. Ở đây xử lý văn hóa như là một

hệ thống các biểu tượng gồm ngôn ngữ, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức là tất cả

16

những thứ được thừa nhận trong đời sống xã hội con người.

Mặc dù còn nhiều khái niệm về văn hóa được đưa ra dưới góc độ Nhân học,

nhưng cơ bản có thể khái quát lại rằng, văn hóa là những truyền thống và lối sống

mà một con người có được thông qua quá trình học hỏi và giao tiếp xã hội với tư

cách là một thành viên trong cộng đồng. Văn hóa cũng chính là một cột mốc để

phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, tạo nên nét riêng có của mỗi tộc người.

Với việc xác định nội hàm của khái niệm Văn hóa, luận án áp dụng để phân

tích các thành tố văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành như ăn, mặc, ở; các

mối quan hệ xã hội; văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo; văn hóa lối sống.

- Văn hóa tộc người

Văn hoá tộc người là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để phân định

tộc người bởi nó có chức năng tộc người. Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố

về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, tâm lý, tình

cảm, phong tục tập quán… để người ta phân biệt tộc người này với tộc người khác.

Văn hoá tộc người là nền tảng nảy sinh và phát triển ý thức tộc người. Một tộc

người bị đồng hoá, bị mất bản sắc văn hoá riêng thì ý thức tộc người sẽ mai một dẫn

đến tộc người bị diệt vong. Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố văn hoá mang

tính đặc trưng và đặc thù tộc người, thực hiện chức năng cố kết cộng đồng tộc

người và phân biệt tộc người.

Khi nghiên cứu văn hóa, tùy theo chuyên ngành và ở từng quốc gia mà văn

hóa có thể được chia thành các nhóm khác nhau. Trong ngành Dân tộc học/Nhân

học, các nhà nghiên cứu thường chia văn hóa các dân tộc thành: văn hoá sản xuất,

văn hoá vật chất (văn hoá bảo đảm đời sống), văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần.

Đặc trưng văn hoá tộc người thể hiện trên toàn bộ đời sống xã hội từ ngôn

ngữ, trang phục, tôn giáo tín ngưỡng, văn hoá dân gian, tri thức về tự nhiên, xã hội,

con người, tri thức sản xuất, tâm lý và tính cách dân tộc, phong tục tập quán cho đến

nhà cửa, ăn uống… Sự tổng hoà các đặc trưng sinh hoạt văn hoá trong mối liên hệ

giữa chúng tạo thành truyền thống văn hoá tộc người. Truyền thống văn hoá tộc

người hình thành trong quá trình lịch sử tộc người được truyền từ thế hệ này sang

17

thế hệ khác.

- Biến đổi văn hóa tộc người

Con người không chỉ sống trong mối quan hệ bên trong cộng đồng mà còn

quan hệ ra ngoài cộng đồng. Các quan hệ trao đổi, tiếp xúc ấy đầu tiên là sản phẩm

vật chất, các phương tiện sản xuất sinh hoạt, rồi đến tư tưởng, tình cảm,… cùng với

đó là những ảnh hưởng qua lại ở các mức độ đậm nhạt khác nhau tạo nên sự biến

đổi về văn hóa; đó là hiện tượng giao lưu văn hóa.

Văn hoá luôn biến đổi và phát triển. Nếu một nền văn hoá không biến đổi

để phát triển nền văn hoá ấy sẽ tàn lụi. Biến đổi văn hoá tộc người là những thay đổi

diễn ra trong đời sống xã hội tộc người khác đi so với văn hoá truyền thống. Biến

đổi văn hoá xảy ra trong quá trình di dân hoặc giao lưu tiếp xúc giữa các cộng đồng

tộc người. Biến đổi văn hoá bằng cách tiếp thu hoặc vay mượn các yếu tố văn hoá

của tộc người khác, thường là những tộc người có trình độ phát triển cao hơn. Biến

đổi có thể diễn ra trên từng lĩnh vực hoặc toàn bộ. Biến đổi văn hoá theo hai xu

hướng: Từ bỏ văn hoá truyền thống dẫn đến xoá nhoà bản sắc, hoà tan tộc người

(đồng hoá), hoặc biến đổi văn hoá để thích ứng với điều kiện mới tạo ra sự phát

triển văn hoá.

Tiếp biến và giao lưu văn hóa là quy luật phát triển của văn hóa, quy luật tất

yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên của con người hiện tại. Vì vậy, việc người

Hmông giao lưu tiếp xúc với đạo Tin lành dẫn đến những biến đổi trong văn hóa,

cùng với những ảnh hưởng, tác động qua lại đối với văn hóa Tin lành là điều không

thể tránh khỏi. Điều này đã tạo cho văn hóa dân tộc của người Hmông có nhiều nét

đặc sắc, chuyển biến mới.

-Tín ngưỡng, tôn giáo.

Do tính phức tạp của hiện tượng tôn giáo cũng như việc nghiên cứu tôn

giáo dưới nhiều góc độ khác nhau về hiện tượng này nên đã có không ít những quan

phân tích, lý giải về tín ngưỡng, tôn giáo. Mỗi người ở những hướng tiếp cận khác

nhau, hoặc dưới góc độ thần học, hoặc dưới góc độ tư tưởng, triết học, hoặc dưới góc

18

niệm về tôn giáo. Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm và định nghĩa cũng như lời

độ văn hóa, hoặc dưới góc độ chính trị,... đưa ra định nghĩa hoặc lời giải thích khác

nhau về tín ngưỡng, tôn giáo.

Trong các định nghĩa về tôn giáo có một tuyến định nghĩa về tôn giáo của

rê-đê-rích Ăng-ghen đã đưa ra định nghĩa có tính chất kinh điển từ góc độ Triết học

chủ nghĩa Mác Lê-nin. Dựa trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử, Các Mác và Phê-

"Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của

thế gới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của một chế độ không có

tinh thần". Phê-rê-đê-rích Ăng-ghen cho rằng:“Tất cả các tôn giáo chẳng

qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con người - của những lực

lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh

trong đó những lực lượng ở trần thế đó mang hỡnh thức những lực lượng

siêu trần thế" [124, tr.240].

về tôn giáo, Các Mác định nghĩa

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có quan hệ với các hình thái ý thức

xã hội khác, đặc thù của ý thức tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên thần thánh -

hay niềm tin hoang đường hư ảo. Biểu hiện của bản chất hay đặc thù của ý thức tôn

giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo.

Từ các định nghĩa, có một định nghĩa về tôn giáo mang tính bao trùm: “Tôn

giáo là niềm tin của con người về thế giới siêu nhiên và những hành vi (hoạt

động) để thực hiện niềm tin đó” [124, tr.36]. Theo định nghĩa này, có hai nội dung

cần quan tâm là: niềm tin (đức tin) của con người vào thế giới siêu nhiên (thế giới

siêu nhiên là thế giới phi tự nhiện, thế giới không có thật, hư ảnh) và những hành

vi của con người để thực hiện niềm tin (bao gồm những hoạt động cúng bái, thờ,

cầu nguyện và các nghi thức khác). Như vậy, có thể rút gọn lại:“Tôn giáo là đức

tin và sự thờ phụng” [124, tr.36].

Theo sự giải thích trên thì niềm tin là tín ngưỡng. Tín ngưỡng và tôn giáo

có quan hệ với nhau, trong đó tín ngưỡng là phạm trù rộng, còn tôn giáo là phạm trù

19

cụ thể. Tôn giáo nằm trong tín ngưỡng, tôn giáo là cái biểu hiện bên ngoài của tín

ngưỡng. Không thể có những hoạt động tôn giáo nếu như không có niềm tin tôn

giáo- tín ngưỡng.

Cũng theo cách giải thích ở trên, tín ngưỡng là phạm trù rộng nói về niềm

tin của con người về thế giới siêu nhiên; tôn giáo là chỉ loại hình tôn giáo cụ thể. Đa

số các nhà khoa học trên thế giới chia tôn giáo thành các loại hình tôn giáo sơ khai

(tôn giáo nguyên thủy) và tôn giáo hoàn chỉnh (hay tôn giáo hiện đại). Tôn giáo sơ

khai, tôn giáo nguyên thủy có nhiều hình thức, nhưng chủ yếu ở ba dạng chính là tô

tem giáo, bái vật giáo, sa man giáo; tôn giáo hoàn chỉnh như Phật giáo, Công giáo,

Tin lành, Hồi giáo,...

Tuy nhiên, theo cách phân chia của Việt Nam, các loại hình tôn giáo sơ

khai, tôn giáo nguyên thủy và cả các hình thức ở tôn giáo, tiền tôn giáo được gọi

chung là tín ngưỡng hay tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng truyền thống. Với

cách phân chia này, không ít người cho rằng tín ngưỡng là các loại hình tôn

giáo cấp thấp- chưa hoàn chỉnh; còn tôn giáo là loại hình tôn giáo cấp cao- tôn

giáo hoàn chỉnh.

Theo cách phân loại trên, việc thờ cúng tổ tiên, thờ các con ma của người

Hmông theo truyền thống là tín ngưỡng, còn đạo Tin lành là tôn giáo.

Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo còn có khái niệm đời sống tôn giáo. Đời

sống tôn giáo bao gồm bốn nội dung chính là: niềm tin tôn giáo, còn gọi là đức tin

tôn giáo; thực hành tôn giáo là thực hiện các nghi lễ tôn giáo, trong đó có hoạt động

từ thiện xã hội; quan hệ trong cộng đồng cùng niềm tin tôn giáo và quan hệ xã hội.

- Tin lành:

Tin lành là tên gọi của tôn giáo tách ra từ Công giáo qua cuộc cải tôn giáo

đầu thế kỷ XVI ở châu Âu. Trên thế giới gọi là đạo Chống đối- Thệ phản

(Protestante), đạo Cải cách (Reformed). Tên gọi Tin lành chỉ dùng ở Việt Nam từ

đầu thế kỷ XX, do việc các giáo sỹ Mỹ, Canada khi dịch Kinh Thánh dùng từ Tin

lành để chỉ sách Phúc âm, không dịch là Tin mừng như đạo Công giáo, dần dần tạo

20

thành thói quen gọi là đạo Tin lành để phân biệt với đạo Công giáo. Đạo Tin lành có

nhiều tổ chức, hệ phái nên từ Tin lành thường đứng trước tên của các tổ chức, hệ

phái để chứng tỏ đó là đạo Tin lành.

- Đạo Tin Lành:

Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào đầu thế kỷ XVI, nguyên là phong trào

cải cách từ đạo Công giáo. Đạo Tin lành ra đời được thúc đẩy bằng những nguồn

gốc chính trị, xã hội sâu sa, là sư xa sút về uy tín và quyền lực của giáo hội Công

giáo, là sự xuất hiện tầng lớp tư sản mới với những nhu cầu mới về xã hội và văn

hóa, là sự thúc đẩy của phong trào văn hóa phục hưng,… Đạo Tin lành ra đời còn là

sự kế thừa, tiếp nối, phát huy của các phong trào chống lại quyền lực Giáo hội, giáo

triều Roma từ thế kỷ XII trở đi.

Chính những tiền đề, bối cảnh ra đời cùng với quá trình phát triển đã tạo

cho Tin lành những đặc điểm cơ bản như sau [90]: (1). Đạo Tin lành được tổ chức

và hoạt động theo hướng đơn giản để phù hợp với cuộc sống hiện đại. Đây là đặc

điểm thể hiện cao nhất về sự cải cách của Tin lành đối với đạo Công giáo, được thể

hiện ở các yếu tố như về luật lệ, lễ nghi đơn giản; giáo phẩm và tổ chức giáo hội

được thiết lập theo cơ đan chủ. (2). Tin lành là một tôn giáo có đường hướng và

phương thức hoạt động linh hoạt, liên tục điều chỉnh cả về mặt nội dung và hình

thức để phù hợp với thực tiễn thời đại. Thể hiện rõ nhất là phương thức truyền giáo

của đạo Tin lành hết sức linh hoạt, diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh

một cách kiên trì, sử dụng tất cả các phương tiện, công cụ vào công việc truyền

giáo, tìm kiếm tín đồ. Cũng trong quá trình truyền giáo, các nhà truyền giáo tìm mọi

cách để đơn giản các luật lệ và lễ nghi cho dễ thâm nhập vào đời sống văn hóa, tâm

lý, lối sống của cư dân bản địa. (3). Đạo Tin lành chủ trương nhập thế, tham gia rất

tích cực vào các hoạt động xã hội. Các nhà truyền giáo khi đặt chân đến khu vực

nào thì nhanh chóng nghiên cứu về văn hoá, phong tục tập quán ở khu vực đó và rất

“tận tình” trong việc chăm lo, giải quyết các công việc có liên quan đến cuộc sống

thường nhật của nhân dân như ăn, ở, đi lại, hiếu hỉ, y tế…để gây thiện cảm, gần gũi

với nhân dân, thông qua đó để tuyên truyền đức tin. Chủ trương nhập thế này đã

làm cho đạo Tin lành trở nên hấp dẫn, dễ thu phục tình cảm của người dân, tạo ra uy 21

tín và khả năng chung sống hoà bình với mọi hoàn cảnh chính trị - xã hội, không

phân chia dân tộc, biên giới quốc gia. (4). Đạo Tin lành lấy việc truyền giáo làm nội

dung của mọi hoạt động. Việc phát triển số lượng tín đồ là một trong những hoạt

động căn bản, là thiên chức của giáo sỹ, nhà tu hành và cả tín đồ. Đạo Tin lành là

tôn giáo rất nỗ lực trong việc phát triển tín đồ của mình, họ được thúc giục bởi

mệnh lệnh truyền giáo đã được ghi trong Kinh thánh “Hãy đi khắp thế gian rao

giảng Phúc âm cho mọi người”. (5). Trong quá trình ra đời và phát triển, đạo Tin

lành là tôn giáo có tư duy kinh tế và khuyến khích làm giàu, đồng thời đạo Tin lành

có những mặt tiến bộ về xã hội, như tuân thủ luật pháp, sống tiết kiệm, bỏ các thói

quen xấu như uống rượu, hút thuốc,… Tuy nhiên, đạo Tin lành là tôn giáo đề cao

đức tin nên thường xẩy ra việc ứng xử cực đoan trong mối quan hệ với tín ngưỡng

truyền thống nơi đạo Tin lành truyền đến.

Đạo Tin lành ra đời ở nước Đức, sau đó lan nhanh ra các nước châu Âu, và

cùng với thời gian, đạo Tin lành truyền bá rộng ra thế giới. Đến năm 2012, đạo Tin

lành có khoảng 750 triệu tín đồ có mặt ở hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng

tập trung ở ba khu vực các nước công nghiệp tiên tiến: Tây Âu (Đức, Anh, Hà Lan,

một phần của Thụy Sỹ), Bắc Âu (Na Uy, Thụ Điển, Đan Mạch, Phần Lan), Bắc Mỹ

(Mỹ, một phần của Canada). Gần đây đạo Tin lành phát triển nhanh ở Hàn Quốc với

gần 50% dân số theo đạo Tin lành [119].

- Vàng Chứ hay Vàng Trứ

Danh xưng này có nhiều cách lý giải khác nhau. Ông Hoàng Xuân Lương

trong cuốn Văn hóa người Hmông ở Nghệ An (2000) có cùng cách giải thích với tập

Kỷ yếu về Tình hình phát triển của đạo Tin Lành ở miền núi phía Bắc, Trường Sơn

- Tây Nguyên của Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân

văn Quốc gia, là: Vàng Chứ không phải chữ Hmông, mà là thuật ngữ Hán Việt:

Miêu Vương xuất thế, phiên âm tiếng Hán là Miao Wang shu shi, tức là Vua Mèo

xuất thế, là xưng Vua hay Vua ra. Dương Kim Quí, Trưởng Ban Dân tộc - Tôn giáo

tỉnh Cao Bằng lại cho rằng, Vàng Chứ tức là Vè Chứ, tên gọi tắt của tiếng Hmông:

Véx Chúx ntủx có nghĩa là Chúa Trời hay Đức Chúa Trời. Có ý kiến lại cho rằng 22

Vàng Chứ là Vương Chủ, là Đầu đàn…[52]. Trong luận án, tác giả sử dụng cách

viết là Vàng Chứ với ý nghĩa là Vương chủ, để thấy được việc lợi dụng của các nhà

truyền giáo trong tâm lý tộc người và để thấy sự khác biệt của tôn giáo được Nhà

nước công nhận là đạo Tin lành với Vàng Chứ.

Để nghiên cứu sự tác động của đạo Tin lành đến văn hóa Hmông tạo nên

1.2.2. Cơ sở lý thuyết

những biến đổi trong văn hóa, và ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa của người Hmông

theo Tin lành với văn hóa truyền thống của họ; luận án sử dụng những lý thuyết tiếp

cận là: lý thuyết chức năng cấu trúc; lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa; lý thuyết

về xung đột.

+ Lý thuyết chức năng cấu trúc.

Thuyết chức năng với người đi tiên phong là nhà Nhân học người Anh

Brownislaw Malinowski (1884-1942). Ông cho rằng, các thiết chế xã hội trong đó

có các thiết chế văn hóa của loài người tồn tại được qua thời gian bởi chúng có chức

năng duy trì sự ổn định của cả hệ thống xã hội. Nhiệm vụ của các nhà Nhân học

chính là nghiên cứu làm rõ các chức năng này của các thiết chế xã hội và văn hóa

của loài người.

Lý thuyết chức năng tìm hiểu bên trong của những đơn vị - xã hội đa hợp,

tìm hiểu cấu trúc bên trong của các bộ phận xã hội, nghiên cứu những quan hệ xã

hội gắn các bộ phận với nhau từ đó giải thích sự ổn định của những xã hội phân

nhánh. Lý thuyết chức năng cho rằng sự tương tác xã hội phải được hiểu một cách

có hệ thống, mọi hành vi xã hội được học hỏi và quyết định bởi sự truyền thừa bên

trong truyền thống xã hội. Các nhà lý thuyết chức năng quan niệm cơ cấu xã hội

như là mạng lưới những vị thế được kết nối bởi những vai trò có liên quan.

Với thuyết chức năng cấu trúc, các thiết chế xã hội lại đóng vai trò duy trì

sự cân bằng và sự cố kết của một xã hội. Những người theo cách tiếp cận chức năng

cấu trúc quan tâm tới việc nghiên cứu cấu trúc nằm bên dưới của các xã hội và

23

những quy luật xã hội chi phối chúng.

Thuyết chức năng cấu trúc có giá trị cho việc nghiên cứu và giải thích sự

tồn tại, sự lâu bền của các thiết chế xã hội.

Việc sử dụng thuyết này trong luận án để giải thích sự lâu bền của văn hóa

truyền thống trong người Hmông nhưng bên cạnh đó lại có một văn hóa tôn giáo - văn

hóa Tin lành xuất hiện và tồn tại trong một bộ phận người Hmông ở tỉnh Lào Cai.

- Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa.

Giao lưu, tiếp biến văn hóa là khái niệm được các nhà Nhân học phương

Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhằm nhấn mạnh đến sự biến đổi

văn hóa của tộc người. Người Anh dùng chữ Cultral Change – trao đổi văn hóa,

người Tâu Ban Nha dùng chữ Transculturation – di chuyển văn hóa, người Pháp

dùng chữ Interpénnétration des civilizations – sự xâm nhập giữa các nền văn minh.

Nội hàm của các thuật ngữ trên ở các nước đều có những nét khác nhau nhất định

về sắc thái.

Giao lưu, tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của văn hóa và xã

hội. Giao lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi, vừa chính là sự trao đổi.

Phân biệt hai loại giao lưu, tiếp biến văn hóa: Loại thứ nhất diễn ra khi hai

nền văn hóa thường xuyên tiếp xúc với nhau một cách bình đẳng, dẫn đến nền văn

hóa tự do vay mượn những yếu tố mới rồi thay đổi, hòa nhập cho phù hợp. Loại thứ

hai diễn ra khi một nền văn hóa này gặp gỡ nền văn hóa kia trong bối cảnh bị chinh

phục, thống trị; từ đó dẫn đến ba khuynh hướng: Văn hóa thống trị đồng hóa toàn

bộ hay từng phần nền văn hóa kia. Dung hợp, ra đời một nền văn hóa mới có tính

hỗn hợp của hai nền văn hóa. Phản ứng của nền văn hóa bị trị biểu hiện trong đấu

tranh chống các yếu tố “ngoại lai”.

Trong quan hệ giữa tộc người Hmông với yếu tố “ngoại lai” là đạo Tin lành

và văn hóa Tin lành - văn hóa tôn giáo đều có sự giao tiếp văn hóa với nhau, góp

phần làm phong phú văn hóa tộc người. Nhưng cũng có tình trạng áp đặt tạo nên

hiện tượng mang tính chất “đồng hóa”, gây ra những phản ứng tự vệ của tộc người,

ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ và phát triển xã hội (Chẳng hạn như xem xét trong

24

mối quan hệ giữa người Hmông truyền thống với người Hmông theo đạo Tin lành)

Do vậy, lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa được sử dụng để nghiên

cứu về biến đổi văn hóa và quan hệ giữa tộc người (người Hmông) và yếu tố ngoại

sinh (đạo Tin lành).

- Lý thuyết về xung đột và xung đột tộc người.

“Xung đột ” được hiểu là “mâu thuẫn”, “đấu tranh”; trong lịch sử phát triển

của nhân loại đã xảy ra nhiều cuộc xung đột, mà phần lớn là xung đột tộc người,

xung đột giữa các quốc gia dân tộc (gọi chung là xung đột dân tộc). Nó thường

được hiểu là sự đụng độ về lợi ích, các quan điểm, lối sống, văn hóa ứng xử khác

nhau,… Cho đến nay vấn đề xung đột xã hội nói chung, xung đột tộc người nói

riêng đang trở thành vấn đề cấp bách của lý luận và thực tiễn.

Ở Việt Nam có xung đột tộc người ít nhiều liên quan đến tôn giáo. Khi một

tôn giáo hiện đại truyền bá và thâm nhập vào tộc người cùng với văn hóa đặc trưng

của tôn giáo đó đã tạo ra sự tương tác trong văn hóa tộc người. Có hai trường hợp

có thể xảy ra: Một là diễn ra sự giao lưu, tiếp biến văn hóa; hai là xuất hiện mâu

thuẫn giữa văn hóa truyền truyền thống và văn hóa tôn giáo của những người trong

cùng một tộc người.

Lý thuyết này giúp việc tìm hiểu những xung đột tộc người tiến tới hạn chế

từng bước và dần dần đi tới loại bỏ hiện tượng xung đột này.

1.2.3. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành luận án, tác giả sử dụng linh hoạt, có lựa chọn một số

phương pháp nghiên cứu Nhân học, trong đó phương pháp chủ đạo là điền dã dân

tộc học, tiếp đến là phương pháp chuyên gia và phương pháp nghiên cứu liên ngành

để xử lý số liệu.

- Phương pháp điền dã dân tộc học được tác giả coi trọng trong quá trình

nghiên cứu, bao gồm các thao tác cơ bản như: quan sát tham dự, quan sát trực tiếp,

phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.

+ Nghiên cứu biến đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành là một

vấn đề rất nhạy cảm và tương đối khó tiếp cận. Do đó, để có thể tạo được sự tin cậy

và sẵn sàng chia sẻ thông tin của người dân, tác giả ý thức được tầm quan trọng của 25

quan sát tham dự. Việc sử dụng kỹ năng này giúp tác giả luận án dễ dàng hơn trong

việc tiếp cận người dân và tham gia vào các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của họ.

Điều này giúp tác giả dễ dàng quan sát những hoạt động thường ngày của người

dân, ứng xử của họ đối với những thành viên trong gia đình và cộng đồng, thậm chí

là với người ngoài cộng đồng để thu thập được các thông tin về tộc người, những

thay đổi trong văn hóa và những vấn đề nhạy cảm khác có liên quan tại địa bàn

nghiên cứu.

+ Trong quá trình điền dã, tác giả luận án kết hợp sử dụng quan sát trực tiếp

để đánh giá sơ bộ các điều kiện tự nhiên, nơi cư trú, hoạt động kinh tế và các khía

cạnh khác trong đời sống văn hóa - xã hội của người Hmông ở địa bàn khảo sát.

+ Để tiến hành phỏng vấn sâu, tác giả luận án đã lựa chọn các thông tín

viên là người Hmông, đặc biệt chú trọng những người có uy tín trong cộng đồng

(trưởng họ, trưởng bản, thày cúng) và những người khác am hiểu về luật tục

Hmông. Ngoài ra, tác giả cũng thu hút những người tham gia công tác Đảng và

chính quyền các cấp vào các cuộc phỏng vấn sâu. Những vấn đề được phỏng vấn

sâu là những vấn đề mà bảng hỏi định lượng không thể giải quyết được một cách

triệt để hoặc sâu sắc. Do đó, nội dung câu hỏi phỏng vấn sâu được ưu tiên lựa chọn

là những câu hỏi mở về đời sống cá nhân, cộng đồng và tác động của đạo Tin lành

đối với đời sống văn hóa của người Hmông theo đạo và trong mối quan hệ với

người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống.

- Phương pháp chuyên gia được thực hiện qua các cuộc trao đổi trực tiếp

với các chuyên gia có kinh nghiệm nghiên cứu vấn đề tộc người và tôn giáo, nhằm

tranh thủ những hiểu biết và quan điểm của họ khi đánh giá tác động của đạo Tin

lành đến sự ổn định, phát triển và việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tộc người

cũng như văn hóa tôn giáo. Phương pháp này cũng nhằm thu thập ý kiến của lãnh

đạo chính quyền các cấp trong việc thực thi chính sách.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành được sử dụng để xử lý số liệu, hệ

26

thống hóa các tư liệu, thông tin đã thu thập. Kết hợp với các phương pháp thống

kê, tổng hợp và phân tích, so sánh,…để đưa ra những bảng, biểu mang tính

thuyết phục.

Cụ thể, để hoàn thành luận án tác giả đã áp dụng các phương pháp nghiên

cứu trong hai đợt khảo sát thực tế tại địa bàn nghiên cứu (Tháng 3 năm 2013 và

tháng 4 năm 2014 tại Lào Cai). Với phương pháp phỏng vấn sâu nhằm thu thập

những thông tin khái quát làm cơ sở để thiết kế cấu trúc và nội dung cho khung bài

viết. Cùng với đó, những thông tin, nhận xét, bình luận theo ý kiến của người được

phỏng vấn được tác giả phân tích, đánh giá trong nghiên cứu của mình. Đối tượng

phỏng vấn gồm 01 mục sư Tin lành, Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm

Tổng hội Hội thánh Linh hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả

Phìn; 01 trưởng thôn thôn Lủ Khấu, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, không theo Tin lành;

01 Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Sa Pả, huyện Sa Pa; 01 phụ nữ Hmông, theo Tin

lành tại xã Xín Chải, huyện Bảo Thắng; chuyên viên Ban Dân vận tỉnh Lào Cai.

Về điều tra bảng hỏi: Với 120 phiếu chia làm ba nội dung: (1). Nguyên nhân

theo đạo Tin lành; (2). Quan hệ xã hội cộng đồng; (3). Tiếp biến văn hóa (thể hiện ở

trang phục, nhà cửa, hôn nhân, tang ma.); mỗi một nội dung có 40 phiếu thu về.

1.3. Địa bàn và đối tượng nghiên cứu

1.3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

Tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 12/7/1907, gồm hai châu Thủy Vĩ, Bảo

Thắng và các đại lý Mường Khương, Bát Xát, Phong Thổ, Bắc Hà và đặc khu Sa

Pa. Ngày 01/10/1976, Lào Cai sáp nhập với hai tỉnh Yên Bái và Nghĩa Lộ thành

tỉnh Hoàng Liên Sơn. Đến ngày 01/10/1991, tỉnh Lào Cai được tái lập với diện tích

tự nhiên 6.357km2 và đến nay gồm 9 huyện, thành phố là Bảo Yên, Bảo Thắng, Văn

Bàn, Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương, Bát Xát, Sa Pa và thành phố Lào Cai;

cùng với 164 xã phường, trong đó có 81 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Phía

Đông tỉnh Lào Cai giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây

giáp tỉnh Lai Châu, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc với 203 km

27

đường biên giới.

Lào Cai có địa hình khá phong phú, bao gồm vùng đồi núi thấp, vùng núi

cao và rất cao (cao nguyên Bắc Hà, dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Păng cao

3.143m). Khí hậu Lào Cai về cơ bản là khí hậu nhiệt đới gió mùa, ngoài ra do đặc

điểm địa hình nên Lào Cai còn có tiểu vùng khí hậu ôn đới. Lào Cai có nhiều tiềm

năng tài nguyên thiên nhiên. Tán che phủ rừng 32,4% rất đa dạng về hệ sinh thái, có

vườn quốc gia Hoang Liên rộng gần 30.000 ha. Trong lòng đất có trên 30 loại

khoáng sản, trong đó có Apatit, đồng Sinh Quyền có trữ lượng lớn. Kinh tế cửa

khẩu, du lịch là thế mạnh đang được khai thác ở Lào Cai.

Địa hình vùng cao Lào Cai tạo điều kiện cho người Hmông phát triển kinh

tế nương rẫy với đặc trưng là các thửa ruộng bậc thang. Những năm gần đây, người

Hmông đã có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trồng cây đặc sản, cây ăn quả (mận Tam

Hoa và mận hậu ở Bát Xát, Sa Pa; chè ở thôn Hải Nam, xã Phong Hải, huyện Bảo

Thắng; huyện Mường Khương, Bắc Hà),... Ngoài sản xuất canh tác, ở Lào Cai hiện

rất phát triển du lịch, và công việc hướng dẫn viên du lịch đã trở thành một nghề

khá phổ biến của người Hmông tại huyện Sa Pa, Bắc Hà. Điều này một mặt giúp

cho kinh tế của người Hmông ở đây được cải thiện, mở ra nhiều cơ hội giao lưu tiếp

xúc những cái mới; một mặt người Hmông cũng phải lãnh chịu những hậu quả của

các góc khuất trong ngành dịch vụ không khói này.

Dân số Lào Cai có trên 637 ngàn người thuộc 25 dân tộc, trong đó dân tộc

Kinh có 220.821 người, chiếm 33%; dân tộc Hmông có 137.649 người, chiếm

23,78%, dân tộc Tày có 90.019 người, chiếm 16,27%, dân tộc Dao có 93.610 người,

chiếm 14,38%; các dân tộc khác chiếm 19% [3]. Tỉnh Lào Cai có 3 tôn giáo chính

[7; tr. 4-5] là Phật giáo (6.426 phật tử ), Công giáo (2.113 hộ/ 7.987 khẩu, trong đó

có 2.371 tín đồ là người Hmông) và Tin lành (24.750 tín đồ, trong đó có 24.166 tín

đồ là người Hmông). Đồng bào các tôn giáo chiếm 6,23% dân số toàn tỉnh, trong đó

có một bộ phận dân tộc thiểu số theo tôn giáo.

Điểm nổi bật của Lào Cai là văn hóa đa tộc người, bản sắc văn hóa đặc

28

trưng vùng rõ rệt như: vùng thấp của người Tày, Thái, Nùng, Giáy với truyền thống

văn hóa lúa nước; vùng giữa của người Kháng, La Ha, Phù Lá với văn hóa nưỡng

rẫy, phát triển kinh tế đồi rừng; vùng cao của người Hmông, Hà Nhì, Dao với truyền

thống ruộng bậc thang, làm nương rẫy. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng

và Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số được cải

thiện rõ rệt. Đồng bào luôn phát huy được truyền thống yêu nước, gắn bó, khắc phục

mọi khó khăn, tích cực lao động sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm

nghèo, tích cực xây dựng nông thôn mới, xây đời sống văn hóa ở khu dân cư.

Do đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống tập trung ở vùng cao, vùng

sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh nên đời sống kinh tế còn nhiều khó

khăn; bên cạnh đó, một số tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, chậm được khắc phục,

cùng với sự xâm nhập của các trào lưu văn hóa ngoại lai có tác động sâu sắc đến đời

sống văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc. Với sự đoàn kết các dân tộc dưới sự

lãnh đạo của các cấp, các ngành, trong hơn 20 năm đổi mới, Lào Cai đã có những

bước phát triển then chốt, đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Các dân tộc ở Lào Cai

đoàn kết ổn định là nguồn nội sinh thực hiện xây dựng Lào Cai giàu mạnh.

Lào Cai có một vị trí địa chính trị, địa văn hóa đặc trưng, có đường biên

giới với Trung Quốc, tập trung nhiều dân tộc thiểu số, có ý nghĩa quan trọng trong

an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc các tôn giáo du nhập vào các

tộc người thiểu số ở Lào Cai, nhất là người Hmông theo đạo Tin lành có tác động

đến nhiều mặt của xã hội, văn hóa, an ninh.

1.3.2. Người Hmông ở Lào Cai

Theo Tổng điều tra dân số năm 2009 [3], người Hmông ở Lào Cai có

137.649 người, trong đó có 69.212 nam và 68.436 nữ; đứng thứ hai sau người Kinh.

Người Hmông cư trú ở 606 làng, 109 xã của tám huyện và thành phố Lào Cai; trong

đó có 433 làng người Hmông cư trú độc lập và 173 làng cộng cư với các dân tộc

anh em.

Người Hmông ở Lào Cai có bốn nhóm chính, được phân bố ở các địa

29

phương như sau:

Người Hmông Hoa (Mông Lênhx) có dân số đông nhất, chiếm 70% số

người Hmông toàn tỉnh, cư trú ở tám huyện, tập trung đông nhất ở các huyện Bắc

Hà, Mường Khương, Sa Pa, Bảo Thắng và Bảo Yên.

Người Hmông Đen (Mông Đuz) cư trú ở các huyện Bát Xát, Sa Pa.

Người Hmông Xanh (Mông Njuôz) sống chủ yếu ở huyện Văn Bàn.

Người Hmông Trắng (Mông Đơưz) cư trú ở các huyện Bắc Hà, Bát Xát, Sa

Pa và Si Ma Cai.

Bảng 1.1. Tỷ lệ dân số Hmông ở Lào Cai

Các huyện, thành Tổng dân Số nhân khẩu STT Tỷ lệ % phố số/ người Hmông

Bát Xát 69.766 19.347 27,73 1

Bảo Thắng 99.718 7.506 7,52 2

Sa pa 53.446 23.511 43,99 3

Văn Bàn 79.090 8.166 10,32 4

Bảo Yên 76.307 10.910 14,3 5

Mường Khương 51.912 20.798 40,06 6

Bắc Hà 50.890 23.328 45,9 7

Si Ma Cai 31.326 23.650 75,5 8

TP Lào Cai 98.620 433 0,44 9

Tổng cộng 613.075 137.649 22,46

Ở Lào Cai tuy phân biệt thành bốn nhóm khác nhau, nhưng thực chất trừ

(Nguồn: Điều tra dân số 2009 của Cục thống kê Lào Cai)

nhóm Hmông Xanh ở xã Nậm Xé, huyện Văn Bàn còn ba nhóm Hmông Hoa,

30

Hmông Trắng, Hmông Đen cơ bản là giống nhau về văn hóa, phong tục tập quán.

Sự khác nhau giữa các ngành chủ yếu dựa trên trang phục của người phụ nữ; về

ngôn ngữ có 93% từ vị và cách phát âm của các nhóm Hmông giống nhau.

Bảng 1.2: Cư trú của người Hmông ở Lào Cai

Số xã có người Số làng có người STT Các huyện, thành phố Hmông Hmông cư trú

1 Thành phố Lào Cai 1 2

2 Bát xát 11 68

3 Bảo Thắng 9 33

4 Sa Pa 15 61

5 Văn Bàn 13 58

6 Bảo Yên 11 55

7 Mường Khương 16 110

8 Bắc Hà 20 128

9 Si Ma Cai 13 91

Tổng cộng 109 606

(Nguồn: Điều tra dân số 2009 của Cục thống kê Lào Cai)

Người Hmông thường cư trú ở các sườn núi, địa hình hiểm trở, vách đá cao

chia cắt theo chiều dọc. Người Hmông ở Lào Cai thường cư trú tập trung trong mỗi

giao (bản) từ vài chục đến vài trăm nóc nhà. Ngày nay, việc cư trú của người

Hmông ở Lào Cai đã có sự dịch chuyển, nhất là về phía các khu vực trung tâm

huyện lỵ, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Điều này giúp cho người

Hmông có thể hòa nhập với các dân tộc khác, tăng cường giao lưu, tiếp nhận những

yếu tố văn hóa - xã hội mới. Kéo theo đó là sự thay đổi nhất định trong sinh hoạt

văn hóa trong quá trình tiếp biến những giá trị văn hóa mới.

Tiểu kết chương 1

Người Hmông nói chung, người Hmông ở Lào Cai nói riêng là một trong

những dân tộc có nhiều nét đặc trưng về tộc người, từ nguồn gốc, địa bàn cư trú,

đến văn hóa, lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán,… Gần đây, một bộ phận 31

người Hmông, người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành đã dẫn đến việc thay đổi

về văn hóa, từ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống sang văn hóa, lối sống Tin lành.

Việc một bộ phận người Hmông ở Việt Nam, trong đó có người Hmông ở Lao Cai

theo Tin lành và thay đổi về văn hóa, bên cạnh mặt tích cực là những tiêu cực ảnh

hưởng đến các mặt đời sống của người Hmông và của xã hội.

Đến nay có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về người Hmông dưới các góc

độ khác nhau, như Dân tộc học, Văn hóa học, Tôn giáo học với nhiều công trình

được công bố,… Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về đạo Tin lành, người

Hmông theo đạo Tin lành cũng đã thu hút được các học giả trong nước và nước

ngoài. Tuy nhiên, đa số công trình nghiên cứu có phạm vi rộng, tầm vĩ mô, thiên về

chính trị học, triết học; hoặc khi đánh giá về đạo Tin lành và chuyển đổi sang văn

hóa Tin lành, chỉ nhấn mạnh mặt tiêu cực; chưa có nhiều nghiên cứu ở góc độ Nhân

học, chưa tập trung vào nghiên cứu điểm cụ thể.

Để Nghiên cứu luận giải sự chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa

Tin lành của một bộ phận người Hmông ở một địa phương cụ thể, tức là phải tiếp

cận nghiên cứu ba vấn đề lớn: tộc người, tôn giáo, văn hóa nên luận án đã làm rõ

những khái niệm công cụ như: văn hóa, văn hóa tộc người, giao lưu văn hóa, tiếp

biến văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, Tin lành. Luận án sử dụng ý thuyết về chức

năng cấu trúc, giao lưu tiếp biến văn hóa và xung đột được sử dụng để phục vụ

nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm Điền dã dân tộc học,

chuyên gia, so sánh, liên ngành,... để thu thập thông tin, tư liệu phục vụ nội dung

32

nghiên cứu.

CHƯƠNG 2

QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH

TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HMÔNG Ở TỈNH LÀO CAI

2.1 Đạo Tin lành ở Việt Nam và quá trình theo đạo Tin lành của người

Hmông tại Lào Cai

2.1.1 Khái quát về đạo Tin lành ở Việt Nam

và nhân viên quân đội viễn chinh Pháp. Các mục sư Tin lành người Pháp cố gắng

rao giảng Tin lành cho người Việt nhưng không thành công. Cuối cùng Tin lành

Pháp đành phải rút khỏi địa bàn mới mẻ và hấp dẫn để nhường chỗ cho tổ chức Hội

Liên hiệp Cơ đốc và truyền giáo- CMA được thành lập ở Mỹ năm 1897, còn gọi là

Hội Truyền giáo CMA.

Năm 1911 đánh đấu việc đạo Tin lành truyền vào Việt Nam bằng việc Hội

truyền giáo CMA xây dựng chi hội đầu tiên ở Đà Nẵng với công lao của Mục sư AB

Simpson- Hội trưởng và các mục sư cộng sự, như: D. Seleccheur, CH Recver, R.A

Faffaray,… Năm 1915, một tổ chức Tin lành có tên là Cơ đốc Phục lâm cũng có nguồn

gốc từ Mỹ truyền vào Việt Nam nhưng không thành công như Hội truyền giáo CMA.

Sau nửa thế kỷ truyền giáo, đến năm 1954, đạo Tin lành ở Việt Nam có

khoảng 50 ngàn tín đồ, gần 100 mục sư, truyền đạo và một tổ chức chung là Tổng Liên

hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (quen gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam).

Sau năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền, đạo Tin lành ở miền Bắc

và miền Nam có sự khác nhau. Ở miền Bắc vốn ít tín đồ, lại có một bộ phận di cư vào

Nam nên số lượng tín đồ giảm xuống, chỉ còn vài ngàn người và 20 mục sư, truyền

đạo. Năm 1958, những cộng đồng Tin lành ở miền Bắc tổ chức Đại hội đồng thành lập

Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), sau đó đến năm 1960, chính thức thông qua

bản Điều lệ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).

Ở miền Nam những năm 1954-1975, môi trường chiến tranh ác liệt, lại được

Hội truyền giáo CMA và các tổ chức Tin lành quốc tế, chủ yếu là Tin lành Mỹ, như:

Tầm nhìn thế giới (The World Vision), Viện Ngôn ngữ Mùa hè (Summer Institute

33

Đạo Tin lành có mặt ở Việt Nam từ cuối thế kỷ thế kỷ XIX, cùng với binh lính

Languistisct),… hỗ trợ về vật chất và phương tiện truyền giáo nên Hội thánh Tin lành

Việt Nam (miền Nam) phát triển nhanh về tín đồ, chức sắc cũng như quy mô tổ chức

giáo hội và phạm vi hoạt động.

Những năm 1954-1975, ở miền Nam, ngoài hai tổ chức Tin lành có từ trước

là Hội thánh Tin lành Việt Nam, gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và

Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam, còn có hơn 20 hệ phái, tổ chức Tin lành khác,

vẫn chủ yếu là Tin lành Mỹ vào truyền giáo gây dựng cơ sở tạo ra diện mạo mới của

Tin lành ở Việt Nam với nhiều tổ chức, hệ phái khác nhau. Theo thống kê của các tổ

chức Tin lành ở Việt Nam, năm 1975, cả nước có khoảng hơn 250 ngàn người theo đạo

Tin lành, chủ yếu ở các tỉnh phía Nam.

Thời gian đầu sau ngày giải phóng miền Nam, đạo Tin lành trên cả nước

chững lại, không tăng về số lượng và hoạt động cầm chừng. Tuy nhiên, do nhiều

nguyên nhân, thời gian từ giữa những năm 1980 trở lại đây, đạo Tin lành tăng rất nhanh

về số lượng và mở rộng địa bàn hoạt động. Đến năm 2014, theo thông báo của Ban Tôn

giáo Chính phủ, số người theo đạo Tin lành ở Việt Nam là 1,5 triệu người, tăng gần gấp

sáu lần so với năm 1975 và có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước.

Một trong những đặc trưng của đạo Tin lành ở Việt Nam là nhiều tổ chức hệ

phái. Đến năm 1975, ở Việt Nam có đến trên dưới 20 hệ phái, tổ chức Tin lành. Cụ thể,

như sau:

- Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền

Bắc) cùng nguồn gốc từ Hội truyền giáo CMA.

- Hệ phái Cơ đốc Phục lâm truyền vào Việt Nam năm 1915 với các giáo sỹ như

R.M. Milne (Mỹ), Dương Thượng Phiến (Đài Loan), Tan Kia Ou (Trung Quốc).

- Hệ phái Trưởng lão truyền vào từ năm 1973.

- Hệ phái Bắp tít truyền vào năm 1959 do vợ chồng Mục sư H.P. Hayer (Mỹ),

chính thức thành lập năm 1962.

- Hội Cơ đốc truyền giáo tách ra từ Hội thánh Tin lành Việt Nam từ năm 1956

dưới sự dẫn dắt của Mục sư G.H Smith (Mỹ) và Mục sư Hoàng Trọng Nhật.

- Hệ phái Phúc âm Ngũ tuần truyền vào năm 1970 do vợ chồng Mục sư Don

Warren (Mỹ).

34

- Hệ phái Men-nô-nai Việt Nam có mặt ở Việt Nam năm 1954 dưới danh nghĩa

tổ chức MCC.

- Hệ phái Môn đệ Đấng Christ vào Việt Nam năm 1963 dưới sự dẫn dắt của

Mục sư R.A Burcham (Mỹ),…

Ngoài các Hội thánh nói trên, còn có các tổ chức Tin lành vào hoạt động truyền

giáo hoặc hoạt động từ thiện xã hội tại miền Nam, như: Tầm nhìn Thế giới (The World

Vision- VS), Viện Ngôn ngữ Mùa Hè (Summer Institute Linguistic- SIL), Cơ quan

Phát triển và Cứu trợ Cơ đốc Phục lâm (Adventiste Development and Relief Agency-

ADRA), Ủy ban Trung ương Men-nô-nai (Mennonite Centre Committee- MCC), Ủy

ban Dịch vụ những người bạn Mỹ (American Friends Service- SCSC), Thánh kinh Hội

(Bible Societies - BS), Hội truyền giáo Thế giới thống nhất (United World Mission-

UWM), Chiến dịch truyền bá Tin lành toàn cầu (World Wide Evangelization Crusade-

WEC), Hội Cứu thế quân (The Salvasion Army- SA), Hội truyền giảng Chúa Ki-tô

(Campus Crusade of Christ- CCC), Hội Navigator, Hội đồng các Giáo hội thế giới

(The World Council of Church- WCC), Hội nghị Ki-tô giáo châu Á (The Christian

Conference of Asia- CCA),...

Sau ngày giải phóng miền Nam, các tổ chức, hệ phái Tin lành lại tăng lên.

Ngoài những tổ chức Tin lành đã có từ trước, xuất hiện nhiều tổ chức mới hoặc mới du

nhập vào, như: Tin lành Giám lý, Tin lành Nazarene, Tin lành Mặc Mông,....hoặc tách

ra từ các tổ chức Tin lành ở Việt Nam, như Hội thánh Liên Hữu Cơ đốc Việt Nam tách

ra từ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Bắp tít Việt Nam (Nam

phương) tách ra từ Hội thánh Bắp tít Việt Nam (Ân điến Nam phương),… đưa tổng số

lên đến trên dưới 50 tổ chức, hệ phái và nhóm Tin lành ở Việt Nam vào năm 2014.

Điểm đặc trưng theo truyền thống Tin lành, mỗi tổ chức Tin lành, kể cả cùng một hệ

phái theo một xu hướng thần học, nhưng vẫn giữ độc lập về tổ chức, dù ở cùng một

quốc gia, hay khu vực.

Do những lợi thế riêng về mặt tôn giáo, Tin lành vào Việt Nam tỏ ra thích hợp

với hai đối tượng là thị dân và đồng bào dân tộc thiểu số (tộc người), mặc dù hai đối

tượng này khác nhau về nguồn gốc, văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán. Theo thống

kê của của Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), ở thời điểm cuối năm

35

1974, đầu năm 1975, tổ chức này có khoảng 190 ngàn tín đồ, thì số người là thị dân

khoảng gần 100 ngàn, chiếm gần 50%, số người là dân tộc thiểu số là 60 ngàn, chiếm

36%, trong khi số người là nông dân vùng đồng bằng chỉ chiếm trên 10%. Các hệ phái

Tin lành khác ở miền Nam cũng có tỷ lệ tương tự. Ví dụ: Hội thánh Cơ đốc Phục lâm,

số tín đồ là thị dân chiếm 65%, là người dân tộc thiểu số chiếm 25%; Hội Truyền giáo

Cơ đốc Việt Nam, số tín đồ là thị dân chiếm 40%, là người dân tộc thiểu số chiếm

45%,…

Khoảng năm 1985, một số người Hmông ở Sơn la, Hà Giang sau khi nghe

đài FEBC (quen gọi là đài Manila vì được phát đi từ Manila - Philippine) phát bằng

tiếng Hmông nói về Vàng Chứ đã cùng một số người đứng ra vận động mọi người

theo đạo Vàng Chứ (tên gọi lúc đầu của đạo Tin lành khi truyền vào đồng bào

Hmông). Năm 1986, 1987 đạo Tin lành Vàng Chứ phát triển sang các địa bàn tỉnh

Lai Châu, Tuyên Quang, sau đó lan sang một số tỉnh khác như Yên Bái, Lào Cai,

Cao Bằng, Bắc Thái (cũ),... Đến năm 1990, ở 8 tỉnh miền núi phía Bắc, Tin lành

Vàng Trứ đã thâm nhập vào 164 xã có đồng bào Hmông là Sơn La, Lai Châu, Lào

Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên và Yên Bái. Từ

đầu những năm 1990 trở đi, với việc gia tăng truyền giáo trên phương tiện truyền

thông và hiệu chỉnh về tên gọi, luật lệ lễ nghi và lối sống đạo, lại được sự hỗ trợ của

các tổ chức, hệ phái Tin lành, nhất là Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), đạo

Tin lành phát triển rất nhanh lan ra các tỉnh có người Hmông ở miền núi phía Bắc.

Theo Ban Tôn giáo Chính phủ ở thời điểm năm 2005, khi triển khai Chỉ thị

số 01/2005/CT-TTg, số người Hmông theo đạo Tin lành ở các tỉnh miền núi phía

Bắc là 110.000 người ở 927 bản. Đến năm 2015, số người Hmông theo đạo Tin lành

ở các tỉnh miền núi phía Bắc tăng lên đến 175.000 người. Nếu so với năm 2005, thì

số người theo đạo Tin lành vẫn tăng nhanh, vì trong 10 năm (2005-2015) đã tăng

thêm 60.000 người. Số liệu cụ thể ở từng tỉnh năm 2015 như sau:

- Điện Biên: 36.000 người.

- Lai Châu: 35.000 người.

36

- Hà Giang: 25.000 người.

- Lào Cai: 24.000 người.

- Cao Bằng: 16.000 người.

- Bắc Cạn: 11.000 người.

- Tuyên Quang: 8.000 người.

- Sơn La: 5.300 người.

- Thanh Hóa: 4.200 người.

- Thái Nguyên: 4.000 người….

Như vậy, chỉ trong 30 năm (1985-2015), dân tộc Hmông ở Việt Nam đã có

hơn 210 ngàn người theo đạo Tin lành, chiếm hơn 20% tổng số người Hmông-

tương đương với tỷ lệ dân số Việt Nam theo tôn giáo (25%). Và theo thống kê nói

trên, tỉnh Lào Cai cũng là một trong những trọng điểm của việc truyền đạo và theo

đạo Tin lành.

2.1.2. Quá trình theo đạo Tin lành của người Hmông ở Lào Cai

Như trên đã trình bày, năm 1911 đạo Tin lành chính thức có mặt ở Việt

Nam. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, các nhà truyền giáo Tin lành luôn xác

định đối tượng truyền đạo là vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi. Thời gian

đầu, việc truyền giáo Tin lành gặp không ít khó khăn, và chỉ thực hiện được ở khu

vực Tây Nguyên. Phải đến giữa những năm 1980 của thế kỷ XX, đạo Tin lành mới

thâm nhập được vào khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó có tỉnh Lào

Cai, nơi có nhiều người Hmông sinh sống.

So với đạo Công giáo, Tin lành được truyền đến vùng dân tộc thiểu số ở địa

bàn tỉnh Lào Cai muộn hơn. Trong khi đạo Công giáo truyền vào người Hmông đầu

tiên ở thôn Hang Đá (Sa Pa) từ năm 1921, thì mãi đến năm 1989, đạo Tin lành mới

được truyền vào người Hmông ở thôn Chư Hầu Ngài (Sa Pa). Năm 1913, giáo sĩ F.

Savina đã lên Lào Cai và một số tỉnh phía Bắc tiến hành những nghiên cứu, tìm hiểu

về người Hmông. Năm 1918, Chính phủ Pháp chính thức chấp thuận đề nghị của

giáo sĩ F. Savina truyền đạo Công giáo vào vùng dân tộc Hmông. Từ đó đến năm

1945, F. Savina đã thuyết phục được 240 hộ người Hmông ở Sa Pa (Lào Cai) và

37

Trạm Tấu (Yên Bái) theo đạo Công giáo. Theo thời gian, đến năm 2014, trên địa

bàn tỉnh Lào Cai có 413 hộ người Hmông với 2.066 tín đồ người Hmông theo đạo

Công giáo, sống tập trung ở các xã Lao Chải, thị trấn Sa Pa, xã Hầu Thào, Bản

Phùng, Sử Pán, Sa Pả, huyện Sa Pa. Số người theo Công giáo hàng năm phát triển

không nhiều, sinh hoạt tương đối ổn định, có cơ sở thờ tự, có chức sắc hướng dẫn

việc đạo.

Đạo Tin lành được truyền vào nước ta đầu thế kỷ XX song với số lượng rất

ít. Trên địa bàn tỉnh Lào Cai trước năm 1989 không có đạo Tin lành, nhưng sau đó

tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đã truyền đạo

Tin lành vào một số tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc nước ta, trong đó có tỉnh

Lào Cai. Đây là thời kỳ phát triển đột biến của đạo Tin lành trong người Hmông.

Nét nổi bật của đạo Tin lành là lan toả nhanh và phát triển mạnh về số lượng. Từ

năm 1989 đến năm 1993 trên địa bàn tỉnh có 18.000 người ở 162 thôn, bản, 52 xã

của bảy huyện theo đạo Tin lành. Tuy chỉ chiếm 15% dân số, song địa bàn của nó

lại bao trùm gần hết các vùng người Hmông sinh sống [2].

Quá trình truyền bá đạo Tin lành vào địa bàn tỉnh Lào Cai có thể chia thành

các giai đoạn sau:

Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1989 đến 1993 là thời kỳ mở đầu của việc tiếp

cận đạo qua sự kiện “Vàng Chứ” sẽ xuất hiện, mọi người chuẩn bị đón và theo

“Vàng Chứ”. Cụ thể, năm 1989, một số người Hmông ở các huyện Bắc Hà, Bảo

Yên, Bảo Thắng, Mường Khương, Văn Bàn bắt đầu theo đạo Tin lành thông qua

việc nghe đài FEBC. Ở giai đoạn này, việc theo đạo thường gắn với tín ngưỡng dân

gian, đặc biệt là thờ Vua chủ - Vàng Chứ có sự liên hệ với Đức Chúa Trời, với ước

nguyện được phù hộ, đón lên trời để tiếp tục cuộc sống. Các yếu tố đời thực, mê tín

và Ki tô giáo đã đan xen vào nhau trong quá trình hình thành và phát triển của hiện

tượng Vàng Chứ trong người Hmông ở Lào Cai.

Việc tuyên truyền “Vàng chứ” gắn với Chúa Giê-Su, dẫn đến sự mập mờ

giữa đạo Công giáo và Tin lành. Người Hmông ở Lào Cai khi đi theo Vàng Chứ đã

tự tìm hiểu và nhận thấy hình ảnh của Chúa Giê-Su giống Đức Chúa của Công giáo.

38

Do vậy, đã có nhiều người Hmông đến nhà thờ Công giáo ở Yên Bái để làm lễ, xin

Kinh thánh và tràng hạt, ảnh tượng,… và nhờ hướng dẫn nghi lễ sinh hoạt tôn giáo.

Như vậy, từ đó nhiều người Hmông ở các huyện Bắc Hà, Bảo Yên, Bảo Thắng bỏ

tín ngưỡng truyền thống thờ ông bà tổ tiên, chuyển sang cầu nguyện, học Kinh

thánh theo đài phát thanh; đặc biệt các nghi lễ của chu kỳ vòng đời của dân tộc như

cưới xin, tang ma được thực hiện theo nghi lễ Công giáo.

Thời gian người Hmông thực hành cách sinh hoạt của đạo Công giáo không

kéo dài, bởi họ nhận thấy các nghi lễ, cách thức phức tạp, rườm rà không giống như

những hướng dẫn thông qua đài FEBC. Sau đó, một số người đã liên hệ với Hội

thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), được hướng dẫn cách thức hành đạo và cung

cấp kinh sách theo đúng đặc điểm của tôn giáo này là giáo lý cải cách như không

tôn thờ Bà Ma-ri-a, không thờ hình tượng, nghi lễ sinh hoạt đơn giản, không làm

nhiều phép đạo như Công giáo, tự cầu nguyện Thiên Chúa, hát Thánh ca, dân chủ

trong cộng đồng,… Cũng từ đây, Tin lành được đẩy mạnh truyền bá và phát triển

trên khắp địa bàn tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên, số lượng người Hmông ở Lào Cai theo

Tin lành ở giai đoạn này chưa nhiều, khoảng hơn 5.000 người[7].

Giai đoạn thứ hai: Từ năm 1993 đến 2005 là giai đoạn đạo Tin lành phát

triển nhanh trong đồng bào Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc và ở Lào Cai.

Ở giai đoạn này, lực lượng hỗ trợ cho việc truyền bá đạo Tin lành vào vùng

đồng bào Hmông ở Lào Cai chủ yếu vẫn là Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam

(miền Bắc) là chính. Tuy chưa được phép lên truyền giáo ở các tỉnh miền núi phía

Bắc, nhưng trước nhu cầu từ cộng đồng và những người mới theo Tin lành, nên một

số mục sư truyền đạo của Tổng hội đã hướng dẫn, giúp đỡ. Có hai cách hoặc là lên

hướng dẫn, giúp đỡ trực tiếp, hoặc những người đứng đầu các điểm nhóm- theo bản

về Hà Nội, đến trụ sở của Tổng hội để được hướng dẫn, chỉ bảo, nhất là việc hiệu

chỉnh về đức tin và nghi lễ tôn giáo để đúng với đạo Tin lành.

Cùng với Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), vào những năm đầu thế

kỷ XXI, với sự cởi mở của chính sách đối với tôn giáo (qua Nghị quyết số 25 của

BCHTW Đảng về Công tác tôn giáo), các tổ chức, hệ phái Tin lành khác, chủ yếu ở

39

phía Nam đã ra truyền giáo ở Lào Cai và các tỉnh miền núi phía Bắc.

Chính sự hướng dẫn, giúp đỡ của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)

và của các tổ chức, hệ phái Tin lành, việc truyền đạo Tin lành trong người Hmông

giai đoạn này đã lan rộng ra các huyện của tỉnh Lào Cai, như các huyện Sa Pa, Bắc

Hà, Văn Bàn, Bảo Thắng, Bát Xát và Bảo Yên. Số lượng người Hmông theo Tin

lành ở giai đoạn này là khoảng 12.841 người [7].

Giai đoạn ba: Từ năm 2005 đến nay, được đánh dấu từ Chỉ thị 01/CT-TTg

ngày 05 tháng 02 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với

đạo Tin lành. Với nội dung quan trọng khi đã xác định đối với đồng bào dân tộc

thiểu số trong đó có người Hmông, thì việc theo đạo Tin lành là nhu cầu tín ngưỡng

thực sự và hướng dẫn cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo ở địa điểm thích hợp tại

bản, làng; khi tập hợp đầy đủ các điều kiện thì tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo

bình thường theo quy định của pháp luật.

Sau Chỉ thị số 01 của Thủ tướng, với kế hoạch triển khai của Ban Tôn giáo

Chính phủ qua Kế hoạch số 05 (năm 2005) và các chương trình công tác đối với đạo

Tin lành của tỉnh Lào Cai, hoạt động của đạo Tin lành ở Lào Cai từng bước được

hợp thức bằng việc mọi người được sinh hoạt tôn giáo tại gia đình, nếu ổn định thì

làm thủ tục đăng ký điểm nhóm với chính quyền cơ sở. Tin lành trong cộng đồng

người Hmông ở Lào Cai đã thực hiện các bước để được công nhận tư cách pháp

nhân và hoạt động theo quy định của pháp luật. Thời kỳ này, nhiều tổ chức Tin lành

ở miền Nam được Nhà nước cấp đăng ký và công nhận tư cách pháp nhân nên đã

tăng cường hoạt động truyền giáo trong vùng đồng bào Hmông ở các tỉnh phía Bắc,

trong đó có tỉnh Lào Cai.

Từ tình hình trên, các hoạt động truyền đạo ở thời kỳ này được đẩy mạnh và

mở rộng, nhất là mang tính công khai- hoạt động truyền giáo cũng công khai và

người theo đạo cũng công khai. Nếu như thời gian đầu đa số những người theo đạo

Tin lành ở Lào Cai thuộc hệ phái Tin lành Việt Nam miền Bắc, thì thời gian này các

tổ chức Tin lành, như: Tin lành Liên hữu Cơ đốc, Tin lành Trưởng lão, Tin lành

Phúc âm Ngũ tuần, Tin lành Truyền giảng Phúc âm, Tin lành Truyền giáo Phúc

40

âm,… đã đến Lào Cai truyền giáo đạt được những kết quả quan trọng. Và cũng từ

đây, việc tranh giành tín đồ giữa các tổ chức, hệ phái đến nay vẫn đang diễn ra. Giai

đoạn này, số người mới theo Tin lành tăng không nhanh như trước, nhưng về thống

kê số liệu lại tăng nhanh vì chính đây là giai đoạn người Hmông theo đạo Tin lành

công khai nhận mình là tín đồ đạo Tin lành. Theo Báo cáo kết quả 10 năm thực

hiện Chỉ thị 01 của UBND tỉnh Lào Cai, năm 2015 có 25.830 người Hmông theo

đạo Tin lành [2].

2.2. Tình hình hoạt động của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh

Lào Cai

2.2.1. Số lượng và sự phân bố

Trong Báo cáo thống kê năm 2012 ở Lào Cai, toàn tỉnh có 3.620 hộ/19.824

người Hmông theo đạo Tin lành, ở tám huyện, thành phố; 64 xã, thị trấn; 226

bản/thôn; sinh hoạt tôn giáo tại 168 điểm nhóm [5].

Cho đến hết năm 2012, tại Lào Cai có 48 điểm nhóm Tin lành thuộc Hội

thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Giáo hội Liên hữu Cơ đốc Việt Nam ở 26

xã được đăng ký sinh hoạt. Còn 120 điểm nhóm của sáu hệ phái chưa được chính

quyền cơ sở cho đăng ký sinh hoạt [5].

Bảng 2.1. Phân bố tín đồ đạo Tin lành ở Lào Cai

Tổng số theo đạo Tin lành

STT

Huyện/ Thành phố

Số xã

Số thôn/bản

Số hộ

Số người

29

592

3.263

Bảo Thắng

1

8

72

957

5.315

Bắc Hà

2

16

53

882

3.864

Sa Pa

3

14

33

555

3.497

Bảo Yên

4

10

32

499

3.104

Bát Xát

5

9

8

121

684

Văn Bàn

6

5

1

7

49

Mường Khương

7

1

2

7

49

TP Lào Cai

8

1

(Nguồn: Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ Lào Cai, 2012)

Từ Bảng thống kê trên cho thấy, so với các huyện trong tỉnh Lào Cai, số

41

lượng người Hmông theo Tin lành ở thành phố Lào Cai, huyện Mường Khương có

phần ít hơn. Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây, tại các địa bàn này đang có xu hướng

tăng tín đồ và mở rộng địa bàn hoạt động của đạo Tin lành.

Tin lành ở Lào Cai có ở sáu hệ phái1, bao gồm:

- Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)

- Liên hữu Cơ đốc Việt Nam

- Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam

- Tin lành Trưởng lão Việt Nam

- Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm

- Tin lành truyền giảng Phúc âm Việt Nam.

Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) có mặt đầu tiên ở Lào Cai, từ

năm 1996 đến 2006, người Hmông ở Lào Cai chủ yếu theo hệ phái này. Các mục sư

và truyền đạo của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) có vai trò quan trọng

trong việc hiệu chỉnh, hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo đúng theo nghi thức của Tin

lành và đã tổ chức bồi dưỡng giáo lý cho các trưởng điểm nhóm. Hiện nay, tổng số

người Hmông theo hệ phái Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là 2.429 hộ/ 13.640

người, chiếm 64% số tín đồ Tin lành toàn tỉnh và tập trung ở các huyện Bảo Yên,

Bát Xát, Bảo Thắng, Sa Pa, Bắc Hà.

Hội thánh Liên Hữu Cơ đốc Việt Nam có mặt tại Lào Cai từ năm 2007. Tuy

mới hoạt động, nhưng hiện nay đã có 745 hộ/ 4.017 người Hmông theo, chiếm 18%

tổng số tín đồ đạo Tin lành toàn tỉnh; trong đó đa số là từ Hội thánh Tin lành Việt

Nam (miền Bắc) chuyển sang. Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam tự tấn phong

sáu mục sư và 39 mục sư nhiệm chức2. Có hai huyện đông tín đồ theo hệ phái này

1 Hệ phái (Set, Denomination): là một trong những loại hình tổ chức tập hợp tín đồ tôn

giáo, ra đời như một xu hướng đối lập trong mối tương quan với dòng phái tôn giáo chủ lưu mà nó

từng phụ thuộc.

2 Mục sư: tên gọi theo Kinh Thánh, là người giảng Kinh thánh và quản trị Hội thánh cơ

sở. Mục sư phải tốt nghiệp trường Kinh thánh, được bổ chức truyền đạo ít nhất 2 năm.

Mục sư nhiệm chức: đứng dưới Mục sư, còn gọi là truyền đạo hay giảng sư

42

có Bắc Hà và Sa Pa.

Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam xâm nhập vào Lào Cai từ năm

2008, tín đồ chủ yếu từ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) sang. Hiện nay có

338 hộ/ 1.632 người Hmông theo, tập trung chủ yếu ở huyện Sa Pa.

Tổ chức Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm có mặt tại Lào Cai vào năm 2009,

hiện có 48 hộ/ 282 người Hmông, tập trung chủ yếu ở huyện Bắc Hà.

Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam vào địa bàn Lào Cai năm 2008, tín

đồ chủ yếu từ hệ phái Tin lành Việt Nam miền Bắc chuyển sang; hiện có 43 hộ/ 236

người, tập trung ở huyện Bảo Thắng.

Tổ chức Tin lành Truyền giảng Phúc âm xuất hiện ở Lào Cai vào cuối năm

2008 do một số người từ Thành phố Hồ Chí Minh tìm đến thôn Lùng Sui Tủng, xã

Bản Già, huyện Bắc Hà để tuyên truyền vận động người Hmông. Hiện nay, có 27

hộ/174 người theo hệ phái này, tập trung chủ yếu ở huyện Bắc Hà.

Bảng 2.2: Số lượng tín đồ người Hmông ở các hệ phái tại Lào Cai

Năm Hệ phái Số hộ Số người Địa bàn hoạt động du nhập

Bảo Yên, Bát Xát, Hội thánh Tin Lành Việt 1996 2.429 13.640 Bảo Thắng, Sa Pa, Nam (miền Bắc) Bắc Hà

Hội thánh Liên hữu Cơ 2007 745 4.017 Bắc Hà, Sa Pa đốc Việt Nam

Hội thánh Phúc âm Ngũ 2008 338 1.632 Sa Pa tuần Việt Nam

Liên đoàn Truyền giáo 2009 48 282 Bắc Hà Phúc âm

Hội thánh Tin Lành 2008 43 236 Bảo Thắng Trưởng lão Việt Nam

Tin Lành Truyền giảng 2008 27 174 Bắc Hà Phúc âm

43

(Nguồn: Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ Lào Cai, 2012)

Đến năm 2014, có 24.166 người Hmông theo đạo Tin Lành, ở 8 huyện, thành

phố; 64 xã, thị trấn; với 133 điểm nhóm trong đó có 130 điểm nhóm được cấp Giấy

chứng nhận đăng ký sinh hoạt [7; tr.5]. Năm 2015 toàn tỉnh Lào Cai có 25.830

người Hmông theo đạo Tin lành.

2.2.2. Sinh hoạt tôn giáo

Quá trình đạo Tin lành du nhập vào vùng người Hmông ở Lào Cai đã trải

qua giai đoạn phát triển từ thấp đến cao, từ năm 2006 trở đi đã có sự thay đổi căn

bản về chất, dần dần được công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật.

Việc theo đạo của người Hmông ở Lào Cai xuất phát từ nhu cầu tín ngưỡng, tôn

giáo chính đáng, và ở đây sinh hoạt tôn giáo đã trở thành nếp sống của người theo

đạo. Họ đã xây dựng được những yếu tố nền tảng của tôn giáo hoàn chỉnh là có tổ

chức, có địa điểm sinh hoạt tôn giáo, có các chức sắc và nhất là hình thành cộng

đồng người theo đạo có đức tin, tình cảm và nhu cầu sinh hoạt tôn giáo.

Người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai, dù thuộc tổ chức, hệ phái Tin

lành nào cũng thực hiện các sinh hoạt tôn giáo chính. Đó là việc cầu nguyện các

ngày trong tuần; việc cầu nguyện của người Hmông đều được thực hiện tại nhà

trước khi đi ngủ vào buổi tối, khi ngủ dậy vào buổi sáng và trước các bữa ăn, mỗi

lần khoảng 5 phút. Vào các ngày Chủ nhật, việc cầu nguyện được tiến hành tập

trung tại địa điểm sinh hoạt điểm nhóm (khi đã được công nhận) hoặc tại một nhà

được lựa chọn trong thôn/bản. Họ đọc Kinh thánh, cầu nguyện mong Chúa ban

phước lành cho gia đình và mọi người. Ngoài lễ cầu nguyện chính vào ngày Chủ

nhật, tín đồ còn tổ chức cầu nguyện tập trung vào chiều hoặc tối thứ Năm.

Lễ cầu nguyện thường diễn ra như sau: Khoảng 8 giờ sáng, bà con tín đồ

tập trung tại địa điểm cầu nguyện, là nơi đăng ký sinh hoạt điểm nhóm. Trong nhà

tập trung cầu nguyện có các hàng ghế để bà con ngồi, phía trên là bục hoặc bàn chủ

tọa, phía trước bục có phông trang trí với hình ảnh cây thánh giá, phía cánh gà

thường có dàn loa hoặc đàn organ. Nam và nữ thường ngồi thành từng dãy riêng;

bắt đầu là hát Thánh ca, đọc kinh cầu nguyện, học đọc Kinh thánh. Buổi chiều nghi

44

lễ cũng lặp lại như vậy những đơn giản và diễn ra ngắn hơn.

Hộp 1:

Ông Nguyễn Xuân Định, cán bộ Ban Dân vận tỉnh Lào Cai; tham dự buổi sinh

hoạt tôn giáo vào Chủ nhật tại Bắc Hà, Lào Cai có 11 nội dung theo thứ tự như sau:

1, Hát thánh ca

2, Học một điều của Kinh thánh (điều 389 ở trang 332)

3, Cầu Chúa (cho người Hmông được sống yên bình)

4, Hát Thánh ca (do đội hát Thánh ca của điểm nhóm sinh hoạt đạo Khu Chu

Phìn gồm 10 cô gái trẻ hát)

5, Đọc một điều Kinh thánh

6, Hát Thánh ca

7, Cầu Chúa

8, Hát Thánh ca (mọi người có mặt sinh hoạt cùng hát với đội hát thánh ca)

9, Đọc một điều Kinh thánh (điều nào cũng được)

10, Hát thánh ca

11, Cầu Chúa

Một nghi lễ trong đạo Tin lành được người Hmông thực hiện đầy đủ và có ý

nghĩa trong việc gắn kết giữa con người và Chúa đó là Lễ dâng con trẻ cho Thiên

Chúa. Người Hmông theo đạo Tin lành ở Tỉnh Lào Cai cũng thực hiện và tham dự

những ngày lễ trọng của tôn giáo như Lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh.

Hộp 2:

Phỏng vấn tại huyện Bắc Hà: Người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai

có thực hiện các ngày lễ trọng của tôn giáo mình như là lễ Noel, lễ Phục sinh? Cách

thức chuẩn bị và tiến hành tổ chức như thế nào?

Có tổ chức, cách thức chuẩn bị và tiến hành rất đơn giản vì đồng bào theo đạo

Tin lành chủ yếu là dân tộc Mông, địa điểm sinh hoạt chủ yếu mượn một phần nhà của

tín đồ trong điểm nhóm để sinh hoạt nên khâu chuẩn bị rất đơn giảm như: tít chữ:

45

TÔN VINH ĐỨC CHÚA TRỜI

TSHAWB NQA VAJ TSWV NTUJ

KỶ NIỆM CHÚA GIÁNG SINH

ZOO SIAB TUS CAWM SEEJ TAU YUS LOS

Trong buổi lễ nội dung chủ yếu hát thánh ca, cầu nguyện, chia sẻ kinh thánh và

một số tiết mục văn nghệ. Sau buổi lễ tùy thuộc từng điểm nhóm có thể tổ chức ăn mặn

do các tín đồ đóng góp gạo, gà hoặc tiền tùy tâm để mua thức ăn, có điểm nhóm tổ chức

ăn ngọt.

Phỏng vấn tại huyện Sa Pa

+ Câu 1: Người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai có thực hiện các ngày

lễ trọng của tôn giáo mình như là lễ Noel, lễ Phục sinh? Cách thức chuẩn bị và tiến hành

tổ chức như thế nào? Người Hmông theo đạo Tin lành ở huyện Sa Pa đều thực hiện các

ngày lễ trọng của tôn giáo mình như là lễ Noel, lễ Phục sinh. Tổ chức tại nhà sinh hoạt

tôn giáo.

+ Câu 2: Người Hmông khi theo Tin lành ở tuổi trưởng thành (12 tuổi trở lên) có

thực hiện phép Bắp têm (Rửa tội)? Cách tổ chức thực hiện như thế nào? Người Hmông

khi theo Tin lành ở tuổi trưởng thành (12 tuổi trở lên) có thực hiện phép Bắp têm (Rửa

tội) có. Cách tổ chức thực hiện do trưởng nhóm đạo làm lễ.

+ Câu 3: Trong các buổi sinh hoạt tôn giáo hàng tuần (vào thứ 5 và Chủ nhật) có

thực hiện theo từng chủ đề không? Việc đọc Kinh thánh, hát Thánh ca theo từng nội

dung và được tổ chức như thế nào? Chủ yếu là đọc kinh thánh, hát thánh ca.

(Người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Xuân Định, cán bộ Ban Dân vận tỉnh Lào Cai.

Nguồn tác giả năm 2015 )

2.3. Nguyên nhân người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành

Vấn đề lớn đặt ra là tại sao đột nhiên người Hmông ở Việt Nam, trong đó có

người Hmông ở tỉnh Lào Cai lại theo đạo Tin lành trong khi các hoạt động truyền

đạo chủ yếu là gián tiếp và chưa được pháp luật thừa nhận.

Trong một cuộc điều tra, nghiên cứu tại Hội nghị Hướng dẫn sinh hoạt đạo

Tin lành theo quy định của pháp luật, Lào Cai, tháng 3 năm 2013, giành cho đối

tượng là người Hmông theo Tin lành, và người Hmông không theo Tin lành, bao

gồm trưởng điểm nhóm, trưởng thôn bản, công an viên,… Tác giả luận án ghi lại

46

được các lý do người Hmông theo đạo như sau:

Bảng 2.3: Lý do theo Tin lành của người Hmông

Số người

Số người chọn

không chọn

STT

Lý do biết và theo Tin lành

trên tổng số phiếu

trên tổng số

phiếu

1

Mang lại lợi ích cho bản thân, gia đình

30/40 – 75%

10/40 – 25%

2

Đỡ tốn kém

39/40 – 97,5%

1/40 – 2,5 %

3

Phù hợp nhu cầu tín ngưỡng của mình

39/40 – 97,5 %

1/40 – 2,5%

Mọi người trong gia đình, dòng họ

4

13/40 – 33,3%

27/40 – 66,7%

theo thì mình cũng theo

5

Do nghe đài

8/40 – 20%

32/40 – 80%

(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa, năm 2013)

Từ Bảng trên, có thể thấy rằng việc đạo Tin lành với những yếu tố phù hợp

với tín ngưỡng truyền thống của người Hmông, cùng phương thức hành đạo, lễ nghi

đơn giản, đỡ tốn kém (97.5%) và đem lại lợi ích về vật chất, tinh thần cho bản thân

và gia đình (75%) là nguyên do chủ yếu; trong khi đó lý do theo đạo từ việc nghe

đài chỉ chiếm 20%.

Do vậy, khi tìm hiểu nguyên nhân của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu

số theo đạo Tin lành nói chung, người Hmông nói riêng cần phải có thái độ khách

quan, khoa học, phải tách bạch rõ giữa việc truyền đạo với theo đạo, phân định rõ

giữa tôn giáo với việc lợi dụng tôn giáo. Không thể đơn giản cho rằng, những

nguyên nhân theo đạo là do khuyến khích vật chất hoặc do bị ép, dụ dỗ,... Cũng

đừng nói rằng, việc theo đạo là do truyền đạo, trong khi đồng bào không có nhu cầu

theo đạo. Cũng không thuần túy cho rằng đồng bào theo đạo là do tiếng gọi của

Chúa hay Chúa đã cứu rỗi những linh hồn như các chức sắc Tin lành quan niệm.

Càng không phiến diện cho rằng, việc theo đạo Tin lành là nằm trong chiến lược

“diễn biễn hòa bình” của các thế lực thù địch.

Qua nghiên cứu thực địa và kế thừa kết quả của các nhà Dân tộc học, Tôn

giáo học, tác giả luận án đưa ra những lý do chủ quan và khách quan mà người

47

Hmông ở Việt Nam và người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành như sau:

2.3.1 Sự bất cập của một số tập tục trước bối cảnh hội nhập

Xét ở góc độ văn hóa, tác giả nhấn mạnh việc giảm tình cảm của bộ phận

người Hmông đối vớí văn hóa truyền thống. Văn hóa truyền thống của dân tộc

Hmông nhìn chung là tín ngưỡng đa thần nhưng một số phong tục tập quán gắn với

tín ngưỡng lại quá nhiều, quá rườm rà, khắt khe, có mặt trở thành hủ tục, lạc hậu,

tốn kém. Đến một lúc nào đó, nhất là khi cuộc sống gặp khó khăn thì những phong

tục tập quán gắn với tín ngưỡng truyền thống trở thành gánh nặng cho cuộc sống,

cản trở sự tiến bộ, phát triển. Từ đó tạo ra sự khoảng trống về chỗ dựa về đời sống

tâm linh trong cộng đồng người Hmông, dẫn đến việc họ tìm đến chỗ dựa tinh thần,

tâm linh mới.

Hệ thống ma nhà của người Hmông rất phong phú, gồm có ma cửa, ma tổ

tiên, ma bếp, ma buồng… Để cúng ma tổ tiên, người cúng phải nhớ tên và thứ bậc

của những người đã quá cố ngược lên tới đời thứ ba và việc thực hiện các nghi thức

cúng ma nhà, nhất là ma cửa hết sức phức tạp. Vì vậy, đối với các trường hợp khi

bố mất sớm, con trai cả vẫn còn nhỏ và các chủ hộ di cư tự do còn trẻ chưa biết

cúng ma nhà thì với họ việc thay đổi theo Tin lành là một giải pháp.

Ngoài ra, nhiều người Hmông muốn có sự thống nhất về nghi lễ. Có thể nói,

việc thực hiện các nghi lễ thờ cúng theo tín ngưỡng truyền thống là hết sức phức tạp

và thiếu sự thống nhất. Vì không có quy định hoặc sách vở nào mang tính chuẩn

mực cho việc tiến hành các nghi lễ, nên sự biến dạng và việc sai sót trong khi tiến

hành các nghi lễ là không thể tránh khỏi. Để tránh sự phức tạp và thiếu thống nhất

cũng như sai phạm có thể mắc phải trong khi tiến hành nghi lễ và để tránh sự trừng

phạt của các ma khi không làm đúng nghi lễ thì theo quan niệm của nhiều người

Hmông, việc thay đổi theo Tin lành cũng là một giải pháp.

Các nghi lễ cầu cúng của người Hmông khi thực hiện khá tốn kém. Ngoài

khoản chi phí vật chất có thể tính ra này còn là thời gian và công sức phục vụ cho

việc nấu nướng, tiến hành nghi lễ và ăn uống. Tổng các khoản chi phí là một gánh

nặng đối với nhiều hộ gia đình người Hmông, nhất là đối với các hộ nghèo, neo

48

đơn. Vì vậy, để tránh phải thực hiện các nghi lễ tốn kém thì nhiều người Hmông đã

lựa chọn theo Tin lành. Tại điểm nghiên cứu, những người Hmông theo đạo Tin

lành đã trao đổi rằng với văn hóa tín ngưỡng truyền thống phải cúng nhiều ma, rườm

rà, tốn kém; khi theo đạo Tin lành chỉ cần cúng một con ma, đơn giản, tiết kiệm.

Một trong những đặc trưng cơ bản của người Hmông là di cư tự do. Việc tổ

chức các nghi lễ truyền thống, nhất là lễ tang, lễ cúng ma của người Hmông không

thể thiếu được sự giúp đỡ rất lớn cả về vật chất, tinh thần, thời gian và công sức của

anh em họ hàng. Nhưng những người Hmông di cư tự do thì lại thiếu sự giúp đỡ

này. Lý do là các hộ di cư thường đi theo nhóm nhỏ, và đi tới các nơi xa, nên

thường ít có anh em họ hàng thân thích ở nơi cư trú mới. Trong khi mối quan hệ họ

hàng bị hạn chế; thay đổi theo Tin lành lại có được mối quan hệ và sự giúp đỡ cụ

thể của cả những người khác họ, nhưng đều là tín đồ Tin lành.

2.3.2 Những khó khăn trong đời sống vật chất và bất cập trong quản lý

xã hội ở cơ sở

Từ lâu, đời sống kinh tế, trình độ dân trí của đồng bào dân tộc Hmông ở

nhiều nơi nhìn chung là thấp so với mặt bằng chung, thậm chí một số nơi đời sống

kinh tế- xã hội còn rất khó khăn. Người Hmông thường cư trú ở những vùng núi

cao, nền kinh tế chủ yếu vẫn mang tính chất tự cung, tự cấp, phương thức canh tác

chính là đốt rừng làm nương rẫy, khai phá ruộng bậc thang. Việc chuyển đổi sang

nền kinh tế thị trường đã giúp đất nước ta thoát khỏi được khủng hoảng, ổn định và

tăng trưởng kinh tế. Nhưng cũng chính nền kinh tế thị trường đó đã làm cho sự phân

hóa giàu nghèo ngày càng trở nên sâu sắc giữa miền núi với đồng bằng, giữa vùng

sâu, vùng xa với thành phố, thị xã; giữa người Hmông với các dân tộc khác.

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến đời sống kinh

tế - xã hội của đồng bào Hmông như trợ cấp cho đồng bào, đầu tư vốn phát triển các

dự án, các ngành sản xuất, vận động định canh định cư để ổn định cuộc sống.

Nhưng một phần do vốn đầu tư còn dàn trải, một phần yếu kém trong quản lý, đồng

thời do trình độ sản xuất ở đây còn thấp kém, giao thông đi lại khó khăn, địa hình

phức tạp,… đã tạo ra những trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng

49

bào Hmông.

Đời sống vật chất khó khăn, kéo theo đời sống văn hoá tinh thần của đồng

bào lại thêm nghèo nàn. Người dân không có phương tiện để thưởng thức văn hoá,

văn nghệ, giải trí; nhiều sinh hoạt văn hoá dân tộc truyền thống tốt đẹp bị mai một;

phát thanh, truyền hình còn hạn chế cả về nội dung và diện phủ sóng. Ở nhiều địa

phương, đời sống tinh thần của đồng bào hầu như không có gì đáng kể ngoài các

cuộc tang lễ, cuới xin, cúng tế với hủ tục nặng nề, tốn kém.

Những khó khăn về đời sống vật chất cộng với những thiếu hụt về đời sống

tinh thần đã làm cho cuộc sống của đồng bào trở nên bế tắc, khủng hoảng niềm tin,

họ hy vọng vào những lực lượng siêu nhiên, thần bí, tin vào sự cứu vớt của những

nhân vật ảo tưởng. Trong hoàn cảnh như vậy, đài Manila đã thuyết phục được một

số người Hmông theo đạo Tin lành. Mặt khác, khi truyền đạo các lực lượng truyền

đạo đã lợi dụng tình trạng khó khăn về kinh tế của đồng bào Hmông để thực hiện

mục đích truyền đạo Tin lành thông qua việc trợ cấp tiền, dịch vụ sinh hoạt,… vì

thế, có không ít đồng bào tin theo, có thể do hỗ trợ vật chất lúc này dù ít, nhưng là

“một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Trên bình diện chung của việc người

Hmông theo Tin lành có hai thời điểm chú ý liên quan đến đời sống kinh tế: năm

1985, 1986 khi xóa bỏ cơ chế bao cấp, người Hông gặp khó khăn trong đời sống

kinh tế nên đã theo Tin lành; những năm đầu thập niên 1990, khi xóa cây thuốc

phiện, người Hmông lại gặp khó khăn về kinh tế vì chưa có “cây gì, con gì” thay thế

nên rộ lên việc người Hmông theo Tin lành.

Như vậy, trình độ thấp kém về kinh tế và những khó khăn trong đời sống là

một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho người Hmông nói chung và người

Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành. Thực tế này đặt ra cho chúng ta một nhiệm vụ

không ngừng tăng cường các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời

sống vật chất, từ đó góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người Hmông.

Trong khi đó, những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, hệ thống chính trị trực

tiếp ở cơ sở (Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng) và cơ sở cốt cán ở vùng

đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng đồng bào Hmông, theo đánh giá chung là rất

50

yếu và kém hiệu lực. Công tác xây dựng Đảng chưa chú ý đúng mức, thậm chí có

cơ sở không có chi bộ, trắng đảng viên. Các tổ chức đoàn thể hoạt động khó khăn,

đơn điệu, không thiết thực, hiện tượng bỏ trống địa bàn trong thời gian dài khá phổ

biến. Việc nghiên cứu vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kể cả vùng người Hmông

một cách có hệ thống, toàn diện về kinh tế- xã hội, về đời sống sinh hoạt, phong tục

tập quán, tín ngưỡng làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, biện pháp để giải

quyết tình hình chưa được quan tâm đúng mức. Tệ quan liêu xa dân và các hiện

tượng tiêu cực đã làm cho một bộ phận quần chúng giao động. Điều đó không chỉ

làm giảm lòng tin trong quần chúng mà còn tạo kẽ hở cho việc truyền đạo Tin lành.

Ngoài ra, khi vấn đề Tin lành ở các vùng dân tộc thiểu số mà cụ thể ở dân

tộc Hmông phục hồi, phát triển và diễn biến phức tạp, các địa phương đã chậm

thống nhất quan điểm, chủ trương xử lý nên lúng túng, đôi khi giải quyết bằng biện

pháp hành chính làm cho tình hình càng phức tạp thêm. Đặc biệt, một số biện pháp

hành chính đã tạo ra tâm lý phản cảm, càng lôi kéo thêm nhiều người Hmông theo

đạo hoặc dẫn đến sự cố kết bền vững của những người đã theo đạo Tin lành, hoặc

theo đạo Tin lành di cư tự do vào Tây Nguyên.

2.3.3 Sự hấp dẫn của giáo lý và nhạy bén trong truyền giáo của đạo

Tin lành

Trên thực tế, đạo Tin lành đã khai thác lợi thế của một tôn giáo cải cách, có

những điểm tiến bộ về lối sống gắn với xã hội, tạo ra sự thu hút đối với đồng bào

dân tộc thiểu số theo đạo, trong đó có người Hmông ở Lào Cai.

Đạo Tin lành là tôn giáo cải cách từ đạo Công giáo. Sinh hoạt tôn giáo đơn

giản, gọn nhẹ, đề cao vai trò cá nhân; trong sinh hoạt, về tổ chức đạo đề cao tính

dân chủ, trong đời sống thường nhật, đạo Tin lành có lối sống khá nề nếp và lành

mạnh, như không uống rượu, không hút thuốc lá, không cờ bạc, giữ quy định hôn

nhân một vợ một chồng,… Tuy nhiên, khác với những tôn giáo khác, trong quá

trình truyền đạo, đạo Tin lành thường phủ nhận tín ngưỡng tại chỗ và gạt bỏ nhiều

phong tục tập quán truyền thống. Điều này tạo ra sự xung đột về văn hóa, nhưng ở

một khía cạnh khác, lại đưa đến việc xóa bỏ những hủ tục lạc hậu không còn phù

51

hợp với cuộc sống hiện đại. Do đó, ở một số nơi, đạo Tin lành xuất hiện như là hiện

diện của sự tiến bộ về lối sống, nên dễ dàng thu hút nhiều người theo đạo. Đặc biệt,

đạo Tin lành hoạt động năng động uyển chuyển, luôn quan tâm đến đời sống thường

nhật để lôi kéo người vào đạo. Các hoạt động truyền giáo của đạo Tin lành thường

tiến hành kiên trì, khôn khéo, hiểu rõ tâm lý, trình độ nhận thức của từng đối tượng,

nhất là khai thác đặc điểm lịch sử, văn hoá của từng dân tộc, thực hiện dân tộc hoá,

địa phương hoá để có nội dung và phương thức hoạt động phù hợp, dễ thâm nhập.

Nói về khai thác lợi thế của đạo Tin lành trong việc truyền giáo ở vùng đồng bào

dân tộc thiểu số nói chung và trong người Hmông nói riêng, có thể so sánh với

Công giáo và Phật giáo. Thời gian vừa qua, không chỉ có đạo Tin lành, mà các tôn

giáo khác, nhất là Công giáo và Phật giáo cũng đẩy mạnh việc truyền đạo lên vùng

đồng bào dân tộc, nhưng đạo Tin lành đã tỏ ra thích hợp với đời sống tâm linh của

đồng bào dân tộc thiểu số. Ở các tỉnh Tây Bắc, thời kỳ đầu một bộ phận đồng bào

Hmông theo “Vàng Chứ” được sự giúp đỡ, hỗ trợ của Giáo hội Công giáo, và họ đã

thu hút được khá đông người theo, nhưng sau một thời gian họ lại chuyển sang theo

Tin lành. Nói như vậy, có nghĩa là đạo Công giáo đã có cơ hội, nhưng không thành

công. Ở Tây Nguyên, đạo Công giáo truyền vào từ giữa thế kỷ XVIII (1765) với vai

trò của Giám mục Quesnot Thể, và hiện nay với sự hiện diện của ba giáo phận:

Công Tum, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt với đội ngũ giáo sỹ khá đông nhưng tín đồ đạo

Công giáo là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ bằng phân nửa số người theo đạo Tin

lành, mặc dù đạo Tin lành mới truyền lên đây từ năm 1930, sau năm 1975 lại không

được phép hoạt động. Phật giáo ở Tây Nguyên cũng phát triển rất mạnh với tổ chức

được xây dựng, củng cố ở tỉnh, huyện, xã với hàng ngàn tăng ni, nhưng cũng chỉ có

hơn chục ngàn người theo Phật giáo.

Ở đây có điều cần nói thêm là, đạo Tin lành đã khai thác thành tựu của khoa

học công nghệ thông tin để truyền giáo. Trên thực tế, đạo Tin lành chủ yếu truyền

từ bên ngoài (các nước khác) vào vùng dân tộc Hmông thông qua các phương tiện

kỹ thuật hiện đại: đài phát thanh, Internet,… các tài liệu nghe nhìn như: băng

cassette, video, đĩa CD, VCD,… các ấn phẩm dưới dạng tranh ảnh, sách báo,… Từ

52

giữa những năm 1960, Tin lành Mỹ đã có một Chương trình phát thanh truyền đạo

bằng tiếng Hmông của Công ty phát thanh Viễn Đông - FEBC3 hiện đang đóng tại

California. Chương trình này phát thanh dạy Kinh thánh cho người Hmông ở Việt

Nam, Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Myanmar.

Tuy nhiên, trong số liệu thu được thì việc theo đạo Tin lành do nghe đài chỉ

chiếm 20%, một phần không phải hộ người Hmông nào cũng có phương tiện nghe

nhìn như đài, vô tuyến, đầu đọc đĩa,… thậm chí ở những vùng sâu, vùng xa xôi, hẻo

lánh nguồn điện không đủ đáp ứng. Ở đây, từ một số người có điều kiện tiếp cận,

nghe được lời truyền giáo qua các phương tiện nghe nhìn, khi thực hành theo nghi

thức nhận thấy có nhiều mặt mạnh và phù hợp thì cứ thế thực hành và những người

Hmông khác thấy vậy cũng làm theo.

Việc Tin lành sử dụng các phương tiện nghe nhìn như băng cassette, video,

đĩa CD, VCD,… kết hợp với các tài liệu đọc như các sách Kinh thánh, Thánh ca

(được dịch và in ra bằng tiếng Hmông nước ngoài), tài liệu có minh họa bằng tranh,

ảnh để truyền đạo; do những người truyền đạo, bằng nhiều con đường khác nhau

như du lịch, nghiên cứu khoa học của các học giả nước ngoài về văn hóa Việt Nam,

hoạt động từ thiện,… Tin lành đã vươn đến và phát triển vững chắc trong người

Hmông ở nhiều vùng, kể cả vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,…

Sự tiếp cận từ góc độ Tôn giáo học, nhất là về Tin lành như đề cập ở trên đã

lý giải tại sao một bộ phận người Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có

Lào Cai lại theo đạo Tin lành mà rất ít theo Công giáo và Phật giáo.

Ngoài những nguyên nhân nói trên còn chú ý đến yếu tố tâm lý tộc người

Hmông. Đạo Tin lành lần đầu tiên xâm nhập vào dân tộc Hmông dưới tên gọi là

Vàng Chứ. Đây vừa là một hiện tượng tôn giáo, vừa là ý thức tộc người sâu sắc. Nó

không chỉ phản ánh tồn tại xã hội hiện thời mà còn thừa kế ý thức xã hội quá khứ, là

sự đan xen, tác động phức tạp của nhiều hình thái ý thức xã hội.

Các nhà truyền giáo Tin lành đã nghiên cứu rất kỹ và nhận thấy rằng, dân

3 Hmong Radio Program of the Far East Broadcasting Company

53

tộc Hmông là cộng đồng mà xét về mưu sinh thì họ có thể tiếp nhận, học tập cách

làm ăn của các dân tộc khác, còn trong văn hóa tâm linh, tín ngưỡng thì người

Hmông khó tiếp nhận yếu tố bên ngoài. Muốn đưa được Tin lành vào người Hmông

thì trước hết phải Hmông hóa Tin lành, phải tìm được cánh cửa đi vào thế giới tâm

linh của người Hmông.

Xưng vua là một hiện tượng vừa có tính thế tục, vừa có tính tôn giáo, đó

cũng chính là một hiện tượng nằm trong “phong trào cứu thế” thường xuất hiện ở

các tộc người bị hụt hẫng trong tâm thức. Hiện tượng xưng vua của người Hmông

không chỉ đơn thuần là yếu tố tâm linh mà còn bắt nguồn từ chiều sâu của lịch sử và

tâm lý tộc người.

Các nhà truyền giáo nắm bắt được tình hình này, họ đã gắn giáo lý Tin lành

với lịch sử đấu tranh giành quyền tự quyết của người Hmông, gắn với tín ngưỡng

tâm linh của người Hmông. Họ sửa lại giáo lý Tin lành, gọi vua Hmông là Vàng

Chứ, giải thích Vàng Chứ chính là Đức Chúa Trời - Cha đẻ của Giê - Su. Đồng thời,

Tin lành luôn chú trọng cải tiến hình thức nghi lễ heo xu hướng đơn giản, gọn nhẹ,

không tốn kém kinh tế, không cầu kỳ, dễ làm dễ học, ai cũng làm được. Chính điều

này đã đánh trúng tâm lý người Hmông, theo phong tục, tập quán của người Hmông

phải thờ nhiều loại ma rất tốn kém về kinh tế, mất nhiều thời gian, còn theo Vàng

Chứ thì đơn giản, không tốn kém nên đồng bào dễ tin theo.

Như vậy, có thể thấy, Vàng Chứ = Giáo lý Tin lành + Ý thức tộc người, tín

ngưỡng tâm linh của người Hmông; nói cách khác, đạo Tin lành đã được Hmông

hóa để phù hợp với đặc điểm của dân tộc, tạo thuận lợi cho việc truyền giáo.

Ở đây cũng có một vấn đề nữa cần nói thêm là sự biến đổi tín ngưỡng tôn

giáo, từ đa thần sang nhất thần, từ tín ngưỡng đến tôn giáo, không chỉ ở dân tộc

Hmông mà ở nhiều dân tộc khác, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, không

phải bây giờ mà đã từ lâu. Khi kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật phát triển, đời

sống tâm linh của con người cũng không thể giữ mãi như cũ mà cũng phải biến đổi

theo. Tuy nhiên, sự biến đổi diễn ra nhanh hay chậm và theo xu hướng nào lại phụ

thuộc nhiều vào các yếu tố tác động của bên trong và từ bên ngoài. Việc đồng bào

54

dân tộc thiểu số, trong đó có người Hmông ở Việt Nam, người Hmông ở Lào Cai tin

theo Tin lành là nằm trong tiến trình phát triển của tâm linh tôn giáo, đi từ tôn giáo

đa thần (tín ngưỡng truyền thống) đến tôn giáo nhất thần- Tin lành.

Như vậy, có nhiều nguyên nhân người Hmông nói chung và người Hmông

ở Lào Cai nói riêng theo đạo Tin lành. Từ giữa những năm 1980, nhất là đầu những

năm 1990 trở đi, các nguyên nhân nói trên đều xuất hiện tạo ra môi trường thuận lợi

để người Hmông nói chung và người Hmông ở Lào Cai nói riêng theo Tin lành.

Trước đây, tuy có nghèo đói, nhưng đời sống tín ngưỡng, văn hoá truyền thống của

người Hmông vẫn có uy tín, vẫn còn là chỗ dựa tinh thần cho quần chúng; trước đây

tuy có nghèo đói, nhưng hệ thống chính trị ở cơ sở, thiết chế xã hội truyền thống

còn vững mạnh, nên Tin lành có tuyên truyền nhưng quần chúng không theo đạo.

Bên cạnh đó, việc các nhà truyền giáo trong thời kỳ đầu truyền bá đạo đã biết kết

hợp hình tượng Chúa với hiện tượng Vàng Chứ đã đánh trúng tâm lý tộc người tạo

nên hiệu quả và kết quả đáng kể trong truyền giáo. Như vậy, trong các nguyên nhân

người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai, thì nguyên nhân về văn hóa là quan

trọng và nguyên nhân về tâm lý tộc người là then chốt.

Tiểu kết chương 2

Tỉnh Lào Cai có vị trí trọng yếu trong việc phát triển kinh tế vùng, đảm bảo

an ninh, quốc phòng; Đây cũng là tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó

có người Hmông sinh sống. Vì vậy, việc đạo Tin lành du nhập vào người Hmông đã

và đang có ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội của họ. Quá trình du nhập của

đạo Tin lành vào người Hmông ở tỉnh Lào Cai thực sự bắt đầu từ năm 1989 cho đến

nay được chia làm ba giai đoạn liên biến động về kinh tế - xã hội, văn hóa của

người Hmông ở đây. Việc truyền đạo Tin lành vào người Hmông ở Việt Nam cũng

như người Hmông ở Lào Cai chủ yếu bằng gián tiếp qua các phương tiện truyền

thông, sau này khi đã hình thành cộng đồng theo Tin lành mới có sự tác động trực

tiếp của các tổ chức Tin lành ở Việt Nam.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin

55

lành như nguyên nhân về kinh tế, về tâm lý, về quản lý của chính quyền,... nhưng

nguyên nhân then chốt chính là sự mất niềm tin vào văn hóa truyền thống với những

yếu tố “lạc hậu”, không còn phù hợp cùng với những lợi thế của đạo Tin lành. Với

việc xác định đúng các nguyên nhân theo Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai

sẽ có đánh giá đúng về hiện tượng tôn giáo đặc thù này, cũng như những cách

nhìn nhận và xây dựng chính sách dân tộc, tôn giáo một cách đúng đắn, phù hợp

và hiệu quả.

Cùng với thời gian, đạo Tin lành đã trở thành một thực thể trong người

Hmông ở Việt Nam, trong đó có người Hmông ở tỉnh Lào Cai, đặt ra cho các cấp

chính quyền phải quan tâm giải quyết. Đặc biệt, việc truyền đạo Tin lành của người

Hmông đã tạo ra sự thay đổi về văn hóa của một bộ phận người Hmông, hình thành

một không gian văn hóa mới- văn hóa Tin lành, góp phần đa dạng văn hóa của tộc

56

người Hmông ở Việt Nam.

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG

THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI

3.1. Văn hóa vật chất

3.1.1. Văn hóa ẩm thực

Văn hóa ẩm thực là một trong những thành tố cơ bản của văn hóa vật chất,

ẩm thực không chỉ đơn giản là ăn cho no mà đi cùng với nó là cả một nền văn hóa

đặc trưng của tộc người, đó là sự ứng xử với tự nhiên, là cách thức ứng xử với xã

hội, là yếu tố cố kết cộng đồng.

Cách thức sản xuất ảnh hưởng đến thức ăn của con người; nếu là phương

thức chăn nuôi, săn bắn ở những vùng rộng lớn thì lương thực chủ yếu là thịt, nếu

phương thức đánh bắt hải sản thì lương thực là cá, ở vùng đồng bằng dọc các con

sông thuận tiện cho trồng lúa, các cây hoa màu thì lương thực là lúa gạo, tôm

cua, cá,... còn ở vùng núi cao, hiểm trở, khó khăn cho chăn thả thì lương thực

chính là ngô.

Với người Hmông ở Việt Nam nói chung và ở Lào Cai nói riêng, lương

thực chính là ngô, lúa nương, khoai, sắn, các loại rau. Các món ăn của người

Hmông được chế biến đơn giản, chủ yếu là luộc (các loại rau, thịt gia cầm, gia súc),

nướng (nướng thịt, nướng khoai, sắn, ngô) và xào (chủ yếu xào lòng của các gia súc

được mổ, đặc biệt trong các dịp lễ tết, cúng bái, ma chay, cưới xin).

Món ăn đặc trưng của người Hmông là Tháng cố, được sử dụng vào những

dịp lễ tết, chợ phiên, cưới xin, ma chay. Đây là một món canh, sau khi giết mổ bò,

dê hay chó thì xương, lòng, tim, gan, phổi được đem đun chung với nhau, ăn cùng

với cơm. Bên cạnh đó, phải kể đến món tiết canh, đặc biệt là tiết canh gà.

Người Hmông rất thích uống rượu ngô do mình tự nấu, chén rượu đối với

người Hmông như là miếng trầu của người Kinh. Rượu được dùng phổ biến trong

các dịp lễ, tết, ma chay, cưới xin,...bạn bè gặp nhau, thăm nhau cũng lấy chén rượu

57

làm vui. Chén rượu còn là tình cảm chân thành và đằm thắm của người mời đối với

người được mời. Người được mời uống chén rượu là trân trọng tình cảm của người

mời [106,tr.85]. Nếu người khách muốn được gia đình người Hmông coi như người

một nhà, cởi mở trong câu chuyện thì một việc cần đó là uống hết một vòng rượu

ngô. Trong các dịp lễ tết, cưới xin, ma chay,… người Hmông uống rượu nhiều,

lượng rượu sử dụng trong đám cưới và đám ma ở điểm nghiên cứu là khoảng 100

lít. Đây là nét văn hóa của tộc người, tuy nhiên việc sử dụng quá nhiều rượu gây tổn

hại về sức khỏe, kinh tế, trong nhiều trường hợp say rượu làm mất đoàn kết gia

đình, dòng họ, làng bản.

Người Hmông ở tỉnh Lào Cai cũng hay hút thuốc lá, thuốc lá cũng là thứ

đồng bào dùng mời chào khách, bắt mối câu chuyện [106, tr.85].

Trong tâm thức của người Hmông, bên cạnh việc ăn uống là nhu cầu hàng

ngày, thì những bữa ăn mang tính cộng đồng, cộng cảm với những chén rượu ngô

trong các dịp lễ tết, cưới xin, tang ma,…luôn được coi trọng và có ý nghĩa.

Đối với người Hmông theo đạo Tin lành, trong bữa ăn hàng ngày cũng

không có nhiều thay đổi về nguồn nguyên liệu, cách thức chế biến đồ ăn. Bữa ăn là

thời điểm các thành viên trong gia đình gặp gỡ, trao đổi, nói chuyện với nhau về

công việc trong ngày, nhắc nhở con cái. Tuy nhiên, có một điểm riêng rất dễ nhận

thấy trong bữa ăn của gia đình người Hmông theo đạo Tin lành đó là, trước khi ăn

có cầu nguyện, nói những lời ngợi ca Chúa, cảm ơn Chúa đã cho bữa cơm đầy đủ

(Nguồn điền dã của tác giả).

Trong các buổi lễ tết, hay cưới xin, tang ma của người Hmông theo đạo Tin

lành tại điểm nghiên cứu sử dụng rất ít rượu, chủ yếu để dành cho khách là người

Hmông không theo đạo, vẫn giữ văn hóa truyền thống. Điều này phát xuất từ giáo lý

của đạo Tin lành, một trong 10 điều răn của Thiên Chúa, đó là không được uống

rượu, không ăn thịt chó, không ăn tiết canh. Chính vì vậy, người Hmông theo đạo

Tin lành ở các điểm nghiên cứu hầu như không uống rượu, tuy nhiên cũng có một

số người chia sẻ họ vẫn uống rượu, nhưng không nhiều, và khẳng định rằng, việc bỏ

hẳn rượu là rất khó khăn. Việc không ăn thịt chó và ăn tiết canh thì người Hmông

58

theo đạo Tin lành tại điểm nghiên cứu thực hiện khá tốt. Với việc hạn chế uống

rượu, ăn tiết canh đã dần tách cộng đồng người Hmông theo đạo Tin lành với cộng

đồng người Hmông vẫ bảo tồn các yếu tố văn hóa truyền thống.

Hộp 3:

Phỏng vấn tại huyện Sa Pa

Câu 1: Trước kia người mông thường lấy việc mời rượu, mời thuốc để thể hiện

tình cảm. Vậy với người Hmông theo Tin lành thì lấy gì để biểu hiện tình cảm? Uống cô

ca, nước cam.

Câu 2: Quan niệm của người Hmông theo Tin lành về việc uống rượu?Tùy thuộc

vào nhận thức của từng người, có người nhận thức rõ là tôn giáo không cấm uống rượu

mà chỉ nói là không được rượu chè bê tha có nghĩa là được uống nhưng không được nát

rượu, thì vẫn uống rượu bình thường. Nhưng cơ bản phần đông là đồng bào theo đạo

Tin lành không uống rượu, vì trong Kinh Thánh đã ghi rằng không nên uống rượu

nhiều.

Câu 3: Người Hmông theo Tin lành không ăn tiết canh, tại sao? Họ cho rằng ăn

tiết canh là ăn tươi nuốt sống như con ma, nên họ không ăn.

(Người được phỏng vấn: Ông Nguyễn Xuân Định, cán bộ Ban Dân vận tỉnh Lào Cai.

Nguồn của tác giả, 2015)

Người Hmông lấy rượu làm đầu câu chuyện, làm sợi dây kết nối các thành

viên với nhau, nhận mặt khách thành người nhà; mặc dù uống rượu cũng có những

mặt hạn chế những xét đến cùn, rượu chính là nét văn hóa của người Hmông. Vậy

mà, khi theo đạo Tin lành, người Hmông giảm dần uống rượu, rượu không còn là

nét văn hóa đặc trưng trong tâm thức nữa thì đã tạo nên ranh giới của sự khác biệt

đối với người Hmông truyền thống. Ngoài ra, khi theo Tin lành, họ không ăn tiết

canh và ăn thịt chó nữa, điều này cũng tạo nên sự phân định giữa hai cộng đồng

theo đạo và không theo đạo. Không uống rượu, không ăn tiết canh, người Hmông

theo đạo Tin lành cũng hạn chế tham dự các ngày lễ tết, dịp cưới xin, tang ma,…

nếu có chăng thì cũng chỉ ngồi với nhau ở một chỗ, chứ không thực sự tham gia

59

theo đúng nghĩa.

3.1.2. Trang phục

Do đặc thù cư trú của người Hmông khá thuần cư trong các làng bản ở vùng

cao, xa các trung tâm đô thị và sự giao lưu với các dân tộc khác có phần hạn chế,

nên tộc người Hmông vẫn bảo tồn khá bền vững ba yếu tố căn bản để nhận diện một

tộc người, đó là kiến trúc nhà ở, ngôn ngữ, trang phục.

Thông qua trang phục, nhất là trang phục của phụ nữ giúp cho bản sắc của

dân tộc được lưu giữ và quảng bá. Trang phục của người Hmông với sự đặc sắc của

trang phục phụ nữ thể hiện tính cách tộc người với kỹ thuật ghép vải, thêu thùa, vẽ

sáp ong,... Đặc biệt, trang phục Hmông không chỉ mang tính thẩm mĩ thuần tuý mà

nó còn chứa đựng đặc thù văn hoá truyền thống trong nhận thức về vũ trụ, thế giới

quan, nhân sinh quan, cảnh quan thiên nhiên cũng như tư tưởng tình cảm, mong ước

cuộc sống tốt đẹp và góp phần tạo nên sự hấp dẫn về văn hoá tộc người trong một

quốc gia đa dân tộc.

Trang phục của người Hmông gồm: Áo (nam, nữ); quần (nam)- váy (nữ);

mũ đội đầu (nam); khăn đội đầu (nữ); họa tiết trang trí hoa văn bằng thêu; họa tiết

bằng vẽ in hoa sáp ong; ghép vải tạo hoa văn; đính hạt. Màu sắc hoa văn của trang

phục Hmông gồm năm màu: chàm sẫm, tím than – đen, đỏ, vàng , xanh, trắng kết

hợp hài hòa với nhau tạo nên bộ trang phục rực rỡ.

Cách đây khoảng 20 năm, khi đến với vùng đồng bào Hmông ở Lào Cai,

nam nữ người Hmông từ già đến trẻ vẫn mang trên mình bộ trang phục truyền

thống. Kiểu trang phục này giúp cho những người dân tộc khác, các nhà Dân tộc

học dễ dàng nhận diện ra các nhóm Hmông khác nhau như: Hmông Đen, Hmông

Hoa, Hmông Xanh, Hmông Trắng.

Ở đây, tác giả luận án xin giới thiệu khái quát về trang phục của người

Hmông Đen và Hmông Hoa; đây là hai nhóm Hmông chiếm tỷ lệ lớn và có nét

riêng về văn hóa ở Lào Cai.

Người Hmông ở Sa Pa chiếm đa số là người Hmông Đen, bên cạnh đó vẫn

có những nhóm Hmông khác sống xen kẽ. Về trang phục của người Hmông Đen ở

60

Sa Pa, người đàn ông thường mặc quần màu đen hoặc xanh đen (màu chàm) giống

nhau, áo cánh ngắn tay bên ngoài khoác áo không tay kiểu như áo gilê có vạt dài

quá mông. Trên đầu đội một cái mũ bé, tròn, nông, ôm lấy đỉnh đầu trông như cái

mũ của Giáo hoàng, có chiếc đen tuyền, có chiếc còn viền một vòng thêu thổ cẩm.

Mũ của con trai còn được khâu thêm vào các dải vải màu hoặc các đồng tiền lủng

lẳng. Người phụ nữ cũng mặc đồ đen, trên đầu đội một chiếc khăn đen, vành thẳng

đứng như một cuộn giấy cao vượt đỉnh đầu. Bên ngoài là một chiếc áo khoác không

có tay, vạt dài gần tới gối như của đàn ông. Chiếc áo khoác này được lăn ép bằng

sáp ong, vì thế có màu đen ánh bạc. Để giữ gìn, nhiều khi người ta mặc lộn mặt trái

có màu trắng ra ngoài. Đặc biệt nhất là phụ nữ Hmông Sa Pa lại mặc quần ngắn

ngang đầu gối, không mặc váy. Họ cuốn xà cạp quanh bắp chân rất khéo bằng một

băng vải hẹp.

Người Hmông Hoa chiếm đa số trong tổng số người Hmông ở Lào Cai. Bên

cạnh những điểm chung trên trang phục của phụ nữ Hmông, khăn của phục nữ

Hmông Hoa có hai kiểu: một loại nhỏ hình chữ nhật khổ 60 cm x 40 cm thêu hoa

văn, trùm đầu và một loại khăn vành rộng quấn quanh đầu, vành ngoài của khăn có

thêu hoa văn. Áo phụ nữ Hmông Hoa xẻ nách, cổ cao trên vai và ngực có nẹp thêm

vải màu thêu hoa văn hình con ốc. Váy màu chàm xếp nếp bèo rộng. Thân váy in

hoa văn, gấu váy thêu và ghép nhiều họa tiết tạo thành các giải băng ngang. Phía

trước và phía sau váy là tạp dề được trang trí hoa văn rực rỡ. Thắt lưng được thêu

mầu, quấn ngang bụng. Xà cạp quấn chân có màu chàm nhưng dây buộc ngoài cũng

thêu hoa văn nhỏ li ti.

Trong những năm gần đây, những bộ trang phục nguyên bản được bà con

người Hmông sử dụng đang thưa vắng dần. Trong đó, trang phục của đàn ông người

Hmông đang báo động dấu hiệu mai một mạnh nhất. Hầu hết những người đàn ông

trong nhà chỉ sắm cho mình được một hoặc hai bộ quần áo để mặc trong lễ tết, hội

hè và thậm chí có người chỉ sắm cho mình được một cái quần may theo kiểu truyền

thống. Hình ảnh người đàn ông mặc quần áo sơ mi, áo phông khi tiết trời nắng ấm

hoặc mặc những chiếc áo khoác từ miền xuôi đưa lên trở thành phổ biến trong các

61

phiên chợ vùng cao.

Với phụ nữ Hmông, tuy sự mai một về trang phục không diễn ra mạnh mẽ

như ở nam giới, nhưng thực tế cũng đang ở mức cần xem xét. Nhiều phụ nữ có khi

chỉ còn mặc chiếc váy Hmông với áo phông hoặc áo sơ mi. Tuy nhiên, váy của

nhiều người không còn là váy do mình dệt nữa mà là váy nhập từ Trung Quốc cứng

đơ vì không được làm bằng sợi bông, không được thêu dệt hoa văn, in hoa văn bằng

sáp ong như truyền thống vốn có của nó. Không ít phụ nữ Hmông dù sống tận bản

xa trên đỉnh núi cũng đã vận trên mình cả một bộ quần áo sơ mi và những cô gái trẻ

cũng đã mặc quần bò, áo trắng.

Vào các làng bản của người Hmông mấy năm gần đây đều không thấy còn

những nương trồng cây lanh lấy sợi và những vườn chàm làm thuốc nhuộm. Hình

ảnh những phụ nữ Hmông vừa đi bộ, tay vừa se những sợi lanh giờ cũng thật hiếm

gặp trên những nẻo đường vùng cao. Nghề trồng bông dệt vải có thể coi như mai

một dần vì người Hmông bây giờ chỉ cần mua những tấm vải thô ở chợ về nhuộm,

in để may trang phục.

Nguyên nhân khiến cho trang phục của người Hmông có sự mai một nhanh

như vậy, trước hết là do có sự tác động của lưu thông hàng hoá trong, ngoài nước và

hội nhập về văn hoá, trong đó có văn hoá trang phục. Sự công phu trong việc dệt

may những bộ trang phục của người Hmông đã không giải quyết đủ nhu cầu ăn mặc

trong mỗi gia đình cũng khiến đồng bào bị lệ thuộc vào trang phục trên thị trường.

Bên cạnh đó, quan điểm về chuyện ăn mặc bắt đầu bộc lộ sự đơn giản hơn trong suy

nghĩ của nhiều người Hmông và tư tưởng bảo tồn những giá trị thẩm mỹ trong trang

phục cũng đã bắt đầu giảm sút. Trước sự mai một này, những người Hmông - bản

thân chủ thể văn hóa cần có sự “chấn chỉnh” kịp thời, cùng với đó là sự vào cuộc

của cơ quan chức năng về bảo tồn văn hóa nhằm giữ gìn sắc thái văn hóa trang phục

truyền thống của người Hmông.

Theo truyền thống, con trai Hmông vẫn mặc quần thụng, áo chẽn; con gái

vẫn mặc váy xòe với hoa văn truyền thống. Khi theo Tin Lành - một tôn giáo in

đậm lối sống phương Tây, người Hmông, nhất là đàn ông bắt đầu có sự thay đổi

62

trong việc mặc, họ thỉnh thoảng mặc vecton, thắt cà vạt giống như mục sư Tin

Lành. Thực ra, sự thay đổi trong trang phục của người Hmông không phải đợi đến

khi Tin Lành du nhập vào, mà từ rất lâu, mấy thập kỷ trước khi người Kinh di cư

lên miền núi. Tuy nhiên, khi Tin lành thâm nhập, sự thay đổi về mặc trong người

Hmông được thúc đẩy hơn.

Trên thực tế, đối với người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, trang phục

truyền thống vẫn được lưu giữ. Trong sinh hoạt thường ngày, người phụ nữ Hmông

sử dụng trang phục truyền thống nhiều hơn so với nam giới. Tất nhiên, theo thuyết

biến đổi văn hóa, trang phục truyền thống của người phụ nữ Hmông đã không còn

giữ được nguyên bản như trước đây. Phần váy được sự dụng trong cuộc sống lao

động thường nhật, còn phần áo thì đã có sự cách tân, dùng áo sơ mi, áo phông như

của người Kinh. Nam giới người Hmông trong khi lao động và sinh hoạt thì ít sử

dụng trang phục truyền thống, họ mặc giống người Kinh, quần âu và áo sơ mi.

Nhưng trong gia đình người Hmông vẫn có những bộ trang phục truyền thống và nó

vẫn được sử dụng trong những dịp lễ trọng, trong các buổi sinh hoạt tôn giáo, kể cả

phụ nữ cũng như đàn ông. Trong tư tưởng của những người Hmông theo Tin lành

vẫn có sự tự hào và ý thức gìn giữ trang phục truyền thống của dân tộc mình. Bằng

chứng là khi đưa ra lý do vì sao lựa chọn kiểu trang phục truyền thống trong việc tham

dự nghi lễ tôn giáo, cũng như vào các dịp quan trọng thì có 57,5% đưa ra lý do là vì đó là

trang phục của dân tộc mình (kết quả điều tra của tác giả luận án tại Lào Cai).

Biểu 3.1. Kiểu trang phục của người Hmông theo

63

Tin Lành mặc

Tất nhiên, khi đặt trong sự thay đổi về điều kiện sống như môi trường sinh

thái, sự hội nhập thì việc làm ra các trang phục theo cách thủ công truyền thống

có sự cách tân, rút ngắn, nguyên liệu có thể được nhập từ Trung Quốc, phần thêu

thủ công xuất hiện trong trang phục cũng ít đi, thường ở phần gấu váy. Nhưng ý

nghĩa của trang phục đối với tộc người Hmông vẫn là niềm tự hào cho dù họ

theo Tin Lành.

3.1.3. Nhà ở

Giống như những người Hmông ở miền núi phía Bắc, người Hmông ở tỉnh

Lào Cai cư trú chủ yếu ở vùng núi cao, ít có quan hệ với dân tộc khác. Họ thường

sống quần tụ với nhau thành thôn bản riêng, mỗi bản có khoảng 15-20 gia đình,

mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm. Các bản thường được lập trên các

sườn núi hay thung lũng, thuộc vào thế đất và điều kiện canh tác mà các bản của

người Hmông ở đây thường không giống nhau. Mỗi bản đều có tên gọi, ranh giới

riêng, tuy không phân chia rạch ròi và thường lấy các khe núi, khu rừng làm mốc.

Trong từng bản, các hộ gia đình thường ở rải rác, cách xa nhau và không theo một

trật tự nhất định.

Đồng bào Hmông rất chú trọng việc chọn đất làm nhà. Sau khi chọn được

đất tốt, đất lành, người ta tiến hành san nền, kè móng, trình tường nhà. Việc làm nhà

của người Hmông mang tính cộng đồng cao, khi một hộ làm nhà thì các hộ khác

đều dành thời gian đến giúp nhiều ngày từ việc san nền đến trình tường, làm khung,

lợp mái.

Hiện nay, ở tỉnh Lào Cai mặc dù kinh tế đã phát triển hơn, người Hmông có

cơ hội tiếp xúc với phương thức làm nhà của người Kinh, nhưng hầu như đồng bào

vẫn giữ cách làm nhà trình tường. Theo điều tra tại địa phương của tác giả luận án

tại Lào Cai, gần 100% các hộ gia đình người Hmông hiện nay đều duy trì mô hình

nhà ở truyền thống.

Để trình tường nhà, bà con phải làm những chiếc khuôn gỗ có chiều dài

64

1,5m, rộng 0,45-0,5m. Khi trình tường, người ta đổ đất đầy khuôn gỗ, dùng những

chiếc vồ nện chặt đất. Đất dùng để trình tường phải được loại bỏ sạch rễ cây, đá to,

cỏ rác. Khi tiến hành trình tường, người ta huy động vài chục thanh niên trai

tráng trong bản đến giúp; cứ như vậy khuôn nọ nối tiếp khuôn kia cho đến khi

hoàn thành.

Trước kia, người Hmông ở nhà kê đất, vách gỗ, nền đất, mái lợp bằng gỗ

hoặc mái gianh, nóc nhà hình mai rùa. Mô hình nhà gần tương tự như nhà gianh

vách đất của người Kinh dưới đồng bằng, gian buồng thường nằm ở phía bên trái để

ngủ và chứa lương thực, chiếc giường kê ở gian ngoài thường dành cho khách.

Nhà của người Hmông thường gồm có ba gian trở lên. Gian chính giữa giáp

vách hậu là nơi đặt ban thờ tổ tiên, gian này còn là nơi dành cho ăn uống hàng ngày.

Giữa nhà thường có một cái bếp lớn, mang ý nghĩa cộng đồng sâu sắc. Dù ngày

thường có hoặc không sử dụng, nhưng mỗi khi xuân về Tết đến, người Hmông đều

nhóm bếp này lên, mọi người trong gia đình quây quần, sum vầy sưởi ấm và cùng

chuẩn bị bữa ăn ngày Tết. Đặc biệt, mỗi khi nhà có khách, cái bếp này chính là nơi

để đón tiếp khách, vừa trò chuyện vừa sưởi ấm bên bếp lửa hồng. [Xem phục lục

ảnh số....]

Nhà của người Hmông bao giờ cũng có sàn gác ở bếp để cất giữ đồ đạc,

lương thực, thực phẩm. Ngô lúa mang từ nương về bao giờ cũng được cất lên gác.

Khói bếp sẽ làm khô và giữ cho không bị sâu mọt. Phong tục người Hmông không

cho con gái, đàn bà được ngủ trên gác. Khi đàn ông trong nhà đi vắng thì con dâu

không được phép lên gác.

Cửa chính ra vào nhà của người Hmông cũng phải chọn gỗ tốt để làm. Cửa

bao giờ cũng được mở vào phía trong. Cửa không cài bằng then sắt mà phải cài

bằng then gỗ. Người Hmông quan niệm không sử dụng bản lề, then cửa bằng sắt là

vì cửa mở ra đóng vào được xem là lòng bụng con người, nếu dùng các vật dụng

bằng sắt thì sẽ lạnh, nên tất cả các ngôi nhà của người Hmông luôn sử dụng sự mềm

mại của cây rừng.

Trong gia đình người Hmông, phòng ngủ của vợ chồng con cái được bố trí

riêng. Người Hmông ngủ bằng phản hoặc giát bằng tre mai đập dập, phù hợp với 65

ngôi nhà đất của người Hmông. Nơi ngủ của con dâu, em dâu được quy định rất

khắt khe, bố chồng và anh chồng không được vào; ngược lại, con dâu, em dâu cũng

không được vào chỗ ngủ của bố chồng, anh chồng. Ngày nay, nhiều nhà đã ngủ

bằng giường thay thế cho phản hoặc giát và nó trở thành vật dụng không thể thiếu

được của người Hmông vì nó gắn liền với việc ở nhà đất.

Việc làm nhà của người Hmông phải sử dụng rất nhiều gỗ cây rừng, việc

khai thác gỗ đã làm cho tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt và gây xói mòn đất. Vì

vậy, với chính sách bảo vệ rừng của Nhà nước, những năm gần đây, một số hộ gia

đình người Hmông đã chuyển sang loại hình nhà xây tường gạch, lợp mái ngói, nền

lát gạch. Tuy nhiên, mô hình nhà ở về cơ bản vẫn được duy trì như ngôi nhà truyền

thống. Loại nhà này gần tương tự như nhà cấp 4 của người Kinh dưới xuôi.

Trước kia, do tập quán du canh du cư nên người Hmông thường làm nhà ở

rất đơn giản và tính kiên cố không cao, đến nay người Hmông đó định cư được

khoảng 100 năm nay nên không có ý định dời nhà đi đâu nữa. Bên cạnh đó, với

những chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước về định canh, định cư;

về phát triển kinh tế - xã hội, ... nên đã có nhiều nhà của người Hmông xây dựng

kiên cố. Chính vì vậy, ngôi nhà cũng dần dần được thiết kế chắc chắn hơn, chất liệu

bền hơn để ở lâu dài, nhưng về kiến trúc, cách bài trí trong ngôi nhà thì về cơ bản

vẫn không thay đổi.

Người Hmông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian

hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn

lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà vách ván hay vách nứa,

mái tranh. Lương thực được cất trữ trên sàn gác, một số nơi có nhà kho chứa lương

thực ở ngay cạnh nhà.

Đối với người Hmông theo Tin lành tại Lào Cai, khi tách hộ và xây dựng

nhà mới thì vẫn có trường hợp kết hợp xây dựng với kiểu nhà của người Kinh, tức

66

là có xây gạch xi măng, lợp mái ngói.

Kiểu nhà truyền

Kiểu nhà kết hợp

thống

với dân tộc Kinh

Người Hmông giữ văn

40 phiếu,

31 phiếu, 77,5%

09 phiếu, 22,5%

hóa truyền thống

100%

Người Hmông theo Tin

40 phiếu,

15 phiếu, 37,5%

25 phiếu, 62,5%

Lành

100%

Bảng 3.1. Kiểu nhà của dân tộc Hmông

(Nguồn: Tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014)

Cũng giống như người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống, cách bố trí

các gian trong ngôi nhà của người Hmông theo Tin lành vẫn giữ mô hình cũ, khác

biệt duy nhất là gian giữa của người Hmông theo đạo Tin lành không có bàn thờ

cúng tổ tiên.

Tuy nhiên, việc xây dựng nhà kiên cố với những vật liệu hiện đại thường

được những hộ người Hmông theo Tin lành áp dụng nhiều hơn so với người Hmông

vẫn giữ văn hóa truyền thống. Tỷ lệ nhà xây dựng theo kiểu kết hợp giữa truyền

thống và cách thức xây dựng của người Kinh ở người Hmông theo Tin lành là

62,5%; và đây cũng là kiểu nhà mà người Hmông theo Tin lành thích ở. Còn nếu

xét về tổng thể khuôn viên thì nhà ở của người Hmông theo đạo sạch sẽ, vệ sinh và

việc bố trí các công trình liên quan như truồng heo, truồng bò hợp lý hơn.

3.2. Văn hóa xã hội

3.2.1. Mối quan hệ truyền thống của người Hmông ở Lào Cai

* Đặc điểm của các mối quan hệ truyền thống

Lịch sử của người Hmông gắn với các cuộc thiên di, từ chỗ là một tộc

người có địa bàn cư trú, có quốc gia riêng, có thiết chế xã hội riêng ở miền Nam

Trung Quốc, đến thời nhà Hán, người Hmông đã di cư tới nhiều nơi, trong đó có

Việt Nam. Người Hmông đến Việt Nam muộn hơn so với nhiều tộc người khác,

cách đây khoảng 300 năm, khi mà sự phân bố các tộc người đã ổn định. Do vậy,

người Hmông ở Việt Nam có địa vực cư trú trên vùng rẻo cao, điều này ảnh hưởng

67

đến hoạt động sinh kế của họ. Trong bối cảnh đó, người Hmông không thể duy trì

được các thiết chế xã hội lớn như những mường của người Thái và người Mường,

mà thay vào đó, họ đề cao các thiết chế xã hội có quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, cái làm

nên sức mạnh của tộc người Hmông chính là tâm thức - ý thức tộc người, mà một

phần được thể hiện trong thiết chế xã hội truyền thống với sự liên kết của các mối

quan hệ điển hình như: quan hệ gia đình, quan hệ dòng họ, quan hệ cộng đồng.

- Mối quan hệ gia đình chi phối bởi yếu tố phụ quyền

Xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh tế cũng như đặc trưng văn hóa tộc

người, xã hội truyền thống của người Hmông là xã hội phụ quyền với sự đề cao vai

trò, quyền lợi và trách nhiệm của người đàn ông đã tạo nên một cấu trúc xã hội

thống nhất và được xây dựng trên cơ sở gia đình – hạt nhân cơ bản. Theo quan niệm

của người Hmông, một gia đình phải có hai người trở lên, tức là phải có vợ và

chồng; thông thường mỗi gia đình người Hmông có hai thế hệ cùng chung sống, cá

biệt cũng có ba, bốn thế hệ với nhiều cặp vợ chồng.

Bên cạnh quan hệ vợ chồng trong gia đình, mối quan hệ anh em cũng rất

được quan tâm. Theo quan niệm của người Hmông, quan hệ anh em đều phải theo

tôn ti trật tự, em nghe theo quyết định của anh, người anh phải thương yêu đùm bọc,

giúp đỡ em mình.

- Dòng họ là nền tảng của xã hội Hmông truyền thống và hiện nay.

Trong thiết chế xã hội truyền thống cũng như hiện nay, quan hệ dòng họ là

một đặc điểm nổi bật của xã hội Hmông. Dòng họ có thể bao gồm nhiều hộ gia đình

cư trú ở các khu vực xa nhau, nhưng họ đều coi nhau là anh em cùng một ông tổ

sinh ra, được gọi là dòng họ ở cấp độ rộng. Ở cấp độ hẹp, dòng họ là một gia đình

con cháu gồm 3 đến 5 đời, cố kết cộng đồng huyết thống theo hệ cha.

Trong dòng họ của người Hmông chứa đựng hai phạm trù cố kết như sau:

(1). Cố kết rộng: bao gồm tất cả những người cùng họ không phân biệt người đó cư

trú ở đâu. Theo cách giải thích của người Hmông, đã cùng một dòng họ đều là anh

em. Trong xã hội của người Hmông, những người có chung một ông tổ, cùng tộc họ

đều nhận nhau là anh em. Giữa anh em có sự giúp đỡ, tương trợ và gắn bó mật thiết

68

với nhau. Sự cố kết rộng của một dòng họ, không tính theo các tiêu chí phả hệ mà

chỉ cần có tên họ và điều kiêng kỵ. (2). Cố kết hẹp: Trong một bản người Hmông,

thường có vài dòng họ cư trú. Mỗi dòng họ được xem như một đơn vị cố kết cộng

đồng theo dòng cha. Tiêu chuẩn để nhận ra dòng họ là các vị tổ tiên mà dòng họ thờ

phụng. Những người có quan hệ dòng họ trong phạm vi cố kết hẹp thường cư trú

thành từng cụm, từng chòm ở các bản. Nói cách khác, mỗi bản có những khu vực tụ

cư của từng dòng họ riêng. Trong mỗi dòng họ này thường có từ một chục tới vài

chục hộ gia đình gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống.

Cùng với các thành viên nam giới, phụ nữ cùng thế hệ, tuy đã đi lấy chồng,

là ma của dòng họ khác, nhưng vẫn có sự liên hệ chặt chẽ với dòng họ sinh ra mình

và dòng họ vẫn luôn có trách nhiệm quan tâm đến những người phụ nữ này.

Trong hầu hết các sự kiện từ việc tổ chức lao động sản xuất, quản lý đất

đai,cư trú, làm nhà hay di dịch cư, đến các nghi lễ trong chu kỳ đời người như sinh

nở, cưới xin, tang ma; trong các nghi lễ như lễ cúng ma cửa, ma nhà, ma buồng; lễ

cúng dòng họ (thi su, sầu su), lễ hội Gầu tào (tsang taox – cầu tự),… dòng họ luôn

thể hiện sức mạnh vô hình của mình, là công cụ hữu hiệu trong quản lý, điều chỉnh

các mối quan hệ thông qua luật tục, và là cơ sở, yếu tố then chốt trong việc bảo tồn,

làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa tộc người.

- Mối quan hệ giữa các dòng họ tạo nên ý thức cố kết cộng đồng của tộc

người Hmông

Trước đây, mỗi dòng họ người Hmông ở Lào Cai thường cư trú trong một

bản hoặc một phần của bản.

Bản người Hmông là một tổ chức xã hội cơ sở bao gồm một số nóc nhà, gọi

là “giao”. Mỗi giao đều có tên riêng, thường được gọi theo tên của dòng họ có công

lập bản đầu tiên hoặc gọi theo đặc điểm địa lý tự nhiên (đó là tên về đặc điểm núi,

suối, rừng cây, đặc điểm đất) [78, tr. 31].

Sau một thời gian phát triển, do sự gia tăng dân số, quan hệ hôn nhân, di

dịch cư,… thì tính chất cư trú đan xen các dòng họ thay thế dần tính biệt lập của

dòng họ, do đó, một bản có từ hai, ba dòng họ trở lên cùng sinh sống là điều tất yếu.

69

Trong mối quan hệ giữa các dòng họ tại một bản thường là quan hệ giữa một bên là

một dòng họ lớn với một bên là các dòng họ có quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên, các gia

đình cùng một dòng họ thường cư trú tập trung với nhau thành từng cụm, chứ

không có sự xen kẽ giữa các gia đình khác dòng họ. Nhưng thực chất giữa các khu

vực gia đình cư trú theo dòng họ như vậy hoàn toàn không có ranh giới cụ thể, hay

cũng không có sự phân định đất đai rõ ràng giữa các bản với nhau, các ranh giới chỉ

mang tính ước lệ. Nhìn chung, mối quan hệ giữa các dòng họ với nhau, từ dòng họ

ít người, dòng họ đông người, dòng họ cư trú lâu đời, dòng họ mới di cư đến luôn

hòa thuận, thân thiện, rất khó xảy ra mâu thuẫn.

Sự thống nhất trong mối quan hệ làng bản giữa các dòng họ có thể giải

thích như sau [71; tr. 82]:

Thứ nhất, đi từ lịch sử tộc người và địa vực cư trú, điều kiện sinh sống của

người Hmông ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu, buộc tộc người này phải xây dựng

một mối quan hệ cộng đồng đoàn kết để tồn tại và phát triển. Sự đoàn kết ở đây

không chỉ dừng lại trong dòng họ mà còn là đoàn kết của các dòng họ trong cùng

khu vực sinh sống và trong cả cộng đồng dân tộc Hmông.

Thứ hai, xét về mặt sản xuất kinh tế, người Hmông có hình thức canh tác

xâm canh. Mỗi gia đình đều có quyền phát nương, gieo trồng trên bất cứ khu rừng

nào, miễn là không vi phạm vào rừng cấm – rừng thiêng hay khu đất đã có chủ.

Người Hmông ở bản này có thể sang đốt nương làm rẫy ở bản khác, miễn là không

vi phạm luật tục của cộng đồng. Vì vậy, ở người Hmông không xuất hiện yếu tố tập

thể, của công, không hình thành hình thức sản xuất tập thể và chính vì thế, đây cũng

là một trong những nguyên nhân tạo nên sự hòa thuận trong các mối quan hệ cộng

đồng làng bản của người Hmông.

Thứ ba, quan hệ hôn nhân trong bản hay giữa các bản đã dần hình thành nên

các mối liên hệ thông gia của các gia đình và dòng họ. Trong cùng một khu vực

sinh sống, quan hệ thông gia giữa các dòng họ vừa nhằm đảm bảo không xảy ra hôn

nhân cận huyết, vừa để củng cố tình thân hữu, tạo nên sức mạnh cộng đồng. Theo

quan niệm của người Hmông, đã là thông gia thì phải có trách nhiệm giúp đỡ,

70

thương yêu, đoàn kết với nhau, cùng nhau giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Ví

như, trong việc tổ chức tang lễ thì người thầy chỉ đường (tơư cêr), thầy khèn (txir

kênhx), thầy trống (txir đruôl), thầy sáo (txir sul), rồi người chủ trì đám tang (shông

ca),… bắt buộc phải mời người ở dòng họ khác giúp đỡ, lúc đó thì các gia đình

thông gia sẽ đứng ra giúp.

Như vậy, với mối quan hệ cộng đồng được thể hiện trong tổ chức bản tại một

vùng hay giữa các vùng với nhau của người Hmông là yếu tố gắn kết ý thức tộc người.

Điều này tạo nên sức mạnh cộng đồng, ý chí của người Hmông để đến tận ngày nay tộc

người Hmông vẫn tồn tại và phát triển cùng với những bản sắc vốn có của mình.

* Vai trò của các mối quan hệ truyền thống

Mối quan hệ gia đình giữa vợ - chồng, anh - em, cha - con tạo nên một mối

liên kết chặt chẽ, góp phần tạo dựng nền tảng cho sự cố kết cộng đồng từ trong

huyết thống đến mối quan hệ dòng họ.

Gia đình người Hmông là gia đình một vợ một chồng bền vững, cư trú bên

nhà chồng. Hôn nhân ngoài dòng họ là nguyên tắc cơ bản. Những người cùng họ dù

xa đến mấy đời nếu “cùng ma” (cùng ông tổ) thì không được kết hôn với nhau. Đối

với người Hmông rất hiếm khi xảy ra tình trạng ly hôn; điều này đã tạo nên hạt

nhân vững chắc của sự ổn định trong gia đình và cộng đồng xã hội.

Quan hệ anh em của người Hmông không chỉ giới hạn trong huyết thống

mà còn mở rộng với quan niệm cùng họ, cùng ma tạo nên sự gắn kết chặt chẽ ở

cùng địa bàn cư trú, cũng như ở bất cứ nơi đâu, đây cũng chính là nguồn gốc cho

sức mạnh cộng đồng của người Hmông.

Dòng họ đóng vai trò quan trọng trong xã hội của người Hmông, góp phần

tạo nên sự cố kết trong cộng đồng, từ việc cưới xin, làm nhà mới tới việc lễ. Tuy là

công việc riêng của mỗi gia đình, nhưng toàn thể các thành viên trong dòng họ đều

có nghĩa vụ giúp đỡ, lo liệu, đóng góp. Không những thế, tổ chức dòng họ thực sự

là một cơ chế tự quản hiệu quả, nó vừa đảm bảo quản lý xã hội vừa tạo sự cố kết

cộng đồng một cách bền chặt.

Có thể nói, trong cấu trúc xã hội của người Hmông bao gồm gia đình, dòng

họ và cộng đồng làng bản. Trong đó, gia đình là đơn vị hạt nhân cùng với tổ chức

71

dòng họ đóng vai trò trong việc tăng cường cố kết cấu trúc xã hội của người Hmông

tại một địa vực cư trú nhất định, nhưng cũng mang tính hướng ngoại, mở rộng giao

lưu với các thành viên của các vùng khác. Các dòng họ là những sợi dây liên hệ vượt ra

khỏi phạm vi của bản để liên kết thắt chặt quan hệ đồng tộc, tạo nên sự cố kết tộc người

xuyên vùng, xuyên quốc gia, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Ý nghĩa xã hội lớn lao của dòng họ chính là ở chỗ: Dòng họ là một trong

những yếu tố quan trọng cấu thành nên xã hội bản và xã hội vùng ở người Hmông,

bởi mối quan hệ xã hội của bản, của vùng thực chất là mối quan hệ của các thành

viên cùng dòng họ và giữa các dòng họ trên cùng địa vực cư trú [71, tr.88-89].

Chính những ứng xử trong dòng họ, gia đình và cộng đồng làng bản của

người Hmông gắn với những nghi thức, phong tục tập quán đã tạo nên một nét

văn hóa riêng đặc trưng của người Hmông ở Việt Nam nói chung, ở tỉnh Lào Cai

nói riêng.

3.2.2. Mối quan hệ gia đình của người Hmông theo Tin Lành ở Lào Cai

Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay, đặc biệt là dưới tác động

của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, văn hóa của các tộc người, trong đó có văn

hóa của người Hmông ở Lào Cai cũng đã và đang chịu sự tác động và có những

biến đổi để thích ứng. Ngoài ra, văn hóa của người Hmông cũng chịu tác động bởi

văn hóa của tôn giáo, trong đó có đạo Tin lành.

3.2.2.1. Mối quan hệ giữa người vợ và người chồng

Mối quan hệ vợ chồng được thiết lập trên nền tảng của một cuộc hôn nhân,

khi người đàn ông và người phụ nữ cam kết sống chung với nhau, có trách nhiệm và

nghĩa vụ với nhau và với con cái.

Trong hôn nhân, người Hmông có quan niệm lấy vợ là để bổ sung thêm lực

lượng lao động cho gia đình. Cùng với chế độ phụ hệ, đặc trưng vai trò của dòng

họ, cho nên người con trai Hmông thường chủ động đi tìm vợ, người con gái luôn bị

động trong việc lựa chọn người bạn đời. Chính vì vậy, xét ở khía cạnh cụ thể, thì

người phụ nữ Hmông truyền thống không được coi trọng, và có tâm lý cam chịu với

số phận. Người chồng có quyền quyết định hầu hết các việc quan trọng trong gia

đình; người vợ bị hạn chế trong các quyết định, vai trò và vị thế mờ nhạt, ràng buộc

72

bởi nhiều phong tục tập quán không còn phù hợp trong bối cảnh xã hội hiện nay.

Tuy nhiên, trong hôn nhân của người Hmông có một tập tục là tục kéo vợ. Với tập

tục này, theo quan niệm của người Hmông, để tạo điều kiện cho người con gái có

cơ hội đồng ý hay từ chối cuộc hôn nhân, nâng cao vị thế của mình trong gia đình

nhà chồng, nếu người con gái được đi kéo về, chứng tỏ đây là người con gái tốt,

xứng đáng. Đa số việc chọn vợ, tìm vợ của người Hmông đều có sự tham gia và sự

quyết định của bố mẹ chàng trai; hiện tượng này trong những năm gần đây ở người

Hmông đã có thay đổi, nhưng chủ yếu cũng chỉ thấy ở nhóm người đã được đi học.

So sánh hôn nhân của người Hmông theo Tin lành tại các điểm nghiên cứu

cho thấy những khác biệt, chuyển biến cơ bản như.

Trường hợp thứ nhất, cả người trai và người gái đều theo Tin lành và cùng

đi đến hôn nhân.

Để tiến tới hôn nhân, đôi trai gái đã có sự tìm hiểu, thể hiện tình cảm xuất

phát từ hai phía. Theo Tin lành, khi hai người muốn tiến tới hôn nhân thì phải tự

nguyện đến với nhau, không bị ai ép buộc, dựa trên tinh thần tự nguyện như vậy thì

hai bên phải có trách nhiệm với nhau. Như vậy, có thể thấy rằng, với sự tự nguyện,

xuất phát từ tình cảm của đôi trai gái đã thể hiện rõ nét sự bình đẳng trong hôn

nhân, trong quan hệ vợ chồng, người phụ nữ được chủ động trong việc quyết định

số phận của mình.

Giàng A Chìa, sinh năm 1978, không theo Tin lành, trưởng thôn Lủ Khấu, xã Tả

Phìn, huyện Sa Pa: Đi kéo vợ là do hai bên bố mẹ thích. Bố mẹ nhà trai biết nhà gái

trước, nhưng phải giấu, đi thăm nhau để xem cách thức con gái, xem có ưng không, hiền

lành, chăm chỉ thì nhắm cho con trai nhà mình. Nếu ưng rồi thì tổ chức đội kéo vợ cho

con trai nhà mình.

Mục sư Chang A Cang (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội

Hội thánh Linh hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn): Đạo Tin

lành lấy sự yêu thương là lớn lao, hai người yêu nhau gửi thư tỏ tình, nhất trí, sau đó tìm

hiểu, yêu thực sự rồi mới nhờ mục sư đi hỏi, hay đưa người con gái đến gặp trực tiếp

mục sư để đến nhà gái.

(Nguồn: Tài liệu khảo sát thực địa của tác giả, năm 2014)

73

Hộp 4:

Ngoài ra, trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân, đôi trai gái được học lý

lẽ, được sự răn dạy theo Kinh thánh và phải hứa trước Chúa là yêu thương, gắn bó,

cùng nhau lao động sản xuất, nuôi dạy con cái. Trong quan hệ vợ chồng, Kinh thánh

cũng chỉ rõ, người chồng là người chủ mẫu mực, yêu thương và trung thành; người

vợ phải có nghĩa vụ đáp lại tình cảm đó. Quan niệm trong hôn nhân của Tin lành là

hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly.

Điều này cũng tương tự như trong văn hóa truyền thống của người Hmông

khi mong muốn cuộc sống gia đình của đôi trai gái được hòa thuận. Có khác chăng

là một bên phải có sự chứng nhận của Chúa, phải sống theo lời dạy của Kinh thánh;

còn một bên là sự chứng kiến của tổ tiên, dòng họ. Văn hóa Hmông truyền thống

hay văn hóa Tin lành có các cách thực hiện nghi lễ riêng của mình và tạo ra sự khác

biệt, được thể hiện rất rõ trong việc tổ chức đám cưới (phần này sẽ được phân tích ở

nghi lễ hôn nhân của người Hmông theo Tin lành).

Một điểm tích cực nữa của Tin lành trong quan hệ hôn nhân của người

Hmông là yêu cầu các cặp vợ chồng mới cưới phải có sự chứng nhận của pháp luật,

tức là phải có đăng ký kết hôn. Đây là một ưu điểm của Tin lành vì đạo này luôn

đưa yêu cầu đối với tín đồ của mình là sống và làm việc đúng pháp luật, coi trọng

việc tuân thủ luật pháp. Đây cũng là một điểm để bảo đảm cho quyền hợp pháp của

người phụ nữ khi có vấn đề xảy ra trong hôn nhân, và cũng là để khẳng định vị thế

của người phụ nữ Hmông trong xã hội.

Như vậy, trong mối quan hệ vợ chồng của người Hmông theo Tin lành xuất

phát từ tình cảm hai phía, có thời gian tìm hiểu nhất định, dựa trên sự tự nguyện,

không bị ép buộc, mọi hành vi ứng xử với nhau đều phải tuân thủ theo lời răn dạy

của Kinh Thánh dưới sự chứng giám của Chúa, nhưng bên cạnh đó có sự ràng buộc

của pháp luật. Quan hệ giữa vợ và chồng bình đẳng và bền chặt, quyền của người

phụ nữ được bảo đảm.

Trường hợp thứ hai, vợ hoặc chồng theo Tin lành. Với tình huống này, cách

74

ứng xử trong quan hệ vợ chồng đã có độ chênh khá lớn, đặc biệt xuất hiện xung đột

lớn về vị thế. Để tiến tới sự dân chủ và bình đẳng, đạo Tin lành đã có những quy

định trong quan hệ vợ chồng, làm giảm đi quyền của người đàn ông trong gia đình

(điều trái ngược hoàn toàn trong văn hóa truyền thống của người Hmông) như

không được đánh chửi vợ, không rượu chè hút sách, phải chí thú làm ăn,... Những

quy định này đem lại nhiều lợi ích cho người phụ nữ, giải tỏa tư tưởng và cuộc sống

thực tế của phụ nữ Hmông. Với việc theo Tin lành, người phụ nữ Hmông tự tin

trong việc đấu tranh bình quyền, phản kháng lại những cưỡng ép của các chế định

cổ hủ, lạc hậu, trọng nam khinh nữ. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu trong gia đình

chỉ có vợ theo Tin lành, chồng không theo đạo thường dẫn đến xung đột, xích mích

trong quan hệ vợ chồng.

Theo khảo sát tại điểm nghiên cứu, để hạn chế những xung đột trong quan

hệ giữa vợ theo Tin lành với chồng không theo đạo thì người vợ “làm công tác tư

tưởng”, giữ luôn vai trò truyền đạo, động viên chồng theo Tin lành cùng mình.

“Mưa dần thấm đất”, không ít trường hợp người vợ theo Tin lành trước, rồi kéo

chồng theo đạo cùng, tiến tới con cái, anh chị em trong nhà.

Quả thực, mối quan hệ vợ chồng của người Hmông theo Tin lành ở Lào

Cai, một mặt đem lại nhiều chuyển biến tích cực trong bình đẳng giới, vợ chồng

thương yêu, tôn trọng nhau và cùng sản xuất cải thiện kinh tế, góp phần ổn định xã

hội. Bên cạnh đó, việc một trong hai người, vợ hoặc chồng theo Tin lành cũng ít

nhiều gây ra những mâu thuẫn nhất định.

3.2.2.2. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình

Trong quan hệ gia đình truyền thống của người Hmông luôn duy trì một

tôn ti trật tự khá chặt chẽ từ người già đến trẻ nhỏ, luôn sống hòa thuận, coi trọng

những người cao tuổi. Gia đình là chỗ dựa về mặt tinh thần, khi trong nhà có người

ốm hay có sự vụ xảy ra thì mọi người phải tương trợ giúp đỡ nhau cả về tinh thần

lẫn vật chất. Chính những yếu tố này đã tạo nên không khí gắn kết, làm nên một gia

đình người Hmông có nhiều thế hệ cùng chung sống, đó cũng là đặc tính căn bản

75

trong gia đình của người Hmông.

Quan hệ gia đình người Hmông hiện nay ít nhiều đã có sự thay đổi, những

quy định và kiêng kỵ khắt khe trong gia đình dần được xóa bỏ. Trước đây, trong gia

đình người Hmông, con dâu không được ngồi ăn chung với bố chồng, nhất là khi có

khách, nhưng bây giờ khi theo Tin lành, con dâu đã có thể ngồi ăn chung mâm với

bố chồng và khách

Trong quan hệ gia đình, người Hmông theo đạo Tin lành có những thay đổi

nhất định. Quan hệ ứng xử trong gia đình, các thứ bậc trên dưới vẫn được duy trì

theo truyền thống. Tuy nhiên, trong gia đình, người Hmông theo Tin lành, sự bình

đẳng giữa các thành viên được tôn trọng, giảm dần sự áp đặt. Đặc biệt, người

Hmông theo Tin lành có tính tự lập, được giáo dục và đề cao. Bởi theo họ, Kinh

thánh dạy mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa.

Có thể nói, mối quan hệ gia đình của người Hmông theo tín ngưỡng truyền

thống cũng đã có thay đổi so với gia đình truyền thống trước đây do tác động của sự

vận động phát triển của xã hội. Những chuyển biến, đổi thay trong mối quan hệ này,

trước tiên là việc giảm đi những điều cấm kỵ mang tính khắt khe trong mối quan hệ

giữa bố mẹ chồng và con dâu, giữa chị em dâu với anh em trai bên nhà chồng; tính

bền vững trong gia đình vẫn luôn được khẳng định. Điều này cho thấy rằng, không

chỉ khi theo Tin lành thì các mối quan hệ trong gia đình mới được cải biến. Còn đối

với cộng đồng người Hmông theo Tin lành, ở đây có hai trường hợp xảy ra: một là,

tất cả các thành viên trong gia đình đều theo Tin lành, hai là trong gia đình có người

theo và người không theo Tin lành. Mỗi một trường hợp thì sẽ dẫn đến các cách ứng

xử khác nhau giữa các thành viên, tạo nên bầu không khí khác nhau, ảnh hưởng đến

tâm lý và các mối quan hệ xung quanh.

Ở Lào Cai, gần như 100% tất cả các thành viên trong gia đình Hmông theo

Tin lành và chỉ có rất ít trường hợp bố mẹ không theo đạo Tin lành trong khi các

76

con theo đạo.

Bảng 3.2 : Số hộ có thành viên theo đạo Tin lành

1

Bảo Thắng

713 hộ

6 hộ

2

Bắc Hà

1150

16

3

Sa Pa

1187

11

STT Huyện Ghi chú Số hộ 100% thành viên theo Tin lành Số hộ có một vài thành viên theo Tin lành

(Nguồn: Ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2014)

Trường hợp thứ nhất, cả gia đình cùng theo Tin lành đã góp phần làm cho

các mối quan hệ trong gia đình mang tính hiện đại, văn minh hơn. Các thành viên

trong gia đình bình đẳng, tôn trọng tự do riêng của mỗi người, và đề cao vai trò tự

quyết của mỗi cá nhân. Kinh thánh đã quy định làm con phải tôn thờ cha mẹ như

tôn thờ đấng sáng thế, phải thảo kính với cha mẹ, phải vâng lời cha mẹ theo ý Chúa

[47, tr.1256], bởi vì cha mẹ chính là người thực hiện lệnh truyền sinh sản của Thiên

Chúa. Về phần cha me, Kinh thánh ghi rằng, cha mẹ phải có nghĩa vụ giáo dục con

cái cho đến khi luật Chúa khắc ghi trong tâm hồn nó [47]. Cha mẹ phải là tấm

gương cho con noi theo, kiên trì, lắng nghe, tha thứ và tôn trọng tự do của con,

không được ép duyên con.

Vai trò của người phụ nữ trong mối quan hệ gia đình được đề cao, có tiếng

nói trong nhiều vấn đề của gia đình. Trong mối quan hệ này cần phải nhắc đến sự

góp mặt của người thứ ba, đó là Thiên Chúa. Ngoài việc các thành viên có trách

nhiệm, tôn trọng các mối quan hệ thứ bậc trong gia đình thì họ sẽ dành một phần

tình cảm, một phần chia sẻ với Thiên Chúa. Và Chúa như là một người luôn theo sát

để điều chỉnh cách ứng xử của họ. Cũng có nhiều trương hợp, mỗi người khi muốn

quyết định việc của cá nhân mình như con cái, vợ hoặc chồng, thì không bàn bạc

với các thành viên khác trong gia đình mà tự ý quyết định, nhưng khi được hỏi đến

thì đều nói là đã thông qua Thiên Chúa. Vô hình chung, điều này sẽ làm ảnh hưởng

ít nhiều đến mối quan hệ gia đình, tuy nhiên ảnh hưởng không lớn, vì Tin lành luôn

77

tôn trọng dân chủ và tự do cá nhân, và đây cũng là yếu tố thu hút tín đồ của Tin

lành, cho nên người Hmông theo Tin lành đặt trong mối quan hệ gia đình cũng đã

có sự điều chỉnh.

Trường hợp thứ hai, trong gia đình có người theo và người không theo Tin

lành. Thông thường trong những gia đình này có thế hệ thứ hai là con trai và con

dâu theo Tin lành, còn thế hệ thứ nhất là người cha và mẹ không theo đạo. Ở trường

hợp này rất hay xảy ra mâu thuẫn trong gia đình, bất đồng quan điểm từ cách suy

nghĩ làm ăn, đối xử với vợ con, đến việc thực hiện các nghi thức liên quan đến chu

kỳ vòng đời. Tuy nhiên, trường hợp thứ hai này không nhiều, vì nếu vợ chồng

người con theo đạo mà cha mẹ không theo thì thường có xu hướng tách hộ. Xét đến

cùng, tư duy cũ vẫn còn in đậm trong tâm thức người Hmông, nhất là những người

già; hai trường hợp có sự khác biệt căn bản ở niềm tin tín ngưỡng, một bên tin vào

Ma, một bên tin vào Chúa; niềm tin khác nhau này lại đưa tới cách ứng xử trái

chiều nhau, khó có thể dung hòa trong một mái nhà. Một lý do nữa cho thấy

trường hợp thứ hai này ít xảy ra là do việc xuất phát từ sự cố kết bền chặt của

cộng đồng theo huyết thống hay đồng tộc, chỉ cần người chủ nhà tin và theo Tin

lành thì các thành viên khác trong gia đình cũng sẽ chuyển đổi theo niềm tin và

thực hiện nghi lễ.

3.2.3. Quan hệ dòng họ

Dòng họ của người Hmông có vai trò quan trọng tạo nên sự liên kết xã hội

và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Thông thường người Hmông có nhiều dòng họ,

mỗi dòng họ lại có các chi, nhánh khác nhau. Người Hmông ở Lào Cai có khoảng

30 họ. Cấu trúc dòng họ truyền thống của người Hmông ở Lào Cai có hai phạm vi

quan hệ: (1). Quan hệ dòng họ của các thế hệ cùng huyết thống: dòng họ này có cấu

trúc từ 3 đến 4 thế hệ, có chung một ông tổ cụ thể. Mức độ quan hệ giữa cá thành

viên trong dòng họ khăng khít, chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của các quy định trong

gia phả của dòng họ như cùng kiêng kỵ, nghi lễ cúng bái của dòng họ, thường cư trú

gần nhau. Đứng đầu dòng họ là vị trưởng tộc, là người có uy tín, có hiểu biết về

những vấn đề của dòng họ; thường thay mặt các thành viên đưa ra các quyết định

78

giải quyết các mối quan hệ xã hội. (2). Quan hệ dòng họ của các thế hệ có chung

một tên họ: Những người có chung một tên họ đều coi nhau là anh em cùng họ hàng

cho dù không chung một ông tổ, không cùng địa bàn cư trú; khi nhận ra nhau không

phân biệt chủ khách; các thành viên trong cùng một dòng họ tuy ở xa, nhưng tuyệt

đối không có quan hệ hôn nhân với nhau. Ở đây không có vị trí trưởng tộc hay

trưởng họ như dòng họ cùng huyết thống; nhưng vẫn duy trì nguyên tắc ứng xử đối

với các thành viên.

Bảng 3.3: Tên Họ của người Hmông ở Lào Cai

STT

Ý nghĩa của Họ

Họ

Tổng số Họ

1

Lấy tên con vật

06

2

Lấy tên màu sắc

03

3

Lấy tên cây

02

4

Lấy tên đồ vật

02

5

>10

Chưa xác định nội hàm

Sùng (gấu), Hầu (khỉ), Lồ (lừa), Má (ngựa), Giàng (dê), Lùng (rồng). Hoàng (màu vàng), Lù (màu xanh), Hùng (màu đỏ) Thào (cây đào), Lý (cây mận) Cư (cái trống), Thèn (cái thùng) Mùa, Châu, Phàn, Tẩn, Tráng, Hạ, Vàng (Vương), Lầu, Vừ, Và... (Nguồn: Tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014)

Khi theo đạo Tin lành, quan hệ giữa các thành viên của dòng họ cùng huyết

thống có những thay đổi rõ rệt.

Thứ nhất, vị trí vai trò của dòng họ giảm đi đáng kể, nhất là vai trò của ông

trưởng họ. Tầm ảnh hưởng và quyền lực của ông trưởng họ bị phai nhạt dần, không

còn chi phối đời sống cộng đồng dòng họ. Vị trí người trưởng họ được thay thế

bằng Chúa, và người Mục sư, trưởng nhóm. Những người theo đạo trong dòng họ

không nghe theo chỉ dẫn, yêu cầu của trưởng họ trong các cách thức tổ chức nghi lễ

truyền thống.

Thứ hai, sự phân hóa giữa người theo Tin lành và người không theo Tin

lành trong cùng một dòng họ rất lớn. Các thành viên trong cùng dòng họ có sự cố

kết chặt chẽ, có các quy tắc ứng xử giữa các thành viên; nhưng khi theo Tin lành sẽ

79

dẫn đến phá vỡ các quy tắc ứng xử, gây nên các mâu thuẫn với các thành viên khác

trong dòng họ. Những người theo Tin lành sẽ bị tách ra khỏi dòng họ vì họ không

còn tuân theo những chuẩn mực đạo đức, ứng xử của dòng họ; họ phai nhạt dần ý

thức về nguồn gốc, tổ tiên, lịch sử dòng họ, phong tục tín ngưỡng dòng họ; và đứng

ngoài các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng truyền thống của dòng họ.

3.2.4. Mối quan hệ xã hội của cộng đồng người Hmông theo Tin lành

Như trên đã nói, quan hệ cộng đồng xã hội của người Hmông bắt nguồn từ

lịch sử của cộng đồng nên họ có sự cố kết gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong dòng họ

có sự cố kết rất chặt chẽ; trong gia đình có sự cấu kết gắn bó chặt chẽ của gia đình;

trong cộng đồng có sự cấu kết chặt chẽ của cộng đồng xã hội. Họ gắn bó chặt chẽ

với tính cộng đồng cao được thể hiện trong phong tục, truyền thống trong sinh hoạt

cộng đồng và trong cuộc sống hàng ngày, họ gắn bó giúp đỡ nhau như trách nhiệm

của bản thân.

Việc theo đạo Tin lành cũng giúp tạo ra mối quan hệ cố kết và sự giúp đỡ

lẫn nhau cả về vật chất và tinh thần rộng hơn của dòng họ. Từ đây hình thành nên

một cộng đồng mới, đó là cộng đồng người Hmông cùng theo Chúa, theo Tin lành.

Cộng đồng này liên kết với nhau vượt ra khỏi dòng họ, thôn bản; dần tạo nên một

cố kết cộng đồng mới mà sức mạnh đoàn kết không thua kém gì so với sự cố kết

dòng họ truyền thống của người Hmông.

Đặc biệt, với những người Hmông di cư tự do đã sử dụng Tin lành như một

phương tiện để gắn kết lại với nhau và trợ giúp lẫn nhau khi mà sự giúp đỡ của

người cùng họ, cùng ma không thể phát huy tác dụng. Họ giúp đỡ nhau trong sản

xuất, chia sẻ khó khăn, động viên hỗ trợ về cả vật chất và tinh thần.

Các tín đồ Tin lành người Hmông thường nói “đạo” quan trọng hơn “họ”.

Bởi vì, nếu theo quan hệ dòng họ thì chỉ có những người cùng họ, cùng ma mới có

thể giúp đỡ nhau hết mình và có thể chết trong nhà của nhau. Nhưng nếu theo

“đạo”, tất cả người Hmông bất kể thuộc họ nào đều là anh em, đều phải có trách

nhiệm quan tâm giúp đỡ nhau và đều có thể chết trong nhà của nhau. Những người

theo đạo ở thôn bản đều có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau, nhất là vào những dịp đặc

80

biệt như làm nhà mới, cưới xin, ma chay,… Ngoài ra, trong những trường hợp gặp

phải rủi ro như bị cháy nhà, bị tai nạn,… thì người theo đạo Tin lành bị nạn cũng

Tôn giáo tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong việc

tạo nên sự gắn bó của cộng đồng. Việc cùng chung đức tin và

nhất là cùng trong một thiết chế, tổ chức tôn giáo càng khiến con

người có cơ sở gắn bó [101, tr. 191].

Hỡi các con bé mọn, anh chị em đừng yêu thương nhau

bằng lời nói xuông, bằng miệng lưỡi bên ngoài, nhưng phải

thương yêu một cách thành thực và bằng việc làm [47, tr. 2274-

2275 ].

nhận được sự giúp đỡ của các tín đồ ở các thôn bản lân cận.

Mục sư Chang A Cang (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội

Hội thánh Linh hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn): Đối với

đám tang của một tín hữu Tin lành trong địa bàn, những người theo đạo cùng trong Hội

thánh tất cả phải đóng góp: góp 100.000 đ/ hộ, 5 kg gạo, củi. Khoảng 100 hộ, tổng cộng

là 10 triệu, giúp đỡ cho đám tang. Ngoài ra, trưởng nhóm có thư gứi các Hội thánh khác

để mời đến chia buồn, mỗi hộ đóng 10.000đ. Sau khi chi phí giúp cho lễ tang nếu còn

thừa thì đưa lại gia đình. Tất cả thu chi đều có thủ quỹ ghi chép rõ ràng.

Người chủ tọa làm lễ thì không lấy tiền, được coi là nghĩa vụ, công việc của

mình, lấy phục vụ là chính.

Giàng Thị Mú, thôn Xín Chải, Bảo Thắng: Theo Tin lành còn có quỹ hỗ trợ cho

người nghèo. Quỹ của Hội thánh nguồn thu từ việc dâng hiến. Sau khi đi sinh hoạt tôn

giáo xong sẽ góp 1 phần nhỏ, có thể 5.000đ, 10.000đ, tùy theo. Với ý nghĩa dâng thì được

phước, giúp đỡ cho người khó khăn thì Chúa và người ta giúp đỡ lại.

Hộp 5:

Tuy đã hình thành nên một cộng đồng tôn giáo riêng, nhưng họ vẫn giữ mối

quan hệ với cồng đồng người Hmông truyền thống. Thời kỳ đầu khi mới theo Tin

lành thì mâu thuẫn trong làng bản, dòng họ đã xảy ra. Nhưng theo tiến trình phát

triển, đặc biệt là khi Tin lành được công nhận để hoạt động đúng pháp luật thì sự

mâu thuẫn cũng dần được xóa nhòa. Theo quy luật tiếp biến văn hóa, văn hóa

81

Hmông truyền thống dần có sự thích ứng, tiếp nhận những yếu tố mới, trong đó có

văn hóa Tin lành. Có lẽ vì thế mà sự cẳng thẳng lúc đầu đã được gỡ bỏ. Trong các

cuộc trao đổi của tác giả luận án với cán bộ cơ sở, cũng như bản thân người Hmông

theo hay không theo Tin lành, họ đều cho rằng mâu thuẫn trong đời sống không còn

nặng nề như trước kia, mà thay vào đó là sự hòa hợp hơn.

Mã A Chớ, 50 tuổi, theo Tin lành năm 2008, xã Sa Pả, huyện SaPa, hiện là Chủ

tịch Hội đồng nhân dân xã: Trong các công việc như đám cưới, đám ma người theo hay

không theo Tin lành vẫn đến dự, và giúp đỡ làm nhà , đổi công lẫn nhau, theo đúng tinh

thần làng bản, không có sự phân biệt đối xử.

Hộp 6:

Trên thực tế, sâu xa trong bản chất thì sự tiếp thu ảnh hưởng của đạo Tin

lành hay sự cải đạo theo Tin lành đã dẫn tới sự phân chia người Hmông trong cùng

một chi họ, ngành họ và dòng họ thành hai nhóm khác biệt nhau: nhóm theo Tin

lành và nhóm vẫn giữ tín ngưỡng truyền thống. Những người Hmông theo Tin lành

thường ít giao tiếp với những người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống. Họ cũng

ít tham dự, nhất là tham dự ăn uống, các nghi lễ tổ chức theo tín ngưỡng truyền

thống. Mức độ quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau cả về vật chất và tinh thần giữa những

người theo và không theo Tin lành trong cùng dòng họ, nhất là vào các dịp đặc biệt

như hiếu hỉ cũng trở nên ít hơn so với người cùng tín ngưỡng. Đặc biệt, cũng có

không ít trường hợp mối quan hệ thân tộc của những người theo và không theo Tin

lành trở nên lỏng lẻo bởi những người theo Tin lành chỉ còn nhận ra mình có mối

quan hệ họ hàng với những người khác thông qua tên họ mà thôi.

Trong nội bộ cộng đồng Hmông, sự thay đổi theo Tin lành đã dẫn tới sự

phân chia và sự đối lập giữa nhóm những người Hmông theo tín ngưỡng truyền

thống và nhóm những người Hmông theo Tin lành. Cụ thể, trong một bản khi số

lượng người Hmông theo Tin lành còn ít thì họ thường bị những người đồng tộc

theo tín ngưỡng truyền thống tố cáo với chính quyền địa phương, cô lập và phân

biệt đối xử. Vì vậy, trong số họ đã có nhiều người, nhiều gia đình buộc phải rời bỏ

82

quê hương di cư tới những nơi có đông người đồng tộc, họ hàng theo Tin lành để

sinh sống. Ngược lại, khi số lượng người Hmông thay đổi theo Tin lành ở một thôn

bản trở nên áp đảo thì số lượng người Hmông còn giữ tín ngưỡng truyền thống trở

thành thiểu số và họ lại bị tẩy chay và cô lập. Kết quả là họ cũng buộc phải di cư đi

những nơi khác.

3.2.5 Vai trò của người phụ nữ Hmông

Gia đình của người Hmông truyền thống là gia đình nhỏ theo chế độ phụ

quyền, người đàn ông được quý trọng. Trong gia đình người Hmông, quyền hành

tập trung ở người chồng, người cha. Vợ phải phục tùng chồng, con cái phải phục

tùng cha. Người cha quyết định việc chi tiêu, mua bán, điều hành công việc hàng

ngày, cho đến các việc hệ trọng như tang ma, cưới xin, làm nhà. Người phụ nữ

Hmông luôn bận rộn lo toan mọi việc, nhưng công sức bỏ ra lại không được trân

trọng mà chỉ được coi là nghĩa vụ thực hiện.

Sự tiếp nhận đạo Tin lành cũng gây ra sự biến đổi trong mối quan hệ

giới. Cụ thể, khi theo Tin lành thì đàn ông phải bỏ rượu, bỏ thuốc lá, không được

đánh chửi vợ con, phải để cho vợ con nghỉ ngơi đi cầu nguyện tập trung vào

ngày Chủ nhật,…

Trong các gia đình theo đạo Tin lành, địa vị của người phụ nữ được đề cao

sánh ngang với người đàn ông. Họ không phải làm quần quật mà không được hưởng

thụ, không phải lo toan mọi việc, nhất là không phải lo thu vén để trả các món nợ do

chi phí quá lớn trong các cuộc tế lễ hay làm ma khô cho bố mẹ.

Theo đạo Tin lành, người phụ nữ Hmông được khẳng định vị trí của mình

trong xã hội, được tham gia quyết định các công việc của cộng đồng – điều mà

trước đây họ ít được tham dự. Người phụ nữ có cơ hội để giao tiếp, thể hiện mình

trước cộng đồng, từ đó người phụ nữ có cơ hội để thể hiện vẻ đẹp, sự duyên dáng

của mình. Họ cũng chăm chú hơn trong cách ứng xử và càng chăm chỉ, khéo léo

trong chức năng phụ nữ. Mặc dù vậy, người phụ nữ Hmông vẫn luôn thể hiện sự

khiêm nhường, kính trọng người đàn ông và các thành viên khác trong gia đình bởi

đó cũng là một phần bản sắc của người phụ nữ Hmông.

Nói tóm lại, người phụ nữ được giải phóng trong gia đình và xã hội của

83

người Hmông truyền thống, nhất là giải phóng các hủ tục đè nặng lên vai họ. Chính

điều này mà người phụ nữ Hmông “mê” đạo Tin lành, đến với đạo Tin lành sớm

hơn và đông hơn so với đàn ông.

Bảng 3.4: Số lượng phụ nữ/đàn ông Hmông theo Tin Lành ở 9 huyện

của Lào Cai (năm 2012)

STT Huyện

Hộ

Khẩu

Nam

Nữ

Ghi

chú

1

Bảo Yên

642

3834

2015

1819

2

Bắc Hà

1050

5959

2931

3028

3

Bát Xát

775

3953

1944

2009

4

Văn Bàn

103

619

291

328

5

Sa Pa

1053

5506

2692

2814

6

Bảo Thắng

700

3620

1729

1891

7

TP.Lào Cai

13

73

36

37

8

10

62

23

39

Mường Khương

9

SiMaCai

7

29

16

13

Tổng số

4353

11677

11978

23655

(Nguồn Ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2012)

Tỷ lệ nam và nữ người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai gần tương đương

nhau, nhưng tỷ lệ nam và nữ tham dự các lớp tập huấn về pháp luật thì nữ chỉ chiếm

4,16%; con số này cho thấy, mặc dù cũng có phụ nữ người Hmông theo đạo, nhưng

được tham gia tìm hiểu luật pháp tôn giáo, nâng cao trình độ vẫn ở mức độ thấp.

Tuy nhiên, điều này cũng là sự khẳng định địa vị của phụ nữ Hmông, tỷ lệ này trong

tương lai sẽ được cải thiện theo chiều hướng tăng lên. Lý do là, khi phỏng vấn

những người phụ nữ Hmông theo Tin lành, họ không ngần ngại chia sẻ rằng sẽ phấn

đấu học tập để trở thành Trưởng nhóm Tin lành, thậm chí làm cả Mục sư. Nhưng

thực tế tại Lào Cai hiện nay chưa có một Trưởng nhóm hay Mục sư nào là nữ; hiện

nay ở Lào Cai có một Mục sư (mục sư tự phong) là người Hmông theo hệ phái Tin

lành Việt Nam Miền Bắc và Liên hữu Cơ đốc không được công nhận. Chỉ có 01 tín

84

đồ thuộc hệ phái TLVNMB cử đi đào tạo mục sư (chưa học xong).

Bảng 3.5: Số lượng người Hmông tham dự lớp tập huấn Sinh hoạt đạo

Tin lành theo pháp luật ở Lào Cai (tháng 3/2013)

Nam Tổng Nữ

115 người 120 người 5 người

95,84 % 100% 4,16%

(Nguồn tài liệu điền dã của tác giả)

Biểu đồ 3.2. : Tỷ lệ nam/nữ người Hmông tham dự lớp tập

huấn sinh hoạt đạo Tin lành theoi pháp luật ở Lào Cai

tháng 3/2013

Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ Hmông theo Tin lành làm công tác xã hội như

Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ,… cũng không nhỏ và tham gia tích cực, đóng góp

tiếng nói của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.

Bảng 3.6 :Số lượng phụ nữ Hmông tham gia tổ chức xã hội

STT

Huyện

Ghi chú

Số phụ nữ Hmông tham gia tổ chức xã hội

Số phụ nữ Hmông theo Tin lành tham gia tổ chức xã hội

1 Bảo Thắng

2048

1344

đạt 65,6%

2 Bát Xát

3135

2018

đạt 64,41%

3 Bắc Hà

2933

1936

đạt 66%

(Nguồn: Ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2012)

85

Việc bình đẳng giới cũng như việc động viên người phụ nữ tham gia vào

công tác xã hội dù là theo đạo hay vẫn giữ văn hóa truyền thống cũng dễ vấp phải

những vấn đề tương tự nhau: xuất phát từ lý do sức khỏe, công việc gia đình, điều

kiện kinh tế,… và đại đa số trong sâu thẳm tư duy của cộng đồng và mỗi người

Hmông về vị trí, vai trò của phụ nữ Hmông là ở nhà, phục vụ chồng con. Tư tưởng

này vẫn ít nhiều chi phối trong những người Hmông theo Tin lành. Đó chính là

những rào cản đối với phụ nữ Hmông theo Tin lành và không theo đạo.

Chính vì vậy, để giảm dần sự bất bình đẳng giới, tăng cường vai trò của phụ

nữ Hmông cần được thực hiện chủ động, từng bước mới đạt được hiệu quả.

3.2.6. Vai trò của người có uy tín

Trong xã hội của người Hmông, có những người giữ vai trò quan trọng đó

là những người có uy tín trong cộng đồng như trưởng họ, người cầm quyền ma,

quyền khách, bà cô, thầy ma, ông cậu.

Về trưởng họ, trong dòng họ của người Hmông có một người giữ vai trò

chủ đạo, đó là trưởng họ (hâuxx pâuz-cái gốc). Vai trò của người trưởng họ rất lớn.

Trưởng họ là người am hiểu sâu sắc phong tục tập quán của người Hmông, đặc biệt

là tập tục lễ nghi của dòng họ mình. Ông ta là người thay mặt cả dòng họ đứng ra

giải quyết mọi tranh chấp trong nội bộ dòng họ và với người thuộc dòng họ khác và

thường chủ trì mọi nghi lễ cúng tế, ma chay, cưới hỏi của những người trong dòng

họ. Bên cạnh trưởng họ, ý kiến của người già cũng có sức nặng. Người già và

trưởng họ tạo thành một trụ cột vững chắc liên kết các thành viên khác trong

dòng họ.

Vai trò của người trưởng họ trong những sự kiện của đời người, gia đình

như cưới xin, tang ma,… rất quan trọng. Trưởng họ là trung tâm đoàn kết, là cầu

nối giữa các thành viên trong dòng họ với nhau và với dòng họ khác trong cộng

đồng người Hmông.

Khi nhà có việc cưới xin thì người chủ gia đình nhất thiết phải hỏi ý kiến

trưởng họ. Mọi thủ tục, lễ nghi, lễ vật,... từ khi ông mối đến nhà gái nói chuyện tới

86

việc dạm ngõ, ăn hỏi, cưới xin,... trưởng họ đều có trách nhiệm quán xuyến, lo toan.

Việc làm nhà cũng vậy, gia chủ nói dự định của mình với trưởng họ, trưởng

họ tới nhà xem xét, kiểm tra sự chuẩn bị nguyên vật liệu và chỉ bảo cách thức làm

nhà theo đúng truyền thống của người Hmông. Nếu thiếu nguyên vật liệu thì trưởng

họ vận động người trong dòng họ đóng góp. Việc làm nhà cần nhiều người giúp như

dựng nhà, lợp mái... lúc đó trưởng họ sẽ tới nhà trưởng bản và trưởng các dòng họ

khác nhờ giúp đỡ. Ở các bản Hmông thường có cảnh “một người làm nhà cả bản

đến giúp”.

Ngày nay, trong điều kiện mới, trưởng họ còn là người đóng vai trò tích cực

trong việc giúp đỡ các thành viên dòng họ tìm hướng phát triển mới phù hợp với

kinh tế thị trường, giúp nâng cao đời sống của cả dòng họ và bảo vệ nguồn tài

nguyên cộng đồng một cách bền vững.

Người cầm quyền ma, quyền khách (Cho đaz khuô): là người rất am hiểu

các nghi lễ, cách thức làm ma của dòng họ và trực tiếp phụ trách những phần việc

liên quan đến tín ngưỡng của dòng họ mình. Người này còn được coi như một cố

vấn của trưởng họ trong việc quyết định những hoạt động liên quan đến đối ngoại.

Đây là người đảm nhận chức năng hoạt động tín ngưỡng của dòng họ.

Bà cô cũng là người có tiếng nói quan trọng trong nhiều mặt đời sống của

dòng họ. Một người phụ nữ có thể được bầu hoặc suy tôn làm bà cô dòng họ phải có

những tiêu chuẩn như: có gia đình, con và cháu; cần cù lao động, gương mẫu trong

sinh hoạt; có trách nhiệm chăm lo, giúp đỡ mọi người; am hiểu phong tục tập quán

và những quy định của dòng họ. Mặc dù khi đi lấy chồng, Bà cô trở thành người

nhà chồng và thuộc ma nhà chồng, song vẫn có trách nhiệm đối với con cháu của

anh, em trai mình. Bà cô còn là nhân vật có trách nhiệm giám sát các thành viên

trong dòng họ thực hiện các quy định của luật tục.

Thầy ma (Txikayđa) là người chuyên đảm trách các công việc liên quan đến

cúng ma, kể cả ma nhà, ma người chết. Những người này gắn bó với công việc

dòng họ của mình và không đi làm cho những dòng họ khác. Mỗi họ tộc có một

87

hoặc vài thầy ma chuyên phục vụ cúng bái của dòng họ.

Ông cậu (Tsi đangz) trách nhiệm về cơ bản là giống với vai trò của bà cô.

Trong việc hôn nhân, vai trò hay quyền quyết định của ông cậu không bằng bà cô.

Ngược lại, trong ma chay, uy tín của ông cậu thường lớn hơn. Ông cậu cho ý kiến

quyết định về các vấn đề trong việc tang ma như thời gian để người chết trong nhà

là bao lâu, số lượng trâu, bò, lợn dùng trong đám ma, phân công nhiệm vụ cho các

thành viên dòng họ trong đám ma.

Như vậy, trong xã hội người Hmông, vai trò của những người có uy tín là

rất quan trọng, nó không chỉ đảm bảo chức năng quản lý mà còn là chất keo tạo nên

sự cố kết của những người cùng huyết thống.

Sự du nhập của Tin lành gây ra những xung đột giữa các thế hệ, cụ thể là

giữa thế hệ trẻ và thế hệ già. Những xung đột này thể hiện qua nghi lễ mà người

Hmông gọi là “pe tsiab”. Cụ thể, theo phong tục của người Hmông, vào ngày đầu

Năm mới hay vào ngày Tết cổ truyền của người Hmông, những người trẻ phải đi

thăm và cúi lạy những người già trong thôn bản. Nhưng sau khi theo Tin lành,

những người trẻ không cúi lạy bất cứ ai ngoài Chúa.

Với sự du nhập của đạo Tin lành, vai trò của già làng, trưởng bản bị giảm

sút, thậm chí mất đi, nhường chỗ cho “một tầng lớp mới” – người đứng đầu các

điểm nhóm Tin lành theo bản, hoặc là Mục sư, Truyền đạo; những người tích cực

truyền đạo, mà tuổi đời hầu hết là thanh niên, trung niên và tầng lớp thanh niên chịu

ảnh hưởng của Tin lành. Những người này đã coi nhẹ ý thức tiếp nhận thuần phong

mỹ tục truyền thống mà cha ông muốn truyền lại. Lớp người cao tuổi, già làng,

trưởng bản, trưởng họ không thể bảo ban, lưu truyền lại những giá trị văn hoá dân tộc

cho thế hệ sau, dẫn đến hậu quả là nền văn hoá truyền thống của dân tộc Hmông có

nguy cơ bị mai một nhanh, dòng chảy văn hoá dân tộc có thể bị đứt đoạn, đổi hướng.

3.3. Văn hóa tâm linh và tôn giáo của người Hmông theo Tin lành

3.3.1. Tín ngưỡng truyền thống trong đời sống người Hmông ở Lào Cai

Tín ngưỡng, tôn giáo là đời sống tâm linh, là niềm tin của con người vào thế

giới siêu nhiên (phi tự nhiên). Trên thực tế có nhiều loại hình tìn ngưỡng, tôn giáo

88

của các dân tộ, các vùng địa lý, văn hóa khác nhau. Do đặc điểm lịch sử, văn hóa và

tộc người, người Hmông sinh sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở Lào

Cai nói riêng đều có đời sống tín ngưỡng rất phong phú với nhiều loại hình thờ cúng

của tín ngưỡng đa thần mang tính nguyên thủy, đã được hình thành và lưu giữ từ rất

lâu. Tâm linh và tín ngưỡng truyền thống của người Hmông bao gồm những quan

niệm về vũ trụ, quan niệm về linh hồn, quan niệm về các loại ma, các hình thức thờ

cúng và các nghi lễ nông nghiệp [44].

Có thể phân loại các dạng thức trong tín ngưỡng truyền thống của người

Hmông ở Lào Cai như sau:

Bảng 3.7: Các dạng thức trong tín ngưỡng truyền thống của

Tín ngưỡng

truyền

Hệ thống ma nhà

Lễ thức dân gian

Vật linh giáo

Saman giáo

Thờ cúng tổ tiên

thống

Tô tem giáo

Ma nhà – Xưv cangz

Chu kỳ đời người

Lễ ăn ước – Nào xồng

Thần cộng đồng làng

Lễ hội Gầu Tào

Ma cột chính

Sinh đẻ

Ma cửa

Cưới xin

Ma buồng

Tang ma

Ma bếp lò

người Hmông

Các nghi lễ tín ngưỡng của người Hmông có liên quan đến sản xuất không

nhiều so với những tín ngưỡng liên quan đến sức khỏe, chữa bệnh và sinh hoạt.

Trong sản xuất chỉ cần cúng khi gieo hạt, thu hoạch; còn hầu như không có một

nghi lễ theo chu kỳ sản xuất, khi cúng cũng đơn giản, một mâm cơm, con gà. Hình

ảnh các vị thần nông nghiệp ít xuất hiện, lý do sản xuất của người Hmông chủ yếu

theo gia đình, ít liên quan đến tập thể, điều kiện tự nhiên ít phải chống chọi bão lụt,

thiên tai, do đó các nghi lễ liên quan đến sản xuất ít được hình thành và phát triển.

89

Ngược lại, do điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đời sống khó khăn, bệnh tật nhiều,

thiếu thuốc chữa bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe nên các nghi lễ liên quan đến chữa

bệnh, liên quan đến sinh hoạt hàng ngày lại phát triển mạnh.

Tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của người Hmông là đa thần. Người

Hmông thờ nhiều thần linh nhưng không lập một đền thờ nào. Nguyên nhân là họ

theo đa thần giáo, xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh; mặt khác theo quan

niệm của người Hmông, các thần đều bình đẳng, nên thần linh đã có mặt ở khắp

nơi, không thể lập đền thờ thần này mà không thờ thần khác. Cùng với đó là tập

quán du canh, du cư, sinh sống không ổn định, nên cách thờ cúng của họ cũng

đơn giản.

Bởi các quan niệm trên mà dân tộc Hmông dù ở đâu cũng luôn luôn tôn

trọng và thực hiện nghiêm ngặt các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, các vị thần trong nhà:

không được ăn cỗ trước khi báo cáo với tổ tiên một sự việc nào đó như ăn tết, cưới

sinh, bữa cơm đầu tiên của vụ thu hoạch hoạch (lễ mừng cơm mới), lễ đặt tên cho

trẻ sơ sinh,... Tất cả các nghi lễ đó, trước tiên chủ nhà phải đặt mâm cúng, khấn bái

gọi tổ tiên, điểm tên từng người đã khuất (ít nhất trong vòng ba đời trước đó) về để

hưởng lộc, sau đó chủ nhà và những người khác mới được ăn. Điều này vừa thể

hiện lòng biết ơn, kính trọng tổ tiên, đồng thời mong muốn không làm phật ý các

thần thánh để họ luôn che chở giúp người trần thế chống lại các thế lực "ma dữ",

bảo vệ cuộc sống bình yên của gia đình, dòng họ,... Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là

một biểu hiện của bản sắc văn hóa về với cội nguồn, tỏ lòng kính trọng và biết ơn

đối với tổ tiên, luôn coi tổ tiên là người chứng giám tối cao, là nguồn sức mạnh cho

sự trường tồn, phát triển của con cháu.

Những nét đặc trưng riêng có trong lễ nghi thờ cúng tổ tiên, ma chay là yếu

tố rất quan trọng nhằm liên kết, ràng buộc các thành viên của dòng họ, đồng thời là

đặc điểm để phân biệt các nhánh của dòng họ hay dòng họ này với dòng họ khác

Tín ngưỡng dòng họ cũng có vai trò cố kết nhất định, thậm chí còn

là hạt nhân quan trọng trong tín ngưỡng cộng đồng... Tín ngưỡng

dòng họ của người Hmông như là cơ sở để các thành viên cùng

dòng tộc nhận biết và gắn bó với nhau, có trách nhiệm giúp đỡ và

bảo vệ nhau. [101, tr.192].

90

của người Hmông.

Ngày nay, việc thờ cúng tổ tiên dưới góc độ văn hóa, đạo lý vẫn còn ý nghĩa

duy trì, gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc Hmông, củng cố ý

thức cộng đồng. Tuy nhiên, ở các nghi lễ của người Hmông truyền thống có thể

thấy nhiều thủ tục rườm rà, thậm chí tốn kém, nhiều bài cúng khó, nhiều nghi lễ còn

mang nặng tính hủ tục không còn phù hợp với nếp sống mới, trong đó đáng kể nhất

là sự rườm rà đến tốn kém về sức lực, thì giờ và tiền của. Dưới tác động của nhiều

yếu tố, từ yếu tố nội sinh như tâm lý tộc người, sự mất dần uy tín của tín ngưỡng

truyền thống đến yếu tố khách quan như toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học,

tiếp xúc các luồng tư tưởng mới, trong đó có Tin Lành thì tín ngưỡng truyền thống

của người Hmông đã có sự chuyển biến, thay đổi nhất định.

3.3.2. Sự biến đổi tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông theo Tin lành ở

tỉnh Lào Cai

Cải đạo (conversion) là thuật ngữ dùng để biểu thị quá trình thay đổi căn

bản niềm tin tôn giáo của một người (Southard, 1992:9). Cải đạo là một hình thức

thay đổi cao nhất của đời người trong đó người ta từ bỏ truyền thống tôn giáo chính

của mình để chuyển sang một đức tin khác. Đó là sự thay đổi cả thế giới quan chứ

không đơn giản chỉ là định hướng cá nhân.

Việc chuyển sang đạo Tin lành của người Hmông ở Lào Cai vừa có thể hiểu

là Biến đổi tín ngưỡng tôn giáo hay thay đổi tín ngưỡng. Giữa biến đổi và thay đổi

có sự phân biệt về mức độ, một bên là sự chuyển dần dần, trong cái mới ta vẫn nhận

thấy bóng dáng của cái cũ - đó là biến đổi; còn việc cái cũ bị thay thế hoàn toàn trở

thành một cái mới - đó là thay đổi. Do vậy, trong việc nghiên cứu về văn hóa tín

ngưỡng việc sử dụng cố định thuật ngữ biến đổi hay thay đổi cần có sự linh hoạt tùy

vào mỗi thành tố. Với các nghi lễ cầu cúng trong đám cưới, đám ma, nhà mới,…

những gì liên quan đến tín ngưỡng thì sự thay đổi là rõ ràng. Đối với các thiết chế

xã hội truyền thống thì là biến đổi dần dần, ở đó vẫn có thể nhìn thấy những điểm

chung của văn hóa truyền thống với văn hóa Tin lành, khi cả hai luôn hướng con

91

người tới những giá trị tốt đẹp, cuộc sống hài hòa.

Những biến chuyển trong tôn giáo, tín ngưỡng của người Hmông theo

Tin lành:

Thứ nhất, chuyển từ thờ đa thần sang thờ nhất thần

Một đặc điểm chung nhất của các tôn giáo hiện đại giúp phân biệt rõ nhất

với tôn giáo nguyên thủy - tín ngưỡng dân gian chính là thờ nhất thần, mà tôn giáo

hiện đại còn được gọi là tôn giáo độc thần. Đây chính là điểm nhận thấy đầu tiên

trong sự biển đổi tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông từ việc tin, việc thờ nhiều

Ma đến việc chỉ tin, chỉ thờ một con Ma là Chúa - Giê su.

Khi những thành tố văn hóa là tín ngưỡng truyền thống, thì theo Tin lành

những thành tố đó đã thay đổi, tức là những dấu vết của các hình thức tín ngưỡng

truyền thống không còn. Từ đây hình thành nên một tiểu văn hóa (subcultures)4 đó

là văn hóa Hmông Tin Lành. Văn hóa Hmông theo Tin lành có sự đối lập với văn

hóa Hmông truyền thống, vì một bên là có niềm tin vào Chúa, một bên là niềm tin

vào Ma. Với việc đặt niềm tin vào Chúa hay Ma, sẽ tác động đến cách thực hành

nghi lễ, cách thức ứng xử khác nhau. Nếu miền tin vào Chúa sẽ thực hành nghi lễ

thờ phượng Chúa theo cách riêng, khác với việc cúng ma theo tín ngưỡng truyền

thống, mà điều này liên quan đến bản sắc văn hóa của tộc người Hmông được hình

thành và lưu giữ từ nhiều đời nay.

Theo văn hóa tâm linh truyền thống của người Hmông, quan niệm về vũ trụ

có hai thế giới cùng tồn tại là thế giới trên trời và thế giới trên mặt đất; bầu trời và

mặt đất là do bà Chầy và ông Chầy sinh ra và người Hmông sinh ra từ lòng đất. Khi

thay đổi sang đạo Tin lành, quan niệm về vũ trụ và nguồn gốc tộc người của người

Hmông đã khác hoàn toàn; dựa trên thế giới quan và nhân sinh quan của tôn giáo -

đạo Tin lành.

Quan niệm về linh hồn: đối với tâm linh truyền thống thì linh hồn có mối

liên hệ mật thiết với ông bà tổ tiên, điều đó chi phối đến nghi thức thờ cúng với

4 Nguyễn Văn Chính, Báo cáo tại Viện Dân tộc học, ngày 04/11/2013

92

những yếu tố văn hóa đặc sắc của người Hmông. Trong hệ thống tín ngưỡng truyền

thống của người Hmông, thờ cúng tổ tiên là hình thức cơ bản nhất. Thờ cúng tổ tiên

thể hiện trong quan niệm, nghi lễ, câu chuyện xung quanh tổ tiên dòng họ. Bên cạnh

đó, các thành viên trong gia đình, dòng họ gắn bó với nhau không những cùng tổ

tiên mà còn vì những quy định và nghi lễ thờ cúng đó. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên,

người Hmông còn thờ thần bản mệnh cộng đồng, dòng họ. Những nghi lễ liên quan

đến chu kỳ đời người cũng là những yếu tố mang đậm tín ngưỡng truyền thống. Tất

cả các nghi lễ này vừa là động lực tinh thần, vừa là chất keo cố kết mọi thành viên

trong gia đình, dòng họ và cộng đồng.

Khi theo Tin lành, quan niệm về linh hồn đã khác, linh hồn khi chết đi là về

với Chúa, được Chúa che chở, chính vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên đã bị xóa bỏ, thay

vào đó là việc cầu nguyện theo nghi thức tôn giáo. Cũng như vậy, quan niệm về các

loại ma và các hình thức cúng ma của người Hmông theo Tin lành đã không còn; tất

cả chỉ tập trung vào Chúa, chỉ có Chúa hiện diện trong tâm linh và niềm tin tôn

giáo mới; Chúa đã chiếm một vị trí độc tôn với quyền năng vô hạn đối với niềm

tin của họ.

Với người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, trong sinh hoạt tôn giáo, ngoài

những buổi đọc Kinh thánh và cầu nguyện tập thể (xem thêm mục 2.2.), người

Hmông còn cầu nguyện cả trong sinh hoạt hàng ngày như trước khi ăn cơm, trước

khi làm việc gì, khi gặp rủi ro trong cong việc,... Như vậy, mối liên hệ với Chúa

được duy trì ít nhất 3 lần trong một ngày (cầu nguyện trước bữa ăn), và diễn ra đều

đặn hàng ngày, dần thấm sâu vào trong tâm thức người Hmông. Và trong đời sống

tâm linh, hình ảnh Chúa gần gũi, thân thiện, mà vẫn mang tính chất siêu nhiên.

Niềm tin tôn giáo của người Hmông đối với đạo Tin lành còn được thể hiện

thông qua hệ thống giáo lý đơn giản, khuyên răn con người sống lương thiện và

được hiện thực hóa thông qua các bài kinh.

Nếu các nghi lễ thờ cúng trong tín ngưỡng truyền thống rất rườm rà, rắc rối,

tốn kém, nặng nề thì các nghi thức thờ cúng của đạo Tin lành được giảm lược, thậm

chí không phải tổ chức cúng bái linh đình. Theo kết quả khảo sát thực tế tại Lào

93

Cai, 100% các hộ theo Tin lành không có bàn thờ tổ tiên.

Bảng 3.8: Thay đổi trong tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông theo đạo

Tin lành

Tín ngưỡng truyền thống Tin vào Ma Thờ cúng Tổ tiên, các Ma, các

Đạo Tin lành Tin vào Chúa Thờ Chúa

Thần

Có bàn thờ Tổ tiên Tổ chức các ngày cúng giỗ, làm

Không có bàn thờ Tổ tiên Không làm cúng giỗ, không

1 2

ma khô

làm ma

3 4

Nghi thức thờ cúng cầu kỳ, rườm rà, không thống nhất, tùy theo các họ

Nghi thức thờ cúng đơn giản – cầu nguyện, có tính thống nhất theo quy định của tôn giáo

Vai trò của thầy cúng Saman

5

Vai trò của Chúa, Kinh thánh (có thể có sự hướng dẫn của Mục sư hay trưởng nhóm)

6

(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm2014)

Như vậy, khi theo đạo Tin lành đã làm thay đổi từ tín ngưỡng vật linh giáo,

đa thần nguyên thủy sang tôn giáo nhất thần, kéo theo đó là sự chuyển đổi từ chỗ

thực hành đức tin không thường xuyên, không có quy tắc sang thực hành thường

xuyên, có quy tắc. Các nghi thức trong sinh hoạt tâm linh cũng biến đổi sang nghi lễ

tôn giáo, với đặc trưng của đạo Tin lành là lấy tín đồ làm trọng. Các nghi lễ liên

quan tới chu kỳ đời người đểu cắt bỏ, hoặc được tổ chức đơn giản bằng việc cầu

nguyện với sự chứng giám của Chúa và có sự giúp đỡ của Mục sư hay Trưởng

nhóm. Người theo đạo Tin lành không lập bàn thờ, không thực hiện các ngày giỗ.

Thứ hai, những lễ hội truyền thống được thay thế bằng các buổi cầu nguyện

tập thể tại một địa điểm (nhà Trưởng nhóm, nhà nguyện hay nhà người dân) và các

ngày lễ trọng của tôn giáo – sinh hoạt tôn giáo.

Việc thay thế tín ngưỡng truyền thống bằng đức tin tôn giáo mới – đạo Tin

lành đã làm thay đổi những phong tục, tập quán đã có từ lâu đời, nhất là các lễ hội

truyền thống. Người Hmông có nhiều lễ hội dân gian tạo nên sự phong phú trong

94

sinh hoạt văn hóa, như:

Ý nghĩa

Thời gian tổ chức

Tên lễ, lễ hội Lễ Tạ ơn

1

Đầu năm

Thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha mẹ đã mất trong gia đình

2

Lễ Nào cống

(Naox côngz)

Quy ước cùng nhau thực hiện những quy định chung của cộng đồng vùng

Ngày Thìn tháng Giêng hoặc ngày mùng 06 tháng 6 âm lịch

Ngày Thìn tháng 2 hoặc

3

tháng 3 âm lịch

Lễ Nào sồng (Naox yôngx) – lễ ăn ước

Quy ước cùng nhau thực hiện những quy định chung của giao.

Lễ cúng

thần

Tùy vào thầy cúng lựa

4

xóm, thôn (tsưr)

chọn

Thần linh che chở và giúp dân bản làm ăn thuận lợi, cuộc sống bình yên.

Lễ hội Gầu tào

Khoảng từ mùng 02 đến

5

(Grâuk taox)

15 tháng giêng.

Gia chủ cầu con. Cộng đồng cầu được mùa. Trai gái trao duyên hẹn ước nên đôi vợ chồng.

(nếu tổ chức hàng năm thì lễ hội kéo dài ba ngày. Nếu ba năm tổ chức một lần thì kéo dài chín ngày)

Bảng 3.9. Lễ, lễ hội truyền thống của người Hmông

(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm2014)

Sau những công việc của cuộc sống thường nhật, tham gia lễ hội đã tạo điều

kiện cho người Hmông giao lưu, giải trí, sáng tạo, học hỏi lẫn nhau. Không những

thế, các lễ hội này còn lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình,

dòng họ, cộng đồng và tăng cường sự cố kết cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, các lễ hội

của người Hmông được tổ chức khá tốn kém về kinh tế, để tham gia các lễ hội

nhiều người phải đi vay mượn, phải tuân theo những quy tắc lễ nghi rườm rà nên đã

có nhiều người Hmông không tham dự.

Đối với người Hmông theo đạo Tin lành, 70% số người được hỏi trả lời là

không tham gia bất kỳ tổ chức lễ, lễ hội truyền thống, bỏ sinh hoạt văn hóa truyền

thống của gia đình, dòng họ, cộng đồng. Đây cũng là lý do tạo ra khoảng cách giữa

những người theo đạo và người không theo đạo, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa

họ. Đối với những người Hmông không theo đạo, họ khó chập nhận được việc

không tham gia các lễ hội truyền thống của dân tộc mình, họ cho rằng, như thế sẽ

95

làm phai nhạt đi bản sắc văn hóa của dân tộc, không tôn trọng văn hóa truyền thống.

Trong các lễ hội truyền thống thường sử dụng khèn, múa khèn mà khèn là

một trong những phương tiện để người Hmông giao tiếp với ông bà tổ tiên, với các

ma. Theo Tin lành tức là theo Chúa, tin vào Chúa; không tin vào Ma nhà, chính vì vậy

đây cũng là lý do mà người Hmông ít hoặc không tham dự các lễ hội truyền thống.

Bảng 3.10. Ứng xử của người Hmông theo đạo Tin lành với lễ hội

truyền thống

Có tham dự các lễ hội truyền thống 12 phiếu 30%

Không tham dự các lễ hội truyền thống 28 phiếu 70%

Tổng cộng 40 phiếu 100%

(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm 2013)

Người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai chỉ tập trung cầu nguyện tại nhà

nguyện vào thứ Năm và Chủ nhật hàng tuần. Đặc biệt, người Hmông theo Tin lành

ở Lào Cai rất hòa hứng tổ chức và tham gia các ngày lễ trọng của tôn giáo như ngày

Giáng sinh, Phục sinh.

Bảng 3.11. Các ngày lễ của người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai

STT

Ngày lễ

Ý nghĩa

Thời gian

Giáng sinh

Kỷ niệm ngày sinh

Ngày 25/12

1

của Chúa Giê su

Lễ Thương khó

Chúa Giê-su chịu

trước lễ Phục sinh 3

2

ngày

nạn

Lễ Phục sinh

Kỷ niệm ngày

3

Chúa Giê su sống

lại

Lễ Chúa Giê-su lên trời

sau lễ phục sinh 40 ngày

4

Lễ Ngũ tuần

Chúa Thánh linh

sau lễ Chúa Gie-su lên

5

hiện xuống

trời 10 ngày

Lễ ngày Chúa nhật

6

96

(Nguồn: Tư liệu điều tra thực địa của tác giả, năm 2013)

Thứ ba, những quy định của dòng họ, làng bản được thay thế bởi luật lệ

tôn giáo

Hầu hết các tộc người quản lý xã hội theo hình thức hẹp, thường giới hạn

trong một bản, một làng. Người Hmông cũng quản lý xã hội truyền thống theo hình

thức quản lý giao – làng. Giao của người Hmông ở tỉnh Lào Cai khá đa dạng, có tập

trung, có xen kẽ, có lẻ tẻ. Mỗi giao có từ một đến vài họ cùng sinh sống, dòng họ

nào đông hộ hoặc có khả năng kinh tế nổi trội hơn thì trưởng họ đó đứng đầu giao.

Giao của người Hmông có những quy ước điều hành với sự chỉ bảo, kiểm soát của

các già làng, Trưởng họ. Hình thức quản lý theo cách truyền thống này đôi lúc còn

mang tính áp đặt, buộc mọi người phải tuân theo; nhưng cũng trọng tình cảm và

trọng lời hứa.

Xã hội truyền thống của người Hmông có các quy ước (txux tenhv chei),

khoản ước (ntu xăngr txăngr), luật tục rất cụ thể, nghiêm ngặt và bắt buộc mọi

người phải thực hiện. Có thể nội dung của các quy ước, khoản ước của mỗi giao có

sự khác nhau, nhưng đều chung một mục đích là điều chỉnh lợi ích của cộng đồng,

duy trì trật tự xã hội. Các quy ước, khoản ước hay luật tục hầu như là bất thành văn,

nhưng mọi người đều tuân theo và được Trưởng họ, già làng nhắc nhở thực hiện.

Nếu ai vi phạm thì người đó sẽ bị phạt vạ nghiêm khắc để nêu gương cho những

người khác; thậm chí còn bị dân bản chê cười, xa lánh, nhất là tội ăn cắp, tội ngoại

tình và tội loạn luân [117, tr. 65].

Quy ước, khoản ước, luật tục trong xã hội truyền thống của người Hmông

đã góp phần tạo dựng nên một thiết chế bền vững, phát huy tính cố kết cộng đồng.

Tuy nhiên, với sự vận động và phát triển của xã hội hiện tại, việc mở rộng giao lưu

với thế giới mới, khoa học công nghệ,... nhất là một lượng người Hmông tiếp xúc

và theo đạo Tin lành đã tuân thủ luật lệ tôn giáo thay cho quy ước, khoản ước, luật

tục truyền thống.

Một trong những điều kiện để xác định tôn giáo là có luật lệ, mỗi một tôn

97

giáo đều xây dựng cho mình một hệ thống giáo luật chặt chẽ, quy định được làm

hay không được làm của tín đồ và đã là tín đồ tôn giáo thì tự nguyện chấp hành. Ý

thức trong thực hiện nghiêm túc các luật lệ của đạo Tin lành xuất phát từ niềm tin

của tín đồ, người Hmông theo đạo Tin lành tin rằng, làm theo gương của Chúa, yêu

Chúa, làm việc thiện tránh việc ác sẽ được ân sủng của Chúa và khi chết sẽ được lên

Thiên đường với Chúa. Chính niềm tin tôn giáo này đã điều chỉnh hành vi của tín

đồ và hướng họ đến những điều được quy định trong tôn giáo một cách tự thân nhất.

Luật lệ trong đạo Tin lành phát xuất từ Kinh Thánh, khi đưa ra những điều

khuyên răn cho tín đồ nên làm hoặc không nền làm, những điều cấm kỵ thì người

truyền đạo bao giờ cũng lấy dẫn chứng cụ thể trong Kinh thánh. Có thể tóm gọn luật

lệ trong Thập giới – mười điều răn của Thiên Chúa như sau [90]:

Thứ nhất, thờ phụng một đức Chúa trời và kính mến Người trên hết mọi sự.

Thứ hai, chớ kêu Chúa trời vô cớ.

Thứ ba, Giữ ngày Chúa nhật.

Thứ tư, thảo kính cha mẹ.

Thứ năm, chớ làm sự dâm dục.

Thứ bảy, chớ lấy của người.

Thứ tám, chớ làm chứng dối.

Thứ chín, chớ muốn vợ chồng người.

Thứ mười, chớ tham của người.

Trong mười điều răn của Chúa thì có bảy điều buộc con người phải tôn

trọng người khác, đầu tiên là hiếu thảo với cha mẹ, sau đó là không được làm những

việc ảnh hưởng đến người khác như không lấy đồ của người, không ham muốn vợ

chồng người, không nói dối. Thày ban cho chúng con một điều răn mới, là chúng

con phải yêu thương nhau. Thày đã yêu chúng con thế nào, chúng con phải yêu

Bên cạnh đó, người Hmông theo đạo Tin lành cụ thể hơn 10 điều răn

của Thiên Chúa như sau (Nguồn tư liệu điền dã của tác giả):

1, Yêu Chúa như yêu bố mẹ, yêu bố mẹ như yêu Chúa

98

nhau như vậy [47, tr. 1977].

2, Không được uống rượu, không ăn thịt chó, không ăn tiết canh

3, Không được yêu đương lung tung (không quan hệ tình dục trước

hôn nhân)

4, Có vợ (hoặc có chồng) thì không được yêu người khác (không

ngoại tình)

5, Không được trộm cắp

6, Không được đánh nhau, không được cãi nhau

7, Không được cờ bạc

8, Không được nghiện hút

9, Không được nói bậy, văng tục, không được nói xúc phạm người

khác, không hát dân ca

10, Không được cúng các loài ma, không bói toán.

Chính những điều Không này đã hình thành nên những ràng buộc của con

người trong xã hội, cộng đồng người Hmông theo đạo Tin lành, trở thành những

quy định, chuẩn mực trong lối sống dần thay thế các luật tục.

Thứ tư, các nghi thức trong chu kỳ vòng đời (sinh đẻ, cưới xin, ma chay),

làm nhà,... mang đặc sắc riêng của từng dòng họ, địa phương của người Hmông

thay thế bằng nghi thức tôn giáo mang tính thống nhất.

Trong đời sống con người, dù theo bất kỳ tín ngưỡng, tôn giáo nào thì việc

cưới xin và tang ma đều là những dấu ấn của cuộc đời, không chỉ liên quan đến cá

nhân mà liên quan đến cả cộng đồng. Mỗi loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đều có

những quan niệm và nghi thức riêng trong việc cưới xin và tang ma đã trở thành

những tập tục mang những nét văn hóa riêng. Cũng vì vậy, tín ngưỡng truyền thống

của người Hmông và đạo Tin lành có sự khác nhau trong quan niệm và nghi lễ về

cưới xin và tang ma. Đối với người Hmông, tang ma và cưới xin là những yếu tố

truyền thống mang nhiều tính cổ hủ, lạc hậu nhất.

Cưới xin và tang ma là hai hình thái thể hiện rõ nhất sự thay đổi trong tín

ngưỡng truyền thống sang tôn giáo mới, vì vậy tác giả luận án tập trung phân tích

99

hai hoạt động này để làm rõ vấn đề.

* Thay đổi trong thủ tục, nghi thức cưới xin

- Cưới xin theo phong tục truyền thống.

Trong cuộc sống đời thường, chuyện dựng vợ gả chồng gia đình nào, vùng

nào cũng đều thận trọng bởi phần lớn những đám cưới đều là một sự quyết định cho

cả cuộc đời mỗi con người,… Do đó người nào cũng coi việc cưới hỏi là một trong

những việc lớn và quan trọng của đời người. Cho dù mỗi vùng miền, mỗi dân tộc,

mỗi tôn giáo đều có những tập quán cưới hỏi khác nhau, nhưng ý nghĩa chủ đạo

trong việc cưới hỏi đều giống nhau.

Việc cưới hỏi ở vùng người Hmông nói chung và ở người Hmông Lào Cai

nói riêng không nằm ngoài suy nghĩ đó. Sự quan tâm của đồng bào còn sâu sắc hơn,

mỗi khi có đôi trai gái trẻ yêu nhau say đắm, thề thốt sẽ cùng xây dựng tổ ấm chung

sống đến “đầu bạc răng long”. Đối với người Hmông ở Lào Cai, khi đôi trai gái yêu

nhau và có thời gian tìm hiểu nhau vài ba năm tới lúc họ thực sự muốn tổ chức kết

hôn thành vợ thành chồng, người con trai thổ lộ ý định của mình với cha mẹ, và cha

mẹ tìm hiểu ý định của con trai qua những người bạn của con mình, bàn bạc với chú

bác cùng góp ý thận trọng tiến hành từng bước một.

Tục nắm bắt thông tin: Qua vài lần hội ý thống nhất, nhà trai cử người thân

thiết như bà cô, bà dì, hay chị gái, em gái của chàng trai, có khi là mẹ chàng trai lấy

cớ tới thăm thú họ hàng người thân ở làng nhà gái chơi với mục đích ngầm theo dõi

những hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, lối ứng xử giao tiếp của người con gái mà

con trai mình đã yêu. Ngoài ra còn thăm dò tin tức nhận xét đánh giá về đạo đức, lối

sống, tính tình của người con gái qua hàng xóm láng giềng ở bản nhà gái. Khi đã có

đầy đủ thông tin, bố của người con trai mời bác chú đến cùng nhận xét đánh giá,

cùng đưa ra nhận định chung: nếu như mọi người cùng chấp nhận thì bước tiếp theo

được tiến hành, còn nếu không chấp nhận thì buộc con trai từ bỏ ý định của mình.

Tục bói số vợ chồng: Trong phong tục cưới hỏi của người Hmông, tục bói

số hợp vợ, hợp chồng là một khâu hết sức quan trọng; việc làm này quyết định cho

100

sự thành hôn hay không của đôi trai gái trẻ. Qua khâu nắm bắt thông tin về người

con gái được người nhà trai chấp nhận thì nhà trai tiến hành làm thủ tục bói số để

đoán biết số mệnh của cô dâu tương lai và con trai nhà mình có hợp số mệnh

không? Có sống được cả đời tới khi già không?

Qua việc tìm hiểu nắm bắt thông tin và tục bói số vợ, chồng, nhà trai cảm

thấy thuận chiều thì các bước tổ chức sẽ được triển khai tiếp theo. Điều đặc biệt là

người Hmông không bao giờ được kết hôn với người cùng dòng họ.

Phong tục cưới xin của người Hmông được phân ra làm ba loại hình khác

nhau đó, là: Đại cưới, trung cưới, tiểu cưới.

Tục kéo vợ: Truyền thống người Hmông vốn rất tôn trọng nhau, nhất là

phái nam tôn trọng phái nữ gần như mẫu hệ, phụ chủ đã ăn sâu vào tiềm thức người

Hmông. Trong cuộc sống đời thường cái gì to cũng là của người mẹ, kể từ chức

quan, nhà cửa, ruộng nương,… Ngược lại người mẹ, người vợ rất thương người cha,

người chồng. Những hình ảnh người đàn ông say rượu nằm ngủ cạnh đường được

người phụ nữ cầm ô che nắng, tay dắt ngựa chở chồng về bản là một hình tượng đẹp

chỉ có ở người Hmông.

Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu nhau đắm đuối, từng thề thốt cùng

chung sống với nhau cả đời, nhưng lúc lấy nhau thật cũng phải tổ chức kéo thì cô

gái mới chịu về nhà chồng, không có cô gái nào tự bước chân về nhà chồng cả, ý

nghĩa chính của tục kéo vợ thể hiện sự danh giá của người con gái qua ba nghĩa

chính: (1). Ý cô gái không bị xã hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay theo con trai

một cách mù quáng và hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai; (2). Người con trai thực sự

cần lấy cô gái làm vợ thật với thiên chức của người mẹ mới tổ chức kéo vợ, thể hiện

thái độ rõ ràng cụ thể; (3). Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã hội và sự ngược

đãi sau này của người chồng và người nhà trai.

Tổ chức đám cưới của người Hmông truyền thống tại Lào Cai, xin đưa ra

101

lời của người trong cuộc.

Ông Mã A Chớ, 50 tuổi, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Sa Pả, huyện Sa Pa:

Khi bố mẹ người con trai nhắm được một cô gái, đã biết trước nhà cửa thì bố mẹ

sẽ dẫn con trai đi tìm con dâu. Khi thấy được thì 3 ngày sau sẽ cử người đến nhà người

con gái để xem thách cước là bao nhiêu. Rồi hai bên nội ngoại xem ngày nào tổ chức.

Thực ra không theo quy định thách cưới, nhà gái thách bao nhiêu thì tùy. Nhà

gái thường thách cưới cao với nhiều thứ nhưng phải có một tạ lợn và tiền mặt khoảng 40

đến 50 triệu đồng,... Bố cô dâu có nhiều anh em thì trong phần thách cưới có tính cả

phần chia cho anh em. Có trường hợp nhà gái thách cao quá, mà nhà trai bỏ cuộc thì nhà

trai phải làm cái lý rửa mặt cho nhà gái, chứ không phải bỏ trắng.

Nhà trai khi chuẩn bị đủ số lễ vật và tiền thách cưới thì tiến hành trao đổi ngày

tổ chức.

Phần lý để làm lễ rất phức tạp, người trẻ cũng khó có thể hiểu, những bài nói

mang tính ngụ ý, nội dung dài, thường phải mất một ngày, sau khi nói lý nói lẽ xong thì

mổ lợn ăn. Tổ chức tốn kém, uống nhiều rượu, lấy rượu làm lý , làm cho phần nội dung

lộn xộn, lòng vòng.

Còn về tục kéo vợ, có hai trường hợp, một là con trai dẫn nó về; hai là bắt về.

Nó thể hiện sự tôn trọng và giá trị, danh giá của người con gái. Khi đi kéo vợ thì người ta

phải xem ngày đẹp. Khi kéo vợ thì người con trai và người con gái đã biết và tìm hiểu

nhau. Ít trường hợp không biết gì về nhau. Và vẫn có trường hợp chỉ có bố mẹ hai bên đã

biết và ưng thuận.

Kéo về nhà 3 ngày sau thì cử một người mang rượu đi báo tin, sau 3 ngày nữa

thì cho người con gái mang xôi, trứng cùng 4 hoặc 5 người của nhà trai đưa về nhà lấy

quần áo mặc.

Tổ chức cưới có hai cách: Một là người mà có quan hệ rộng rãi với người Kinh,

Dao, Giáy thì tổ chức to, sắp xếp trật tự, tổ chức theo mâm, làm cỗ giống như người

Kinh. Hai là những người cổ truyền, chỉ có quan hệ trong cộng đồng, không có thay đổi,

tập trung nấu thắng cố và uống rượu rất nhiều.

Đám cưới diễn ra trong 2 ngày, hôm thứ nhất, nhà trai vào nhà gái, làm lý xong đến

đêm mới ăn, ngày thứ hai, đưa cô dâu về nhà trai, về sớm thì tổ chức ăn uống cảm ơn.

Người đến dự cũng mang đồ mừng đến: bát, chậu, tấm vải, quần,... nhà gái có

ghi và có sự giúp lại.

(Nguồn tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014 )

102

Hộp 6:

Như vậy, người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống rất quan tâm đến việc

cưới xin với nhiều nghi thức, nhưng vẫn ẩn chứa hủ tục, lạc hậu như tảo hôn, ăn

uống linh đình tốn kém, nhất là uống rất nhiều rượu, việc tổ chức rườm rà với nhiều

nghi thức.

+ Cưới xin khi theo đạo Tin Lành

Điều chung hết, khi theo đạo Tin lành, người Hmông tiếp cận quan niệm

hôn nhân theo lối hiện đại của đạo Tin lành, tổ chức đơn giản, không tốn kém. Đặc

biệt, người Hmông theo Tin Lành đã bỏ việc tảo hôn, thực hiện nghiêm túc chế độ

hôn nhân một vợ một chồng. Nghi lễ hôn nhân, ngoài việc đăng ký kết hôn được

chính quyền chấp nhận, còn có thêm nghi lễ tôn giáo. Nghi lễ tôn giáo được thực

hiện ở nhà thờ, nếu không có nhà thờ thì thực hiện ở nhà nhóm hay điểm nhóm- ở

một gia đình trong bản được mượn để nhóm làm lễ. Thực hiện nghi lễ hôn nhân

theo quan niệm của Tin lành là có sự chuẩn nhận của Thiên Chúa.

Việc thực hiện nghi lễ tôn giáo ở nhà thờ thì yêu cầu khá khắt khe. Đó là cô

dâu và chú rể phải thật sự thông hiểu giáo lý, luật lệ, lễ nghi; có lối sống đúng mực

theo quy định của Tin lành, không vi phạm luật pháp; đặc biệt là đôi bạn trẻ phải

giữ mình không có quan hệ trước khi tổ chức hôn lễ. Ngoài ra, về phía Hội thánh thì

cũng yêu cầu có sự đăng ký, chấp thuận của chính quyền. Để thực hiện một nghi lễ

hôn nhân tại nhà thờ khá tốn kém- vì ở Lào Cai chưa có nhà thờ nên phải đi xa,

chính vì vậy, việc tổ chức tại nhà thờ chưa thông dụng.

Trong hôn nhân của người Hmông truyền thống, người con trai và người

con gái không có nhiều cơ hội tìm hiểu nhau, thường phải thông qua bố mẹ. Nhà

trai đã biết và hiểu khá kỹ về nhà gái cũng như cô gái chuẩn bị làm vợ, rồi sau đó

mởi cử một đội đi để kéo vợ cho con trai. Còn đối với người Hmông theo Tin lành

thì việc đi đến hôn nhân hay không phải xuất phát tự sự tự nguyện của người con

trai và người con gái. Và người con trai và con gái phải có vật làm tin như thư từ để

chứng minh cho Chúa cũng như mọi người thấy được sự tìm hiểu kỹ càng và việc đi

đến hôn nhân là sự tự nguyện và dựa trên tình yêu, không bị ép buộc.

Cũng như hôn nhân của người Hmông truyền thống, hôn nhân của người

103

Hmông theo đạo Tin lành bền vững, ít có vụ ly hôn. Tuy nhiên, sự bền vũng trong

cuộc sống gia đình có sự khác nhau. Với hôn nhân truyền thống thì dù có sự bất

đồng giữa vợ và chồng thì người phụ nữ lại chọn sự cam chịu, chấp nhận để tránh

sự đổ vỡ. Còn đối với người Hmông theo Tin lành, sự bền vững trong cuộc sống gia

đình là do niềm tin tôn giáo vì họ cho rằng cuộc hôn nhân của mỗi gia đình Tin lành

là có sự chuẩn nhận của Thiên Chúa, đồng thời khi tổ chức cưới, họ nhận được

những lời khuyên răn của mục sư theo Kinh Thánh về nguyên tắc ứng xử, trách

nhiệm của vợ, của chồng với con cái, gia đình và sự thủy chung.

Về việc tổ chức đám cưới của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, xin

dẫn lời của Mục sư - người chủ tọa của hầu hết các đám cưới tại địa bàn nghiên cứu.

Mục sư Chang A Căng (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội Hội

thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn):

Tin lành lấy sự yêu thương là lớn lao, hai người yêu nhau gửi thư tỏ tình, nhất

trí, sau đó tìm hiểu, yêu thực sự rồi mới nhờ Mục sư đi hỏi, hay đưa người con trai gặp

trực tiếp mục sư để đến nhà gái hỏi. Ăn hỏi trực tiếp, hay đưa người con trai đến trực tiếp

gặp bố mẹ vợ, họ hàng của người con gái để hỏi. Đoàn hỏi thì không nhất thiết có bố mẹ

đi cùng. Nếu bên nhà gái nhất trí mới đặt lễ cưới, thời gian, địa điểm.

Đoàn đi ăn hỏi mời đại diện Hội thánh hai bên trai - gái. Người con trai sẽ nhờ

người đứng đầu một Hội thánh, con gái nhờ một Hội thánh khác. Người đứng đầu sẽ

thông tin cho nhau, hẹn ngày, thời gian, mục đích đến. Lấy thư để làm chứng, sau đó

người đứng đầu hỏi: Có thích lấy nhau không?, nếu ưng rồi thì đôi trai gái tự hứa với

nhau. Mục sư sẽ hỏi về hình thức cưới như tiền thách cưới, việc tổ chức ăn uống ...

Những điều này là do bên nhà gái quyết định.

Khi đi hỏi thì nhà trai mang theo 2 con gà, bánh kẹo, mấy lon bò húc. Nhất trí

rồi thì làm một bữa ăn với lễ vật mang theo.

Đối với mức thách cưới chung, không cho nhiều tiền quá, không như là bán con

đi. Mức thách cưới của người theo Tin lành là 10 triệu đồng.

Khi làm lễ cưới, không cúng ở nhà, chỉ làm lễ, với lời cầu nguyện của chủ tọa

Hội thánh (điểm nhóm).

Hôm cưới thì có đầy đủ bố mẹ. Trong hôm cưới, làm lễ theo phong tục của Tin

lành: Có cầu nguyện, hát Thánh ca, đeo nhẫn, người chủ lễ là Mục sư sẽ hỏi người con

104

Hộp 7:

trai, người con gái là quen nhau lâu chưa, tìm hiểu kỹ chưa, có gì làm tin. Lúc đó, đôi trai

giái sẽ lấy thư từ mà họ viết cho nhau để làm chứng. Người chủ tọa là mục sư sẽ hỏi cô

dâu chú rể hứa là yêu thương nhau và cùng nhau chung sống, làm ăn, nuôi dạy con cái;

hỏi bố mẹ chồng/vợ hứa có yêu thương con rể/ con dâu như con cái trong nhà không?;

hỏi người làm chứng là đã nghe được những lời hứa của đôi trai gái với nhau không. Sau

đó là lấy nhẫn làm bằng chứng. Mục sư cầu nguyện, chúc phước, từ bây giờ hai người là

vợ chồng.

Về tổ chức cỗ bàn: Gần giống như người Kinh và tùy theo điều kiện. Có nhiều

món, mỗi mâm sáu người. Có mổ lợn nhưng khi ăn không uống rượu, chỉ uống nước ngọt.

Nếu có người Hmông không theo đạo thì làm mâm riêng có rượu.

Thời gian tổ chức lễ cưới một ngày, khoảng cách từ hỏi đến cưới 10-15 ngày.

Nghi lễ đơn giản, không thiệt hại kinh tế đối với người nghèo. Tổng tiền thực hiện cưới là

khoảng 20 triệu đồng. Người dự có mang theo phong bì chúc mừng 50 ngàn đồng đến

100 ngàn đồng.

(Nguồn thực địa của tác giả, năm 2014)

Bảng 3.12. So sánh đám cưới của người Hmông theo Tin Lành và người

Hmông truyền thống

Truyền thống

Tin Lành

- Có tục Kéo vợ

- Không có Kéo vợ

- Có sự tham gia sắp đặt của bố mẹ, gia

- Dựa trên sự tự nguyện của người con trai

đình

và người con gái

- Làm lễ, làm lý cúng

- Cầu nguyện

- Múa khèn

- Hát Thánh ca

- Người chủ lễ là trưởng họ

- Người chủ lễ là mục sư hoặc trưởng

nhóm

- Tiền thách cưới là 30 – 45 triệu đồng

- Tiền thách cưới 10 triệu đồng

- Tổng tiền để tổ chức đám cưới là: 70

- Tổng tiền để tổ chức đám cưới là: 20 triệu

triệu đồng

đồng

- Sử dụng rượu trong đám cưới: khoảng

- Không sử dụng rượu bia, chỉ uống nước ngọt

100 lít

105

(Nguồn tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014).

Như vậy, việc cưới xin của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống và

người Hmông theo Tin lành có sự khác nhau căn bản, một bên rườm rà và tốn kém,

một bên đơn giản gọn nhẹ, ít tốn kém. Điều quan trọng của sự khác biệt đó là liên

quan đến tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, vẫn có điều tương đồng cần lưu ý và

phát huy là hai bên đều giáo dục việc xây dựng một gia đình hạnh phúc bền vững,

có cuộc sống no đủ, nuôi dậy con cái trưởng thành.

* Thay đổi trong thủ tục, nghi thức tang ma

+ Tang ma theo tín ngưỡng truyền thống

Từ xa xưa, người Hmông quan niệm rằng đám tang, đám dỗ được tổ tông

quy định tổ chức có lề có lối, có đầu việc lớn, đầu việc nhỏ khác nhau, nam có đầu

việc riêng của nam, nữ có đầu việc riêng của nữ.

Khi gia đình người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống có người chết, họ

sẽ bắn ba phát súng để báo tin cho dân bản biết. Tùy điều kiện mỗi gia đình quyết

định việc tang lễ, nhưng trước hết anh em phải thống nhất sau đó tắm rửa thay quần

áo cho người chết rồi đặt lên tấm ván thực hiện bài tang ca.

Trong đám ma của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống có Chủ ma,

Quan làng, Ban quản lý đời sống, Ban khèn trống. Có nhiều công việc phải thực

hiện và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Những đầu việc nhỏ chỉ đặt tên gọi là ông quản

như: quản súng, quản bếp (đầu bếp), quản lý củi đóm, quản lý bát đĩa, quản rượu,…

những đầu việc này là các đầu việc nhỏ do đàn ông đảm nhiệm.

Người ta đặt tên gọi các đầu việc của nữ giới là cây gốc, gồm có: Gốc cối

xay, Gốc cối giã, Gốc nấu cơm,… Tóm lại, có tất cả hơn một chục (mười bốn) loại

tên gọi đầu việc cả lớn nhỏ, trong đó những tên gọi đầu việc lớn, quan trọng có 5

tên gọi:

Ông Mủ là một tên gọi theo đầu việc quan trọng lớn nhất qua các đầu việc

khác trong đám tang. Trách nhiệm chính của ông Mủ là phải dạy (mách) cho linh

hồn người chết biết nguồn gốc sinh trời, sinh đất, đường lối đi theo tổ tiên về với

cõi âm, lên trên trời, trở lại trái đất, biết đường đi đầu thai, trở thành con người mới

sinh nở tại kiếp khác. Bài tang ca của ông Mủ không phân biệt nhóm Hmông, họ

106

Hmông mà sử dụng như nhau, phủ khắp đời sống dân tộc Hmông.

Ông Quan làng là tên gọi đầu việc quan trọng, xếp thứ hai sau ông Mủ. Ông

Quan làng là một vị đương chức tại bản do gia chủ mời. Trách nhiệm chính của ông

Quan làng không liên quan tới cúng khấn ma cho người chết, mà chủ yếu là giúp

cho gia chủ tránh không xảy ra chuyện gì bằng việc duy trì trật tự và giải quyết

những vấn đề xích mích hay những người đến dự đám tang lợi dụng rượu để gây gổ

mọi chuyện có thể ảnh hưởng tới đám tang hay những người đến dự đám tang.

Ông Chủ ma là tên gọi đầu việc của người quan trọng thứ ba, sếp sát gần

sau ông Mủ, bên dưới ông Quan làng. Ông Chủ ma là người có trách nhiệm chính

trong việc giúp gia chủ duy trì cúng khấn ma cho người chết, vì vậy khi người ta

chọn người làm Chủ ma, bao giờ cũng chọn người thân anh em trong họ, biết thông

thạo lý lẽ cúng khấn ma trong họ mình. Hàng ngày ông phải làm lý lẽ cầu khấn ma

cho người chết, trong lúc ông Mủ trình bày xong tang ca thì ông Chủ ma làm việc

khấn mời người chết lên quan tài hay lên ma ngựa5.

Khấn giao cho người bị chết các loại bài khèn như: Khèn dựng xác, khèn ăn

sáng, trưa, chiều, khèn mổ lợn, trâu, khèn đốt giao vàng mã, khèn nâng đỡ tang,

khèn đưa đám,…

Ông Bố chọn, là tên gọi một đầu việc quan trọng của người Hmông xếp thứ

tư sát sau ông Mủ, bên dưới ông Chủ ma. Trách nhiệm chính của đầu việc này

không liên quan đến công việc cúng khấn ma cho người chết, mà chủ yếu là duy trì

công việc đời sống liên tục cho cả đám tang, sai khiến những người khác giúp việc

cho đám, tiếp nhận quà ủng hộ, vật chất giúp đỡ của những người đến dự đám tang.

Ông Bố khèn, Bố trống là tên gọi đầu việc của người có trách nhiệm luôn tổ

chức và duy trì việc đánh trống, thổi khèn trong đám tang, trực tiếp thổi các bài

khèn quan trọng từ khởi đầu đến kết thúc đám tang. Sai khiến những người biết thổi

khèn tham gia thổi khèn liên tục suốt trong đám tang, không cho ngừng nghỉ. Khởi

5 Theo tục của người Hmông, thi thể người chết được treo ở gian giữa nhà với ý nghĩa

như là đưa lên ngựa để thồ linh hồn người chết về với tổ tiên.

107

đầu đám tang, Bố khèn (Thầy khèn) thổi bài khèn lên quan tài hay lên ma ngựa,

tiếp đến bài khèn dựng xác, khèn dựng trống, khèn tắt sự sống, khèn sát thú, khèn

ăn sáng, trưa, chiều, khèn chỉ khách, chỉ cột khèn, khèn dựng đội tang, khèn đốt

vàng mã, khèn ban sáng, khèn ban trưa, khèn ban chiều, khèn ban đêm, khèn chia

buồn, khèn múa, nhảy… Những bài khèn này thổi đến bài nào, khi thổi đến nửa

chừng người thổi đem cây khèn đến đưa cho ông chủ ma “zơưv Txir Zêl” khấn giao

cho người chết từng bài một, sau đó lại tiếp tục thổi cho kết thúc bài. Lý lẽ thổi

khèn bao giờ cũng cần hai người, một thổi khèn, một đánh trống, hai người này cần

biết thổi khèn và đánh trống ngang hàng nhau. Do đó, người già thường ví câu cửa

miệng nói rằng: “Thổi khèn phải nghe nhịp trống”, hay là“ Đánh trống phải nghe

nhịp khèn” là một lời thường răn dạy cho người đối xử nhau phải có lề lối, có trên

có dưới, ăn nói cho đúng tình người và luôn thương yêu nhau.

Những tên gọi các đầu việc nhỏ gồm chín đầu việc khác nhau; trách nhiệm

chính của những đầu việc này chủ yếu giúp đám tang làm mọi thứ việc, khi xong

việc dọn dẹp lại sao cho đảm bảo mọi công việc trong đám tang trôi chảy liên tục.

Bởi vì, trong lúc gia chủ có người chết, người nào cũng buồn bã phiền lòng, cơm ăn

không ngon, việc không muốn làm, vì lẽ đó mới cần đến các các đầu việc giúp dọn

dẹp để đảm bảo đám tang trôi chảy.

Đám tang thường tổ chức từ 3 đến 5 ngày và nếu xem ngày đưa người chết

ra đồng trùng với ngày mà người nhà ai trước đó đã chọn thì phải để kéo dài thêm,

do đó có đám phải để đến 10 ngày, thậm trí còn lâu hơn. Khi đưa ra đồng để

chôn ,cất họ chọn chỗ chôn, tìm chỗ mổ trâu làm lý ăn uống sáng đưa quan tài

ra, sau đó mổ trâu ăn uống tại đó và chờ đến 4 hoặc 5 giờ chiều mới thực hiện

hạ huyệt, chôn lấp.

Khi có người chết, các hộ gia đình đến tự nguyện mang theo rượu, gạo, thức

ăn để đóng góp với gia đình có người chết; trong suốt quá trình tổ chức làm ma cho

người chết việc uống rượu và mời rượu được diễn ra liên tục. Họ mời người chết

uống rượu, và bón cơm cho người chết (mời uống và bón cơm là tượng trưng; rượu

mời sau đó đổ vào một cái hũ để cạnh và cơm mời xong cho vào âu, sau khi đưa

108

người chết ra đồng người ta mang rượu, cơm đi chôn).

Ông Mã A Chớ, 50 tuổi, ở xã Sa Pả, huyện Sa Pa, hiện là Chủ tịch Hội đồng

nhân dân xã:

Khi trong nhà có người chết, mời một người thầy làm cái lý để dẫn hồn người

chết đi, mời một ông thổi khèn, một ông đánh trống,… thời gian làm lý khoảng 3 tiếng,

chủ nhà làm một con gà cùng với một con dao để làm lý cho người chết đi lên trời. Chia

cho hai người thổi khèn hai quả trứng, hai bát gạo mang về ăn, không được ăn ở gia

đình. Riêng người thầy chủ lễ phải có một con gà, nhà phải có một con lợn để làm lý.

Làm xong lý thì người chủ lễ bàn với gia chủ để phân công: hai ông thổi khèn,

hai người nấu cỗ, hai người làm áo quan, một người chủ lễ là người cùng họ, gần gũi;

một người dẫn hồn. Sau đó, cử người đi gọi, xong xuôi thì cảm ơn bằng hai chén rượu.

Thông thường người chết để ít nhất 4 ngày mới chôn: ngày đầu tiên khi người

chết, trong gia đình bàn nhau về tang lễ và để cho những người thân quen, thông gia đến

viếng; ngày thư hai, thứ ba khách đến viếng; ngày thứ tư mới đưa đi chôn. Người Hmông

theo tín ngưỡng truyền thống quan tâm đến việc chọn ngày, chọn đất, địa điểm đẹp để

chôn người chết. Ngày mà họ mang đi chôn thì phải là ngày đẹp. Người Hmông kỵ thứ

nhất chôn trùng ngày với ngày của những người đã chết trước mà họ biết. Kỵ thứ hai là

khi ông bà già có tuổi chết thì người ta chọn đầu tháng (khi mặt trăng to dần lên) để

chôn. Nếu chết khoảng ngày 22 -25 thì phải đợi đến mùng 3 của tháng sau mới chôn. Để

lâu như vậy là mất vệ sinh đấy, những mình vẫn phải theo thôi.

Trong lúc đợi chôn thì thi thể người chết để trong áo quan, không được đóng

đinh đóng nắp áo quan. Có dòng họ thì để được trong quan tài; có dòng họ thì không để

được trong quan tài thì đăng lên cây tre, rồi buộc trên sà nhà. Khi đưa ra đồng chôn, nếu

chôn lúc 7 giờ thì 4 giờ đem ra đồng; thổi khèn, ăn uống ở đó luôn.

Phong tục của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống khi có người chết họ

sẽ mổ một con lợn hay mổ con gì thì cái linh của con lợn đó sẽ được người chết mang đi

với cái lý và phong tục của họ.

Người đến dự đám ma sẽ mang theo lợn đến (nhiều con cái, họ hàng, quan hệ

rộng là phải mang lợn đến) kết hợp với hai con của người nhà. Có bao nhiêu con lợn

được mổ thì đều chia 3 dẻ sườn cho người thổi kèn; mổ trâu chia cho một người chủ lễ,

một đại diện chính quyền,... một con trâu thì chia gần hết, chỉ còn một phần đùi thì nấu

109

Hộp 8:

lên ăn.

Con cháu khóc than, hàng xóm khóc than để làm lý.

Chi phí cho một đám ma ít nhất là 20 triệu đồng cộng tiền trâu 20 triệu đồng;

tổng cộng là khoảng 40-50 triệu đồng.

(Nguồn thực địa 2014)

+ Tang ma khi theo đạo Tin Lành.

Khi gia đình có người chết thì báo cho Trưởng nhóm và thông báo cho anh

em, dân bản biết và đến để thống nhất bầu ra các ban như: Ban lễ tang, Ban thực

phẩm, Ban thư ký để lo liệu quán xuyến.

Ban tang lễ gồm Mục sư hoặc Trưởng nhóm và đoàn để hát Thánh Kinh,

đồng thời giúp đỡ gia đình và thực hiện n ghi lễ cầu nguyện.

Tổ chức thực hiện tang lễ cho người mất trong vòng 2 ngày (chết hôm nay,

ngày mai đưa) trừ khi gia đình có người ở xa đang về chưa tới nơi mới để lùi lại

ngày hôm sau. Chôn cất không cần chọn ngày và chọn giờ mà có thể chôn người

chết vào bất kỳ lúc nào để đảm bảo vệ sinh; không cần thực hiện các nghi lễ chỉ

đường, thổi kèn, đuổi ma người Hán; không còn phải đưa quan tài người chết từ

trong nhà ra ngoài làm ma; không cần các nghi lễ cúng ba ngày, cúng ma tươi, ma

khô, ma bò,... Còn khi ốm đau, người truyền đạo khuyên hãy cầu nguyện Thiên

Chúa và quan trọng hơn là phải đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh, không mời thầy

cúng đến cúng ma; phải ăn ở hợp vệ sinh để phòng ngừa bệnh tật.

Không còn trình tự như phong tục truyền thống, không tổ chức ăn uống

ngoài bãi và kéo dài ngày, tổ chức đưa ra đồng chôn cất xong là ra về, thực hiện

theo Kinh thánh.

Mục sư Chang A Căng (Phó Tổng ủy viên Hội đồng Trưởng nhiệm Tổng hội Hội

thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, kiêm Trưởng nhiệm Hội thánh Tả Phìn):

Khi trong nhà có người chết họ sẽ giao hết việc tổ chức cho Mục sư. Họ chỉ cần

gọi điện. Vì Tin lành quan tâm đến người bệnh tật, khó khăn và người chết. Trường hợp

thấy người nhà yếu và sắp chết thì thay nhau túc trực, Mục sư sẽ cử 1 -2 người đi ngủ ở

nhà người sắp chết.

110

Hộp 9 :

Khi chết, Mục sự cầu nguyên dâng linh hồn cho chúa. Làm cái lễ cho người chết,

không qua 48 tiếng, bắt buộc phải để trong quan tài, vì sẽ ảnh hưởng đến người sống,

đảm bảo vệ sinh an toàn cho đám tang. Có hát Thánh ca đưa linh đó lên với Chúa trời.

Thường chỉ để người chết trong vòng hai ngày, ngày thứ nhất để thông báo cho

họ hàng, họ đạo biết đến tạm biệt, có thể báo tin bằng điện thoại. Sau đó thì cho vào quan

tài đóng kín, đến ngày thứ hai thì đem đi chôn. Trong quá trình chôn thì có cầu nguyện,

hát Thánh ca, đọc Kinh Thánh. Chôn xong là về, nếu nhà nào có điều kiện thì có thể xây

lên cho đẹp.

Trong việc tổ chức tang lễ sẽ bầu các tổ, ban: Ban lễ tang _ chuyên làm lễ, Ban

giúp đỡ - chia buồn, động viên; Ban chuyên nấu ăn. Tuân theo Kinh thánh, không mổ gà,

mổ lợn trâu.

Tất cả mọi người đến dự đám tang phải đóng góp – những người theo đạo cùng

trong Hội thánh giúp đỡ cho đám tang: góp 100 ngàn đồng/ hộ, 5 kg gạo, ở Tả Phìn

khoảng 100 hộ, củi; tổng cộng là 10 triệu đồng. Mục sư sẽ gửi thư cho các Hội thánh

khác để mời đến chia buồn, mỗi hộ đóng 10 ngàn đồng. Thừa ra đưa lại gia đình, có thủ

quỹ viết thu chi rõ ràng. Đỡ được mổ trâu, không phải bán ruộng đất để mua trâu. Dùng

tiền đó để mua thịt lợn, thịt trâu, thịt gà, ...đủ để ăn uống, không để thừa; chứ không nhất

thiết phải giết mổ trâu, lợn.

Người thân theo đạo không khóc than, kêu lăn. Lý do, khi theo đạo Tin lành thì

cho rằng, người chết đã hoàn thành công việc trên thế gian, được lên thiên đàng, về với Chúa,

được Chúa thu nhận, che chở, được gặp mọi người, được sung sướng, vậy nên không có gì phải

khóc than. Còn tình yêu thương dành cho người chết là không có gì thay đổi, chỉ là cách thể

hiện có sự khác nhau so với người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống.

Việc ăn uống trong đám tang cũng sắp xếp trật tự không uống rượu, mọi người

đồng loạt giúp là chính chứ không chú trọng việc ăn uống. Người không theo Chúa cũng

đến dự, mang theo rượu với cái lý của họ, mang củi, gạo, ... chúng tôi đều ghi lại, rượu

của họ mang đến thì họ uống. Người theo Chúa thì khi dự thì uống nước ngọt.

(Nguồn thực địa 2014)

Trong nghi lễ tang ma của người Hmông thể hiện đậm đặc nhất những đặc

trưng của tín ngưỡng truyền thống, nhưng nghi lễ này đã thay đổi hoàn toàn trong

111

cộng đồng người Hmông theo Tin lành, đây có thể còn được gọi là sự từ bỏ tín

ngưỡng truyền thống. Vì người Hmông theo Tin lành đã không làm đám tang theo

các nghi thức truyền thống, bỏ khèn, bỏ trống, không thờ ông bà tổ tiên, vai trò của

thầy cúng mất đi,… [Theo kết quả của các cuộc phỏng vấn sâu tại thực địa (Sa Pả,

Xín Chải, Tả Phìn,...), gần 100% người Hmông theo Tin lành không sử dụng khèn,

trống trong đám ma; không có bàn thờ tổ tiên].

Trong nghi lễ tang ma theo tín ngưỡng truyền thống là sự tập hợp những

nét đặc sắc trong văn hóa Hmông với những điệu khèn, điệu trống, bài cúng, các

bước nghi thức. Tuy nhiên, thực hiện các nghi lễ tang ma theo nghi lễ tín ngưỡng

truyền thống đã bộc lộ những hủ tục lạc hậu. Khi theo đạo Tin lành, tất cả những giá

trị văn hóa cùng những yếu tố tiêu cực trong đám tang truyền thống không còn

trong tang lễ thực hiện theo nghi thức đạo Tin lành.

Theo đạo Tin lành, khi chết linh hồn của người Tin lành sẽ được lên thiên

đàng, nhập vào thế giới sáng sủa và trong sạch của Thiên Chúa, ngược lại, linh hồn

của những người không theo đạo Tin lành sẽ nhập vào thế giới tối tăm và bẩn thỉu

của các quỷ thần. Đạo Tin lành cũng nhấn mạnh tới Ngày phán quyết ngay sau khi

Thiên Chúa giáng thế lần thứ hai. Vào ngày đó, nếu ai theo đạo Tin Lành sẽ được

lên thiên đường còn những người không theo Tin lành sẽ bị đày xuống địa ngục.

Những điều này cũng góp phần vào việc chia rẽ giữa những người Hmông theo đạo

Tin lành và những người không theo đạo. Đặc biệt, một số người Hmông cao niên

có vợ hoặc chồng đã quá cố và đã được tổ chức tang lễ theo nghi thức truyền thống,

sau khi cải đạo theo Tin Lành họ đều có sự băn khoăn và lo lắng liệu linh hồn của

họ có thể tìm được người bạn đời của mình ở thế giới bên kia hay không.

Bảng 3.13. So sánh giữa đám tang của người Hmông truyền thống và

người Hmông theo Tin lành

Truyền thống

Tin Lành

Để lâu, khoảng 3- 7 ngày

Không để quá 48 tiếng

Chọn ngày, chọn giờ đẹp

Không cần chọn ngày, chọn giờ

Kỵ chôn trùng ngày

Không kỵ ngày trùng

112

Một ban tổ chức với nhiều người tham gia

Mục sư đứng ra tổ chức

Uống nhiều rượu, tổ chức to

Không uống rượu, không tổ chức to

Chi phí khoảng 40- 50 triệu đồng

Chi phí khoảng 10 triệu đồng

Có khóc than nhiều

Không khóc than

(Nguồn tư liệu thực địa của tác giả, năm 2014)

3.4. Văn hóa lối sống của người Hmông theo Tin lành

Đạo đức Tin lành được hình thành từ đức tin tôn giáo; đức tin tôn giáo và

lối sống đạo đức thể hiện ở câu trong Kinh thánh: Người công chính sẽ sống bởi

đức tin [104]. Theo quan điểm thần học Tin lành, đức tin thể hiện qua ba điểu cơ

bản: chỉ có Đức Chúa trời (Đức Chúa trời có lòng xót thương, nhân từ và công

minh), chỉ có Kinh thánh và chỉ có ân điển.

Đạo đức Tin lành nhấn mạnh đến nguồn gốc đạo đức lưu xuất từ bản thể

của Đức Chúa trời, bản chất của đạo đức phản ánh ý chí của Đấng Tối cao trong sự tạo

dựng và cứu rỗi nhân loại, yếu tố cơ bản của đạo đức chân chính được Đức Chúa Trời

cung cấp qua Kinh thánh, qua thế giới tự nhiên, qua con người và lịch sử [104].

Những điểu răn dạy trong Kinh thánh hình thành nên những chuẩn mực

trong hành động của tín đồ nhằm hoàn thiện con người. Những chuẩn mực này dần

Lối sống là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những

hình thức mang tính ổn định, đặc trưng cho cá nhân hay nhóm. Những

hình thức này được quy định bởi trình độ nhận thức về lẽ sống cũng như

điều kiện thỏa mãn những nhu cầu liên quan đến giá trị văn hóa [65 ;tr.

21]. Lối sống hay phong cách sống, nếp sống là những nét điển hình,

được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời

sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa.

trở thành nếp sống của tín đồ và được mọi người chấp nhận thực hành tự nguyện.

Khi đã là tín đồ của một tôn giáo nào thì người đó sẽ chịu sự chi phối của

các quy định trong giáo luật và những luật lệ này ảnh hưởng tới cuộc sống thường

113

nhật của họ. Người Hmông theo Tin lành cũng đồng nghĩa với việc đạo đức, lối

sống của họ mang hơi hướng tôn giáo, đạo đức là một phần trong giáo lý tôn giáo

dạy con người phải ăn ở ứng xử như thế nào [104 ].

Giáo lý của đạo Tin lành quan niệm đạo đức có nghĩa là người tín đồ có

nhiệm vụ với tôn giáo gắn liền với trách nhiệm xã hội. Khi hoàn thành các trách

nhiệm bổn phận với xã hội thì tức là cũng mang giá trị tôn giáo, đều đáng trân trọng

và có ý nghĩa đối với xã hội.

Theo đạo Tin lành, mỗi người nên có một nghề nghiệp chân chính, và chính

công việc này là hoạt động đạo đức tạo nên một cuộc sống hợp với Đức Chúa Trời.

Trong xã hội truyền thống ít ai nghĩ công việc mình làm, xã hội thế tục

mình đang sống có giá trị với ý nghĩa tích cực. Giáo lý đạo Tin lành đã đưa cuộc

sống xã hội hằng ngày lên tầm cao trong ý nghĩa tôn giáo, một bước san bằng quan

trọng trong hệ thống thân phận của giai cấp và một tư tưởng góp phần chuyển biến

nên xã hội hiện đại [104, tr. 56].

Điều này góp phần lý giải vì sao Tin lành hợp với các nước phát triển, nước

đang phát triển với sự tăng trưởng các khu công nghiệp. Vừa tạo động lực trong sản

xuất kinh tế, vừa góp phần điều chỉnh, bổ sung thêm các giá trị đạo đức cho phù

hợp ở mỗi địa bàn Tin lành hoạt động, cũng như hình thành nên một lối sống mang

đậm chất Tin lành. Còn đối với những vùng xa xôi có đồng bào dân tộc thiểu số

sinh sống thì sự suy giảm niềm tin vào văn hóa truyền thống chính là cơ hội để đạo

đức và lối sống Tin lành du nhập và phát triển.

Đạo Tin lành đề cao vai trò của Kinh thánh, coi đó là chuẩn mực của đức

tin và đạo đức, mọi người sống và hành động theo Kinh thánh. Tín đồ đạo Tin lành

dù theo hệ phái nào cũng có đựa trên lập trường Kinh thánh rồi mới đến quyền uy

của Giáo hội, các ý kiến đưa ra của giáo hội hay những giáo sỹ phải được kiển

nghiệm thông qua Kinh thánh mới có giá trị.

Theo quan niệm của đạo Tin lành, cuộc sống trần thế có được là do Đức

Chúa trời chịu phạt để cho loài người, nên đạo Tin lành rất coi trọng lòng biết ơn.

Trong lối sống của tín đồ đạo Tin lành biết ơn Đức Chúa trời đi cùng với việc nêu

114

cao những giá trị nhân văn trong tôn giáo và xã hội trần thế. Con người vinh danh

Chúa bằng những việc làm tốt đẹp, lương thiện, xuất phát từ sự tự nguyện và thành

thật chứ không phải chỉ là hình thức.

Cũng chính lòng biết ơn này là động động lực thúc đẩy tín hữu Tin lành tin

thờ Đức Chúa trời và tham gia tích cực vào đời sống xã hội, bảo vệ môi trường, chia

sẻ giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Mỗi tín đồ đạo Tin lành cần phải có nếp sống đạo

đức làm gương tốt cho người khác trong xã hội [47, tr.269, 270. Tít 2: 1-15:3;1-11].

Giá trị của lối sống Tin lành đã góp phần duy trì đạo đức chung, tiến tới

hoàn thiện nhân cách và tác động đến sự phát triển xã hội. Phát huy lối sống đạo

đức Tin lành phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, hoàn cảnh xã hội hiện tại

giúp cho văn hóa giáo dục, xây dựng con người văn hóa, trật tự xã hội, phát triển

các hoạt động sản xuất kinh tế để phát triển đất nước.

Có thể ghi nhận những đóng góp từ những giá trị nhân bản của đạo Tin lành

khi thâm nhập vào văn hóa tộc người, văn hóa Hmông, đó là lòng bác ái thương

người, sự chính trực, tính hướng thiện, sự bền vững của hôn nhân gia đình, tôn

trọng sự sống, thanh lọc một số phong tục giảm bớt mê tín dị đoan.

Người theo đạo Tin lành cho rằng, những điều răn dạy trong Kinh thánh là

những quy định của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể thấu suốt mọi việc của dân

chúng ở trần gian, nên những lời răn dạy trong Kinh thánh là sự dẫn lối thiêng liêng.

Do đó, những người theo đạo sống có nguyên tắc, kính Thiên Chúa. Họ thực hiện

nghiêm túc và tự nguyện tuân theo những lời dạy bảo của Thiên Chúa và Hội thánh

của Thiên Chúa.

Một bộ phận người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai đã thực hiện lối

sống khoa học, lành mạnh và từ bỏ những hủ tục như không lấy vợ hai, không

nghiện thuốc phiện, không cướp của, giết người. Họ làm theo những điều răn dạy

trong Kinh thánh, đó là luôn làm điều thiện, tránh điều ác, và luôn hoàn thiện đạo

đức cá nhân, nên đã góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội.

Việc theo đạo Tin lành đã làm thay đổi nếp sống của người theo đạo; đáp

ứng nhu cầu tâm linh của họ, ước mơ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những điều

115

răn dạy mà đạo Tin lành nêu ra phù hợp với nhu cầu của đồng bào, giúp hoàn thiện

đạo đức cá nhân, giúp đồng bào giảm bớt gánh nặng vì những phong tục tập quán

lạc hậu trong tổ chức ma chay, cưới xin, chữa bệnh. Sinh hoạt tôn giáo cộng đồng

hấp dẫn quần chúng, đặc biệt là lớp trẻ và phụ nữ.

Một trong những hạn chế của văn hóa Hmông truyền trống là việc cầu cúng

khi bị bệnh, xuất phát từ niềm tin rằng, con người bị ốm là do Ma, do không cúng

bái đúng. Chính vì vậy, thay vì phải đến trạm xá thăm khám, điều trị theo phác đồ

của bác sỹ thì nhiều người Hmông mời thầy cúng, tốn kém tiền của cho những buổi

cúng ma chữa bệnh mà không có kết quả.

Đối với người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, việc đến trạm xã, hỏi ý kiến

của bác sỹ khi bị đau ốm là rất thường xuyên. Nó xuất phát từ thay đổi trong tư duy,

họ nhận biết rằng, bị ốm không phải do ma làm, không phải vì liên quan đến cúng

bái mà là cơ thể yếu thì bị nhiểm bệnh. Vì vậy, thay vì cúng bái rườm rà, tốn kém,

người Hmông theo Tin lành khám chữa bệnh tại cơ sở y tế. Điều này giúp nâng cao

chất lượng cuộc sống cho người dân, nhất là việc sinh đẻ của người phụ nữ, giảm tỷ

lệ biến chứng sau sinh.

Biểu đồ 3.3. Thực trạng khám chữa bệnh của người Hmông ở Lào Cai

Từ Biểu đồ về thực trạng khám chữ bệnh của người Hmông, ta dễ dàng

nhận ra rằng, khi có bệnh mà không thể tự khỏi, nhất là khi sinh nở thì 100% người

Hmông theo Tin lành đến trạm y tế, tỷ lệ này đối với người Hmông theo tín ngưỡng

116

truyền thống chỉ chiếm 57,5%. Đặc biệt, khi đã cải đạo thì việc nhờ thầy cúng ma

khi bị ốm đau trong cộng đồng người Hmông hoàn toàn không còn nữa; tỷ lệ này

đối với người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống vẫn cao 77,5%. Nhìn vào đây,

có thể nhận thấy rằng, ý thức về việc khám chữa bệnh của người Hmông theo Tin

lành cao hơn hẳn so với người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống. Điều này rất

có lợi về sức khỏe và chi phí kinh tế. Việc nhờ thầy cúng ma khi bị ốm đau khá tốn

kém, nhiều khi chậm chễ còn ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe, có khi tử vong.

Đạo Tin lành còn khuyên con người nên sinh đẻ ít con để nuôi dạy con cho

tốt, con gái cũng như con trai. Trước đây, tâm lý của người Hmông là thường muốn

sinh con trai hơn con gái, bởi theo tập tục, con trai sẽ là người thờ cúng bố mẹ,

không có con trai thì kể như người chết không có người chôn, không có người thờ

cúng, linh hồn sẽ lang thang, đói khổ và không trở về với tổ tiên. Còn với giáo lý

Tin lành, con người khi chết, dù có con trai hay gái, hoặc không có con, nếu là

người tốt thì linh hồn đều được lên thiên đàng với Thiên Chúa. Vì thế, tâm lý muốn

sinh con trai phần nào cũng giảm bớt trong tâm lý đồng bào.

Đạo Tin lành còn đưa đến một số yếu tố tích cực khác về lối sống như: tuân

thủ pháp luật, tích cực lao động sản xuất, học tập, ham muốn làm giàu, giảm hẳn

uống bia rượu, hút thuốc,… kêu gọi bỏ đi những tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, dễ đi

vào lòng người, phù hợp tâm lý bị kìm nén bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh

thần còn nhiều khó khăn.

Theo khảo sát thực tế của Tổng hội HTTLMB, trước khi tin Chúa thì đại đa

số nam giới nghiện rượu, nhiều người nghiện thuốc phiện và ma túy, đã có nhiều

bản trồng thuốc phiện để “tự sản tự tiêu”. Nên có thể nói, người Hmông khi chưa tin

Chúa, thì họ không chỉ bị trói buộc trong vòng kiềm tỏa của tín ngưỡng mà còn bị

các tệ nạn xã hội khống chế. Với những gia đình tin Chúa, họ đã loại bỏ tất cả các

ma, nếu bị ốm đau, họ đi khám bác sĩ thay vì đến thày cúng; các chị em được tôn

trọng, được đi sinh hoạt vui vẻ, được thể hiện mình, được ăn mặc đẹp trong những

buổi sinh hoạt thờ phụng thay vì phải hầu hạ ông chồng say xỉn như trước đây.

117

Những gia đình theo Tin lành đều có con cái đi học hành; từ bỏ việc trồng và hút

thuốc phiện; thanh niên không còn nghiện rượu, yêu thương vợ hơn thay vì đánh vợ

như trước kia. [114, tr. 79].

Trong đó nổi bật là lối sống tiết kiệm. Do những nghi lễ cầu kỳ, phức tạp

trong các buổi cúng như trong đám ma, đám cưới,... gây tốn kém về tiền bạc rất lớn,

và việc thực hiện các nghi lễ này dần trở thành gánh nặng về vật chất và tinh thần

cho người Hmông. Khi theo Tin lành, ảnh hưởng bởi sự tiết kiệm trong sinh hoạt

đời thường và đơn giản trong tổ chức nghi lễ tôn giáo mà đã thu hút được người

Hmông theo đạo.

Bảng 3.4. Chi phí trong cưới xin, tang ma của người Hmông ở Lào Cai

Truyền thống

Tin lành

Cưới xin

- Tiền thách cưới là 30 – 45

- Tiền thách cưới 10 triệu đồng

triệu đồng

- Tổng tiền để tổ chức đám

- Tổng tiền để tổ chức đám

cưới là: 70 triệu đồng

cưới là: 20 triệu đồng

- Sử dụng rượu trong đám

- Không sử dụng rượu bia, chỉ

cưới: khoảng gần 100 lít

uống nước ngọt

Đám ma

Để lâu, khoảng 3- 7 ngày

Không để quá 48 tiếng

Chi phí khoảng 40- 50 triệu

Chi phí khoảng 10 triệu đồng

đồng

Uống nhiều rượu, tổ chức to

Không uống rượu, không tổ

chức to

(Nguồn tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014)

Tin lành còn mang đến cho đồng bào Hmông cách tiếp cận và thực hiện nếp

sống văn minh rất thiết thực. Sau khi tiếp nhận Tin lành, sự thay đổi trong đời sống

của người Hmông không chỉ dừng lại ở một vài nếp sống sinh hoạt, mà có thể ví

như một “cách mạng văn hóa”. Những hủ tục, tập quán lâu đời nhưng lạc hậu, kìm

hãm sự phát triển của người Hmông nay dễ dàng được đồng bào từ bỏ. Đồng bào

tiết kiệm (thờ nhiều ma tốn kém, nay chỉ thờ một con ma Giê su), con ốm đồng bào

118

biết đưa đến thầy thuốc, đến cơ sở y tế để chữa trị (thay vì mời thầy mo, cúng con

ma). Người đàn ông ít hoặc không uống rượu; người phụ nữ bước ra ngoài không

gian nhỏ hẹp quanh bếp, quanh nhà. Người Hmông theo đạo thay thổi sáo, múa

khèn bằng hát Thanh ca đệm nhạc điện và chơi pianô. Có thể nói một cuộc sống

mới vệ sinh hơn, văn minh hơn, trong đó nhiều sinh hoạt văn hóa, tinh thần đã thay

đổi đang dần dần hình thành trong cộng đồng người Hmông theo Tin lành ở miền

núi phía Bắc Việt Nam [114, tr,193].

So với các tôn giáo khác, đạo Tin lành có một ưu thế rất lớn trong hoạt

động xã hội từ thiện, đây còn là một đặc trưng nhận biết của Tin lành và là một

trong những bổ trợ trong việc truyền đạo. Chính vì vậy, không khó để thấy những

hoạt động xã hội của đạo Tin lành trong người Hmông ở Lào Cai.

Tiểu kết chương 3

Khi đã là nhu cầu tôn giáo chính đáng của một bộ phận người Hmông, Tin

lành cũng có những đóng góp đối với đời sống văn hóa; hình thành nên một nền văn

hóa mới của người Hmông. Dưới sự tác động của đạo Tin lành, văn hóa truyền

thống của người Hmông đã có sự biến đổi, thậm chí có những yếu tố thay đổi căn

bản. Nó được thể hiện trên các mặt như thiết chế xã hội truyền thống với vai trò của

gia đình, dòng họ, cộng đồng; các lễ thức dân gian trong chu kỳ đời người; chuyển

đổi trong niềm tin tôn giáo, phong tục tập quán… Tất nhiên bên cạnh đó vẫn có

những yếu tố cực đoan khi người Hmông theo đạo Tin lành. Đó lầ, những giá trị của

tín ngưỡng truyền thống bị gạt bỏ.

Những thành tố trong văn hóa vật chất của người Hmông theo đạo Tin lành

có sự chuyển biến dần dần có sự kế thừa từ truyền thống, sự kết hợp giữa mới và cũ

để tạo ra sự thuận tiện trong sinh hoạt hàng ngày. Sự chuyển biến trong trang phục

và nhà cửa của người Hmông không chỉ vì theo đạo Tin lành, mà đây cũng là xu

hướng của sự phát triển và hội nhập. Với sự phát triển của kinh tế, xã hội, chữ

Hmông la tinh có nhiều ưu điểm để tồn tại và phát triển trong cộng đồng người

119

Hmông theo đạo Tin lành. Với việc sử dụng thường xuyên Kinh Thánh, Thánh ca,

kể cả việc sử dụng tin nhắn điện thoại,...là môi trường thuận lợi đối với chữ Hmông

la tinh trong người Hmông theo đạo Tin lành.

Những yếu tố văn hóa tinh thần, nhất là những yếu tố liên quan đến tâm linh tín

ngưỡng thì có sự thay đổi nhanh chóng, tạo sự khác biệt căn bản so với truyền thống.

Những biến đổi văn hóa của người Hmông theo Tin lành, bên cạnh những

mặt tích cực như xóa bỏ một số hủ tục không phù hợp trong việc thực hành các nghi

lễ, làm giảm bớt đi những tệ nạn xã hội,… vẫn có cả mặt hạn chế, như làm mai một

một số đặc trưng văn hóa của tộc người, gây mất đoàn kết trong gia đình, dòng họ

120

và cộng đồng làng bản của người Hmông tại địa bàn tỉnh Lào Cai.

CHƯƠNG 4

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN HÓA HMÔNG

THEO TIN LÀNH Ở LÀO CAI

4.1. Những ảnh hưởng của việc truyền đạo và theo đạo Tin lành

Quá trình truyền đạo và theo đạo Tin lành trong vùng đồng bào Hmông

ở Lào Cai đã góp nhất định trong văn hóa, lối sống; có nhiều ảnh hưởng cả tích

cực lẫn những tác động tiêu cực, ảnh hưởng tới nhiều mặt trong đời sống xã hội

của tộc người.

4.1.1. Ảnh hưởng tích cực

Việc người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai cũng là một trong nhiều cách

lựa chọn, một sự thích ứng giúp người dân khắc phục những mặt hạn chế không còn

phù hợp của văn hóa truyền thống.

- Xây dựng lối sống văn hóa mới: Xuất phát là một tôn giáo cải cách, đạo

Tin lành luôn đề cao tư tưởng tự do, dân chủ; là tôn giáo gắn với thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đạo Tin lành đã có ảnh hưởng lớn trong việc ưu tiên sản

xuất kinh tế, tiếp thu khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Với tư tưởng tiến bộ, người

Hmông theo đạo Tin lành giúp xây dựng nếp sống mới, vệ sinh, tiết kiệm; xóa bỏ

được một số tập tục văn hóa không còn phù hợp, rườm rà, là gánh nặng về kinh tế

và tinh thần cho người Hmông trong cưới xin, tang ma, cúng bái khi bị ốm đau,...

Những điều răn dạy trong Kinh thánh mà đạo Tin lành áp dụng đối với tín

đồ giúp cho người Hmông điều chỉnh được thói quen như không uống rượu, chơi cờ

bạc, không nghiện hút, làm điều lành, tránh làm điều dữ,...

- Mở rộng thêm mối quan hệ cố kết tôn giáo: Bên cạnh các mối quan hệ

dòng họ, người Hmông theo Tin lành còn có mối quan hệ Đạo. Nếu trong quan hệ

dòng họ truyền thống chỉ những người “cùng họ, cùng ma” mới giúp đỡ nhau trong

121

tang ma, cưới xin hay khi gặp khó khăn; khi theo Tin lành nếu có những vấn đề cần

giúp đỡ những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thì tất cả những người Hmông đồng

đạo đều đóng góp sức và coi đây là trách nhiệm không phân biệt cùng họ, cùng ma

hay khác họ, khác ma; thậm chí cả những tín đồ ở vùng lân cận cũng tham gia khi

có sự giúp đỡ, chia sẻ về vật chất lẫn tinh thần.

Người Hmông không chỉ có quan hệ đồng tộc, họ tộc trong vùng mà còn có

các mối quan hệ xuyên biên giới, xuyên quốc gia; người Hmông theo Tin lành cũng

có các mối quan hệ đồng đạo xuyên/liên quốc gia mà không chỉ bó hẹp trong một

dòng họ. Điều này giúp cho người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai có thêm cơ hội

tiếp xúc với những cái mới, cái tiến bộ và điều kiện phát triển cá nhân. (xem thêm

mục 3.2.2.4.). Như vậy, các mối quan hệ của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai

mở rộng nhiều chiều hơn so với người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống.

- Góp phần bảo đảm bình đẳng giới, người Hmông theo Tin lành đã tạo ra

bước chuyển trong nhận thức đối với vai trò của người phụ nữ, hướng mối quan hệ

về giới theo thế cân bằng, bình đẳng hơn. Hàng tuần, người phụ nữ Hmông được

nghỉ ngơi để đi cầu nguyện tập trung, giao lưu tiếp xúc với nhiều người để mở rộng

quan hệ; theo Tin lành, nhiều phụ nữ Hmông ở Lào Cai còn khẳng định được vị thế

của mình (xem thêm mục 3.2.3). Cũng chính vì lẽ đó mà người Hmông theo Tin

lành quan niệm không quan trọng sinh con trai hay con gái, góp phần thực hiện kế

hoạch hóa gia đình trong cộng đồng người Hmông ở tỉnh Lào Cai.

Tóm lại, đạo Tin lành với những điểm mạnh của tôn giáo hiện đại, dân chủ,

đề cao con người, đề cao cá nhân, đề cao sự tiến bộ đã ít nhiều giúp người Hmông

bỏ được những cái cổ hủ, rườm rà trong văn hóa, tín ngưỡng truyền thống để tiếp

thu những cái mới, cái văn minh. Thực tế ở Lào Cai, một bộ phận người Hmông

theo Tin lành có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Các tín đồ đạo

Tin lành bỏ những tập tục lạc hậu, áp dụng y học hiện đại để chữa bệnh, thực hiện

tốt kế hoạch hóa gia đình; trẻ em đi học đông hơn, giảm hẳn tình trạng bỏ học; bỏ đi

122

các tệ nạn xã hội;... đều có ảnh hưởng tốt đến kinh tế - xã hội – văn hóa ở Lào Cai.

4.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực

Một vấn đề luôn có tính hai mặt, đối lập với những ưu thế mà đạo Tin lành

đem lại trong cộng đồng người Hmông ở Lào Cai thì việc cải đạo của người Hmông

cũng có những hạn chế nhất định.

- Việc một bộ phận người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai sẽ làm mất dần

những giá trị văn hóa - xã hội truyền thống. Khi theo Tin lành những phong tục,

tập quán (nhất là liên quan đến tín ngưỡng như thế giới quan truyền thống, nghi lễ

thờ cúng tổ tiên, cúng ma,...)bị xóa bỏ hoàn toàn. Vì không thực hiện những nghi lễ

truyền thống thì bản sắc văn hóa sẽ bị mờ nhạt dần trong cộng đồng người Hmông

theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai.

Thanh niên Hmông theo Tin lành ở Lào Cai ít hoặc không tham gia các

buổi sinh hoạt văn hóa văn nghệ; trong những dịp lễ hội truyền thống, họ không thổi

khèn thổi sáo, hát dân ca,...mà là hát Thánh ca, đọc Kinh Thánh, cầu nguyện; nhất là

thế hệ trẻ kế cận hiện nay đã ít nhiều làm cho nền văn hóa dân tộc bị mai một.

Trong các mối quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng xã hội, hoạt động của

đạo Tin lành cũng có ảnh hưởng không tốt, tạo ra nhiều tình huống phức tạp, chia rẽ

các mối quan hệ giữa vợ và chồng; giữa bố mẹ và con cái; đến mối quan hệ giữa các

thành viên trong dòng họ; mối quan hệ giữa các dòng họ, cũng như quan hệ trong

cộng đồng làng bản. Thậm chí, trong nhiều trường hợp còn liên quan đến những

khu vực, địa phương khác, với các dân tộc khác; làm phá vỡ những mắt xích trong

cố kết cộng đồng.

- Vai trò của tín ngưỡng truyền thống bị giảm dần: Tín ngưỡng, tôn giáo là

một trong những thành tố của văn hóa, khi người Hmông theo đạo Tin lành, tức là

những yếu tổ văn hóa trong tín ngưỡng truyền thống đã bị mất đi, như quan niệm về

thế giới, về con người; các nghi thức thờ cúng, cách thức thực hành nghi lễ, các loại

nhạc cụ cổ truyền sử dụng trong các buổi sinh hoạt tín ngưỡng,... Vì vậy, theo đạo

123

Tin lành, bản sắc văn hóa của người Hmông đã bị mai một.

- Hình thành nên các nhóm với những mâu thuẫn đan xen: Việc thực hành

các nghi lễ trong tín ngưỡng truyền thống là phương tiện để củng cố mối quan hệ

thân tộc, góp phần cố kết cộng đồng, xã hội. Với một bộ phận người Hmông bỏ tín

ngưỡng truyền thống để theo đạo Tin lành, thì mối quan hệ đồng tộc bị rạn nứt, tạo

ra sự phân chia, đối lập giữa các nhóm, từ nhóm giữa tín ngưỡng truyền thống với

nhóm theo Tin lành đến các nhóm theo Tin lành ở các hệ phái khác nhau.

Những người Hmông trước đây là anh em cùng họ, nhưng khi theo Tin lành

giữa họ xuất hiện khác biệt về nhận thức dẫn đến xung đột. Thậm chí xung đột này

còn xuất hiện giữa các thành viên trong một gia đình có người theo đạo và không

theo đạo Tin lành, gây ra sự chia rẽ trong nội bộ gia đình.

Theo Tin lành cũng gây ra mâu thuẫn về giới. Trong một gia đình nếu

người chồng không theo Tin lành thì rất khó chấp nhận việc người vợ theo Tin lành.

Vì người phụ nữ theo đạo Tin lành có những hoạt động mang tính hướng ngoại,

được nghỉ ngơi vào ngày thứ Bảy hoặc Chủ nhật để đi cầu nguyện tập trung, gặp gỡ

giao lưu, được khẳng định mình với xã hội. Người đàn ông muốn theo Tin lành thì

buộc phải bỏ rượu, bỏ cờ bạc, chí thú làm ăn,... vậy nên đa số đàn ông, đặc biệt là

trung tuổi trở lên, nghiêng về truyền thống thì không thích Tin lành.; cũng không

thích người phụ nữ theo Tin lành. Chính vì vậy đã có xung đột giữa người phụ nữ

và người đàn ông Hmông về việc theo hay không theo Tin lành trong gia đình, dòng

họ, cộng đồng xã hội.

Sự cải đạo sang Tin lành đã gây ra xung đột thế hệ, giữa thế hệ trẻ và thế hệ

già. Theo truyền thống người Hmông, vào ngày đầu năm mới, những người thuộc

thế hệ trẻ phải đi thăm và vái lạy những người già trong bản. Theo Tin lành, họ lại

không thực hiện nghi thức đó, họ chỉ kính lạy trước Chúa. Trong văn hóa của người

Hmông, vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ - người có uy tín - đa số là

những người có tầm ảnh hưởng đối với cộng đồng, với các thành viên khác, nhất là

124

với lớp con cháu. Theo Tin lành, thanh niên Hmông có nhiều cơ hội tiếp thu những

cái mới, và giao lưu với những người khác với ông cha, đó là những người truyền

đạo; cho nên họ thấy được nhiều cái “lạc hậu” trong quan niệm và nhận thức của

già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ; và họ không còn nghe theo nữa.

Bản thân những người Hmông theo Tin lành cũng có sự phận biệt, đối lập.

Ở các hệ phái khác nhau trong cùng một địa bàn nhưng tổ chức cầu nguyện tập

trung ở một địa điểm riêng, như Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Liên

Hữu Cơ đốc,... Bên cạnh đó, việc tranh giành tín đồ giữa các hệ phái cũng đã xảy ra,

gây chia rẽ khối đại đoàn kết, làm cho tình hình càng thêm phức tạp.

Một trong những giáo luật của Tin lành là không uống rượu, cờ bạc, nghiện

hút, cãi chửi nhau, ăn trộm,... nhưng không phải người Hmông nào theo Tin lành

cũng giữ đúng luật lệ, vẫn có trường hợp nghiện hút, nghiện rượu, đánh chửi vợ

con, ... Điều này gây ra mâu thuẫn giữa những người Hmông thật sự theo Tin lành

với những người Hmông vi phạm các nguyên tắc.

Những mâu thuẫn đan xen nói trên đã gây ra không chỉ gây ra xung đột về

văn hóa mà còn tạo ra mất ổn định xã hội, nhất là thời kỳ đẩu mới truyền đạo và

theo đạo Tin lành.

- Gây ra tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép. Người Hmông từ xa

xưa trong lịch sử đã gắn với các cuộc di cư, họ là dân tộc có tỷ lệ phát triển dân số

nhanh và tốc độ di chuyển dân cư rất lớn [62, tr.28]. Người Hmông di cư với nhiều

đặc điểm như: di cư không chỉ trong một quốc gia mà liên/xuyên biên giới, xuyên

quốc gia; thời gian di cư không đồng nhất giữa các luồng di cư; phương thức di

chuyển đa dạng... [62, tr. 63-73].

Năm

Hộ

Khẩu

Ghi chú

2005

177

961

Địa bàn di cư đến là Tây Nguyên,

Thanh Hóa

2006- 2010

610

3.069

125

Bảng 4.1: Tình hình di cư của người Hmông ở tỉnh Lào Cai

2007-2012

637

3.262

2011

121

619

Chủ yếu di cư vào Điện Biên

Trong số các hộ dân tộc Hmông di cư đến có 50% là theo đạo Tin lành

(Nguồn ban Dân vận tỉnh Lào Cai, năm 2012)

Một đặc điểm quan trọng trong di cư của người Hmông chính là có liên

quan đến tôn giáo gắn với nhu cầu cải đạo theo Tin lành. Để tránh cô lập, phân biệt,

người Hmông thường di chuyển đến vùng đã có nhiều người Hmông theo Tin lành

sinh sống để dễ dàng hòa nhập. Và cũng không ít người Hmông vượt biên trái phép

để gặp người đồng tộc, đồng đạo hay với những nguyên nhân khác như để được học

thành Mục sư, được định cư ở nước ngoài,... mà thực chất là do sự lôi kéo của đối

tượng bên ngoài.

Có điều cần nói thêm, là việc di dịch cư của người Hmông theo Tin lành

thời gian còn có lý do không phải trực tiếp từ phía Tin lành mà ở một số cơ sở đối

xử nặng nề với việc theo đạo nên một bộ phận người Hmông di cư để tìm nơi thuận

lợi cho việc sinh hoạt đạo Tin lành.

Khi xem xét sự ảnh hưởng của đạo Tin lành đối với văn hóa, xã hội của

người Hmông ở Lào Cai, tác giả luận án nhận thấy rằng, Tin lành không phải hoàn

toàn không phù hợp; ở Tin lành vẫn có những ưu điểm đóng góp cho văn hóa của

người Hmông. Thực tế ở Lào Cai, những điểm nhóm đã đăng ký và được công nhận

sinh hoạt ổn định, các tín đồ người Hmông có ý thức chấp hành đường lối, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nếp sống văn hóa trong cộng đồng người

Hmông theo Tin lành được hình thành và duy trì như: tình trạng rượu chè, nghiện

hút, cờ bạc, trộm cắp,...rất ít xảy ra. Bên cạnh đó, đạo Tin lành ở Lào Cai đã kết hợp

với các chương trình từ thiện nhân đạo, phát triển cộng đồng đem lại hiệu quả kinh

tế cho người dân, góp phần ổn định và phát triển xã hội. Khi theo đạo Tin lành,

126

người Hmông ở Lào Cai bỏ được nhiều tập quán không còn phù hợp, nghi lễ rườm

rà, tốn kém để tập trung làm ăn,... Những điều này khá phù hợp với công cuộc xây

dựng đời sống văn hóa mới của Nhà nước ta hiện nay.

Hiện nay, đạo Tin lành trong một bộ phận người Hmông ở Lào Cai là một

hiện thực, nó đã và đang mang lại những yếu tố tích cực, góp phần thay đổi lối

sống, niềm tin tôn giáo. Tuy nhiên, đạo Tin lành cũng gây ra không ít những khoảng

trống trong văn hóa truyền thống của người Hmông, ảnh hưởng không mong muốn

đến nhiều mặt của đời sống xã hội, an ninh, quốc phòng.

4.1.3. Thái độ của cộng đồng không theo Tin lành và của chính quyền

đối với vấn đề nghiên cứu

4.1.3.1. Thái độ của cộng đồng không theo đạo Tin lành

Đạo Tin lành có hơn 100 năm du nhập vào Việt Nam, cho đến hiện nay đạo

Tin lành đã là một trong sáu tôn giáo lớn ở Việt Nam và các tổ chức,hệ phái Tin

lành dần được công nhận tư cách pháp nhân và đi vào hoạt động bình thường, đúng

pháp luật.

Đối với dân tộc Hmông, đạo Tin lành đã có một quá trình du nhập và phát

triển từ những năm 1980 đến nay với ba giai đoạn chính (Xem Mục 2.1.1). Từ một

tôn giáo “lạ”, “mới” và ít nhiều có những “uẩn khúc” trong nhận thức của cán bộ

cũng như người dân địa phương; giờ đây đạo Tin lành trong dân tộc Hmông đã trở

thành một thực thể và hoạt động ổn định, tuân thủ theo pháp luật.

Ở Lào Cai có 24.166 người Hmông theo đạo Tin lành với 6 hệ phái, chiếm

khoảng 17% tổng số người Hmông của tỉnh (Xem Mục 2.1.2); việc một bộ phận

người Hmông theo đạo Tin lành đã gây ra những phản ứng trong cộng đồng người

Hmông vẫn đang giữ văn hóa truyền thống.

Giai đoạn đầu, khi mới tiếp cận với đạo Tin lành cũng như những người

Hmông theo Tin lành, những người giữ văn hóa truyền thống đã có sự phản ứng

mạnh mẽ và coi là không thể chấp nhận được. Đây là giai đoạn xảy ra xung đột về

văn hóa nhất, từ đó nảy sinh mâu thuẫn trong cộng đồng người Hmông và ít nhiều 127

cũng ảnh hưởng tới mối quan hệ xã hội của các dân tộc cận cư. Thái độ của người

Hmông giữ văn hóa truyền thống và cộng đồng đã cải đạo là khắc nghiệt, có nhiều

lúc dẫn tới cực đoan khi cô lập làm cho nhiều trường hợp phải chuyển đi nơi khác –

di cư. Lý do được đưa ra là những người Hmông theo Tin lành đã làm mất đi ông bà

tổ tiên, mất đi nguồn gốc tộc người, mất đi những điệu khèn, điệu múa, lễ hội... Khi

được hỏi các chủ thể, họ cho rằng trong gia đình hoặc dòng họ có người theo Tin

lành đã làm đảo lộn trật tự và việc không thực hiện nghi lễ trong tang ma, cưới hỏi

đã làm mất đi văn hóa truyền thống của người Hmông. Tuy nhiên, không phải cộng

đồng phủ nhận hoàn toàn mà vẫn công nhận những ưu điểm của đạo Tin lành đóng

góp trong lối sống.

Hộp 10:

Hạng A Sang - Tả Văn - Sa Pa (Nam, 51 tuổi, chủ gia đình, nông dân)

1. Ông (bà) thấy thế nào khi trong dòng họ hoặc gia đình của mình có người

theo đạo Tin lành: Làm đảo lộn trật tự trong gia đình, họ hàng. Khi đạo Tin lành không

cúng tổ tiên, không thực hiện nghi lễ của người Hmông trong tang ma và cưới hỏi. Như

thế này thì đã làm mất đi truyền thống của người Hmông.

2. Ông (bà) thấy theo đạo Tin lành có đưa lại điều gì tích cực tiến bộ không (Ví

dụ không uống rượu, không hút thuốc,…): Theo đạo Tin lành cũng có mặt tiến bộ như

không uống rượu, không hút thuốc, không thách cưới cao, các nghi lễ trong tang ma,

cưới xin không rườm rà, khi ốm đau không cúng. Tuy nhiên cũng có mặt hạn chế như

khi ốm đau không kịp thời đi chữa bệnh tại các cơ sở y tế mà phải cầu chúa, có khi các

cháu học sinh đang học ở trường bỏ về để đi học hát thánh ca …

(Nguồn thực địa của tác giả, năm 2015)

Theo thời gian, đã có nhận định rõ ràng giữa nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng

với việc lợi dụng tôn giáo, sự thay đổi về nhận thức được đánh dấu bằng Nghị quyết

số 25 (Khóa IX), của Bộ Chính trị, Về công tác tôn giáo, Hà Nội (12/3/2003), cũng

128

từ đây hoạt động của đạo Tin lành đã đi vào ổn định, đúng pháp luật. Cái nhìn của

cộng đồng đối với người Hmông theo Tin lành đã cởi mở hơn, có sự tôn trọng đối

với bộ phận người Hmông theo Tin lành.

Tuy nhiên, chính sự chấp nhận này cũng có nhiều điều đáng lưu ý. Từ việc

cực lực phản đối đến việc chấp nhận, người Hmông theo Tin lành sống cùng với

cộng đồng người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống đã không còn xảy ra những

mâu thuẫn mang tính “bề nổi” tức là không có cãi cọ, không to tiếng với nhau, vẫn

tham dự lễ cưới, đám ma của nhau. Nhưng giữa hai cộng đồng này vẫn có một ranh

giới vô hình, vẫn chưa có sự chấp thuận thực sự, đây là những mẫu thuẫn “ngầm”.

Nhiều khi loại mâu thuẫn này mới là mức cao nhất của thang đánh giá, và sự xung đột

văn hóa vẫn còn diễn ra hoặc tiềm ẩn, tùy vào mức độ ở những thời điểm khác nhau.

1. Thào A Chảo - San Sả Sả Hồ - Sa Pa (Nam, 50 tuổi, chủ gia đình, nông dân).

Ông (bà) bây giờ có quan hệ với những người, những gia đình theo đạo Tin lành

không. Nếu là người trong dòng họ gia đình thì có nhận nó không. Trong anh, em họ

hàng cũng có người theo đạo Tin lành, mình cũng quan hệ với họ nhưng không được

gần gũi lắm, vì họ theo đạo Tin lành họ không thích sống gần gũi với những người, gia

đình không theo đạo, khi có hội họp họ hàng, làng xóm họ thường ngồi riêng một chỗ...

Hộp 11:

2. Vàng Seo Sần cán bộ ban dân vận huyện ủy Bắc Hà

Sinh năm: 1980. Địa chỉ: thôn Phéc Bủng I - xã Bản Phố - Bắc Hà - Lào Cai.

Ông (bà) bây giờ có quan hệ với những người, những gia đình theo đạo Tin lành

không. Nếu là người trong dòng họ gia đình thì có nhận nó không?

Tôi có quan hệ với những người, những gia đình theo đạo Tin lành. Tuy nhiên

mối quan hệ chỉ là quan hệ giữa bản thân với góc cùng đồng bào, cùng là người dân của

nước Việt Nam. Tôi tôn trọng quyền tự do theo đạo của những theo đạo Tin lành, miễn

là họ “sống tốt đời, đẹp đạo”, “kính chúa, yêu nước’, tuân thủ pháp luật. Luôn có mối

quan hệ với họ để thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết

129

đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Nếu là

người trong dòng họ gia đình thì cũng sẽ chấp nhận họ.

(Nguồn thực địa của tác giả, năm 2015)

Chính vì vậy, vấn đề là phải hóa giải mâu thuẫn, xung đột thực sự, xuất phát

từ bản chất sự việc để hướng tới một cộng đồng xã hội thống nhất, đồng thuận, cùng

hướng tới mục tiêu chung của đất nước.

4.1.3.2. Thái độ của chính quyền

Đạo Tin lành truyền vào vùng đồng bào Hmông, có hai vấn đề được đặt ra

đối với chính quyền: Một là, tồn tại một thực thể cộng đồng người theo đạo Tin

lành; Hai là, sự hiện diện của một môi trường văn hóa mới- văn hóa Tin lành. Hai

vấn đề này có liên quan chặt chẽ với nhau, đôi khi là một. Do vậy, nội dung này

luận án trình bày thái độ của chính quyền đối với đạo Tin lành, cũng là thái độ đối

với văn hóa Tin lành trong cộng đồng người Hmông.

Thời kỳ đầu, khi đạo Tin lành truyền vào vùng người Hmông, hay nói cách

khác, khi dân tộc Hmông có người theo đạo Tin lành, chính quyền ở các tỉnh miền

núi phía Bắc, trong đó có tỉnh Lào Cai rất bất ngờ và không chấp nhận. Chính

quyền cho rằng, đây không phải là đạo Tin lành mà là đạo Vàng Chứ- một thứ tà

giáo cần loại trừ trong đời sống của người Hmông. Thật ra, câu chuyện là Tin lành

hay là Vàng Chứ được tranh cãi nhau gần mười năm, mãi đến đầu những năm 1990

mới xác định là Tin lành. Tuy nhiên, khi xác định là đạo Tin lành thì không ít ý kiến

cho rằng, đây là đạo Mỹ (đạo của Mỹ) nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”

chống Việt Nam”, và do đó, càng phải loại trừ. Ở đây có điều phải nói thêm là, khi

một bộ phận người Hmông mới theo đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ đã gây ra

những khác biệt về văn hóa, làm mất ổn định xã hội ở nhiều nơi nên dẫn đến sự

130

nghi ngại của chính quyền, nhất là cấp cơ sở.

Nhận thức như vậy, nên ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Lào

Cai nói riêng đã có những kế hoạch công tác nhằm ngăn chặn việc một bộ phận

người Hmông theo Tin lành Vàng Chứ, kể cả những biện pháp hành chính. Các địa

phương cũng cố gắng vận động đồng bào theo Tin lành trở về tín ngưỡng truyền

thống, nhưng hầu như không đem lại kết quả như mong muốn. Một bộ phận người

Hmông vẫn theo Tin lành, và số người theo Tin lành càng tăng lên theo thời gian.

Trong Báo cáo kết quả 10 năm thực hiện Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng

Chính phủ trên địa bàn tỉnh Lào Cai, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã nói rõ:“Do

đạo Tin lành khi mới xuất hiện được nấp dưới hình thức tín ngưỡng thờ Vàng Chứ

và Thìn Hùng, hoạt động chưa rõ nét là tôn giáo và luôn có diễn biến phức tạp, gây

ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội. Các địa phương khi

đó chưa nhận diện được vấn đề đồng bào theo đạo Tin lành; có một số địa phương

cho rằng đồng bào bị các thế lực thù địch lôi kéo theo tà đạo,… Vì vậy, các địa

phương trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã rất lúng túng trong việc xác định hoạt động

của đồng bào thuộc tín ngưỡng hay tôn giáo,… Một số cán bộ địa phương đã nôn

nóng và dùng biện pháp hành chính ép đồng bào trở lại với tín ngưỡng truyền

thống, gây căng thẳng giữa đồng bào theo đạo với chính quyền”[7, tr.3].

Ngày 05 tháng 02 năm 2005, Chỉ thị số 01/2005/TTg của Thủ tướng Chính

phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành chỉ rõ tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn

giáo đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có việc đồng bào Hmông ở các tỉnh

miền núi phía Bắc theo đạo Tin lành. Cụ thể: (1) Nếu đồng bào thật sự có niềm tin,

tình cảm tôn giáo được sinh hoạt tôn giáo tại gia đình; (2) khi hình thành các điểm

nhóm theo làng (bản, buôn) được đăng ký sinh hoạt tôn giáo với chính quyền cơ sở;

(3) nếu các sinh hoạt tôn giáo ổn định thì sẽ bình thường như mọi hoạt động như

các tôn giáo khác. Sau này, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, ngày 08 tháng 11 năm

2012 của Chính phủ Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng,

131

tôn giáo cũng đã mở ra: công dân (cả đồng bào dân tộc thiểu số) có nhu cầu sinh

hoạt tôn giáo (tất nhiên kể cả của đạo Tin lành) có nhu cầu tập trung để thực hành

các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, bầy tỏ đức tin về tôn giáo mà mình tin theo thì

người đại diện gửi hồ sơ đăng ký sinh hoạt tôn giáo đến Ủy ban nhân dân cấp xã-

mặc dù tổ chức tôn giáo đó chưa được công nhận tư cách pháp nhân (Điều 5),…

Thực hiện chính sách đối với chính sách mới của Nhà nước đối với tôn giáo

và đối với đạo Tin lành như nói trên, thời gian vừa qua, Tỉnh Lào Cai đã ban hành

09 văn bản chỉ đạo, 03 kế hoạch về công tác đối với Tin lành ở địa phương, lập 02

tổ công tác để triển khai việc đăng ký điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo theo bản. Cùng

với các văn bản chỉ đạo, kế hoạch công tác, tỉnh Lào Cai đã tổ chức 73 hội nghị tập

huấn về công tác tôn giáo, về đạo Tin lành và công tác đối với đạo Tin lành cho

5.550 lượt cán bộ chủ chốt của tỉnh, huyện, xã, thôn bản để thống nhất việc giải

quyết và ứng xử với đạo Tin lành.

Năn 2006, chính quyền tỉnh Lào Cai cho đăng ký thí điểm 04 điểm nhóm

Tin lành thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), sau đó rút kinh nghiệm và

mở rộng việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo theo điểm nhóm. Năm 2007, các điểm còn

lại của Lào Cai đã chọn 02 điểm nhóm của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền

Bắc) cho đăng ký thí điểm cũng là để rút kinh nghiệm. Từ năm 2008 trở đi, chính

quyền tỉnh Lào Cai đã mở rộng việc cấp đăng ký điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo cho

các tổ chức, hệ phái Tin lành khi có đủ điều kiện theo quy định.

Với những việc làm như nói trên của chính quyền, đến tháng 12 năm 2014,

Lào Cai đã có 130 điểm nhóm Tin lành đã đăng ký sinh hoạt tôn giáo với 23.063

người, chiếm 96, 94% số người theo đạo Tin lành ở 227 bản của 53 xã, thị trấn

thuộc 07 huyện, thành phố, trong đó có 77 điểm nhóm với 14.968 người thuộc Hội

thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), có 37 điểm nhóm với 6.239 người thuộc Hội

thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, có 11 điểm nhóm với 1.128 người thuộc Hội

thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam,… Năm 2015, chính quyền tiếp tục cấp đăng ký

132

cho 20 điểm nhóm với 1.197 người của các Hội thánh Tin lành.

Bảng 4.2: Điểm nhóm Tin lành đã đăng ký tại Lào Cai năm 2014

STT

Huyện

Số điểm nhóm

Số lượng tín đồ

1

Bảo Yên

26

3.508

2

Bát Xát

20

3.979

3

Bảo Thắng

19

3.629

4

Sa Pa

29

6.077

5

Bắc Hà

30

5.030

6

Văn Bàn

05

449

7

TP Lào Cai

01

72

(Nguồn: Sở Nội vụ, Ban Tôn giáo tỉnh Lào Cai, năm 2014)

Ngoài việc giải quyết cho các điểm nhóm Tin lành đăng ký sinh hoạt tôn

giáo, chính quyền tỉnh Lào Cai còn xem xét tạo điều kiện cho các tổ chức Tin lành

mở các lớp bồi dưỡng thần học và pháp luật cho những người đại diện, người đứng

đầu điểm nhóm; lựa chọn người đi đào tạo chức sắc; chấp thuận mối quan hệ về tổ

chức giữa các điểm nhóm ở Lào Cai với các tổ chức Tin lành đã được Nhà nước

công nhận,...

Nói tóm lại, hoạt động của đạo Tin lành trong đồng bào Hmông ở Lào Cai

đang ổn định và được hợp thức hóa. Và như vậy, văn hóa, lối sống Tin lành trong cộng

đồng người Hmông cũng đang từng bước được chính quyền thừa nhận và tôn trọng.

4.2. Xu hướng phát triển của đạo Tin lành trong người Hmông ở

Lào Cai

4.2.1. Bối cảnh toàn cầu hóa đối với xu hướng phát triển của Tin lành

Toàn cầu hóa làm cho các quốc gia xích lại gần nhau, làm xuất hiện một

ranh giới mềm, đó là mối quan hệ liên văn hóa được mở rộng, các nền văn hóa ngày

133

càng có sự giao lưu, giao thoa, tiếp biến mạnh mẽ. Điều này cũng làm nảy sinh

nguy cơ đồng hóa văn hóa, đánh mất bản sắc ở nhiều nước. Trong quá trình toàn

cầu hóa, các đặc trưng văn hóa ngày càng giữ vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ

đến tiến trình và định hướng phát triển của từng dân tộc, trong đó Việt Nam không

phải là ngoại lệ [63, tr.3].

Toàn cầu hóa (Globalization), được hiểu như

cách thức diễn đạt ngắn gọn cái quá trình mở rộng phổ

và các mối liên hệ của sản xuất, của giao tiếp và của

công nghệ ra khắp thế giới. Quá trình mở rộng vậy đã

làm cho các hoạt động kinh tế và văn hóa đan bện vào

nhau [115, tr.21].

Trong điều kiện mở cửa hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, toàn cầu hóa

không chỉ diễn ra ở lĩnh vực kinh tế ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới mà còn

diễn ra trên lĩnh vực văn hóa - toàn cầu hóa về văn hóa. Quá trình toàn cầu hóa ở

lĩnh vực văn hóa tất yếu cũng đã và đang diễn ra trên lĩnh vực tôn giáo. Từ đây, có

một khái niệm mới xuất hiện, đó là toàn cầu hóa tôn giáo với những biến đổi và tác

động của nó.

Trong thời đại toàn cầu hóa, mọi lĩnh vực, mọi vấn đề, mọi hiện tượng đều

thay đổi nhanh chóng, chúng ta cần nhận thức những hiện thực mới đang diễn ra,

trong đó có tôn giáo. Đặt trong bối cảnh hiện đại hóa gắn với toàn cầu hóa, mối

quan hệ tác động qua lại giữa văn hóa và tôn giáo càng được thể hiện, nhất là vai trò

của tôn giáo trong việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.

Chính vì vậy, trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta

xác định không thể bỏ qua những giá trị tâm linh và đạo đức của các tôn giáo có mặt

ở Việt Nam. Bộ Chính trị cũng đã công nhận tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài.

Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Vấn đề

đặt ra là cần có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền thống dân tộc với giá trị tâm

134

linh và đạo đức của tôn giáo trong giai đoạn, tình hình mới hiện nay của đất nước.

Toàn cầu hóa tôn giáo là quá trình chuyển từ tính quốc tế, vốn được hiểu

theo nghĩa liên nhà nước sang tính xuyên quốc gia: các chiến lược bành trướng tôn

giáo không còn hoặc ít liên quan đến các quyền bá chủ về chính trị và thường phụ

thuộc vào phạm vi của các logic mới, mà những logic này không còn phụ thuộc vào

mối quan hệ giữa các nhà nước nữa [45, tr. 9-17] .

Toàn cầu hóa tôn giáo đang tạo ra những cơ hội và thách thức cho mọi tôn

giáo có thể quảng bá chính mình, mở rộng ảnh hưởng của mình, chiếm ưu thế hơn

so với các tôn giáo khác.

4.2.2. Đạo Tin lành trong vùng đồng bào Hmông trong thời gian tới

Do những đặc điểm riêng của mình, đạo Tin lành khá thích hợp với các dân

tộc thiểu số (tộc người) không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, trong khi đó Việt

Nam lại là quốc gia có nhiều dân tộc thiểu số. Cho nên, những năm tới, đạo Tin

lành sẽ mở rộng hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,

Tây Bắc, trong đó có dân tộc Hmông ở tỉnh Lào Cai. Đạo Tin lành vẫn tiếp tục phát

triển, phân tách thành nhiều điểm nhóm nhỏ, và có hiện tượng chuyển đổi từ hệ phái

này sang hệ phái khác.

Truyền giáo là hoạt động của các tôn giáo, nhưng đối với đạo Tin lành đây

là một hoạt động đặc trưng nhất ngay từ khi tôn giáo này ra đời. Tin lành cũng xác

định một trong những đối tượng truyền đạo là dân tộc thiểu số ở những vùng xa xôi,

nơi mà các tôn giáo khác chưa phát triển tới. Trong quá trình đó, Tin lành còn

hướng mục tiêu vào những đối tượng là thanh niên, thiếu niên, phụ nữ; đây là

những đối tượng có ưu thế về cả số lượng và chất lượng. Ngoài ra, trẻ em là con em

của người Hmông theo Tin lành rất được quan tâm, đây có thể coi là thế hệ F2, F3

của cộng đồng người Hmông theo Tin lành, được đầu tư ăn học bài bản, tạo nên

một nền tảng vững chắc. Khi số lượng tăng dần lên, nơi sinh hoạt tôn giáo trở nên

chật hẹp thì sẽ tách thành những nhóm nhỏ- một đặc trưng sinh hoạt tôn giáo của

135

đạo Tin lành.

Hiện nay ở Lào Cai có sáu tổ chức, hệ phái đang hoạt động, chính vì vậy

vẫn xảy ra trường hợp tín đồ chuyển từ hệ phái này sang hệ phái khác. Việc chuyển

đổi này cũng có nhiều nguyên nhân: (1). Có thể là chính các hệ phái với những ưu

điểm của mình được sử dụng để lôi kéo tín đồ. (2). Do đặc tính di cư của tộc người,

khi một hộ gia đình người Hmông chuyển cư đến nơi khác sinh sống thì chuyển

theo hệ phái tại địa bàn mình để tiện cho việc sinh hoạt và đi lại.

- Hoạt động của đạo Tin lành dần đi vào ổn định, đúng pháp luật.

Đánh dấu từ Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về một số

công tác đối với đạo Tin lành, chính quyền các cấp tỉnh Lào Cai đã từng bước cho

đăng ký điểm nhóm sinh hoạt khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện và từng bước hướng

dẫn các điểm nhóm khác hoàn chỉnh hồ sơ để được cấp phép. Chính vì thế, hoạt

động của đạo Tin lành ở Lào Cai ngày càng đi vào ổn định, nề nếp, tuân thủ pháp

luật, hạn chế tối đa những vụ việc phức tạp. Điều này cũng làm cho tín đồ người

Hmông ở Lào Cai tin tưởng vào chính s ách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, khi

các sinh hoạt của đạo Tin lành đi vào ổn định, các mặt tiêu cực do quá trình truyền

đạo và theo đạo giảm đi, các yếu tố tích cực về xã hội, về văn hóa, lối sống bộc lộ

và phát huy, tạo ra ảnh hưởng quan trọng trong đời sống của người Hmông ở các

tỉnh miền núi phía Bắc nói chung cũng như ở tỉnh Lào Cai nói riêng.

4.3. Một số nhận thức mới qua việc biến đổi văn hóa của người

Hmông theo Tin lành

4.3.1. Biến đổi văn hóa, tín ngưỡng

Thứ nhất, biến đổi tôn giáo tín ngưỡng là một hiện tượng khách quan: Khi

kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống tâm linh của con người

cũng không thể giữ mãi như cũ mà phải biến đổi theo. Tuy nhiên, sự biến đổi diễn

ra nhanh hay chậm và theo xu hướng nào lại phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tác

136

động của bên trong và từ bên ngoài.

Ở đây có điều cần lưu ý, việc đồng bào dân tộc thiểu số tin theo các tôn giáo

là nằm trong tiến trình phát triển của tâm linh tôn giáo, đi từ tôn giáo đa thần (tôn

giáo nguyên thủy) đến tôn giáo nhất thần (Công giáo, Tin Lành, Phật giáo,…)

không riêng ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới, không phải bây giờ mà đã

diễn ra từ lâu.

Thứ hai, việc biến đổi văn hóa xuất phát từ tín ngưỡng truyền thống của

dân tộc Hmông:

Sự biến đổi về văn hóa nói chung và trong tang ma, cưới xin của người

Hmông nói riêng đều do sự thay đổi tôn giáo, từ tín ngưỡng truyền thống sang theo

đạo Tin lành. Sự thay đổi tôn giáo do tập hợp nhiều nguyên nhân mà tác giả luận án

đã trình bày. Văn hóa truyền thống của dân tộc Hmông nhìn chung là tín ngưỡng

đơn giản nhưng một số phong tục tập quán gắn với tín ngưỡng lại quá nhiều, quá

rườm rà, khắt khe, có mặt trở thành lực cản, tốn kém. Đến một lúc nào đó, nhất là

khi cuộc sống gặp khó khăn thì những phong tục tập quán gắn với tín ngưỡng

truyền thống trở thành gánh nặng cho cuộc sống, cản trở sự tiến bộ, phát triển. Từ

đó tạo ra sự khủng hoảng trong cộng đồng người Hmông, dẫn đến việc họ tìm đến

chỗ dựa tinh thần, tâm linh mới. Các nghi lễ cầu cúng truyền thống của người

Hmông khi thực hiện rất tốn kém. Ngoài khoản chi phí vật chất có thể tính ra tiền

còn là thời gian và công sức phục vụ cho việc nấu nướng, tiến hành nghi lễ và ăn

uống. Tổng các khoản chi phí này là một gánh nặng đối với nhiều hộ gia đình người

Hmông, nhất là đối với các hộ gia đình nghèo, neo đơn. Vì vậy, nhiều người Hmông

đã tránh phải thực hiện các nghi lễ tốn kém thì họ đã lựa chọn theo Tin lành.

Thứ ba, biến đổi văn hóa từ tín ngưỡng truyền thống sang theo Tin lành là

sự tiến bộ:

Những mặt tiến bộ về văn hóa, lối sống của đạo Tin lành, trong đó có việc

tiến bộ trong tang ma và cưới xin là những điều cần được nhìn nhận. Những mặt

137

tiến bộ càng được bộc lộ và củng cố ở những nơi theo đạo Tin lành ổn định, có sự

hướng dẫn và giúp đỡ của chính quyền trong việc thực hiện chính sách đối với tôn

giáo. Ở những nơi này đã giảm đi, hoặc không còn va chạm, xung đột về văn hóa.

Cần nhận thấy rằng, việc thay đổi văn hóa, trong đó có tập tục về cưới xin, ma chay

dẫn đến va chạm, thậm chí xung đột văn hóa trên cơ sở ba yếu tố: (1). Trước hết, sự

cực đoan của đạo Tin lành; (2). Tâm lý tộc người, trong đó có người Hmông là rõ

ràng và dứt khoát về miền tin, đã tin thì không bỏ; (3). Tâm lý nhất thời mang tính

phổ biến của mọi sự thay đổi, trong đó có sự thay đổi về đức tin tôn giáo thường

hay biểu hiện cực đoan.

Thứ tư, khủng hoảng niềm tin, suy giảm ảnh huỏng của các thiết chế xã

hội truyền thống và bất bình đẳng xã hội:

Một yếu tố quan trọng dẫn đến sự suy giảm uy tín của tín ngưỡng truyền

thống là sự bất ổn của các thiết chế xã hội cổ truyền, cùng với sự khủng hoảng niềm

tin và những hạn chế trong sinh hoạt văn hóa tinh thần. Chính điều này đã dẫn đến

sự thay đổi niềm tin tôn giáo trong người dân, mà đi tiên phong chính là phụ nữ,

thanh niên, những người có khó khăn về kinh tế.

4.3.2. Về văn hóa của người Hmông theo Tin lành

Thứ nhất, dân tộc Hmông là một dân tộc có nhiều nét đặc thù về tộc người

và văn hóa tộc người:

Do những đặc điểm riêng về lịch sử và tộc người, văn hoá của người

Hmông có một hành trang rất phong phú và độc đáo, từ văn hoá vật chất đến văn

hoá tinh thần. Điều đó đã góp phần tạo nên sự đa dạng và phong phú của nền văn

hoá Việt Nam. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, văn hoá, tín

ngưỡng truyền thống của tộc người Hmông vẫn bảo lưu được bản sắc riêng. Tuy

nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, sự lưu giữ bền chặt và hầu như ít có sự thay đổi,

văn hoá, tín ngưỡng của người Hmông đã và đang bộc lộ những hạn chế không nhỏ

138

trong nhiều tập quán, như việc cưới xin, ma chay,… còn nặng nề, tốn kém, trở

thành gánh nặng cho mỗi gia đình. Chính những điều đó đã làm suy giảm “kháng

thể” văn hóa, tạo cơ hội cho đạo Tin lành thâm nhập, phát triển.

Thứ hai, đạo Tin lành trong quá trình truyền giáo ở Việt Nam đã gặp cơ hội

thuận lợi để mở rộng lực lượng đến vùng đồng bào dân tộc Hmông:

Việc truyền đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam

đã được các tổ chức Tin lành thực hiện từ đầu thế kỷ XX, riêng đối với người

Hmông từ những năm 70 của thế kỷ XX, nhưng đến giữa những năm tám mươi của

thế kỷ XX, gặp môi trường thuận lợi về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, tư

tưởng,… đạo Tin lành đã thâm nhập, lan tỏa rộng và phát triển mạnh. Đạo Tin lành

trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai hiện nay cũng là một ví dụ điển hình của sự

chuyển đổi tôn giáo ở Việt Nam, và ở đó cũng đã và đang diễn ra một cuộc tranh

chấp giữa văn hóa, tín ngưỡng truyền thống với văn hóa, lối sống Tin lành.

Thứ ba, Sự chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành của

người Hmông:

Bên cạnh bộ phận người Hmông theo Công giáo nhưng còn có những người

Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai, với số lượng là 24.166 người, chiếm

khoảng 17% tổng số người Hmông của tỉnh. Số lượng người Hmông theo đạo Tin

lành có xu hướng tăng lên, nói cách khác, thay đổi theo đạo Tin lành là xu hướng

chính trong tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay của người Hmông ở Lào Cai nói riêng và

cả nước nói chung.

Hoạt động của đạo Tin lành trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai được đẩy

mạnh và mở rộng, nhất là sau khi có Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 4 tháng 2 năm

2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành. Đối với

người Hmông đã theo đạo Tin lành trong một thời gian ở Lào Cai và có nhu cầu

tín ngưỡng thực sự, thì hướng dẫn đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo ở địa điểm

139

thích hợp.

Thứ tư, Tin lành đã tạo ra những giá trị văn hóa không chỉ cho cộng đồng

tôn giáo của mình mà còn làm đa dạng không gian văn hóa của dân tộc Hmông:

Sự phát triển lan rộng của đạo Tin lành, nhất là trong thời kỳ đầu đã gây ra

nhiều tác động tiêu cực như xóa bỏ tín ngưỡng, văn hóa truyền thống, dẫn đến sự

xung đột văn hóa gay gắt với văn hóa tín ngưỡng truyền thống, gây chia rẽ dòng họ,

gia đình, làng bản thành hai bộ phận theo và không theo đạo Tin lành, ảnh hưởng

tiêu cực đến tính cố kết cộng đồng và sự cố kết dân tộc. Tuy nhiên, dù nói thế nào đi

nữa thì sự xuất hiện của đạo Tin lành, cùng với thời gian, đã đem đến những giá trị

tiến bộ nhất định về văn hóa và xã hội, tạo nên khá nhiều sự chuyển biến tích cực

trong cộng đồng người Hmông. Những mặt tiêu cực của việc truyền đạo và theo đạo

Tin lành ngày càng giảm đi, những mặt tích cực của việc người Hmông theo đạo

Tin lành ngày càng được thể hiện, nhất là những nơi Tin lành hoạt động ổn định và

được chính quyền hướng dẫn, quản lý bằng pháp luật.

Thứ năm, ảnh hưởng của chuyển đổi tín ngưỡng tôn giáo:

Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới tác động của sự cải đạo theo

Tin lành của người Hmông. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường nhấn mạnh

nhiều đến tác động tiêu cực về chính trị - xã hội hơn là văn hóa của việc cải đạo. Đa

số các nghiên cứu đều nhấn mạnh rằng nguyên nhân chủ yếu khiến người Hmông

theo đạo là do bị Tin lành lôi kéo, bị dụ dỗ, mua chuộc; các đối tượng lợi dụng

truyền đạo để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Trong luận án, nhấn mạnh nguyên nhân manng tính then chốt khiến người

Hmông theo đạo Tin lành xuất phát từ sự suy giảm ảnh hưởng của văn hóa truyền

thống, từ đó mới là điểm yếu để lợi dụng.

4.4. Một số giải pháp đối với văn hóa của người Hmông theo đạo Tin

lành ở tỉnh Lào Cai

4.4.1. Đối với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của người Hmông

Trước tiên, cần phải tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện

140

văn hóa truyền thống của tộc người Hmông ở tỉnh Lào Cai. Trên cơ sở đó đánh giá

lại toàn bộ các giá trị văn hóa truyền thống của người Hmông để lựa chọn phương

thức, biện pháp giữ gìn và phát huy phù hợp đối với từng loại hình. Việc nghiên cứu

văn hoá truyền thống dân tộc Hmông ở Lào Cai cần phải được tiến hành theo những

định hướng sau:

- Những giá trị vĩnh cửu, tiến bộ thì bảo tồn, tạo mọi điều kiện phát triển và

phát huy tác dụng, như các lễ hội Đa Zồng, Sâu Su, Gầu Tào,… các điệu múa khèn,

các làn điệu dân ca Hmông, các gia phả dòng họ,…

- Những giá trị cũ, có thể cải biến, chắt lọc những yếu tố tích cực để phục

vụ cho sự phát triển. Chẳng hạn trong phong tục thờ cúng tổ tiên, tục làm vía (cho

người ốm, người già, trẻ mới sinh),… cần phải giữ lại những yếu tố tích cực như

lòng biết ơn tổ tiên, tính cố kết cộng đồng,… nhưng phải cải biến để tránh lãng phí,

tốn kém thời gian và tiền của.

- Những yếu tố văn hóa tuy cũ, nhưng không gây cản trở cho sự phát triển,

còn đáp ứng được một phần nhu cầu trong đời sống tinh thần của nhân dân thì

không nên vận động xóa bỏ. Chẳng hạn, như y phục giàu màu sắc, hoa văn phong

phú và cả đồ trang sức của người Hmông cũng là những nét đẹp truyền thống, vừa

nói lên tính cách tâm lý vừa thể hiện trình độ thẩm mỹ của người Hmông; tổ chức

dòng họ, vai trò của trưởng họ, trưởng bản không những vô hại trong xã hội mới mà

còn có thể có những đóng góp cho sự phát triển.

- Những yếu tố văn hóa thời gây cản trở cho sự phát triển thì phải tổ chức

vận động, thuyết phục để tự bản thân người dân thấy rõ tác hại và loại bỏ như tục lệ

tang ma kéo dài, chữa bệnh bằng các hình thức phép thuật, ma thuật làm hại,...

- Trong công tác bảo tồn, giữ gìn, phát huy và làm giàu văn hoá truyền

thống của người Hmông ở Lào Cai, việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội

ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn văn hoá nhằm đáp ứng yêu cầu công tác hiện

141

nay là một đòi hỏi cấp bách. Phải quan tâm thích đáng đến các nghệ nhân hoạt động

văn hoá và văn nghệ sĩ hoạt động trên lĩnh vực bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá

truyền thống và phải coi họ là vốn quí trong công tác này.

- Xây dựng một thiết chế văn hoá mang đầy đủ tính chất dân tộc, khoa học

và đại chúng ở các dân tộc ở miền núi nói chung, trong đó có dân tộc Hmông trên địa

bàn tỉnh Lào Cai nói riêng, để họ ngày càng có cơ hội, điều kiện tham gia vào công tác

xã hội hoá văn hoá góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người.

- Tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Hmông, có những biện

pháp thiết thực để khắc phục sự hụt hẫng, đứt đoạn với văn hóa truyền thống trên cơ

sở kế thừa, phát huy truyền thống nhân ái, nghĩa tình, thuần phong mỹ tục đi đôi với

bài trừ mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội.

4.4.2. Đối với việc chấp nhận và phát huy văn hóa, lối sống Tin lành

- Trước hết, cần có sự thống nhất trong nhận thức về đạo Tin lành. Phải

thấy , trong điều kiện mở của và hội nhập, nhất là sự bùng nổ của khoa học công

nghệ thông tin thì những hoạt động truyền giáo càng trở thành bình thường, không

những thế việc theo đạo, cải đạo là quyền của mọi người được pháp luật bảo hộ;

việc biến đổi văn hóa cũng là hệ quả tất yếu của thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo.

Trong khoảng gần ba thập kỷ, Tin lành truyền vào người Hmông, đã có một số Chỉ

thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đối với đạo Tin lành và vấn đề truyền đạo và

theo đạo Tin lành của các tộc người thiểu số trong đó có người Hmông. Hơn nữa,

các địa phương cũng đã tiến hành những điều tra nghiên cứu để trên cơ sở đó có thể

tìm ra giải pháp cho vấn đề này. Nhưng cho tới nay, có thể nói rằng, nhận thức về

Tin lành của cán bộ đảng, chính quyền địa phương vẫn có nhiều bất cập. Những bất

cập này gợi lên yêu cầu cần phải tạo nên sự thống nhất trong nhận thức về đạo Tin

lành. Nếu không tạo ra sự thống nhất này sẽ khó có được cách giải quyết và quản lý tốt

vấn đề tôn giáo, trong đó có đạo Tin lành nhìn từ các chiều cạnh, kể cả mặt văn hóa.

- Cần có sự đánh giá khách quan những tác động hai mặt của đạo Tin lành

142

trong đời sống dân tộc Hmông. Cho tới nay, những nhận xét, đánh giá về ảnh hưởng

của Tin lành trong người Hmông chủ yếu nhấn mạnh tới những ảnh hưởng tiêu cực.

Cách đánh giá này tác động không tốt tới một phần mối quan hệ giữa người Hmông

vẫn một bên giữ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống với người Hmông theo Tin lành,

cũng như thái độ ứng xử trong cách giải quyết vấn đề. Vì vậy, cần có những nhận

xét, đánh giá một cách khách quan và đầy đủ cả hai mặt của đạo Tin lành, để từ đó

biết chủ động tác động phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.

- Cần giúp chính quyền địa phương có được sự hiểu biết đầy đủ về những

nguyên nhân và bản chất của vấn đề Tin lành trong người Hmông. Với các hình

thức để giúp cho địa phương có được sự hiểu biết đúng đắn và đầy đủ nguyên nhân,

bản chất của vấn đề trên cơ sở đó có thể đề ra được những giải pháp cho việc giải

quyết phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng

như các đặc điểm riêng của địa phương mình.

- Hướng điều chỉnh để các tổ chức Tin lành sinh hoạt tôn giáo hòa nhập với

văn hóa tộc người Hmông. Đạo Tin lành trong cộng đồng người Hmông ở Lào Cai

đã và đang gây xung đột với văn hóa truyền thống của tộc người, mà nguyên nhân

chính là sự khác nhau trong đức tin - hệ tư tưởng dẫn đến thay đổi trong cách thức

sinh hoạt văn hóa, tôn giáo. Khi thực hành các nghi thức tôn giáo đã làm cho người

Hmông mờ nhạt dần nếp sống văn hóa truyền thống của tộc người gây ra mâu thuẫn

trong cộng đồng.

Trong bản thân đạo Tin lành cũng có những giá trị văn hóa tốt đẹp, những

sẽ nâng cao giá trị hơn nữa nếu có sự điều chỉnh, vận dụng, kết hợp với những giá

trị văn hóa truyền thống của người Hmông. Đây là điểm cần lưu ý đối với những

người làm chính sách tôn giáo - dân tộc - văn hóa nhằm hướng tới sự hài hòa, ổn

định, phát triển xã hội.

- Cần quán triệt tốt hơn nữa nội dung của Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của

Thủ tướng Chính phủ về công tác đối với đạo Tin lành. Tạo điều kiện cho đồng bào

143

Hmông theo Tin lành sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng quy định của pháp

luật, thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước. Tăng cường mối liên hệ

giữa Đảng, chính quyền với quần chúng có đạo, khuyến khích quần chúng tín đồ

phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, gắn bó với đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây

dựng đất nước.

- Nhà nước phải xây dựng cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý nhằm huy

động nguồn lực của toàn xã hội cho công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị

văn hoá truyền thống của các dân tộc. Hoàn thiện và bổ sung các chính sách cần thiết

để nâng cao nhu cầu hưởng thụ văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu, duy trì đều đặn

các chương trình phát thanh, truyền hình đến từng khu dân cư, làng bản.

- Tăng cường quản lý nhà nước về văn hoá trên lĩnh vực bảo tồn và phát

huy văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, gắn với việc thực hiện đại đoàn kết

dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xử

lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật làm tổn hại đến văn hoá truyền thống.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quản lý nhà nước của chính quyền,

đặc biệt là củng cố bộ máy cơ quan quản lý văn hoá thông tin thống nhất từ Trung

ương xuống địa phương với một cơ cấu hợp lý. Các đơn vị chuyên trách về văn

hoá cần tăng cường về nhân lực để có thể quản lý có hiểu quả mảng văn hoá ở

các dân tộc thiểu số nói chung cũng như đối với cộng đồng người Hmông ở Lào

Cai nói riêng.

Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo là:

Khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.

Đảng và Nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không

tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; đồng thời nghiêm cấm mọi hành động lợi dụng

tín ngưỡng, tôn giáo. Đối với đạo Tin lành, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà

nước cũng rất rõ, thể hiện qua các văn bản như: Thông báo 184 (1998), Thông báo

255 (1999) của Bộ Chính trị khóa VIII, Quyết định 11 (2000) của Thủ tướng Chính

144

phủ, Thông báo số 160- TB/TƯ của Ban Bí thư (khóa IX) về chủ trương công tác

đối với đạo Tin lành, ngày 15/11/2004, Chỉ thị Số: 01/2005/ CT-TTg của Thủ tướng

Chính phủ.

4.4.3. Một số khuyến nghị

- Cần có sự thống nhất trong nhận thức về đạo Tin lành và các hệ phái của

đạo Tin lành cũng như bản chất của việc người Hmông theo đạo và có sự đánh giá

khách quan những tác động hai mặt của đạo Tin lành trong cộng đồng người

Hmông ở Việt Nam nói chung và ở Lào Cai nói riêng.

- Chính phủ có những văn bản chính thức đề cập đến việc các nhóm Tin

lành sinh hoạt theo giới và tổ chức các nghi lễ tôn giáo ở các nhóm đã đăng ký.

- Ban Tôn giáo – Bộ Nội vụ có những hướng dẫn cụ thể liên quan đến công

tác tôn giáo là đạo Tin lành như tổ chức sinh hoạt tôn giáo của các điểm nhóm đã

hoặc chưa được công nhận; vấn đề xây dựng nhà nguyện, sử dụng kinh sách, đào

tạo chức sắc, phong chức phong phẩm.

- Phát hành những tài liệu được biên tập ngắn gọn, xúc tích về chính sách,

pháp luật đối với đạo Tin lành để quần chúng nhân dân và người làm công tác dân

tộc - tôn giáo - văn hóa dễ tiếp thu.

- Điều chỉnh nội dung chương trình tiếng dân tộc - tiếng Hmông ở Đài

Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam cho phù hợp với nhu cầu, nhận

thức của người dân.

- Đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi nói chung, ở tỉnh

Lào Cai nói riêng, thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần cho người dân.

- Có chính sách đặc thù đối với cán bộ làm công tác dân tộc - tôn giáo từ

tập huấn, nghiên cứu, học tập về chuyên môn, nghiệp vụ; kết hợp với quy hoạch

đào tạo.

Tiểu kết chương 4

Người Hmông là cộng đồng dân tộc có số lượng đông trong các dân tộc thiểu

145

số ở Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân, một bộ phận đồng bào

Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có người Hmông ở tỉnh Lao Cai theo

đạo Tin lành. Cùng với thời gian đến nay, người Hmông theo Tin lành là một thực

thể cần chủ động đối diện, ứng xử. Tới đây, trong những bối cảnh mới, cả nguyên

nhân chủ quan và khách quan, số người Hmông ở Việt Nam, trong đó có người

hmông ở tỉnh Lao Cai theo đạo Tin lành vẫn có xu hướng tăng lên.

Quá trình một bộ phận người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành là quá

trình biến đổi về văn hóa so với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống. Bên cạnh mặt

tích cực, tiến bộ về văn hóa mà Tin lành đưa tới, còn có những mặt hạn chế, thậm

chí tiêu cực. Quá trình đó đặt ra nhiều vấn đề liên quan tâm, trước hết là mối quan

hệ giữa văn hóa lối sống của văn hóa tín ngưỡng truyền thống của người Hmông

với văn hóa lối sống Tin lành, là các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo và văn

hóa rất tế nhị và nhậy cảm.

Những vấn đề đặt ra từ việc biến đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin

lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở tỉnh Lào Cai nói riêng cần được

đánh giá một cách khách quan, thận trọng của các cơ quan có liên quan và cần được

ứng xử đúng đắn của các cấp chính quyền. Đó là việc gìn giữ và phát huy bản sắc

văn hóa truyền thống của người Hmông, là việc chấp nhận và phát huy văn hóa, lối

sống Tin lành, là sự giải quyết hài hòa tạo mối quan hệ, giao thoa tiếp biến tích cực

146

giữa văn hóa truyền thống của người Hmông với văn hóa,lối sống Tin lành.

KẾT LUẬN

1. Người Hmông ở Việt Nam là một trong những dân tộc thiểu số có số

lượng dân cư khá đông đảo. Và từ con số không rất tròn, tức là không đến đạo Tin

lành, vào những năm 1980, người Hmông ở Việt Nam, trong đó có người Hmông ở

Lào Cai đã theo đạo Tin lành- chủ yếu là các hình thức truyền đạo gián tiếp qua đài,

băng đĩa và kinh sách. Cùng với thời gian, đến nay, đạo Tin lành đã là một thực thể

tồn tại trong vùng đồng bào Hmông, cùng với niềm tin, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo

là một không gian văn hóa riêng- văn hóa, lối sống Tin lành.

Người Hmông có lịch sử tộc người rất đặc thù và riêng khác. Đặc biệt,

người Hmông luôn có ý thức gìn giữ và làm giàu những giá trị văn hóa độc đáo,

giàu bản sắc. Chính điều đó, văn hóa của người Hmông là mắt xích của đa dạng văn

hóa Việt Nam. Văn hóa là một phạm trù mang tính ổn định tương đối, trong nó luôn

có sự vận động mang tính tiệm tiến để phù hợp với hoàn cảnh, thời đại. Văn hóa

truyền thống của người Hmông ở Lào Cai cũng vậy, cũng có những chuyển biến

dần thích ứng với yêu cầu mới. Có nhiều yếu tố tác động dẫn đến sự biến đổi của

văn hóa người Hmông, trong đó có đạo Tin lành.

2. Một cách phổ biến, trong mọi tồn tại là tính hai mặt, bên cạnh sự tiến bộ

có yếu tố lạc hậu, bên cạnh tích cực có mặt hạn chế, bên cạnh mặt tốt có mặt xấu,

bên cạnh điều thuận có điều nghịch,… Cũng vậy, việc một bộ phận người Hông nói

chung và người Hmông ở Lào Cai nói riêng chuyển sang theo đạo Tin lành, đã tạo

ra một không gian văn hóa mới- văn hóa Tin lành, bao gồm cả hai mặt tích cực và

tiêu cực. Chúng tôi xin nhắc lại để nhấn mạnh những mặt tích cực, hạn chế của đạo

Tin lành, đúng hơn là của việc biến đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa, lối

sống Tin lành.

Về mặt tích cực, người Hmông theo Tin lành đã xóa bỏ được các hủ tục,

nhất là trong ma chay, cưới xin,…- một công viêc mà nhiều cuộc vận động, với sự

vào cuộc của chính quyền, ban ngành đoàn thể, sự nỗ lực của ngay chính người

147

Hmông nhưng hầu như không đem lại kết quả như mong muốn. Ngoài ra, người

Hmông theo đạo Tin lành đã hình thành nếp sống mang tính xã hội cao: tuân thủ

pháp luật, chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định

của địa phương, sống tiết kiệm, tích cực lao động sản xuất, và nhất là tiếp thu cái-

sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, bỏ được các thói quen xấu, như uống rượi và hút

thuốc, kể cả thuôc phiện, tham gia tích cực các hoạt động xã hội, nhất là từ thiện xã

hội. Tuy nhiên, việc theo đạo Tin lành, đề cao đức tin nên có xu hướng loại bỏ, đôi

khi đi đến phủ nhận sách trơn văn hóa truyền thống, nhất là những điều liên quan

đến tín ngưỡng của người Hmông. Điều này đã tạo ra những xung đột văn hóa, tác

động tiêu cực đến đời sống xã hội của cộng đồng, nhất là giai đoạn đầu người

Hmông mới theo Tin lành. Điều đáng quan tâm là cùng với thời gian, mặt tiêu cực

giảm đi và loại trừ, mặt tích cực được phát huy mà trở thành xu hướng chính trong

cộng đồng người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai. Một bộ phận người Hmông theo

Tin lành ở Lào Cai đã hình thành nên một bức tranh văn hóa mang mầu sắc tôn giáo

hiện đại, tạo sự khác biệt với văn hóa truyền thống. Điều này vừa góp phần làm sự

đa dạng văn hóa của người Hmông, vừa là yếu tố gây nên những xung đột, mâu

thuẫn trong xã hội của người Hmông tại Lào Cai.

3. Gần 30 năm tồn tại, mặc dù trong một thời gian khá dài không được chấp

nhận, nhưng đạo Tin lành vẫn tồn tại. Tác giả luận án xin nhắc lại số lượng người

Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành với 25.830 (2015) người trên tổng số 137.649

người Hmông của tỉnh, chiếm 19.1%. Như vậy, người Hmông dù có theo đạo bằng

cách nào, trực tiếp hay gián tiếp, từ niềm tin hay vì lý do khuyến khích vật chất, dù

tự giác hay nghe theo lời khuyên dụ, thì đạo Tin lành và văn hóa Tin lành đang là

một tồn tại không thể phủ nhận,… Nói cách khác, người Hmông theo Tin lành đã

hình thành đức tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo và nhu cầu sinh hoạt tôn giáo- có thật

và hợp lý. Do đó, cần xác định một thái độ ứng xử khách quan và hợp lý đối với đạo

Tin lành và văn hóa Tin lành ở vùng người Hmông nói riêng và vùng đồng bào dân

tộc thiểu số nước ta nói chung.

Thái độ đối với cộng đồng người Hmông theo Tin lành, rộng ra là văn hóa

148

của người Hmông theo Tin lành, được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, xem xét kỹ

lưỡng và có chính sách đúng đắn. Đó là Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tưỡng

Chính phủ ban hành ngày 04 tháng 02 năm 2005. Với Chỉ thị số 01 Chính phủ đã

nhìn nhận việc một bộ phận người Hmông theo Tin lành, theo đó nhìn nhận văn

hóa, lối sống của Tin lành trong người Hmông. Tất nhiên là nhìn nhận và phát huy

mặt tích cực, hạn chế giảm thiểu những mặt tiêu cực.

Cùng với sự nỗ lực của chính quyền trong việc thực hiện chính sách tôn

giáo, các hoạt động của đạo Tin lành dần đi vào ổn định, các mặt tích cực của văn

hóa, lối sống Tin lành được chấp nhận càng bộc lộ và phát huy. Thời gian tới, bản

thân những người Hmông theo Tin lành cần phải phát huy; những người vẫn giữ

văn hóa, tín ngưỡng truyền thống cần có thái độ ứng xử tôn trọng, nhìn nhận văn

hóa, lối sống của đạo Tin lành trong cộng đồng dân tộc Hmông; các cấp chính

quyền cần thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Chính vì vậy, việc hoạch định và thực

hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo và văn hóa dựa trên tình hình thực tế, linh hoạt

điều chỉnh phỉnh phù hợp sẽ góp phần phát huy những giá trị mà Tin lành đem lại

cho văn hóa của người Hmông; hạn chế những khiếm khuyết của đạo Tin lành đối

với văn hóa truyền thống; đồng thời tăng cường bản sắc văn hóa dân tộc Hmông tại

Lào Cai.

4. Đạo Tin lành và văn hóa lối sống Tin lành, cùng thời gian đang là thực

thể tồn tại trong đồng bào Hmông, cả tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, nhận thức và

ứng xử với đạo Tin lành và văn hóa lối sống Tin lành trong vùng đồng bào Hmông

nói chung và người Hmông ở tỉnh Lào Cai nói riêng vẫn còn những thành kiến, đố

kỵ, từ cả hai phía: người Hmông giữ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống và chính

quyền, nhất là ở cơ sở. Do vậy, trong thời gian tới, điều quan trọng trước hết đối với

hệ thống chính trị là phải quán triệt và thực hiện tốt những chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo, đối với dân tộc, đối với văn hóa, nhất là

chính sách đối với đạo Tin lành theo Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng

Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành, xóa bỏ thành kiến, mặc cảm với

đạo Tin lành. Chính quyền phải đứng ra giữ vai trò hòa giải và tháo gỡ những va

149

chạm, thậm chí những xung đột về văn hóa.

Đối với các tổ chức và cá nhân Tin lành phải thực hiện đúng chính sách tôn

giáo, chính sách dân tộc và chính sách về văn hóa của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt

các tổ chức, cá nhân Tin lành phải tôn trọng văn hóa và tín ngưỡng truyền thống,

không được vì lý do đức tin mà “phủ nhận sạch trơn” văn hóa, tín ngưỡng truyền

thống, phải đoàn kết giữa người theo đạo Tin lành và người không theo đạo Tin

lành trong khối đại đoàn kết dân tộc để xây dựng cộng đồng người Hmông ở Lào

Cai đoàn kết hòa hợp, giữ được sắc thái riêng của người Hmông trong sự đa dạng

về văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo cả các tộc người ở Việt Nam. Các chức sắc, chức

việc, những người đứng đầu các điểm nhóm Tin lành phải là người tiêu biểu và

gương mẫu trong việc giáo dục và hướng dẫn tín đồ trong việc thực hiện chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cũng như trong mối quan

hệ với cộng đồng dân tộc và với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của người

Hmông.

5. Từ khi người Hmông có một bộ phận theo đạo Tin lành, đã nhận được

sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu tập trung

chủ yếu ở các góc độ Chính trị học, Tôn giáo học, Triết học. Dưới giác độ Nhân học

thì chưa nhiều và mới ở tầm vĩ mô, chưa có nghiên cứu điểm, chưa xem xét một

cách hệ thống những biến đổi ở các dạng thức trong văn hóa từ văn hóa vật chất,

văn hóa xã hội, văn hóa tâm linh của người Hmông theo đạo Tin lành. Do vậy,

chúng tôi mong muốn những kết quả thu được của luận án sẽ đáp ứng được mục

đính, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Bên cạnh đó còn có những vấn đề mà

luận án chưa giải quyết thấu đáo, những thiếu sót và hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu

150

và sự đóng góp của các nhà khoa học./.

CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Nguyễn Quỳnh Trâm, Nước Mỹ và đạo Tin lành, Táp chí Công tác

Tôn giáo, số 03/2011.

2. Nguyễn Quỳnh Trâm, Nguyễn Thị Lan Phương, Tổng quan về

một bộ phận đồng bào Mông theo đạo Tin Lành,Tạp chí Công tác tôn

giáo, số 6/ 2013.

3. Vũ Hồng Hải, Nguyễn Quỳnh Trâm, Vấn đề người Mông theo Tin

Lành ở huyện Sapa, Lào Cai, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 202/2013.

4. Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Quỳnh Trâm, Giáo dục Phật giáo với

phát triển bền vững, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10(136)/2014.

5. Trần Minh Đức, Nguyễn Quỳnh Trâm, Bảo đảm quyền của các dân

tộc thiểu số ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số

222/2014.

6. Nguyễn Quỳnh Trâm, Các mối quan hệ xã hội của người Hômg theo

Tin lành ở tỉnh Lào Cai), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9 (186)/2015.

7. Nguyễn Quỳnh Trâm, Nguyễn Thanh Xuân, Nhìn lại việc truyền đạo

và theo đạo Tin lành trong đồng bào Hmông ở Tây Bắc, Tạp chí Công tác

Tôn giáo, số 10/2015.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Khổng Thị Kim Anh (2002), Kiêng cữ và nghi lễ liên quan đến ngôi nhà của

người Hmông, Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội

2. Báo cáo kết quả 10 năm thực hiện chỉ thị 01- UBND Lào Cai, 7 tháng 8 năm

2015, Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai, Lào Cai.

3. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương(2010): Tổng điều tra

dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả điều tra toàn bộ, Hà Nội.

4. Ban Dân tộc Trung ương (2011): Thông tư liên tịch, hướng dẫn thực hiện

Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg, ngày 18/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ Về chính

sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, Văn bản, Hà Nội.

5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 01

của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành, ngày 28 tháng

02, Hà Nội.

6. Ban Tôn giáo Lào Cai (6/2012), Báo cáo tình hình hoạt động công tác tôn

giáo 6 thánh đầu năm 2012.

7. Ban Dân vận – Tỉnh ủy Lào Cai (30/7/2014), Báo cáo Tình hình kinh tế - xã

hội và công tác tôn giáo, dân tộc trên địa bàn tình Lào Cai (Làm việc với đoàn Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), Lào Cai.

8. Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Kế hoạch triển khai công tác đối

với đạo Tin Lành ở khu vực miền núi phía Bắc giai đoạn 2012-2015, số 15, ngày

12 tháng 10, Hà Nội.

9. Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo tổng kết 08 năm thực

hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, số 111, ngày 12 tháng 9, Hà Nội.

10. Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo tổng kết 10 năm thực

hiện Thông báo số160, ngày 15/11/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa

IX) về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong lĩnh vực quản lý Nhà nước,

152

số 63, ngày 27 tháng 5.

11. Vi Hoàng Bắc (1997), Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành với văn hóa truyền

thống ở vùng đồng bào Hmông huyện Bắc Hà, Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.

12. Trần Văn Bính (chủ biên)(2004), Văn hoá các dân tộc Tây Bắc. Thực trạng

và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình

công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

14. Đỗ Thúy Bình (1992), Gia đình Hmông trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện

nay (qua thực tế huyện Mộc Châu, Sơn La), Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.

15. Vũ Đăng Bút (2003), Vàng chứ hết thiêng, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số

50, Hà Nội.

16. Thanh Cao (2008), Ba năm thực hiện Chỉ thị 01 của Thủ tướng Chính phủ về

một số công tác đối với đạo Tin lành, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 05, Hà Nội.

17. Phan Hữu Dật (Chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách

liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

18. Nguyễn Văn Diệu (2003), Tìm hiểu quá trình truyền bá Kitô giáo vào các dân

tộc thiểu số, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, tháng 5, Hà Nội.

19. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ Văn hóa và phát

triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

20. Đặng Thế Đại, Tôn giáo- Cách nhìn văn hóa học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, số 12/ 2010, Hà Nội.

21. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2006), Một số vấn đề lý thuyết

và phương pháp nghiên cứu nhân học, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí

Minh, Tp Hồ Chí Minh

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam , Nghị quyết Trung ương 10 khóa IX

24. Hồ Xuân Định (2013), Thực hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với

Tin Lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số

153

12 (126), Hà Nội.

25. Hoàng Minh Đô (2013), Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển Tin Lành

vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 9 (123), Hà Nội.

26. Nguyễn Khắc Đức (2013), Về một số đặc điểm của Tin Lành trong vùng dân

tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 8

(122), Hà Nội.

27. Gary Lee, Nick Tapp (2002), Các vấn đề về dân tộc Hmông hiện nay: 10

điểm chính, Tạp chí Dân tộc học, số 4, Hà Nội.

28. Guy Morechand (1955), Những đặc điểm chủ yếu của thuật saman của người

Mèo Trắng ở Đông Dương, bản dịch tư liệu, lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học,

Hà Nội.

29. Guy Morechand (1968), Thuật Saman của người Hmông, bản dịch tư liệu,

lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học, Hà Nội.

30. Nguyễn Thị Song Hà – Hồ Xuân Định ( 2014), Nghi lễ trong chu kỳ đời

người của người Hmông, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (75), Hà Nội.

31. Đặng Thị Hoa, Khổng Thị Kim Anh (2004), Lễ cúng chữa bệnh của người

Hmông trắng (nghiên cứu ở bản Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh

Sơn La), Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.

32. Nguyễn Xuân Hùng (2000), Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin

Lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam, Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, Hà Nội.

33. Nguyễn Xuân Hùng (2011), Đạo Tin Lành trong mối tương quan với văn hóa

dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Văn

hóa Tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, NXB Tôn giáo, Hà Nội

34. Trần Trung Hiếu (2007), Tôn giáo và công tác tôn giáo vùng đồng bào dân

tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc, tạp chí Dân tộc học 4(148), Hà Nội.

35. Dương Hà Hiếu, Tục cưới xin của người Hmông trắng ở Thuận Châu, tỉnh

Sơn La, Tạp chí Dân tộc học, số 3, Hà Nội.

36. Nguyễn Huy Hoàng (2003), Mấy vấn đề triết học văn hóa, NXB Văn hóa

154

Thông tin, Hà Nội.

37. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,(2004), Lý luận về tôn giáo và

chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội

38. Đỗ Quang Hưng (2011), Đạo Tin Lành ở Việt Nam: Một cái nhìn tổng quát,

Tạp chí Công tác Tôn giáo (1+2), Hà Nội.

39. Đỗ Quang Hưng (2011), Tôn giáo và văn hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học

quốc tế Văn hóa Tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, NXB Tôn giáo, Hà Nội.

40. Đỗ Quang Hưng (2012), Kỷ nguyên truyền giáo của Ki tô giáo tại châu Á và

xung đột văn hóa- Trường hợp đạo Tin lành tại các quốc gia Đông Bắc Á nói

chung và Việt Nam nói riêng, trong Kỷ yếu Tọa đàm Đạo Tin Lành và văn hóa

Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hội Việt – Mỹ và Viện Liên kết toàn cấu

đồng tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2012.

41. Phạm Quang Hoan và Nguyễn Hồng Dương (2008), Quan hệ dân tộc, tôn

giáo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.

42. Phạm Quang Hoan (2001), Lễ cưới người Hmông Trắng huyện Đồng Văn

tình Hà Giang, Tạp chí Dân tộc học, số 6, Hà Nội.

43. Phạm Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh (1998), Văn hóa của người Hmông

và môi trường, Tạp chí Dân tộc học, số 4, Hà Nội.

44. Phạm Quang Hoan (Chủ biên) (2012), Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ

và vùng tái định cư thủy điện Sơn La, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

45. Nguyễn Thế Huệ (2007), Bạo lực trong gia đình người Mông tại vùng núi

phía Bắc Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

46. Jean Bauberot (2006), Lịch sử đạo Tin lành, Nxb Thế giới, Hà Nội.

47. Kinh Thánh trọn bộ Cựu ước và Tân ước, Hồng Y Giuse Trịnh văn Căn dịch,

Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1985, Tp Hồ Chí Minh.

48. Vũ Quốc Khánh (chủ biên)(2004), Người Hmông ở Việt Nam, Nxb Thông

tấn, Hà Nội.

49. Mã A Lềnh, Ly Seo Chúng (1998), Hội Gầu- Tào của người Hmông, Tạp chí

155

Dân tộc học, số 1, Hà Nội.

50. Mã A Lềnh (2009), Ghi chép về văn hóa dân gian Hmông, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

51. Nguyễn Đình Lợi (2012), Vài nét phương thức truyền giáo của đạo Tin Lành

vào cộng đồng người Mông ở Lào Cai,Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10, Hà Nội.

52. Hoàng Xuân Lương (2000), Văn hóa người Mông ở Nghệ An, Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội

53. MS Nguyễn Hữu Mạc (2012), trong Kỷ yếu Tọa đàm Đạo Tin Lành và văn

hóa Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hội Việt – Mỹ và Viện Liên kết toàn

cấu đồng tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2012.

54. Hồ Chí Minh (2000) , Toàn tập- tập 3, NXB CTQG, Hà Nội.

55. Nguyễn Văn Minh (2006), Một số vấn đề đạo Tin Lành của dân tộc thiểu số

tại chỗ Tây Nguyên hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 4, Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Minh (2010), Một số vấn đề về đạo Tin Lành trong cộng đồng

người Hmông di cư tự do vào Tây Nguyên hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 5,

Hà Nội.

57. Nguyễn Văn Minh, Hồ Ly Giang (2011), Một số vấn đề thực tiễn về đạo Tin Lành

ở các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 5, Hà Nội.

58. Max Weber (2012), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản,

Nxb Tri thức, Hà Nội

59. Hoàng Nam(1998), Bước đầu tìm hiểu Văn hoá tộc người, văn hoá Việt Nam,

Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

60. Đậu Tuấn Nam (2010), Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện

nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Đậu Tuấn Nam (2012), Quan hệ tộc người vùng biên giới các tỉnh miền núi

phía Bắc tác động đến sự ổn định và phát triển hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ,

Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

62. Đậu Tuấn Nam (2013), Di cư của người Hmông từ đổi mới đến nay, Nxb

156

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

63. Nguyễn Thị Thanh Nga (chủ biên) (2007), Văn hóa truyền thống một số tộc

người ở Hòa Bình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

64. Nghị quyết 9/BCH-TW khóa XI, Đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người.

65. Lê Đức Phúc (2006), Đề cương bài giảng môn Tâm lý học văn hóa, Tư liệu

khoa Tâm lý học, Đại học KHXH & NV, Hà Nội

66. Mục sư Lê Hoàng Phú, Ph.D (2010), Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam

(1911-1965), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

67. Vương Duy Quang (1987), Quan hệ dòng họ trong xã hội người Hmông, Tạp

chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.

68. Vương Duy Quang, Vấn đề người Hmông theo Kitô giáo hiện nay, tạp chí

Dân tộc học, số4/1994, Hà Nội.

69. Vương Duy Quang (2003), Hiện tượng xưng vua ở người Hmông, tạp chí

Dân tộc học, số2, Hà Nội.

70. Vương Duy Quang (2004), Người Hmông và những hiện tượng tôn giáo liên

quan đến sự phản ứng của họ ở Đông Nam Á: Quá khứ và hiện tại, Tạp chí Dân

tộc học, số 6, Hà Nội.

71. Vương Duy Quang (2005), Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam:

truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội .

72. Vương Duy Quang (2007), Sự cải đạo theo Ki tô giáo của mộ bộ phận người

Hmông ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á từ cuối thế kỷ XIX đến nay, Tạp chí

Dân tộc học, số 3, Hà Nội.

73. Nguyễn Duy Quang (1994), Dòng họ - một đặc thù của xã hội người

H’mông, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 2, Hà Nội.

74. Dương Kim Quý (2002), Ngẫm về tộc danh của người Mông, Tạp chí Dân

tộc và thời đại, số 43, Hà Nội.

75. Lê Ngọc Quyền (1993), Một vài đặc điểm về nhà cửa của người Hmông, Tạp

chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.

76. Savina F.M (1924), Lịch sử người Mèo, Hồng Kông, Bản dịch lưu tại Thư

157

viện Viện Dân tộc học, Hà Nội.

77. Thải Giàng Sán (2002), Tục “Háy Pú”trong cư dân Hmông, Tạp chí Dân tộc

và thời đại, số 41, Hà Nội.

78. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá Hmông, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

79. Trần Hữu Sơn (2001), Sa Man giáo của người Hmông ở Lào Cai, Tạp chí

Dân tộc học, số 6, Hà Nội.

80. Trần Hữu Sơn (2012), Đạo Tin Lành vùng đồng bào dân tộc Hmông ở Lào

Cai (nhìn từ văn hóa tộc người), trong Kỷ yếu Tọa đàm Đạo Tin Lành và văn hóa

Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hội Việt – Mỹ và Viện Liên kết toàn cấu

đồng tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2012.

81. Chu Thái Sơn (chủ biên)(2005), Người Hmông, Nxb Trẻ, Hà Nội .

82. Mai Thanh Sơn (2004), Người Hmông với việc giữ gìn những giá trị văn hóa

truyền thống, Tạp chí Dân tộc học, số 6, Hà Nội.

83. Kiều Trung Sơn (2013), Biến đổi tín ngưỡng Mông- thực tế và trăn trở, Tạp

chí Văn hóa dân gian, số 1 (145), Hà Nội.

84. Thào Xuân Sùng (chủ biên) (2010), Dân tộc Mông ở Sơn La với việc giải

quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Đỗ Ngọc Tấn (chủ biên) (2004), Hôn nhân gia đình các dân tộc Hmông, Dao

ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

86. Trần Lệ Thanh (2011), Sự lo ngại lực lượng thần linh, các ma trong tâm lý của

dân tộc Hmông ở khu vực phía Bắc Việt Nam, Tạp chí Tâm lý học, số 9, Hà Nội.

87. Thủ tướng Chính phủ, Chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào

dân tộc thiểu số đồng bào dân tộc thiểu số. Văn bản Quyết định số 18/2011/QĐ-

TTg, ngày 18/3/2011.

88. Nguyễn Ngọc Thanh (2000), Làng của người Hmông ở Việt Nam, Tạp chí

Dân tộc học, số 1, Hà Nội.

89. Nguyễn Ngọc Thanh (2002), Những quy ước của người Hmông, Tạp chí Dân

tộc học, số 6, Hà Nội.

90. PGS, TS Cao Văn Thanh- TS Đậu Tuấn Nam (Đồng chủ biên) (2011), Một

số vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, Nxb

158

Chính trị- Hành chính, Hà Nội.

91. Nguyễn Văn Thắng (2004), Sự thay đổi tôn giáo và ảnh hưởng của nó ở

người Hmông Thái Lan, Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.

92. Nguyễn Văn Thắng (2006), Về động thái ứng xử với bệnh tật của người

Hmông, tạp chí Dân tộc học, số 3(141), Hà Nội.

93. Nguyễn Văn Thắng (2009), Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”? Bản chất của

những phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo

Tin Lành, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

94. Lê Ngọc Thắng- Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt

Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

95. Ngô Ngọc Thắng (chủ biên) (2002), Văn hóa bản làng truyền thống các dân

tộc Thái, Mông vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

96. Lê Ngọc Thắng (1998), Môi trường văn hóa Hmông, nhân tố thúc đẩy sự

phát triển của cộng đồng, Tạp chí Dân tộc học, số 2, Hà Nội.

97. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

98. Đoàn Đình Thi (1998), Tết truyền thống của dân tộc Hmông, Tạp chí Dân

tộc học, số 2, Hà Nội.

99. Phạm Gia Thoan (2012), Đạo Tin Lành những tri thức cơ bản, Nxb Từ điển

bách khoa, Hà Nội.

100. Vương Xuân Tình (2004), Những linh hồn bị cám dỗ, Tạp chí Dân tộc và

thời đại, số 76, Hà Nội.

101. Vương Xuân Tình (Chủ biên) (2014), Văn hóa với phát triển bền vững ở

vùng biên giới Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

102. Bùi Xuân Trường (1999), Tác dụng của luật tục đối với việc quản lý xã hội ở

các dân tộc Thái, Hmông Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

103. Lý Cẩm Tú, Hoàng Minh Lợi (1997), Một số tập tục của người Hmông xanh

tỉnh Lào Cai, Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.

104. Mã Phúc Thanh Tươi (2011), Vài nét tương đồng trong đạo đức Tin lành và

159

đạo đức truyền thống, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12, Hà Nội.

105. Mã Phúc Thanh Tươi (2013), Những vấn đề đặt ra đối với tín hữu Tin Lành

ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 05(119), Hà Nội.

106. Cư Hoà Vần- Hoàng Nam(1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hoá

dân tộc, Hà Nội .

107. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên)(1996 ), Về tín ngưỡng Việt Nam hiện nay,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

108. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên)(1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn

giáo ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

109. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại

học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

110. Quốc Văn (2007), Ki-tô giáo trong thế kỷ XXI qua một số tài liệu nước

ngoài, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 5, Hà Nội.

111. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Quan hệ tộc

người và phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí

Minh.

112. Viện Dân tộc học (1970), Nguồn gốc người Mèo. (Tài liệu dịch)

113. Viện Dân tộc học (1972), Một số tài liệu về tổ chức dòng họ của dân tộc Mèo

ở Bắc Hà, Lào Cai (Tài liệu dịch)

114. Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Hội Việt – Mỹ, Viện Liên kết Toàn cầu (2012),

Đạo Tin lành và văn hóa Việt Nam, Tọa đàm bàn tròn Tin Lành lần thứ ba, ngày

28 tháng 11, Hà Nội

115. Hoàng Vinh(1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở

nước ta, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

116. Trần Vở (2007), Thực hiện Chỉ thị 01/ CT_TTg của Thủ tưởng Chính phủ ở

Lai Châu, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 3- 2007, Hà Nội.

117. Từ Ngọc Vụ (2014), Người Hmông đôi nét về sinh hoạt tộc người, Nxb Công

an Nhân dân, Hà Nội.

118. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà

160

Nội.

119. Nguyễn Thanh Xuân (2002), Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và

ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

120. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số điểm khác nhau giữa đạo Tin lành và

đạo Công giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 02, Hà Nội.

121. Nguyễn Thanh Xuân (2006), Đạo Ki-tô lịch sử những tên gọi, Tạp chí Công

tác tôn giáo, số 7, Hà Nội.

122. Nguyễn Thanh Xuân (2006), Một số vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu đạo

Tin Lành, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 9- 9/2006, Hà Nội.

123. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Vài nét khái quát về tôn giáo trong vùng đồng

bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 02, Hà Nội.

124. PGS., TS. Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở

Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

125. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết nhân học, Nxb Đại học Quốc gia,

Thành phố Hồ Chí Minh.

126. H.Russel Bernard (2007), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học, Nxb

Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

Trang điện tử

127. www.cema.gov.vn

128. www.laocai.gov.vn

129. www. chinhphu.vn

130. www.hmongstudies.org/

Tài liệu tiếng nước ngoài

131. James F.Lewis (2006), Messianism as A Factor in Vietnam’s Hmong Mass

Conversion to Christianity: 1990-2005, _ Bethel University Regional AAR

meeting_ Luther Theological Seminary.

132. Timonthy T.Vang (1998), Coming a full circle: historical analysis of the

Hmong church growth 1950 – 1988, A dissertation submitted to the Faculty of the

161

School of Theology Fuller Theological Seminary.

133. Vuong Xuan Tinh and Tran Hong Hanh (2008), “Lessons learned and

recommendations for food security of ethnic minorities in the upland areas of

Vietnam and Lao PDR”, Anthropology Review, No. 1.

134. Nguyen Van Thang (2007), Ambiguity of Identity: The Mieu in North

Vietnam, First edition- Chieng Mai: Silkworm Book.

135. Vayong Moua (1995), Hmong Christianity: Conversion, Consequence, anh

Conflict, St. Olaf College; Northfield, Minnesota 1995 (Hmong Electronic

Resources Project )

136. Tran Huu Son (2004), Infuence of tourism on social institutions of Hmong

people in Sapa, Anthropology Review- Hanoi: Construction Publishing House, No

1(4), p.54-59.

137. William Barclay, Ethics in a Permissive Society, Harper & Row, Publishers,

162

Inc, New York, 1971, p.13

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

-------------------

NGUYỄN QUỲNH TRÂM

PHỤ LỤC LUẬN ÁN

VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG

THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Nhân học

Mã số:

62 31 03 02

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS, TS Phạm Quang Hoan

2. TS. Đậu Tuấn Nam

Hà Nội – 2016

163

Nguồn :www.laocai.gov

164

Ảnh 1: Bản đồ hành chính tỉnh Lào Cai

Ảnh 2: Tác giả chụp cùng người Hmông theo Tin lành tại Xín Chải

(Người chụp ảnh: Trần Mạnh Hưng)

Ảnh 3: Nhà nguyện tại Xín Chải

(Người chụp ảnh: Trần Mạnh Hưng)

165

Ảnh 4: Tinh thần cầu nguyện được dán ngoài cửa của nhà nguyện

tại Hội nhánh Xín Chải

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

166

Ảnh 5: Kinh Thánh của người Hmông

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

Ảnh 6: Trang trí sân khấu của điểm sinh hoạt tôn giáo ở Lào Cai

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

167

Ảnh 7: Quang cảnh bên trong ngôi nhà người Hmông theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

Ảnh 8: Quang cảnh bên trong ngôi nhà của người Hmông không theo Tin lành (Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

168

Ảnh 9: Ảnh cưới của người Hmông theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

169

Ảnh 10: Mặt trước ngôi nhà mới cất của người Hmông theo Tin lành

(Người chụp Trần Mạnh Hưng)

Ảnh 11: Bên ngoài ngôi nhà của người Hmông không theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

170

Ảnh 12: Quang cảnh chuồng bò của nhà người Hmông theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

Ảnh 13:Quang cảnh nuôi heo của người Hmông không theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

171

Ảnh 14: Căn bếp trong nhà người Hmông truyền thống

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

Ảnh 15: Buồng khách chính của nhà người Hmông truyền thống

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

172

Ảnh 16: Em bé trong gia đình người Hmông theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

Ảnh 17: Em bé trong gia đình người Hmông không theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

173

Ảnh 18: Đoàn nghiên cứu phỏng vấn người Hmông theo Tin lành

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

Ảnh 19: Tác giả chụp ảnh cùng một trưởng nhóm thuộc

Hội thánh Liên hữu cơ đốc

(Người chụp Trần Mạnh Hưng)

174

Ảnh 20: Buổi tập thể dục của học sinh tại bản Sa pả

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

Ảnh 21: Đường vào bản Sa Pả

(Người chụp Nguyễn Quỳnh Trâm)

175

176