
Vũ Trụ Nhân Linh
II. Hòa Thời Trước Khoa Lượng Tử Và
Quy Nhất Thuyết
Phần 3

Thời qua thể chế nguyên lịch.
Đây là nét đặc sắc nhất của triết lý nhân sinh, một thứ triết lý được
thiết lập ra để mà sống: để sống sao cho ra cái sống Người, nên những ý
tưởng căn bản được thể nhập vào các thể chế xã hội cốt cho những tư tưởng
đâm rễ sâu vào "cõi người ta" để truyền thông nguồn sinh lực và hướng dẫn
mỗi hành vi cử chỉ và đó là nét đặc trưng của nền minh triết Viễn Đông bao
gồm cả nội thánh lẫn ngoại vương. Nội thánh lấy tu thân làm gốc cho nếp
sống riêng tư, còn ngoại vương là xóa bỏ triết lý, như nhà nghệ sĩ khi đạt
mức cao thì "dấu được nghệ thuật" (art c est cacher l art). Hiền triết khi đạt
đạo cũng cần bãi bỏ triết lý hay là dấu "minh triết vào nếp sống xã hội", nên
từ đó đã thiết lập ra nhiều thể chế, và do đó đời sống được thấm nhuần triết
lý đến cao độ: chẳng hạn từ việc cao trọng bậc nhất như lễ tế thiên cho đến
các việc thường ngày ăn vận (giầy vuông, mũ tròn) cũng vâng theo luật vũ
trụ đó. Ở đây chỉ có ý nói cách riêng đến nguyệt lệnh là một thể chế biểu lộ
nguyện vọng "thuận thiên" lo lắng sao cho mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi giờ đều
thuận theo thời trời. Cốt yếu của nhà Minh đường là lấy không gian thời
gian uyên nguyên làm mô dạng phải theo trong đời sống lý tưởng để không
có việc làm nào đi trật thiên ý: tháng nào phải tế một thần riêng, ăn một thức
hợp mùa theo cách dọn nấu ám hợp, mặc quần áo nào, bài ca khởi đầu bằng

cung chi v.v… Sau đây là bản đã tước bớt, để dễ có một ý niệm đại khái
(xem bản đầy đủ ở Kinh Lễ, IV, 57, Couvreur)
BẢNG NGUYỆT LỆNH
Ngũ hành: Thuỷ Hỏa Mộc Kim Thổ
Thời tiết: Đông Hạ Xuân Thu Tứ quý
Phương: Bắc Nam Đông Tây Trung ương
Ngũ tạng: Thận Tâm Can Phế Tỳ
Tác dụng: Thị giác Thính giác Cử chỉ Ngôn ngữ Tư duy
Ngũ sắc: Đen Đỏ Xanh Trắng Vàng
Ngũ vị: Mặn: Đắng Chua Cay Ngọt
Ngũ cung: Vũ Chuỷ Giốc Thương Cung
Số: 6 7 8 9 5
Thiên can: Nhâm quý Bính đinh Giáp ất Canh thân Mậu kỷ
Đây là một thể chế đã có từ lâu lắm, có lẽ xuất hiện đồng thời với lược
đồ ngũ hành và Hồng phạm, nên còn mang nhiều yếu tố ma thuật mà thời cổ

xưa đặt ra để gò bó đời sống của ông vua. Nhưng vì quá phiền toái nên
chóng bị nhãng bỏ và đánh mất ẩn ý sâu xa, chỉ còn lại có cái vỏ kềnh cơi.
Thay vì bám lấy dị dụng tiểu tiết để chứng minh sự lố bịch của người xưa,
chúng ta nên xem đến thể đồng, tức là tác dụng dồn không thời gian lại một
mới là điều quan trọng. Còn việc áp dụng vào đời sống hàng ngày là chuyện
bì phu, phiến diện rất dễ sai lầm. Điều quan trọng nằm trong cái cơ câu tiên
thiên căn để (Structure principielle) mà khi biểu thị ra bằng lược đồ thì chính
là thập tự nhai kép nét lên,
Thay vì + thành ra
Nhưng tựu trung cũng chỉ là thập tự nhai, nhưng nhờ sự kép nét nên
có thể cụ thể hóa đến cùng cực. Nhờ vậy thời gian, không gian không còn
trừu tượng y như nhau, bằng lượng với số, nhưng được hình hiện lên với
phương hướng, sắc mùi, thanh âm, có hương vị đi kèm nên dễ thấm nhập
vào đời sống. Do lẽ đó mà Ngô Kinh Hùng (John Woo) vì dương lịch như
cây mùa Đông đã trút hết lá với hoa, còn lịch Đông phương như cây có hoa,
có quả, có ngày tứ quý với các ngày hội hè đính đám. Vì đó mà cái tết Đông
phương mang một khuôn mặt trọng đại vượt xa tết Tây, thì truy căn ra chính
là do sự dồn đúc không thời vậy.

Bởi thế cần chúng ta phải tìm hiểu cái ý thâm sâu gói ghép trong bảng
Nguyệt lệnh.
Nền minh triết của nguyệt lệnh.
Nền minh triết đó nằm trong hai chữ "Nhân chủ" nghĩa là con người
đem cái sơ nguyên tượng của thập tự nhai để đóng khuôn muôn loài. Do đấy
thập tự nhai trở thành cơ cấu tiên thiên của vạn vật. Vạn vật ở đợt hình thành
ra cá vật thì có vô số, nhưng ở đợt sơ tượng cũng quy ra được tứ linh, tức là
vũ trụ biểu thị bằng bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông lồng lên bốn hướng
Đông, Nam, Tây, Bắc với 4 sắc Xanh, Đó, Trắng, Đen với các mùi vị âm
thanh, số lượng thích ứng… như trong bảng nguyệt lệnh đã phân chi rành rẽ.
Tưởng không đâu nói rõ ràng hơn sự đúc kết không thời bằng bảng nguyệt
lệnh với những hệ quả gây âm vang sâu đậm vào quan niệm về vũ trụ và
nhân sinh rất ơn ích cho con người.
Hệ quả quan trọng đầu tiên là con người làm "chủ nhân ông" của vũ
trụ, ngự ở trung cung, nghĩa là ở chung một cung Hoàng thiên, Hậu thổ. Vì
đó nên Tuân Tử gọi con người là Vua trời "Thiên quân" và bởi thế cũng mặc
áo vàng là màu dành cho vua, vua thật chứ không phải vua bù nhìn có chúa
gian thời lấn áp, vì thế chính vua ra lệnh. Không phải ra một lần, nhưng ban
hành hàng tháng nên gọi là Nguyệt lệnh và truyền ra không phải cho một