Vũ Trụ Nhân Linh
IV. Sống
Thái độ sống của mọi người được quyết định do trình độ ý thức cao
thấy được sự giao hội với toàn thvũ tr. Toàn thđó chia ra được ba đợt là
Thiên, Địa, Nhân.
Thiên chthị bình din trụ tính cách phổ biến, vượt không gian,
nên được quan niệm như i gì trống rỗng, thái nhưng lại chứa cùng
những khthể chưa hề xuất hiện chưa hề mặc lốt hình n được quan niệm
là sẽ đến, vì thế thiên đi vi tương lai.
Địa nói đến bình din "vật chất", nghĩa là những ng lượng dính
lin với vật lý, với thiên nhiên, đã có hình tích, nên gi là dĩ vãng.
Nhân nói đến sự cảm thức được mọi giao thoa của thiên địa (hay dĩ
vãng và tương lai) tức là cảm thấu triệt và hin thực được bằng i Đức, i
linh lực tức i sống sung mãn. Khi đạt trình độ đó thì đạt lối sống ca
con người toàn din bao gồm cả dĩ vãng (hin tượng) cả tương lai những
khnăng tận nhưng còn tim ẩn. Muốn được thế cần phải phát triển đồng
đều đầy đ ý, tình, c đi với địa, nhân, thiên. Tuy nhiên con người
thường chỉ sống hi hợt mặt ngoài theo những hin tượng, ít khi đi lên
được hai đợt sau. Sự sống đó ta kêu là lý hay nói theo danh từ triết là ý nim.
Ý nim là nh hình ca các vật thriêng rcá biệt nên sng theo ý niệm gọi
là sng tán tức thiếu mối liên hvới toàn thtrụ, vì mối liên hnày ch
khởi xuất tkhi địa niệm) giao thoa với thiên (chí) qua nhân (tình) n
cũng là nơi giao hội của trời cùng đất. Vì thế sống vi ý nim là một lối sống
hàng ngang thiếu mất chiều cao nên không nhìn ra được toàn din của cu
cánh con người, để quán xuyến lại một mối. Duy nim vì thế chỉ đẻ ra được
li sống nhớ tiếc thời xa xưa n cứ trên ý nim về một hoàng kim đã mất,
vnhững mu mực mà mình cgắng lặp lại, hoặc sống vọng về tương lai,
luôn luôn chmong một i gì xa xôi sđến. Chai lối sống đều hờ hững
với hiện tại, cả hai đều không hiện thực được nội dung ca lễ tế giao nghĩa
sống trọn vn cái bây giờ, n thiên địa bất giao mà chỉ còn là nhng ý niệm
trừu tượng, u lại dĩ vãng hay phóng ti tương lai cũng kng thoát tính
chất bit ly n. Kể cả i sống hiện tại nhưng bì phu hi hả vội vã, cũng
không phải là i sống thực tế ăn làm của thế nhân, cái đó chưa vượt được
tm lương tri, nên cũng chưa phải là thái độ sống lý tưởng.
Đạt lối sống tưởng khi ý, tình, cthống nhất lúc đó đạt đợt
minh triết. Khi còn đợt triết học thì một là duy ý (duy ý hoặc niệm) hay là
duy tình lãng mng, hoặc là duy c cũng gọi là duy tâm hay huyền niệm.
Bốn ông đều duy thì làm sao hòa, vì thế triết học không tác động ni vào đời
sống, đời sống trở thành con thuyền không lái, nên lương tri bất đắc dĩ phi
ra nm quyền chỉ huy. Khốn nỗi lương tri thì không đạt đợt tâm linh, nên
phải nhờ tới n giáo nhưng n giáo nhiều người không chịu tin, đành đưa
ra triết học hin sinh vậy nhưng hiện sinh lại không sâu tới đợt ẩn sinh, nên
chỉ có nhảy cà tng, làm ba câu văn đẹp, viết giăm vở kch hay thì được, chứ
sâu xa hòa hợp mi chiều kích con người thì làm sao đương nổi. Thy thế
phát đóa một số vất triết đi, chỉ duy luật, duy pháp, đứa nào không
nghe thì thanh trừng. Đó là chtrương của phát xít máct. Ca biết s
làm được những gì nhưng mới xuất hiện quãng dăm chục m thì cũng đã
giết hi lối giăm chục triệu nhân mạng. Truy n ra thì đó lại hai ông duy
mới thêm vào dòng tộc cựu duy. Và nhân loi vẫn ngơ ngác chưa tìm đâu ra
nhạc trưởng. Chưa tìm ra chưa ai thng nhất nổi ý, tình, c. Mun
thống nhất thì:
Ý phi thành
Tình phi thâm
Chí phi thu triệt.
Viết ra chữ Nho thì để hiu chữ c là sĩ trên m dưới. Cái yếu t
giúp cho ý được thành, tình được thâm là cái m vậy. Có m kề vào sĩ thì
mới chí. Cnhư thế được Mnh Tử (112) định nghĩa là nguyên suý điu
khiển cái khí, mà k là cái sung mãn của thểm, nên chí là cùng cực trước cái
khí, vy phi trì ckhông được bạo động cái k (phù chi, kcs
dã. Khí thế chi sung dã. Phù: cc yên. Khí thyên). Nếu ta gọi cbằng
thiên viênn k bng đa phương thì đã my nền triết lý giữ nổi câu "trì k
chí bạo kkhí", do đó triết đã không chu toàn ni sứ mng của
mình.
Muốn chu toàn smạng đó phải có cả tình, ý, c trên mt độ bình
quân vượt bậc mà tiên Nho gọi là quân thiên thành thchiều kích nào cũng
tim ng đủ trong; muốn xét vphương diện nào cũng đý, tình, chí,
tôn giáo, hin sinh, lương tri, lãng mn…chỉ không thể xếp hạng và n
nhãn hiu duy nào ccho nho giáo cái đó ta gọi là Hòa thi người xưa kêu là
Thời Trung.
Trong Lun Ngữ chương XVIII u 8 nhân khi n đến li hành x
của các ông Di, Liễu Hạ Huệ, Di Dật v.v… Khổng Tử nói "ngã tắc d
ư thị: khả, bất khả", "tôi thì khác vi mấy ông, không có việc chi
quyết định trước được phải như thế nào". Đấy là một lối hành hành, mt
li quyền biến theo dch lý, "tuthời chi nghĩa". Không nhất định thế này
thế nọ, nhưng giữ cho lòng thanh thoát mn tiệp để tuỳ lúc mà ng phó.
Chúng ta đã vượt qua bốn thái độ sống đã nhn ra chúng thiếu tính chất
uyển chuyển và ch đáp ứng cho một nhu cầu nào đó thôi, mà chưa nhìn bao
trùm được cuộc sống có cthiên địa. Nên ta bảo phi nếp sống thời trung
hay Hòa thi mới ứng đáp đ mặt. Trong khi đi u vào thái độ này ta nhn
ra thời trung đặt trọng m trên hin tại xét như là quãng thi gian giúp cho
người đạt nhân ch tính n cả và ta gọi là Hiên ti mn trường, người xưa
kêu "thành tính tn tồn" chỉ con người mới có thể "thành tính tn tồn",
nên hiện tại vĩnh cửu là phn riêng của người thành tính. Như thế ta dễ nhn
ra hin tại nói đây khác xa vi i hin ti của nhóm duy sinh: sống vội vã
theo u "carpe diem", "hãy đuổi bắt cho kịp ngày". Đây còn một quan
nim về thời gian đầy tính toán, so đo với lỗ lãi, nên c sống cho được
nhiều, sống hấp tấp, sống om sòm, sống đã đời… Li sống đó vẫn còn b
gian thi trăng trói lôi đi, vì không đâm rễ sâu vào được i Bây giờ vĩnh
cửu, mà chi "đày y" hời hợt "chơi nhiều là lãi đấy". Hễ đã i đến
lãi đến lời nói đến tính toán, tính toán là đặc điểm ca gian thời có
phân trương, nên cũng thể đếm đo sau trước, lưu trí dĩ vãng
(rétention) và phóng trí vào tương lai (protention).