58 Trn Đ. T. Phương, Đinh T. Hoàng. HCMCOUJS- Kyếu, 17 (3), 58-76
Các yếu t ảnh hưởng đến hành vi s dụng điện thoi mục đích cá nhân
trong gi làm vic ca nhân viên ti Thành ph H Chí Minh
Factors affecting the non-work-related use behavior of smartphone
during working hours of employees in Ho Chi Minh City
Trần Đỗ Trúc Phương1, Đinh Thái Hoàng2*
1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố HChí Minh, Việt Nam
2Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Tnh phố HChí Minh, Việt Nam
*Tác giả ln hệ, Email: hoangdt@ueh.edu.vn
THÔNG TIN
TÓM TẮT
DOI:10.46223/HCMCOUJS.
proc.vi.17.3.2500.2022
Ngày nhận: 29/09/2022
Ngày nhận lại: 28/11/2022
Duyệt đăng: 30/11/2022
T khóa:
hành vi s dụng đin thoi không
liên quan đến ng việc; nhận
thc kiểm st hành vi; s b lỡ;
thái độ; thói quen; ý định
Keywords:
non-work related use behavior
of smartphone; perceived
behavioural control; fear of
missing out - FOMO; attitude;
habit; intention
Sự gia tăng mạnh mẽ của công nghệ thông tin truyền thông
trong thập kqua đã thay đổi môi trường làm việc cùng với cách
thức nhân viên chuyển giao thông tin duy trì các mối quan hệ với
những người khác bên trong hoặc ngoài tổ chức. Bên cạnh đó, hành
vi sử dụng điện thoại mục đích cá nhân của nhân viên ngày càng trở
nên phổ biến ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Vì thế, tác giả tiến hành
nghiên cứu từ kết quả 289 nhân viên nhiều lĩnh vực; theo phương
pháp lấy mẫu thuận tiện kiểm tra tính hợp lệ của dữ liệu bằng
SEM. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến thái độ, nhận thức kiểm
soát hành vi tác động cùng chiều đến ý định hành vi ngoại trừ yếu
tố thói quen mức độ tác động thấp. Bên cạnh đó nổi bật yếu tố
mới sợ bỏ lỡ, do nhu cầu muốn sở hữu thông tin cao của các nhân
viên gây tác động cao đến ý định và hành vi sử dụng điện thoại mục
đích nhân. Đồng thời nghiên cứu cũng kiểm chứng khi các nhân
viên có ý định cao sẽ tự động thực hiện hành vi này. Qua đó, một số
hàm ý quản trị được tác giả đề xuất dựa vào kết quả nghiên cứu để
hạn chế hành vi nhằm quản lý nhân sự tốt hơn tại Việt Nam.
ABSTRACT
The sharp rise of information and communication technology
over the past decade has changed the working environment and the
way employees transfer information and maintains relationships
with others inside or outside the organization. Besides the behavior
of employees using a smartphone for personal purposes is becoming
more and more common, which should affect the company.
Therefore, the author conducted the study from the results of 289
employees in various fields; according to the method of convenience
model, then checking the adequacy of the data by using SEM.
Results research shows that most of the attitudinal variables and
perceived behavioral control have an impact in the same direction as
intention except for low-impact habits. Besides, special is fear of
missing out, due to the high demand for information by the
employees has a high impact on intention and behavior to non-work
related use behavior of smartphone personal purposes. The results’
studies have contributed to the theory of non-work related use
behavior of smartphones. And the result also controls when
employees have high intentions will practice this behavior. Thereby,
several value implications are proposed by the author based on the
Trn Đ. T. Phương, Đinh T. Hoàng. HCMCOUJS-Kyếu, 17 (3), 58-76 59
results conduct research to limit behavior to better manage human
resources in Vietnam.
1. Sự cần thiết của nghiên cứu
Sự gia tăng mạnh mẽ của công nghệ thông tin truyền thông trong thập kỷ qua đã thay
đổi môi trường làm việc cùng với cách thức nhân viên chuyển giao thông tin duy trì sự liên hệ với
những người khác bên trong hoặc ngoài doanh nghiệp. Kể từ năm 2012, việc dùng thiết bị di động
cá nhân tại nơi làm việc đã trở nên phổ biến, các nhân viên có thể tận hưởng sự thoải mái khi làm
công việc của họ không chỉ trong mà sau giờ làm việc (Diaz, Chiaburu, Zimmerman, & Boswell,
2012; Disterer & Kleiner, 2013). Bên cạnh đó, Turel và cộng sự (2019) cho rằng hành vi sử dụng
điện thoại cho mục đích nhân slàm mờ ranh giới giữa cá nhân với hội, ảnh hưởng nghề
nghiệp của nhân viên. Ngoài ra, theo Tandon, Dhir, Talwar, Kaur, Mäntymäki (2020) hành vi
này khả năng y lan cho các nhân nơi làm việc, mang ý nghĩa tiêu cực đáng kể đối với
mối quan hệ tại tổ chức.
Hiện nay, các tập đoàn trên thế giới đang chú ý đến hành vi nhân viên sử dụng điện thoại
đtruy cập Internet (Websense Inc, 2000). Việt Nam, đa số các ngành nghề quy định thời
gian làm việc một ngày không quá 8 giờ, áp dụng với tổ chức sử dụng lao động (Điều 105 trong
Quốc hội, 2019). Bên cạnh đó, Cao và Nguyen (2022) đã chứng minh nhân viên có nhiều nhu cầu
sử dụng điện thoại cho mạng xã hội sẽ thay đổi cách thức làm việc truyn thống. Với điện thoại di
động của mình thì họ làm việc riêng như đọc báo, lướt website, tán gẫu không liên quan đến công
việc lên đến 02 - 04 giờ trong một ngày làm việc bình thường, … từ đó dẫn đến sự thiếu tập trung
trong lúc làm việc, giảm hiệu suất mong đợi (Budnick, Rogers, & Barber, 2020; Elhai, Yang, &
Montag, 2020), giảm năng suất sự tham gia vào công việc của nhân viên bị cản trở (Clark &
Roberts, 2010), gây ảnh hưởng tiêu cực đến tổ chức.
Hãng nghiên cứu thị trường Statista (2020) đã báo cáo mức độ dùng Internet ở Việt Nam,
nhóm đang trong độ tuổi lao động làm việc đạt tỉ lệ cao nhất khi dùng Internet trên Smartphone.
Trong quản lý nhân sự các ngành nghề tại Việt Nam nói chung thì các doanh nghiệp còn đang sử
dụng lao động thuộc thế hệ X tỉ lệ nhỏ, đa số là thế hệ Y, những năm tới có sự tham gia của thế hệ
Z và Alpha. Vì thế, việc thực hiện nghiên cứu của tác giả để tìm hiểu nh vi này của nhân viên là
cùng cấp thiết, do sự thâm nhập sâu của điện thoại thông minh vào các khía cạnh nhân
nghề nghiệp con người.
Về học thuật có nhiều nghiên cứu trên thế giới về hành vi chủ yếu dựa trên lý thuyết hành
vi dự định kế hoạch (Theory of Planned Behaviour - TPB) của Ajzen (1991) gồm thái độ, chuẩn
chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi tác động lên ý định hành vi nhằm mục đích giải thích các
quyết định ý thức của nhân. Cụ thể nghiên cứu Jamaluddin, Ahmad, Alias, Simun
(2015) tả các yếu tố tình huống bên ngoài tâm bên trong nhân viên hành vi sử dụng
điện thoại ngoài mục đích công việc hay Bautista, Rosenthal, Lin, và Theng (2018) có dự đoán về
hành vi sử dụng điện thoại thông minh cho mục đích ngoài công việc của y tá. Ngoài ra, Triandis
(1977) đưa ra giả thuyết rằng, ngoài các cấu trúc trong TPB, thói quen ảnh hưởng cảm xúc cũng
những khía cạnh quan trọng cần được xem xét trong hình sự hình thành ý định hành vi
của con người mục đích giải thích các quyết định ít ý thức. Tcác khoảng trống của các lý
thuyết để hành vi được toàn diện hơn nhằm giải thích quyết định dứt khoác hơn thì tác giả thực
hiện tổng hợp lại. Bên cạnh đó ngày nay do nhu cầu sở hữu thông tin của nhân ngày một gia
tăng nên có tồn tại hiện tượng được gọi là sợ bỏ lỡ (gọi tắt là FOMO). FOMO được định nghĩa là
nỗi sợ hãi lan tỏa mà những người khác có thể có những trải nghiệm bổ ích mà khi đó một người
vắng mặt, FOMO được đặc trưng bởi mong muốn liên tục kết nối với những người khác đang
làm (Przybylski, Murayama, DeHaan, & Gladwell, 2013). Đến nay, nhiều nghiên cứu đã giải thích
FOMO như yếu tố trung gian liên kết cho sự thiếu hụt trong nhu cầu tâm đối với mạng hội
Facebook khi sử dụng quá mức (Przybylski & ctg., 2013), FOMO làm sinh viên bị phân tâm (Alt,
2015), hay FOMO dẫn đến quyết định mua hàng may mặc (Saavedra & Bautista, 2020), hay
60 Trn Đ. T. Pơng, Đinh T. Hng. HCMCOUJS- Kỷ yếu, 17 (3), 58-76
FOMO và động lực sức khỏe nhân viên (Budnick & ctg., 2020), … nhưng chưa có nghiên cứu về
FOMO khác với các yếu tố tâm lý khác và hệ quả của mối quan hệ FOMO với ý định hành vi nhân
viên sử dụng điện thoại mục đích cá nhân gây ảnh hưởng đến quản trị nhân sự đương đại tại Việt
Nam. Từ đó tác giả đề xuất đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng điện thoại mục đích
nhân trong gilàm việc của nhân viên tại Thành phố Hồ Chí Minh” để làm các yếu tố c
động đến hành vi sử dụng điện thoại trong giờ làm việc của nhân viên là gì, đồng thời đề xuất hàm
ý quản trị giúp các doanh nghiệp quản lý hỗ trợ nhân sự hiện tại và tương lai.
2. Cơ sở lý thuyết
Khi công nghệ truyền thông như E-mail điện thoại di động trở nên phổ biến trong các
thiết lập tổ chức làm việc bên ngoài, nó cho phép nhân viên linh hoạt để duy trì kết nối với công
việc của họ không chỉ trong còn sau giờ làm việc. Những công nghệ cung cấp cho nhân viên
tùy chọn để làm nhiệm vụ liên quan đến công việc bên ngoài giới hạn của không gian văn phòng
truyền thống hoặc thời gian làm việc (Olson-Buchanan & Boswell, 2007; Nansen, Arnold, Gibbs,
& Davis, 2010; O’Driscoll, Brough, Timms, & Sawang, 2010). Việc sử dụng điện thoại di động
cho phép nhân viên cộng tác giao tiếp với những người khác luôn cập nhật các nhu cầu công
việc trong ngày, được cho là mang lại cho nhân viên nhiều quyền tự chủ kiểm soát hơn, với tác
động cùng chiều đến năng suất của họ. Tuy nhiên, hành vi y cũng nhược điểm nhân viên
lạm dụng thời gian làm việc bên ngoài nhiều thể phải chịu những kết quả tiêu cực, chẳng hạn
như cảm thấy bị mắc kẹt hoặc bị ràng buộc quá mức với điện thoại của họ; nhu cầu được kết nối
càng lúc càng nhiều khiến cho nhân viên bị phân bổ thời gian và năng suất trong công việc ít lại
gây thiệt hại cho công ty. Nhìn chung, hành vi y được các nhà nghiên cứu cho rằng sự kết nối
liên tục ở mạng xã hội sẽ ràng buộc nhân viên và giảm bớt sự rời bỏ của nhân viên khỏi công việc
của họ (Olson-Buchanan & Boswell, 2004, 2007). Hành vi sử dụng điện thoại không liên quan đến
công việc (non-work related use behavior of smartphone) theo Vitak, Crouse, LaRose (2011)
khái niệm là hành vi dùng các ứng dụng trên điện thoại di động bao gồm việc lướt Internet không
mục đích để thỏa mãn nhu cầu mục tiêu cá nhân không liên quan đến công việc. Bautista và cộng
sự (2018) khái niệm hành vi sử dụng điện thoại mục đích cá nhân không liên quan đến công việc
bao gồm các hoạt động gọi điện, tin nhắn, truy cập các trang website, mạng hội, chơi game di
động, nghe nhạc, xem video không liên quan đến công việc của các nhân viên trong giờ làm việc.
Nhân viên shội phân bổ thời gian năng suất của họ theo hướng không liên quan đến
công việc bằng các hoạt động sử dụng Smartphone trong giờ làm việc (Jamaluddin & ctg., 2015).
Thành phần đầu tiên, ý định (hay ý định hành vi) dấu hiệu sẵn sàng của một người để
thực hiện một hành vi nhất định nào đó có chủ đích (Ajzen, 1991). Ý định là cơ sở hợp lý và phản
ánh động xuất phát từ niềm tin về hành vi. Trong ngữ cảnh của việc sử dụng website của các
nhân viên (ví dụ: blog, wiki và phương tiện truyền thông xã hội), ý định có tương quan thuận với
việc sử dụng điện thoại mục đích nhân (Lau, 2011). Hay trong bối cảnh sử dụng điện thoại mục
đích cá nhân khảo sát các chuyên gia ngành y tế Thái Lan đã chứng minh có một mối liên hệ tích
cực giữa ý định hành vi (Kijsanayotin, Pannarunothai, & Speedie, 2009). Theo Bautista cộng
sự (2018), các nhân viên thường xuyên có ý định sử dụng điện thoại thông minh để giao tiếp với
đồng nghiệp, trao đổi tin nhắn nhanh, hoặc tìm kiếm thông tin nhanh ở các trang website sách điện
tử lưu trong điện thoại di động, hoặc tạo các ghi chú lời nhắc chụp ảnh, …
Thành phần thứ hai, thái độ đối với hành vi (attitude toward the behavior) được khái niệm
là sự nhìn nhận của một cá nhân về hệ quả sẽ thu thập được khi việc thực hiện hành vi cụ thể nào
đó, cũng như chỉ mức độ đánh giá thuận tiện để thực hiện hành vi hay không của cá nhân đó. Thái
độ thường căn cứ vào niềm tin được hình thành khi các cá nhân liên kết hành vi với các nhận thức
tạo ra một kết quả nhất định (Ajzen, 1991). Dựa vào sự tổng hợp những niềm tin này, các cá nhân
tự phát triển cảm giác tích cực hoặc tiêu cực đối với một hành vi, ảnh hưởng trực tiếp đến ý định
thực hiện hành vi của họ. Các học giả đã phân biệt các khía cạnh công cụ và tình cảm của thái độ
(Ajzen & Fishbein, 1980; Lawton, Ashley, Dawson, Waiblinger, & Conner, 2012) thể ảnh
hưởng đến ý định do các cá nhân cân nhắc cả trí và tình cảm dẫn đến các hành vi họ có thể thực
Trn Đ. T. Phương, Đinh T. Hoàng. HCMCOUJS-Kyếu, 17 (3), 58-76 61
hiện (Lawton & ctg., 2012). Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa thái độ đối với ý
định sử dụng điện thoại mục đích cá nhân (Park & Chen, 2007; Putzer & Park, 2012), nhưng chưa
kiểm tra riêng các thành phần công cụ và tình cảm của thái độ dẫn đến ý định như thế nào. Khi
phân biệt như thế sẽ nhiều gợi ý tầm quan trọng của các chức năng so với cảm giác tạo nên
nguồn động lực gắn với hành vi chặt chẽ hơn. Nhân viên có thái độ tình cảm tích cực sẽ sẵn sàng
sử dụng điện thoại thông minh để hoàn thành nhiệm vụ cá nhân trái với các quy định của tổ chức
về hành vi như vậy (Bautista & ctg., 2018).
Thành phần thứ ba, theo Ajzen (1991), nhận thức kiểm soát hành vi là một nhân tự nhận
định được dễ dàng hay không trong việc thực hiện hành vi nào đó các tình huống. Đa số sự
nhận định phụ thuộc vào sự trợ giúp các nguồn lực các hội mới thể thực hiện hành vi.
Thông thường, nhận thức kiểm soát hành vi tác động đến xu hướng ý định nếu như trường
hợp nhân đủ nhận thức chính xác về mức độ thì thể dự báo cả hành vi (Bautista & ctg.,
2018). Nghiên cứu trước đây đã chứng minh nhận thức kiểm soát hành vi liên quan ch cực
đến ý định sử dụng điện thoại mục đích cá nhân như là trợ lý kỹ thuật số cá nhân chụp ảnh (Mun,
Jackson, Park, & Probst, 2006), hệ thống hỗ trợ các quyết định mua hàng trực tuyến (Hung, Ku,
& Chien, 2012), quản lý sức khỏe y tế từ xa (Patrick & Hu, 2001), dùng làm hồ sơ sức khỏe điện
tử (Leblanc, Gagnon, & Sanderson, 2012). Một hạn chế chung của những nghiên cứu trước đó
rằng họ chỉ dự đoán xu hướng và không kiểm tra kết quả hành vi (Patrick & Hu, 2001). Trong
trường hợp các yếu tố tạo điều kiện bị hạn chế, khi đó các nhân scảm thấy không thể kiểm
soát hành vi. Do đó, các cá nhân sẽ có ý định hành vi yếu hơn. Hơn nữa, ngay cả khi cá nhân có ý
định, việc thiếu các yếu tố tạo điều kiện nghĩa ý định đó khó thể chuyển thành hành vi
(Bautista & ctg., 2018).
Thành phần thứ tư, thói quen đề cập đến các hành vi hay được lặp lại và xảy ra mà không
sự hướng dẫn của bản thân (Pee, Woon, & Kankanhalli, 2008). Thói quen là kết quả sự học hỏi
tự động phản hồi về việc đã làm điều đó liên tục thường xuyên trong một thời gian
(Limayem, Hirt, & Cheung, 2007). Trong nghiên cứu của Jamaluddin cộng sự (2015), thói quen
được xem như là một phản ứng tự động được kích thích bởi một trạng thái tích cực mà không cần
thông qua nhận thức. Thói quen được lớn dần trong bộ nhớ thông qua việc thực hiện lặp đi lặp lại.
Sự phát triển thói quen đòi hỏi một lượng nhất định sự lặp lại hay nói cách khác sự thực hành
một khoảng thời gian trước đó. Khi một nhân viên đã quen với việc kiểm tra email của mình mỗi
giờ, thì họ sẽ xu hướng lặp đi lặp lại công việc mỗi giờ nhà hoặc tại nơi làm việc. So với
nghiện, thói quen không thể hủy hoại không liên quan đến các triệu chứng bị nghiện, mặc
thói quen có thể dẫn đến nghiện hành vi nào đó.
Thành phần cuối là sợ bỏ lỡ được Herman (2011) định nghĩa là nỗi sợ hãi và lo lắng khi
không tham gia một cơ hội hoặc một sự kiện thú vị có thể mang lại một số loại phần thưởng được
nhận thức. Cụ thể, ba giả định cơ bản: Thứ nhất, có nhiều lựa chọn hoặc cơ hội cho các cá nhân
lựa chọn; Thứ hai, các cá nhân có động cơ để cạn kiệt mọi cơ hội; Và thứ ba là các cá nhân không
thể nắm bắt tất cả các cơ hội có thể vì hạn chế nguồn lực. Nói một cách khác, FOMO dựa trên nỗi
sợ hãi bỏ lỡ bất cứ điều gì bởi vì nhân viên có một số yếu tố bên ngoài ngăn cản họ khỏi việc theo
đuổi nó. Ngoài ra, định nghĩa của Salem (2015) có bản chất rộng hơn: FOMO đề cập đến một loại
lo lắng, một cảm giác rằng bản thân cảm thấy sẽ không đủ hoặc bị tụt hậu nếu cá nhân không phản
ứng. Dù rằng, những người có các mức FOMO có thể nhận được nhiều thông tin hơn mức mà một
người thể xlý do đó trải nghiệm quá tải thông tin có thể dẫn đến cảm xúc tiêu cực như căng
thẳng, thậm chí các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn. Bên cạnh các áp lực xã hội ảnh hưởng đến
nhận thức, các nghiên cứu gần đây đã liên kết giao tiếp trực tuyến bằng việc sử dụng điện thoại
thông minh với sợ bỏ lỡ. Sợ bỏ lỡ được định nghĩa là tâm lý sợ hãi lan tỏa khi những người khác
có thể có những trải nghiệm bổ ích lúc họ vắng mặt (Przybylski & ctg., 2013). Phương tiện truyền
thông xã hội cung cấp khả năng tiếp cận thông tin hội dễ dàng duy trì sự tham gia vào xã
hội. Vì nỗi sợ bỏ lỡ được đặc trưng bởi mong muốn liên tục kết nối với những gì người khác đang
làm nên việc sử dụng điện thoại là một lựa chọn hấp dẫn để luôn được cập nhật về các hoạt động
62 Trn Đ. T. Pơng, Đinh T. Hng. HCMCOUJS- Kỷ yếu, 17 (3), 58-76
xã hội. Trên thực tế, nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra mối liên hệ thực nghiệm mạnh mẽ giữa
nỗi sợ bỏ lỡ cường độ sử dụng mạng xã hội (Przybylski & ctg., 2013). Budnick cộng sự
(2020) cho rằng nỗi sợ bỏ lỡ cao có liên quan tích cực đến tần suất giao tiếp trực tuyến và hành vi
kiểm tra điện thoại mục đích cá nhân nhiều. Bên cạnh đó, cung cấp bằng chứng liên quan của nỗi
sợ bỏ lỡ đến các tính năng đa nhiệm trên Internet.
Năm 1977, nghiên cứu của Triandis phát hiện thuyết về hành vi giữa các nhân
(TIB) để giải thích các yếu tố ít có ý thức dẫn đến các quyết định của hành vi. Tuy nhiên, mô hình
TIB ít được sử dụng cho các nghiên cứu sau y do khoảng trống từ ý thức đến hành vi còn khá
mong manh, hơn hình TPB của Ajzen (1991). sở thuyết chính tác giả sử dụng trong
nghiên cứu thuyết hành vi dự định kế hoạch (Theory of Planned Behaviour - TPB) của
Ajzen (1991) nhằm mục đích giải thích quyết định ý thức và bổ sung thêm yếu tố Thói quen
trong mô hình TIB để giải thích quyết định ít có ý thức, bốc đồng và tự động hơn dẫn đến hành vi.
Bên cạnh đó, hành vi lạm dụng điện thoại của nhân viên ngày càng trở nên phổ biến ảnh
hưởng đến doanh nghiệp, gây khó khăn cho quản trị nhân sự. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa
được nghiên cứu tại Việt Nam mà chỉ có vài nghiên cứu nước ngoài về vấn đề này (Bảng 1).
Bảng 1
Các nghiên cứu có liên quan
STT
Tên tác giả
Tên đề tài
Kết quả nghiên cứu
1
Jamaluddin
và cộng sự
(2015)
Việc sử dụng các thiết bị di
động nhân tại nơi làm
việc.
Xác định mức độ sử dụng Internet của cá
nhân bằng điện thoại di động của nhân
viên tại các công ty cung cấp kết nối
Internet sẽ phổ biến hơn; điều tra các yếu
tố tình huống và tâm lý nhân dẫn đến
hành vi.
2
Bautista và
cộng sự
(2018)
Dự đoán kết quả của việc
nhân viên y tá sử dụng điện
thoại thông minh cho mục
đích ngoài công việc.
Nghiên cứu dự đoán về nh vi sử dụng
điện thoại thông minh cho mục đích ngoài
ng việc bằng dữ liệu khảo t từ y tá tại
các bệnh viện đa khoa nhằm điều tra các
yếu tố tâm lý tác động đến hành vi và hệ
quả tiêu cực của nh vi này đến năng suất
hay chất lượng công việc giảmt.
3
Budnick và
cộng sự
(2020)
Nỗi sợ bỏ lỡ trong công
việc: Kiểm tra chi phí và lợi
ích đối với sức khỏe của
nhân viên và động lực.
Giải thích sâu hơn về khái niệm của
FOMO về lý thuyết, sợ blỡ mối quan
hệ với sự tạo động lực kết quả quá
trình sức khỏe của các nhân; nhưng
mức độ còn phụ thuộc vào nhận thức về
tổ chức có sự hỗ trợ của gia đình.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Trong tất cả các nghiên cứu có liên quan đến hành vi sử dụng điện thoại di động mục đích
cá nhân thì nghiên cứu Bautista và cộng sự (2018) là có bối cảnh tương đồng nói về các yếu tố
ảnh hưởng đến ý định thực hiện hành vi ý thức sự phù hợp với đối tượng tác giả muốn
khảo sát nhân viên có độ tuổi từ dưới 24 có công việc làm toàn thời gian dùng thiết bị di động
thông minh đã đang hành vi này trong giờ làm khi công ty không cho phép. Cụ thể nghiên
cứu Bautista và cộng sự (2018) nói về nhân viên y tá dùng điện thoại mục đích cá nhân trong giờ
làm việc trong khi bệnh viện không cho phép, công việc của họ cần sự tập trung cao không cần