Ấn chương Việt Nam - Khái luận về ấn chương và ấn chương học
lượt xem 8
download
Trên thế giới, ở các quốc gia, các dân tộc có lịch sử văn hiến cũng đều tồn tại hệ thống ấn chương. Lịch sử xuất hiện ấn chương ở mỗi quốc gia khác nhau có nhiều điểm khác biệt, song tựu trung điểm thống nhất cơ bản là sự gắn bó mật thiết giữa lịch sử ấn chương với sự hình thành và phát triển của lịch sử thành văn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ấn chương Việt Nam - Khái luận về ấn chương và ấn chương học
- Ấn chương Việt Nam - Khái luận về ấn chương và ấn chương học Trên thế giới, ở các quốc gia, các dân tộc có lịch sử văn hiến cũng đều tồn tại hệ thống ấn chương. Lịch sử xuất hiện ấn chương ở mỗi quốc gia khác nhau có nhiều điểm khác biệt, song tựu trung điểm thống nhất cơ bản là sự gắn bó mật thiết giữa lịch sử ấn chương với sự hình thành và phát triển của lịch sử thành văn. Trung Quốc, cái nôi của văn hóa Đông phương có lịch sử thành văn đã mấy nghìn năm, sự ra đời của ấn chương cũng gắn liền với sự hình thành và phát triển của lịch sử thành văn Trung Quốc. Ấn chương Trung Quốc gọi là “Tỷ” 璽, tương truyền ấn chương xuất hiện từ thời Hoàng Đế (khoảng năm 2500 TCN). Cổ tịch Trung Quốc mà tác giả sống thời Hán đã ghi lại về sự xuất hiện rất sớm của ấn tỷ trong sách Xuân thu
- vận đẩu khu: “Hoàng Đế thời hoàng long phụ đồ trung hữu tỷ chương”[6] (Thời Hoàng Đế có con rồng vàng đội bức địa đồ trong đó có tỷ chương). Sách Hậu Hán thư - Tế tự trí hạ ghi lại về nguồn gốc của ấn chương “Thời Tam Hoàng không có văn tự, cai trị bằng tết thừng, từ Ngũ Đế trở về sau có thư khế văn tự, đến đời Tam Vương (Hạ Kiệt, Thương Thang, Chu Văn Vương và Võ Vương) tục hóa Triện văn, sau mới có tỷ ấn…”[7]. Trong sách Dật Chu thư - Ân chúc giải cũng ghi rằng khi vua Thành Thang đuổi Kiệt, đại hội chư hầu, Thành Thang đã nhận được ngọc tỷ và lên ngôi Thiên tử. Về sự xuất hiện của Tỷ ấn gắn liền với việc chính thức phát minh và sử dụng văn tự trong quá trình phát triển xã hội Trung Quốc cổ trên mọi lĩnh vực. Văn giáp cốt thời Ân - Thương được người ta coi là những văn tự tượng hình sớm nhất ở Trung Quốc nhưng bản thân nó lại bị giới hạn về nội dung và phạm vi sử
- dụng, nên nó không thể bao quát hết được văn tự nói chung của thời kỳ Ân - Thương. Những phát hiện khảo cổ học tìm thấy chứng tích thời Ân ở An Dương - Hồ Nam cũng không giúp cho việc khẳng định nguồn gốc ấn chương thời cổ một cách chính xác. Có ý kiến cho rằng đó là những di vật thời Tây Chu trên mặt có khắc hình văn tự hoặc phù hiệu nhưng không thể đọc nhận biết chính xác được và trong đó không có gì liên quan đến ấn chương. Người khác lại cho rằng trong đó có tín hiệu về ấn chương Trung Quốc. Tương tự trong khai quật mộ táng thời Tây Chu tuy không phát hiện ấn tỷ, nhưng có chứng tích về phù tiết của một chủng thị tộc thuộc đất nước Trung Hoa. Có ý kiến cho rằng “Tiết” (節) có nhiều loại dùng và tên gọi, ấn chương gọi là Tỷ tiết trên khắc quan danh, tên họ dùng làm tín vật… Có thể tin rằng khởi nguyên của Tỷ ấn ở Trung Quốc
- vào thời Xuân Thu. Sách Quốc ngữ - Lỗ ngữ chú rằng “… Tỷ, ấn dã; Tỷ thư, ấn phong thư dã” (Tỷ là ấn, tỷ thư là sách có ấn niêm phong). Thời đó người Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre và vỏ cây làm giấy viết văn thư cả việc công lẫn việc tư khi gửi đều dùng dây buộc lại, chỗ nút buộc người ta dùng đất bùn đánh dấu lên trên để làm tin. Khi tiếp nhận chỗ đất đánh dấu còn nguyên hoặc không có vết nghi ngờ thì công việc truyền tin đó coi như đã hoàn thành. Dần dần những chỗ đánh dấu bằng đất bùn đó được làm cẩn thận, kỹ thuật hơn và có những ký hiệu truyền tin riêng biệt để tránh sự giả mạo. Có thể nói đó là lịch sử xuất hiện của ấn chương Trung Quốc, hoặc nói một cách khác ấn chương sau này đã tiếp thu tinh thần đánh dấu bằng bùn đất và người ta đã làm ra loại hình văn ấn gọi là “Nê phong”, hoặc “Phong nê”, tức là vẽ, viết chữ tượng hình trên khuôn đất bùn để đánh dấu làm tin.
- Trải qua quá trình phát triển, ấn chương đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và văn hóa nghệ thuật, có vị trí một khoa học độc lập gọi là ấn chương học. Ấn chương học: Sigillographie - Theo cách gọi của giới nghiên cứu cổ sử. Ấn chương học: Sphragistics - Theo cách gọi của các nhà nghiên cứu Ngữ văn học. Ấn chương (印章) theo cách giải thích của các nhà nghiên cứu Trung Quốc đương đại thì chữ “ấn” (印) có chữ gốc từ chữ “ức” (抑) nghĩa là ấn xuống dưới. Tượng hình chữ là một bàn tay to ấn mạnh xuống một người nhỏ bé đang quỳ. Về sau mở rộng nghĩa thành chữ ấn (là ấn chương) mà ngày nay người ta gọi là con dấu, vì khi đóng dấu cần động tác ấn mạnh xuống. Chương (章) nghĩa gốc là đánh dấu, sau này cũng như chữ “ấn” nó biểu tượng cho con dấu khi động độc lập và là tên gọi của một bộ môn khoa học
- khi đi liền với chữ “ấn” gọi là ấn chương học. Ở các nước phương Tây, ấn chương học tồn tại với ba chức năng chính: 1. Sự kết thúc (clore). 2. Khẳng định quyền sở hữu (propriété). 3. Khẳng định tính chân thực (authentifier). Ở nhiều trường hợp ba chức năng này tồn tại độc lập, tách rời nhau, nhưng nhiều khi chúng cũng phải kết hợp với nhau trong một loại hình văn bản hoàn thiện đa năng. Ở các nước phương Đông mà điển hình là Trung Hoa, ấn chương ngoài những chức năng trên còn một chức năng quan trọng nổi bật là biểu tượng của pháp
- chế quyền lực, thể hiện rõ nét chế độ pháp quyền quân chủ chuyên chế phong kiến phương Đông. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của ấn chương gắn bó chặt chẽ với chế độ xã hội trên mọi lĩnh vực chính trị, tôn giáo, quân sự, kinh tế v.v… Khi xã hội có sự biến động, thay đổi, phân chia giai cấp, đẳng cấp rõ ràng hơn đã xuất hiện các loại hình ấn chương khác nhau. Ấn chương không chỉ mang ý nghĩa đánh dấu tín vật làm bằng chứng mà còn thể hiện rõ chức năng biểu thị quyền lực, pháp chế, tăng thêm tính pháp quyền của giai cấp thống trị. Đây là lý do cơ bản cho việc tồn tại, phát triển và hoàn thiện hệ thống ấn chương từ những thời kỳ đầu chế độ phong kiến. Nói đến quyền lực pháp chế của giai cấp thống trị ở xã hội phương Đông xưa là phải nói đến Hoàng đế. Hoàng đế giữ quyền tối cao định đoạt tất cả mọi việc, thay trời hành đạo, trị vì thiên hạ. Chính vì vậy, việc
- chế tác và sử dụng ấn chương của Hoàng đế được đặc biệt chú trọng, và đôi khi nhuốm cho nó màu sắc tôn giáo siêu hình. Từ việc chọn chất liệu quý như ngọc để tạo tác, đến việc khắc chữ, chạm hình rồi đặt tên, tế lễ v.v… cho ấn ngọc, ấn vàng. Như ở Trung Quốc ấn của vua được gọi là Tỷ rồi Bảo, nó được coi là báu vật của quốc gia và tượng trưng cho Đế quyền. Là Thiên tử, Hoàng đế nhận mệnh của Trời, nên họ đã cho chế tác ấn quý khắc chữ có nội dung “Vua nhận mệnh Trời” để dùng làm ấn truyền quốc. Ví dụ như Ngọc tỷ Thụ mệnh vu thiên ký thọ vĩnh xương (Nhận mệnh ở Trời được sống lâu thịnh vượng)[8], Đại Tống thụ mệnh chi bảo (Bảo ấn của Đại Tống nhận mệnh ở Trời)[9], Hoàng đế phụng thiên chi bảo (Bảo ấn của Hoàng đế phụng mệnh Trời)[10] v.v… Tính pháp quyền của ấn chương còn được thể hiện rõ ở hệ thống ấn chương trong tổ chức chính quyền từ trung ương đến địa phương, từ lực lượng quân đội
- đến cơ quan dân sự. Vua và triều đình đặt cấp, phong chức trao quyền cho văn quan võ tướng, đồng thời là việc ban cấp ấn tín để sử dụng trong công vụ. Đó là biểu tượng của pháp chế quyền lực, mà bản thân người được giao nhận ấn tín và đối tượng liên quan phải chấp hành nghiêm cẩn, cấp dưới hay binh lính cũng như quảng đại quần chúng phải tuân thủ tuyệt đối khi nhìn thấy hình dấu in trên văn bản mà không cần phải trông thấy sự hiện diện của một quả ấn cụ thể nào. Mỗi một loại ấn tín đều có cách sử dụng riêng được dùng cho một hay vài loại văn bản chỉ định, đó là những quy định bất biến được lập thành pháp luật mà bản thân người nhận quyền dùng ấn phải chịu trách nhiệm. Đối với quan lại tướng lĩnh đánh mất ấn tức là đánh mất chức vụ quyền lực, đối với Hoàng đế và triều đình để mất Tỷ, Bảo truyền quốc tức là để mất ngôi mất nước. Trong thời kỳ đầu xã hội phong kiến ở các quốc gia
- phát triển với nền kinh tế ngày một hưng thịnh, giao lưu thương trường gia tăng, các đô thị mới hình thành. Ấn chương lúc này không chỉ còn là đặc trưng của cơ cấu quyển lực quốc gia nữa, mà nó đã phát triển ra ngoài xã hội gắn với kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng trong hoạt động và sinh hoạt xã hội thường ngày của tất cả mọi người trong cộng đồng xã hội. Từ những ký hiệu đánh dấu đến hình dấu mang ý nghĩa tín vật làm bằng chứng phát triển thành con dấu, ấn chương gắn với giao lưu thương phẩm hàng hóa. Đa số các gia tộc lớn tham gia sản xuất hàng hóa và buôn bán trên thương trường đều có ấn tín riêng. Đó là những quả ấn nhỏ được làm nhiều kiểu khác nhau được dùng đánh dấu vào một số loại hàng hóa, đóng dấu vào bản giao kèo mua bán, vào giấy làm tin v.v… Ấn tín này thể hiện rõ những chức năng khẳng định quyền sở hữu và khẳng định tính chân thực của hàng hóa vật phẩm sản xuất và việc buôn bán trao đổi vật phẩm hàng hóa đó. Đó là những thứ mà cả xã hội
- phương Đông và phương Tây từ cổ chí kim đều phải sử dụng như dược liệu, vải vóc, quẩn áo, đồ trang sức và văn hóa phẩm v.v… không ít cổ vật trang sức có in hình dấu ấn còn được lưu giữ đến ngày nay. Trong lịch sử phát triển, ấn chương không chỉ còn gắn bó riêng với quyền lực luật pháp hay hoạt động sinh hoạt xã hội nữa mà đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ, hội họa, thư pháp. Điều này thấy rõ ở những quốc gia lớn có nền văn minh sớm như Trung Quốc. Nghệ thuật điêu khắc chạm trổ nhìn từ góc độ ấn chương ở Trung Quốc thật hoàn mỹ và phong phú. Núm ấn đa phần được làm theo hình thú vật mà chủ yếu là con thú trong tôn giáo tín ngưỡng hay biểu tượng của chúa tể trong loài vật như rồng, phượng, hổ, sư tử, rùa, lân, lạc đà v.v… Đó là những hình tượng sống động tượng trưng cho cái cao cả, uy quyền của bậc đế vương, cho cái đẹp rực rỡ uy nghi của Hoàng hậu, cái
- mạnh mẽ hùng tráng của Đại tướng quân v.v… Đối với ấn tín tự do ngoài xã hội thì tính sáng tạo ngày một được nâng cao với sự đa dạng và hoàn mỹ. Từ những chất liệu thiên tạo có sẵn như ngọc, đá, sừng, xương thú, các nghệ nhân đã tạo tác ra các quả ấn nhiều dáng vẻ khác nhau. Đó là những tác phẩm nghệ thuật sinh động góp phần không nhỏ trong sự phát triển đi lên của nghệ thuật điêu khắc chạm trổ ở mỗi quốc gia, dân tộc. Điều này không riêng gì Trung Quốc mà còn thấy ở một số nước phương Tây và Hồi giáo. Cũng như điêu khắc, hội họa và thư pháp Trung Quốc hầu như không tách rời ấn chương. Trên những bức tranh và thư pháp không chỉ thấy một mà nhiều hình dấu đóng ở các vị trí khác nhau, nó là sự hình thành phong cách đặc biệt “Thi thư ấn họa” chỉ có trong hội họa và thư pháp Trung Quốc. Ấn chương đã góp phần đưa hội họa và thư pháp Trung Quốc lên
- đỉnh cao giá trị nghệ thuật. Sự thành công của ấn chương dẫn đến việc thưởng thức nghệ thuật khắc ấn cùng “Thi thư ấn họa”, rồi từ đó nó trở thành thú tiêu khiển của tầng lớp trí thức, quan lại quý tộc và thương gia giàu có đương thời. Thậm chí không ít vị Hoàng đế Đông phương cũng đã bỏ nhiều thời gian, tiền bạc cho việc chế tác, sử dụng và thưởng thức ấn chương cùng “Thi thư ấn họa”. Người ta gọi đó là “Tư chương” và “Nhàn chương”, mà đối với các vị Hoàng đế và quan lại, trí thức hay chữ, nó là những vật dụng thân thiết luôn mang theo bên mình. Nghệ thuật khắc ấn ngày một tinh mỹ, đa dạng, hình thành các trường phái riêng biệt với nhiều Triện khắc gia nổi tiếng, còn ấn chương nói chung dần dần trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều cá nhân, nhiều trường phái; rồi từ đó xuất hiện những bài viết và tác
- phẩm về ấn chương. Qua nhiều giai đoạn lịch sử dưới các triều đại phong kiến khác nhau, chỉ tính riêng Trung Quốc đã có hàng mấy trăm tác gia và tác phẩm tiêu biểu viết về ấn chương học.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ấn chương Việt Nam - Ấn chương trong binh chế quân đội thời Nguyễn
18 p | 145 | 25
-
Ấn chương Việt Nam - Kim ngọc Bảo Tỷ của Hoàng đế thời Nguyễn
20 p | 147 | 22
-
Ấn chương Việt Nam - Ấn tín trong lĩnh vực Tôn giáo tín ngưỡng thời Nguyễn
12 p | 144 | 18
-
Ấn chương Việt Nam - KẾT LUẬN
6 p | 108 | 12
-
Ấn chương Việt Nam - Lịch sử nghiên cứu
21 p | 142 | 12
-
Ấn chương Việt Nam - CHƯƠNG IV TÍN KÝ, KÝ VÀ ẤN TƯ NHÂN THỜI NGUYỄN
31 p | 105 | 12
-
Ấn chương Việt Nam - Tổ chức quân đội và ấn dấu của một số danh tướng đầu thời Nguyễn
12 p | 109 | 12
-
Ấn chương Việt Nam - Ký Triện hay Triện của tổng lý cấp tổng xã
7 p | 103 | 10
-
Ấn chương Việt Nam - Thực trạng về ấn chương thời Lê sơ
14 p | 79 | 9
-
Ấn chương Việt Nam - Ấn và Chương trong tổ chức hành chính cấp thành, trấn, doanh
7 p | 95 | 9
-
Ấn chương Việt Nam - Dấu ấn trên văn bản Hán Nôm triều Quang Trung
22 p | 93 | 8
-
Ấn chương Việt Nam - KýCùng hàng với Tín Ký còn có Ký thường dùng cho các
6 p | 91 | 7
-
Ấn chương Việt Nam - Thực trạng ấn chương thời Lê Trung hưng
8 p | 113 | 7
-
Ấn chương Việt Nam - . Kiềm ký
7 p | 82 | 6
-
Ấn chương Việt Nam - Ấn chương thời Nguyên (1279 - 1368)
5 p | 99 | 6
-
Ấn chương Việt Nam - Ấn chương thời Tần - Hán
8 p | 94 | 5
-
Ấn chương Việt Nam - Ấn chương thời Đường - Tống
3 p | 73 | 5
-
Ấn chương Việt Nam - CHƯƠNG I ẤN CHƯƠNG VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ - MẠC (1428 - 1592)
17 p | 74 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn