
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
383
QUAN NIỆM CỦA ĂNGGHEN VỀ VAI TRÒ CỦA LAO ĐỘNG
TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TỪ VƯỢN THÀNH NGƯỜI
TRONG TÁC PHẨM “BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN”
Nguyễn Thị Cẩm Tú, Hoàng Trọng Vinh
Trường Đại học Thủy lợi, email: Tuntc@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Ph.Ăngghen - một trong những nhà triết
học vĩ đại của thế kỷ XIX, là người cộng sự
thân thiết của C.Mác. Ông đã để lại một kho
tang lý luận tri thức kiệt suất cho nhân loại.
Trong đó phải kể đến tác phẩm “Biện chứng
của tự nhiên” được ông trình bày nhiều quan
điểm sâu sắc về sự tiến hóa và phát triển của
loài người. Một trong những chủ đề nổi bật
của tác phẩm đó là vấn đề “Vai trò của lao
động trong quá trình chuyển biến vượn thành
người”. Với sự luận giải trên cơ sở kế thừa
những thành tựu của khoa học tự nhiên,
Ăngghen đã góp phần đem lại cái nhìn mới,
cái nhìn khoa học về quá trình tiến hóa từ
vượn thành người thông qua vai trò của lao
động, được coi là mảnh ghép hoàn chỉnh lý
luận của chủ nghĩa Mác về sự hình thành và
phát triển con người, xã hội loài người.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với
một số phương pháp khác như phân tích-tổng
hợp, phương pháp logic-lịch sử... để làm sáng
tỏ “vai trò của lao động trong quá trình
chuyển biến vượn thành người” trong tác
phẩm “Biện chứng của tự nhiên” của Ăngghen
về mặt lý luận và thực tiễn.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Khái lược về sự ra đời của tác phẩm
biện chứng của tự nhiên
Tác phẩm được Ăngghen bắt tay viết từ
tháng 2-1870, nhưng đến năm 1876 thì bị gián
đoạn. Sau đó Ăngghen đã dành hai năm để viết
những bài báo phê phán chủ nghĩa Đuyrinh.
Sau đó, ông lại tiếp tục nghiên cứu những vấn
đề phép biện chứng của tự nhiên. Cho đến năm
1883, khi C.Mác mất, ông lại một lần nữa tạm
dừng việc viết tác phẩm “Biện chứng của tự
nhiên” để dành thời gian vào việc hoàn thành
xuất bản bộ Tư bản và việc lãnh đạo phong
trào công nhân quốc tế. Tập sách này đến năm
1895 khi ông mất vẫn chưa được hoàn thiện.
Đến năm 1925, tác phẩm Biện chứng của tự
nhiên mới được xuất bản ở Mátxcơva. Sự ra
đời của tác phẩm này mang lại một giá trị khoa
học, là bước tiến xa hơn, hoàn thiện hơn, đầy
đủ và khoa học hơn so với kinh Cựu ước về
nguồn gốc của loài người, đồng thời nó mang
lại giá trị to lớn trong lý luận của chủ nghĩa
Mác: “nó vẽ nên một bức tranh biện chứng về
thế giới mà khâu quan trọng là trình bày sự quá
độ từ giới tự nhiên lên xã hội loài người” [1].
Chính vì thế, cho đến nay, sức sống của tác
phẩm này vẫn còn mãi với thời gian như một
kho báu lấp lánh tràn đầy trí tuệ của một bậc
thiên tài thế kỉ XIX.
3.2. Nội dung chủ yếu trong quan niệm
của Ăngghen về vai trò của lao động đối với
quá trình chuyển biến từ vượn thành người
trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”
3.2.1. Quan niệm về lao động
Khi bàn về lao động, Ăngghen đã đồng
tình quan niệm lao động với các nhà kinh tế
chính trị “Lao động là nguồn gốc của mọi của
cải. …khi đi đôi với giới tự nhiên là cái cung
cấp những vật liệu cho lao động biến thành
của cải” [2; tr.299]. Với cái nhìn biện chứng
sâu sắc của Ăngghen, ông đã bổ sung quan
niệm về lao động một cách đầy đủ: “Lao
động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người, và như thế đến một mức

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
384
mà trên một ý nghĩa là đó, chúng ta phải nói:
lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”
[2; tr.299]. Với quan niệm của Ăngghen “Lao
động sáng tạo ra bản thân con người” đã diễn
đạt vắn tắt lý luận của Ăngghen về nguồn gốc
của loài người.
3.2.2. Lao động giúp biến đổi chi trước của
vượn thành bàn tay khéo léo của con người
Theo như phân tích của Ăngghen cho thấy,
hàng chục vạn năm về trước, có một loài
vượn đã đạt đến một trình độ đặc biệt cao -
đó là loại vượn người. Ăngghen lập luận rằng
bàn tay có chức năng khác với bàn chân do
ảnh hưởng bởi thói quen leo trèo, điều này
khiến chúng dần bỏ mất thói quen dùng hai
tay để bò dưới đất, rồi dần dần biết đi thẳng.
Đối với Ăngghen, hành động bỏ đi bằng hay
tay này là “bước quyết định trong sự chuyển
biến từ vượn thành người” [2; tr.300].
Theo cách diễn đạt của Ăngghen, “bàn tay
đã được giải phóng, từ đấy, nó có thể đạt
được ngày càng nhiều những sự khéo léo
mới, và sự mềm mại hơn…”[2; tr.302]. Ông
đã đưa ra nhận định rằng “bàn tay không
những là khí quan của lao động, mà còn là
sản phẩm của lao động nữa” [2; tr.302]. Điều
này mà ông khẳng định là đúng vì lao động
mà bàn tay thực hiện đã ảnh hưởng đến cách
bàn tay tiến hóa theo thời gian và mang lại
cho bàn tay mức độ hoàn thiện cao như ngày
nay tạo ra các công trình kì vĩ như Vạn lý
Trường thành (Trung Quốc), Kim tự tháp của
người Ai-cấp hay những bức tranh của danh
họa Leonardo da Vinci như “Mona Lisa”…
Hơn thế nữa, theo Ăngghen, sự biến đổi
của bàn tay có mối liên hệ với sự biến đổi
những bộ phận khác trong cơ thể cực kì phức
tạp của con người. Ông chỉ rõ “Khi vượn cổ
bắt đầu lao động, sử dụng công cụ và chế tạo
đồ vật, bàn tay của chúng trở thành công cụ
chính để tương tác với môi trường…Điều này
kích thích sự phát triển của các dây thần kinh
và thụ thể cảm giác, khiến xúc giác trở nên
tinh tế hơn…và xúc giác mà con vượn chỉ
mới có dưới hình thức thô sơ nhất, thì nhờ
lao động mà đã phát triển song song với sự
phát triển của bàn tay con người” [2; tr.307].
Điều đó chứng tỏ rằng, sự biến đổi của đôi
bàn tay là điều kiện cần thiết để bộ não của
vượn người ngày càng hoàn thiện, khiến cho
sự nhận thức bằng bản năng của loài vật
thành sự chủ động trong quá trình khám phá,
chinh phục thế giới của con người.
3.2.3. Lao động tạo ra nhiều thức ăn giúp
bộ não của con người phát triển
Nhờ trải qua quá trình lao động, loài người
nguyên thủy đã chế tạo ra các công cụ là
những công cụ săn bắn và đánh cá. Họ dùng
những công cụ săn bắn làm vũ khí. Với việc
ăn quen thức ăn bằng thịt bên cạnh thức ăn
bằng thực vật đã đem lại sức mạnh về thể
chất và tính độc lập cho con người đang hình
thành.Theo Ăngghen: “chính thức ăn bằng
thịt đã tác động đến bộ óc cung cấp rất nhiều
những chất cần thiết cho sự phát triển và bồi
dưỡng bộ óc” [2; tr.310]. Để lý giải cho điều
này, theo ông: “thức ăn bằng thịt chứa đựng,
dưới hình thức gần như có sẵn, những chất
chủ yếu mà cơ thể cần dùng để trao đổi chất,
nó rút ngắn quá trình tiêu hóa…” [2; tr.310].
Vì vậy, nó tiết kiệm được thời gian hơn, chất
và năng lượng làm đời sống tích cực hơn so
với các loài động vật khác.
Nhờ chế độ ăn thịt có ý nghĩa quyết định
hình thành việc dùng lửa và nuôi gia súc.
Việc dùng lửa giúp họ làm chín thức ăn và
rút ngắn quá trình tiêu hóa. Việc chăn nuôi đã
làm cho thức ăn bằng thịt dồi dào và quay lại
cung cấp thức ăn, dưỡng chất cho họ.Và từ
đó bộ não họ ngày càng được phát triển nhờ
quá trình lao động.
3.2.4. Lao động là nguồn gốc của ngôn
ngữ và là điều kiện giúp phát triển các khí
quan nhận thức của con người
Qua thời gian với sự phát triển của đôi bàn
tay và với quá trình lao động, con người đã
bắt đầu thống trị tự nhiên, với mỗi lần tiến lên
như vậy, tầm mắt của con người được mở
rộng thêm. Chính sự phát triển của lao động
đã đưa đến một kết quả tất yếu là thắt chặt
thêm những mối liên hệ giữa các thành viên
trong xã hội, bằng cách tạo ra nhiều cơ hội để
con người giúp đỡ và hợp tác với nhau. Cho
nên, những con người đang trong quá trình
tiến hóa đã phát triển và ý thức cần phải nói
với nhau một cái gì đó trong quá trình lao

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
385
động (hái quả, săn bắn…). Nhu cầu đó đã tự
nó tạo ra cho một khí quan: “cái cuống họng
chưa phát triển của loài vượn, nhờ uốn giọng
mà biến đổi, dần dần nhưng chắc chắn, để có
thể thích ứng với một lối phát âm ngày càng
phát triển thêm mãi, và các khí quan của mồm
cũng dần luyện tập được cách phát ra những
âm vận nối tiếp nhau”[2; tr.304]. Đây chính là
lời giải thích về nguồn gốc của ngôn ngữ đúng
đắn nhất có cơ sở từ quá trình lao động tạo ra.
Với sự phát triển ngôn ngữ đã giúp con
người sử dụng các công cụ đơn giản sang việc
chế tạo các công cụ phức tạp hơn, bởi vì họ có
thể truyền đạt các kỹ thuật và cải tiến qua mỗi
thế hệ. Loài vật khác biệt với loài người mà
mãi mãi về sau chúng không thể có được đó
chính là ngôn ngữ và ý thức. Nếu loài vật mà
có hiểu được thì chúng cũng chỉ hiểu được ở
cấp độ rất thấp trong phạm vi tưởng tượng của
chúng, chứ không bao giờ có thể khái quát và
hiểu sâu sắc ở mức trừu tượng như con người.
Đồng thời, thông qua lao động buộc thế
giới khách quan bộc lộ bản chất, đó cũng là
nguồn gốc để các khí quan nhận thức của con
người phát triển, chẳng hạn như mắt tinh hơn,
tai thính hơn, khả năng phân biệt mùi vị của
khứu giác trở nên nhậy bén hơn, đôi bàn tay
mềm mại và linh hoạt hơn… là tiền đề giúp
con người có thể khái quát quá trình vận
động của thế giới thành quy luật, phạm trù để
không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo
và làm chủ thế giới. Ngày nay, các khí quan
nhận thức (tai, mắt, mũi,…) của con người
phát triển một cách toàn diện và hoàn hảo
nhất trong các loài động vật. Vậy nguồn gốc
của sự phát triển này là đâu? Theo Ăngghen,
chính là lao động và ngôn ngữ. Nhưng “trước
hết là lao động, sau lao động và đồng thời là
ngôn ngữ” [2; tr.306]. Đây là hai thứ kích
thích ảnh hưởng đến bộ não vượn và làm bộ
óc qua nhiều thế hệ hoàn thiện biến chuyển
thành bộ óc con người như ngày nay.
3.3. Ý nghĩa
Qua nghiên cứu cho thấy, giá trị của lao
động trên hết và hơn hết giúp cho loài người là
động vật duy nhất có thể tiến xa hơn cả quá
trình thích nghi với sự biến đổi của tự nhiên đó
là chinh phục và làm chủ tự nhiên, bắt tự nhiên
phục vụ mục đích của con người. Cụ thể:
Một là, lao động giúp hình thành và phát
triển con người. Vì, lao động không chỉ tạo ra
của cải vật chất mà còn đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành và phát triển con
người. Qua quá trình lao động, con người có
cơ hội nâng cao kỹ năng, mở rộng kiến thức
và phát huy khả năng sáng tạo.
Hai là, lao động thúc đẩy sự phát triển toàn
diện của xã hội loài người. Vì, qua lao động,
con người sản xuất ra của cải vật chất, đồng
thời, trong quá trình lao động khuyến khích
đổi mới sáng tạo, tìm kiếm phương pháp mới,
cả tiến công nghệ để nâng cao hiệu quả trong
sản xuất. Hơn thế nữa, lao động giúp xây
dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội tạo
nền tảng cho sự ổn định và phát triển của
cộng đồng. Ngoài ra, lao động còn giúp con
người học hỏi, phát triển các kĩ năng và tích
lũy kiến thức góp phần vào sự phát triển
chung của xã hội; đồng thời, lao động khuyến
khích sự công bằng và ổn định xã hội, góp
phần vào sự phát triển bền vững.
4. KẾT LUẬN
Tóm lại, vai trò lao động trong quá trình
chuyển biến vượn thành người có nhiều giá
trị sâu sắc. Đối với con người hiện đại trong
thời đại 4.0, lao động không chỉ là một hoạt
động kinh tế mà còn là một động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và sáng
tạo. Nhờ vào lao động, con người đã tiến hóa
từ những hình thức lao động đơn giản đến
những công việc phức tạp, kỹ thuật cao.
Trong kỷ nguyên công nghệ số, lao động đã
mở ra cơ hội cho việc ứng dụng trí tuệ nhân
tạo, tự động hóa, và các công nghệ tiên tiến,
giúp con người không ngừng nâng cao năng
suất và hiệu quả. Do đó thế hệ trẻ hãy luôn ý
thức nâng cao năng lực trí tuệ đóng góp vào
sự phát triển chung của nhân loại.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giới thiệu tác phẩm “Biện chứng của tự
nhiên” của Ăngghen (18/9/2015) https://tulieu
vankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-
ho-chi-minh/ph-angghen/nghien-cuu-hoc-tap-
tu-tuong/gioi-thieu-tac-pham-bien-chung-cua-
tu-nhien-cua-angghen-3140.
[2] Ph. Ănghen (2004) Biện chứng của tự nhiên,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

