
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
87
BÀI BÁO KHOA HỌC
ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC TƯỚI Ô NHIỄM ĐẾN HÀM LƯỢNG NH4+
TRONG NƯỚC NGẦM NÔNG TRÊN ĐẤT PHÙ SA
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Nguyễn Phan Việt1, Đinh Thị Lan Phương2
Tóm tắt: Thí nghiệm được thực hiện trên cánh đồng Học viện NNVN trong bốn vụ để làm rõ mức độ
thấm NH4+ từ nước tưới ô nhiễm có hàm lượng NO3- 0,5 – 2,9 mg/L, NO2- 0,068 – 0,084 mg/L, NH4+ 5,1
- 6 mg/L xuống các tầng 35 cm, 70 cm, 120 cm. Gồm 4 công thức: CT 1 - tưới ngập, CT 2 - tiết kiệm
nước, CT 3 - tưới ngập không áp dụng phân bón, CT 4 - tưới ngập với nước không ô nhiễm. Riêng ba
CT (1, 2, 4) áp dụng phân bón 120 kg N : 90 kg P2O5 : 90 kg K2O/ha. Kết quả cho thấy NH4+ trong nước
tưới > 2,5 mg/L tích hợp phân bón làm NH4+ trong cả 3 tầng của CT 1 vượt QCVN 09:2023/BTNMT,
trong khi CT 2 chỉ ảnh hưởng đến tầng 35 cm và 70 cm. Tỉ lệ đạm 120 kg/ha trong điều kiện nước tưới
sạch không ảnh hưởng đến NH4+ trong nước ngầm nông ở CT 4. NH4+ trong nước tưới > 2,5 mg/L
không tích hợp phân bón làm NH4+ trong tầng 35 cm - 70 cm của CT 1 và tầng 35 cm của CT 2 vượt
QC. Kiểm soát mức nước tưới của CT 2 đã hạn chế mức độ thấm NH4+ xuống tầng 35 cm và giảm 1 –
3,53 lần so với CT 1. NH4+ trong nước tưới < 2,5 mg/L cho thấy NH4+ trong tất cả các tầng của CT (1,
2, 3) đều trong QC. Các kết quả nghiên cứu đóng góp cho quản lý tưới và phân bón để hạn chế thấm
NH4+ vào nước ngầm nông.
Từ khóa: Nước ngầm ô nhiễm amoni, nước tưới ô nhiễm, lúa, tưới ngập.
1. GIỚI THIỆU CHUNG *
Ô nhiễm amoni trong nước ngầm làm gia tăng
nguy cơ phú dưỡng nước mặt và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe con người nếu khai
thác và sử dụng nguồn nước đó. Hầu hết phân
đạm sử dụng cho lúa dưới dạng ure hoặc amoni,
để tăng năng suất nông dân thường sử dụng quá tỉ
lệ khuyến cáo dẫn đến dư thừa N trong nước mặt
ruộng và thấm xuống gây ô nhiễm nước ngầm.
Hơn nữa, khan hiếm nước tưới bởi biến đổi khí
hậu và ô nhiễm nguồn nước gia tăng, các nguồn
tưới tại nhiều hệ thống thủy lợi miền Bắc thường
bị trộn lẫn nguồn thải sinh hoạt và chăn nuôi chưa
qua xử lý mang theo một lượng lớn NH4+ vào
ruộng lúa. Sự tích hợp giữa nước tưới ô nhiễm và
phân bón mang theo N trong đó có NH4+ vào nước
ngầm nông (Nguyễn Phan Việt và cs, 2023).
Trong nước mặt ruộng, phân đạm ure và amoni
hòa tan thành amoni (NH4+) cung cấp dinh dưỡng
1 Nghiên cứu sinh ĐH Thủy lợi
2 Khoa Hóa & Môi Trường, Đại học Thủy lợi
cho lúa, tuy nhiên lúa chỉ hấp thu khoảng 50%
lượng phân bón, phần còn lại được chuyển hóa
thành NO3-, N2O, NH3 bởi các quá trình sinh hóa
và sau đó thất thoát (Bijay-Singh, Eric Craswell,
2021). Lượng N thất thoát bao gồm một phần
NO3- và NH4+ thấm và rửa trôi, một phần bay hơi
dưới dạng N2O và NH3. Với đặc tính dễ thấm của
đất lúa (lớp đất mặt tơi xốp do được cày ải và làm
cỏ sục bùn hai lần/năm) dẫn đến quá trình thấm
NO3- xuống dưới vùng rễ đã được chỉ ra ở nhiều
nghiên cứu (Nguyễn Phan Việt và cs, 2023, Bijay-
Singh, Eric Craswell, 2021). Có khoảng 48 -
50,3% lượng N tích lũy trong lớp đất 0 - 40 cm, và
49,7 - 52% N tích lũy trong lớp đất 40–100 cm đã
được tìm thấy, trong đó 85% N bị thấm dưới dạng
NO3- (Abdikani et al., 2018).
Sự thấm N thường được phát hiện dưới dạng
NO3-. Về lý thuyết, NO3- mang điện âm dễ bị rửa
trôi khỏi các lớp đất so với NH4+. Trong tự nhiên,
nồng độ NH4+ trong nước ngầm thường khá thấp
vì ion này mang điện dương nên được giữ lại ở
các tầng đất. Lúa thường ưa dạng dinh dưỡng

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
88
NH4+ hơn NO3- nên khi có mặt cả hai ion, cây sẽ
hấp thu NH4+ nhanh hơn NO3-. Đây là một trong
những nguyên nhân góp phần làm một lượng lớn
NO3- tích lũy bên dưới vùng rễ dễ dàng vận
chuyển xuống các tầng đất dưới cùng với nước
thấm (Abdikani et al., 2018). Ngoài ra, quá trình
nitrat hóa NH4+ thành NO3- diễn ra rất nhanh tại
vùng rễ làm cho nồng độ NH4+ trong vùng rễ
thường thấp hơn so với NO3-, cơ chế này đã được
chứng minh ở nhiều nghiên cứu. Mặc dù các cánh
đồng lúa ngập nước được đặc trưng bởi điều kiện
thiếu oxi, nhưng sự thất thoát oxy từ rễ lúa tạm
thời cung cấp oxi cho vùng rễ trong đất. Sự thất
thoát oxi từ rễ lúa đóng vai trò là chất nhận điện tử
cho vi khuẩn oxy hóa NH4+ hoạt động hiếu khí.
Người ta đã chứng minh được sự xuất hiện O2 tạm
thời từ lớp đất bề mặt 10–25 mm tới vùng rễ (30 –
40 cm) (Markus Maisch et al., 2019). Những lí do
trên làm nồng độ NH4+ trong nước ngầm nông
thường thấp hơn nồng độ NO3-.
Tuy nhiên, trong điều kiện nước mặt ô nhiễm
sẽ dẫn đến thấm NH4+ vào nước ngầm nông.
Nghiên cứu của (Jinguo Wang et al., 2013) tại Từ
Châu, Trung Quốc đã thử nghiệm phân tích nồng
độ NH4+ trong nước ngầm nông thấm từ kênh dẫn
nước thải dọc hai bên sông Kuihe. Bằng kỹ thuật
đánh dấu đồng vị, kết quả phân tích cho thấy xuất
hiện sự thấm NH4+ xuống nước ngầm nông từ
nước thải. Trong đó, có tới 27,3% lượng NH4+
trong nước ngầm nông dưới khu vực này có nguồn
gốc từ phân hóa học, còn lại 72,7% NH4+ có
nguồn gốc từ phân động vật, nước thải sinh hoạt
và các nguồn gây ô nhiễm khác. Trong một nghiên
cứu khác được thực hiện trong bể đất lớn ở phòng
thí nghiệm để mô phỏng sự di chuyển của các chất
gây ô nhiễm NH4+ và NO3- trong hệ thống đất lúa
vào nước ngầm bao gồm vùng chưa bão hòa và
bão hòa của (Abdikani et al., 2018). Kết quả cho
thấy nồng độ trung bình NO3- trong nước dưới đất
ở năm độ sâu khác nhau 20 cm, 40 cm, 60 cm, 80
cm, 100 cm lần lượt là 3,6, 3,3, 2,8, 2,7 và 2,4
mg/L. Có thể thấy hàm lượng NO3- trong nước
dưới đất ở độ sâu 20 cm cao nhất do quá trình
nitrat hóa trong điều kiện hiếu khí ở vùng rễ. Sự
giảm nồng độ NO3- theo độ sâu của đất chứng tỏ
xuất hiện quá trình khử NO3- ở các lớp đất sâu
hơn. Kết quả cũng chỉ ra nồng độ NH4+ trong
nước mặt ruộng tăng sau các lần bón phân thứ
nhất, thứ hai và thứ ba. Tuy nhiên, nồng độ NH4+
trong nước thấm giảm theo độ sâu các tầng đất,
trung bình tại các độ sâu 20 cm, 40 cm, 60 cm, 80
cm, 100 cm lần lượt là 1,4, 1,3, 1,2, 1,0 và 1,0
mg/L thấp hơn so với NO3-. Sự thấm NO3-
và NH4+ xuống nước dưới đất ở độ sâu
100 cm được định lượng là 4,7 và 10,1 kg/ha
trong vụ chiêm, 1,7 và 5,1 kg/ha trong mùa. Như
vậy, lớp đất không bão hòa đã có tác dụng loại bỏ
đáng kể NH4+ thấm từ nước mặt ruộng
(Dash et al., 2015). Nghiên cứu của (Dash et al.,
2015) cũng chỉ ra tải lượng thấm của NH4+ dao
động từ 1,9 - 3,9 kg/ha, trong đó 44,4-55,6%
lượng NH4+ thấm được tích tụ ở lớp đất 0 - 40 cm.
Hàm lượng NH4+ ở độ sâu 40 cm là 5,4 kg/ha đối
với vụ chiêm và 4,9 kg/ha đối vụ mùa.
Hình 1. Mô phỏng các vùng dưới đất lúa
Do các quá trình loại bỏ NH4+ khỏi lớp đất mặt
như bay hơi dưới dạng NH3, N2O, hấp thu của
thực vật và quá trình nitrat hóa trong vùng rễ (Hou
H. et al, 2007, Chao Wang et al., 2008). Trong
một nghiên cứu khác (Zhao X. et al., 2012) đã tính
tổng lượng N bị rửa trôi ở độ sâu 100 cm trong đất
lúa là 5,82 kg/ha vào vụ mùa năm 2009. Khi có
mưa lớn, lượng N rửa trôi tăng lên theo mức
nước ngập mặt ruộng, tỉ lệ thấm NH4+/NO3-
là 33,7% vào vụ chiêm và tỉ lệ này tăng đến
38% vào vụ mùa. Ngoài ra, hàm lượng NO3- ở lớp
đất 0 - 40 cm thường cao hơn so với NH4+ do quá
trình nitrat hóa của NH4+ thành NO3-. Kết quả là
có khoảng 45,7 - 46,9% và 53,1 - 55,6% NO3- tích
lũy trong các lớp đất trên 40 cm và các lớp đất
dưới 60 cm. Bởi vì lúa có rễ nông nên chỉ có
thể hấp thu NO3- tại vùng rễ 30 - 40 cm. Do đó,
một lượng lớn NO3- (khoảng 4,5-6,6 kg/ha)

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
89
ở dưới vùng rễ theo nước thấm xuống các tầng đất
sâu hơn. Lượng thất thoát trung bình của NO3- và
NH4+ trong lớp đất 40–100 cm trong vụ chiêm
thường nhiều hơn vụ mùa do có mưa lớn, cụ thể là
2,4 và 0,9 kg/ha vào vụ chiêm, 1,6 và 0,7 kg/ha và
vụ mùa (Abdikani et al., 2018). Như vậy, lượng thất
thoát của NO3- và NH4+ giảm theo độ sâu lớp đất và
mức độ thấm của NH4+ khá thấp so với NO3-.
Đánh giá gần đây của (Chen Shih-Kai et al.,
2022) về mức độ ô nhiễm NH4+ và NO3- của nước
ngầm nông trong khu vực nông nghiệp phức hợp
tại Trung Tây Đài Loan, bao gồm đất trồng lúa hai
vụ, đất trồng lúa luân canh mía và đất trồng mía.
Kết quả cho thấy nồng độ NH4+ cao đã được quan
sát thấy ở nước dưới đất các vùng trồng lúa hai vụ
và luân canh lúa mía. Trong đó, 50% số mẫu quan
trắc có HL NH4+ ở mức 0,25 – 1,5 mg/L, 22,7%
số mẫu có HL NH4+ ở mức 0,1 – 0,25 mg/L, 18%
số mẫu có HL NH4+ > 1,5 mg/L, còn lại có HL
NH4+ < 0,05 mg/L. Sau khi các cơ quan quản lý
nông nghiệp thực hiện chính sách điều chỉnh giảm
phân bón nên ban đầu đã kiểm soát được sự gia
tăng HL NH4+ trong nước ngầm tại khu vực đó.
Từ các nghiên cứu trên có thể thấy mức nước
mặt ruộng cao do tưới ngập, ô nhiễm nước tưới và
áp dụng phân bón là những nguyên nhân chính dẫn
đến hiện tượng thấm NH4+ xuống nước ngầm tầng
nông. Trong điều kiện tưới ngập vẫn phổ biến và
chưa có điều chỉnh phân bón tại những vùng có hệ
thống tưới ô nhiễm. Nghiên cứu tưới nước ô nhiễm
tích hợp phân bón theo khuyến cáo có ảnh hưởng
đến NH4+ trong nước ngầm tầng nông trên đất phù
sa sông Hồng không được bồi hàng năm hay
không. Thí nghiệm được thực hiện tại cánh đồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam với các đặc tính
đất phù sa sông Hồng không được bồi hàng năm.
Các kết quả nghiên cứu làm rõ mức độ thấm
NH4+ đến độ sâu nào, đồng thời làm cơ sở cho quản
lý tưới và phân bón dưới điều kiện nước tưới ô
nhiễm để hạn chế NH4+ ô nhiễm vào nước ngầm.
2. BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
2.1. Phẫu diện đất
Phẫu diện đất khu vực thí nghiệm được khảo sát
trước khi thực hiện thí nghiệm: tầng 0-35 cm màu
nâu tối, thành phần thịt trung bình, rất ẩm, cấu trúc
tảng khối lớn, ít chặt xốp, nhiều rễ lúa, kích thước
hạt từ nhỏ đến trung bình, chuyển lớp rõ về độ
chặt. Tầng 35-70 cm màu nâu đỏ xỉn, tính chất thịt
nặng, rất ẩm, chặt, ít xốp, ít rễ cây rất nhỏ, có sự
chuyển lớp rõ ràng về màu sắc. Tầng 70-120 cm
có màu nâu vàng xám, thành phần chủ yếu sét, rất
ẩm, chặt, dẻo, dính, có nhiều kết von màu nâu đen,
tròn, đường kính 1-2 mm (chiếm 5-10% thể tích)
xen nhiều vệt sét xám hơi xanh.
Đất thí nghiệm thuộc nhóm phù sa sông Hồng
không được bồi hàng năm, phản ứng ít chua đến
trung tính. Một số tính chất đất đo được gồm:
pHH2O 6,2 - 7,1; pHKCl 5,4 - 6,6, hàm lượng OC
tầng mặt từ 1,5 – 2,0%, N tổng số từ 0,18 – 0,25%
và giảm dần theo chiều sâu phẫu diện. Thành phần
cơ giới từ thịt đến trung bình với 21,5 – 30,5% sét,
54,5 – 57,25% limon, 15,0 – 21,5% cát.
2.2. Các công thức thí nghiệm
Thí nghiệm (TN) được thực hiện trên cánh
đồng Học viện Nông nghiệp Việt Nam có tọa độ
21o 00’00B - 106o55’54Đ. Thời gian thực hiện
trong 2 năm từ 6/2021 – 5/2023, bao gồm 02 vụ
xuân và 02 vụ hè. Các công thức thí nghiệm gồm:
CT 1: Tưới ngập bằng nước ô nhiễm tích hợp
phân bón. Mức nước mặt ruộng luôn duy trì 7 – 10
cm, gặp mưa lớn không tháo, chỉ tháo cạn ruộng
10 ngày trước thu hoạch. Được thực hiện trên toàn
bộ ruộng lúa có diện tích 960 m2. Bón phân theo
khuyến cáo.
CT 2: Tưới tiết kiệm nước bằng nước ô nhiễm
tích hợp phân bón. Áp dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm
nước của tác giả (Trần Viết Ổn, 2016) với mức
nước mặt ruộng duy trì 3 – 5 cm, phơi ruộng 3 – 5
ngày giữa các đợt tưới, cuối đẻ nhánh phơi ruộng 5
– 7 ngày đất nẻ chân chim. Tháo cạn ruộng 10
ngày trước thu hoạch. Tỉ lệ phân theo khuyến cáo.
CT 3: Tưới ngập bằng nước ô nhiễm không áp
dụng phân bón.
CT 4: Tưới ngập bằng nước không ô nhiễm tích
hợp phân bón: Nước tưới là nước máy có HL NO3-
< 0,3 mg/L; HL NH4+ < 0,1 mg/L. Tỉ lệ phân theo
khuyến cáo.
Các CT 2, CT 3 và CT 4 được thực hiện trên
các ô thí nghiệm có kích thước 3x3 m, đất được
chắn tôn, làm 02 hào, bao nilon 02 lớp đến độ sâu
2,2 m để đảm bảo độ sâu 0 – 2,2 m không có nước
thấm ngang và nước tràn mặt ruộng trong những

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
90
đợt mưa lớn. Lấy mẫu và bảo quản mẫu theo
TCVN 6663-11:2011.
Mẫu nước dưới đất được lấy theo 03 độ sâu gồm
35 cm, 70 cm, 120 cm theo chu kỳ 7 ngày/lần, bắt
đầu từ thời kì đổ ải (tuần 1 tương ứng với lần lấy
mẫu 1) cho đến khi chắc bông (tuần 11 tương ứng
với lần lấy mẫu 11) với tổng số lần lấy mẫu là 11
lần/vụ. Tổng số mẫu là 143 mẫu, gồm 11 mẫu nước
tưới và 132 mẫu nước ngầm (11 lần*4 CT*3 độ
sâu). Để thu mẫu, các ống nhựa PVC được bịt nắp
kín ở hai đầu và đục các lỗ nhỏ xung quanh tại các
độ sâu 35 cm, 70 cm, 120 cm để thu nước. Mẫu
nước đọng trong các ống được hút bỏ đi trước khi
lấy mẫu 24 giờ bằng bơm hút.
Hình 2. Phẫu diện đất và các công thức thí nghiệm
2.3. Nước tưới, giống lúa, phân bón và thuốc
trừ sâu
Nước tưới sông Cầu Bây có HL N-NO3- từ 0,5
– 2,9 mg/L nằm trong giới hạn QC, N-NH4+ từ
1,8-5,1 mg/L vượt QC từ 2 – 5,67 lần, N-NO2- từ
0,068 – 1,092 mg/L vượt QC từ 1,36 – 21,84 lần
(QC so sánh 08 MT: 2015-BTNMT cột B1).
Giống lúa bắc thơm số 7, được trồng phổ biến ở
miền bắc với chất lượng gạo dẻo, thơm, có độ sinh
trưởng khỏe, chống chịu hạn và rét, thời gian sinh
trưởng 125 - 135 ngày vụ đông xuân, 105 - 110
ngày vụ hè thu.
Chế độ phân bón theo khuyến cáo của Viện
NNVN 120 kg N : 90 kg P2O5 : 90 kg K2O/ha,
sử dụng phân NPK Việt Nhật, bón thúc duy
nhất vào thời kì sau khi lúa cấy được 2 - 3
tuần tuổi là lúc bén rễ hồi xanh. Sử dụng
thuốc trừ sâu Nouvo3.6EC phun phòng bệnh
thời kỳ đẻ nhánh.
2.4. Hóa chất và phân tích
Sử dụng test thuốc thử của HACH phân tích
NH4+ trong mẫu nước trên máy quang phổ DR-
3900 của hãng HACH theo phương pháp
Salicylate 8155.
2.5. Xử lý số liệu
Các số liệu TN được tính giá trị trung bình, độ
lệch chuẩn và vẽ đồ thị trên Microsoft Excel. Sử
dụng chương trình ANOVA đánh giá sự khác biệt
có ý nghĩa giữa các CT (P < 0,05).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả của tưới ngập với nước ô nhiễm
tích hợp phân bón
Kết quả thí nghiệm cho thấy tưới ngập làm
mức nước mặt ruộng luôn ở mức 7 – 10 cm và
tăng lên vào các đợt mưa. Do tính chất đất lúa tơi
xốp bề mặt, dễ thoát nước và lớp nước bề mặt cao
làm mức độ thấm gia tăng (Nguyễn Phan Việt và
cs, 2023).
Hình 3. HL NH4+ của CT tưới ngập tích hợp
phân bón vụ xuân 2023
Có thể thấy HL NH4+ trong nước tưới của 4 vụ
khá cao, trung bình từ 1,8 – 5,1 mg/L. Các kết quả
thí nghiệm được thống kê của bốn vụ cho thấy tại
các thời điểm nước tưới có HL NH4+ trên mức 2,5
mg/L không tích hợp phân bón, HL NH4+ trong
nước ngầm tại tầng 35 cm và 70 cm tăng lên đáng
kể vượt QCVN 09:2023/BTNMT, tuy nhiên tầng
120 cm không bị ảnh hưởng. Vào các đợt nước
tưới có HL NH4+ vượt 2,5 mg/L tích hợp phân

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
91
bón, HL NH4+ tại cả 3 tầng 35 cm, 70 cm và 120
cm đều vượt QC. Các thời điểm nước tưới có HL
NH4+ dưới 2,5 mg/L, HL NH4+ trong các tầng 35
cm, 70 cm và 120 cm dưới mức QC.
Chẳng hạn vụ xuân 2023, có 04 thời điểm
nước tưới có HL NH4+ rất cao là lần lấy mẫu số
3, 4, 10 và 11. HL NH4+ trong nước tại tầng 35
cm đo được từ 0,25 – 4,25 mg/L. Tại các thời
điểm HL NH4+ trong nước tưới của lần lấy mẫu
3, 4, 10, 11, HL NH4+ trong tầng 35 cm vượt QC
từ 2,43 – 4,25 lần. Trong đó, nước tưới ô nhiễm
tích hợp phân bón (lần lấy mẫu 3, 4) làm HL
NH4+ trong tầng 35 cm cao hơn 16,36 – 17 lần
so với các đợt còn lại (P < 0,05). Cũng tại thời
điểm bón phân, HL NH4+ trong tầng 70 cm và
120 cm cao hơn QC từ 1,08 – 1,12 lần và cao
hơn các thời điểm còn lại từ 4,3 – 8,3 lần. Thời
điểm không bón phân (lần 10, 11) với nước tưới
ô nhiễm NH4+ ở mức cao chỉ tác động đến tầng
35 cm và 70 cm. Cụ thể là HL NH4+ trong tầng
35 cm cao hơn QC từ 3,9 – 4,8 lần, HL NH4+
trong tầng 70 cm cao hơn QC từ 2,43 – 2,55 lần
tại đợt lấy mẫu số 10, 11.
Nhìn chung, các kết quả thí nghiệm của các vụ
còn lại cũng cho thấy HL NH4+ trong tầng 35 cm,
70 cm và 120 cm gia tăng đáng kể dưới ảnh hưởng
của các đợt tưới ngập với HL NH4+ trong nước
tưới vượt quá 2,5 mg/L tích hợp phân bón. Như
vậy, nước tưới ô nhiễm tích hợp phân bón làm
thấm NH4+ xuống cả ba tầng 35 cm, 70 cm và 120
cm làm HL NH4+ vượt quá QC. Thời điểm không
áp dụng phân bón, nước tưới với HL NH4+ > 2,5
mg/L chỉ làm HL NH4+ trong tầng 35 cm và 70 cm
vượt quá QC, không ảnh hưởng đến tầng 120 cm.
Nước tưới có HL NH4+ < 2,5 mg/L không ảnh
hưởng đến HL NH4+ trong cả ba tầng 35 cm, 70
cm và 120 cm. Nhìn chung, các kết quả về HL
NH4+ giảm theo độ sâu các tầng đất phù hợp với
các kết quả của (Abdikani et al., 2018). Nhìn
chung, có sự khác biệt đáng kể giữa HL NH4+
trong tầng 35 cm và tầng 70 cm (P < 0,05), cụ thể
là HL NH4+ trong tầng 35 cm cao hơn tầng 70 cm
từ 1,8 – 10,6 lần và mức độ thấm NH4+ chủ yếu
tập trung ở tầng 0 – 35 cm phù hợp với các nghiên
cứu của (Abdikani et al., 2018), (Jinguo Wang et
al., 2013) và (Dash et al., 2015).
3.2. Kết quả của tưới tiết kiệm nước với
nước ô nhiễm tích hợp phân bón
Các kết quả thí nghiệm của cả bốn vụ trong
CT 2 với mực nước mặt ruộng được kiểm soát
cho thấy tại các thời điểm HL NH4+ trong nước
tưới > 2,5 mg/L tích hợp phân bón làm HL NH4+
tại các tầng 35 cm, 70 cm vượt QC. Do mực
nước mặt ruộng thấp và phơi ruộng vào thời kì
cuối đẻ nhánh giúp tăng độ hiếu khí vùng rễ, oxi
hóa NH4+ thành NO3- bởi các quá trình sinh hóa
hạn chế thấm NH4+ xuống các tầng sâu hơn nên
tầng 120 cm không bị ảnh hưởng trong tất cả
các lần lấy mẫu của cả bốn vụ. Vào thời điểm
nước tưới có HL NH4+ > 2,5 mg/L không tích
hợp phân bón chỉ ảnh hưởng đến tầng 35 cm
(HL NH4+ vượt QC), không ảnh hưởng đến tầng
70 cm và 120 cm.
Cụ thể tại vụ xuân 2023, các lần lấy mẫu 3, 4
nước tưới có HL NH4+ > 2,5 mg/L tích hợp bón
phân làm HL NH4+ trong tầng 35 cm và 70 cm
vượt QC từ 1,08 – 3,51 lần. Tuy nhiên, mức nước
mặt ruộng được kiểm soát nên so với CT 1, HL
NH4+ thấp hơn so từ 0,74 – 0,92 mg/L tại các tầng
tương ứng. So sánh sự khác nhau giữa các tầng,
HL NH4+ trong tại tầng 35 cm cao hơn tầng 70 cm
khoảng 3,2 lần. Vào thời điểm nước tưới có HL
NH4+ vượt 2,5 mg/L không tích hợp phân bón (lần
lấy mẫu 10, 11) chỉ làm NH4+ trong nước dưới đất
tại tầng 35 cm vượt QC từ 2,83 – 2,94 lần. Các
tầng 70 cm và 120 cm không ô nhiễm NH4+ với
HL thấp hơn QC. Khi HL NH4+ dao động quanh
mức 1,8 – 2,5 mg/L, kết quả cho thấy HL NH4+ tại
tất cả các tầng đều thấp hơn QC.
Kết quả TN của các vụ khác cũng có xu hướng
tương tự, tưới tiết kiệm nước trong điều kiện nước
tưới có HL NH4+ vượt 2,5 mg/L chỉ tác động đến
HL NH4+ trong tầng 35 cm và 70 cm nhưng đều
thấp hơn so với tưới ngập tại các tầng tương ứng.
Bên cạnh đó, kết quả TN cũng cho thấy HL NH4+
giảm của tất cả các CT trong bốn vụ đều giảm
theo độ sâu các tầng đất; đồng thời có sự khác biệt
đáng kể về HL NH4+ giữa các tầng nghiên cứu (P
< 0,05), kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
của (Dash et al., 2015) và (Abdikani et al., 2018)
về độ giảm mức nước bề mặt hạn chế sự thấm
NH4+ xuống các tầng sâu hơn.