
Ba lời khuyên về u xơ tử
cung
Thống kê trên thế giới cho thấy cứ khoảng năm phụ nữ thì có một người bị u xơ
tử cung. Bệnh này đặc biệt hay gặp ở những người đang trong độ tuổi sinh sản.
U xơ tử cung (UXTC) là những cục bướu thịt có thể nằm ngoài bìa, trong thành hoặc
lọt trong lòng tử cung. Đây là loại u lành tính thường thấy nhất của tử cung. Khi
oestrogen trong cơ thể tăng cao, u xơ tử cung thường to ra do sự tăng sinh các sơi cơ,
mô cơ ở thành tử cung.
Lời khuyên thứ nhất: Lắng nghe những biểu hiện ban đầu
Triệu chứng đầu tiên của UXTC là ra khí hư nhiều do niệm mạc tử cung bị kích thích
(dịch này thường trong, đôi khi lonãg như nước và ngày một nhiều hơn). Tiếp đó,
bệnh nhân bị rỗi loạn kinh nguyệt, thời gian hành kinh kéo dài hơn bình thường và bị
đau bụng do tử cung co bóp mạnh để đẩy huýet kinh ra ngoài. Khi khối u xơ đã lớn,
huyết không ra theo chu kỳ nữa mà có thể xuất hiện bất cứ lúc nào khiến bệnh nhân
xanh xao, mẹt mỏi. Và khi khói u lớn hơn chèn ép bàng quang có thể gây bí tiểu tiện
hoặc táo bón và đau nếu u phát triển vào trực tràng.
Nhiều người có thể sờ thấy nhân xơ tử cứng chắc ở vùng bụng dưới vào ban đêm khi
các cơ bụng được thả lỏng. Trường hợp nặng hơn là khi khối nhan xơ tạo thành polyp
(bướu thịt) tụt vào âm đạo khiến bệnh nhân bị ra máu nhiều và có cảm giác vướng mỗi
khi sinh hoạt tình dục. Cũng có nhiều trường hợp UXTC không có biểu hiện nào trong

một thời gian rất dài, chỉ khi khối u đã lớn, bệnh nhận mới tự sờ thấy, hoặc bác sĩ phát
hiện trong đợt khám phụ khoa định kỳ.
Lời khuyên thứ hai: Không chủ quan
UXTC là những khối u lành tính nên thường không gây nguy hiểm nếu được phát hiện
sớm. Nhưng vì chủ quan, nhiều chị em không có thói quen khám phụ khoa định kỳ
nên bệnh thường phát hiện muộn, khó điều trị và có thể gây các biến chứng, nhất là
trong thai kỳ.
Những u xơ lớn lên có thể ép vào xương chậu gây cảm giác đau. Ngoài ra, chúng còn
ép vào đường dẫn tiểu, làm sưng thận, hay ép vào bọng đái gây cảm gác luôn muốn đi
tiểu.
Thai phụ có UXTC có thẻ bị sinh non, ngôi thai dễ bất thường, rau bám ở vị trí bất
thường (rau tiền đạo, rau cài răng lược). Đồng thời, u xơ cũng kéo dài cơn chuyển dạ.
Thậm chí, những khối u to, nằm ở vị trí "hiểm" có thể làm cho sản phụ không sinh
được, phải mổ và có nguy cơ bị băng huyết cao hơn.

Trong thời kỳ hậu sản, thường là u xơ sẽ nhỏ lại, không gây biến chứng gì. Tuy nhiên,
cũng có khi nó gây nhiễm khuản, nhất là đối với các u xơ dưới niêm mạc. Những u xơ
có cuống đẽ gây biến chứng xoắn do ổ bụng rỗng đột ngột.
Ngoài ra, UCTC có thể gây hiếm muộn do làm thay đổi lớp nội mạc tử cung, không
thuận lợi cho sự làm tổ của trứng khi tụ tinh. Nó cũng có thể chèn ép, làm gập vòi
trứng hoặc làm bít lỗ cổ tử cung. Với những người đã mang thai, nó có thể làm sẩy
thai liên tiếp do lớp nội mạc không phát triển đầy đủ, và do buồng tử cung bị chèn ép,
không phát triẻn to ra được.
Lời khuyên thứ ba: Hiểu rõ bệnh để điều trị
Có hai phương pháp điều trị UXTC là điều trị nội khoa và phẫu thuật. Việc lựa chọn
phương pháp nào phụ thuộc vào kích thước của khối u, tuổi và nhu cầu sinh con của
người phụ nữ.

Những người bị đau bụng nhiều nhưng u xơ nhỏ (dưới 5cm), có nhu cầu sinh con
được chỉ định dùng các loại thuốc progesteron trong sáu tháng đồng thời theo dõi chặt
chẽ sự tiến triển của khối u. Những thuốc này sẽ làm kịch thích tố nữ ngưng đi, mãn
kinh tạm thời. Trong thời gian đó, những u xơ này có thể giảm bớt, nhỏ đi từ 35-60%.
Tuy nhiên, sau khi ngưng thuốc thì những cục xơ này sẽ phát triển trở lại. Vì vậy, sau
sáu tháng, bệnh nhân phải khám và siêu âm đánh giá kích thước của u để bác sĩ có
cách xử trí thích hợp.
Nếu khối u lớn hơn 5cm thì bắt buộc phải mổ bóc tách (vẫn bảo tồn tử cung), bệnh
nhân vẫn có thể mang thai nhưng phải đợi ít nhất ba năm. Khi có thai, bệnh nhân cần
được theo dõi chặt chẽ vì có nguy cơ vỡ tử cung, gây tử vong cho mẹ và thai nhi.
Nếu bệnh nhân đã nhiều tuổi, không muốn sinh con nữa, hoặc khối u quá lớn thì phải
mổ cắt tử cung bán phần hoặc toàn phần bằng phương pháp mổ mở hay nội soi ỏ bụng
hoặc nội soi qua "đường dưới". Trong trường hợp bệnh nhân không bị ra máu nhiều
thì có thể áp dụng phương pháp sau: luồn một ống dẫn máu vào trong tĩnh mạch từ đùi
lên, sau đó bỏ thuốc làm máu đông ngay ở những động mạch nuôi tử cung để máu vào
tử cung giảm bớt, như vạy những u xơ này sẽ nhỏ đi bớt phần nào.
Những năm gần đây, Việt Nam đã điều trị UXTC bằng phương pháp tắc mạch.
Phương pháp này được thực hiện trên máy chụp mạch kỹ thuật số DSA. Một ống
thông nhỏ được đưa vào động mạch đùi bên phải, từ đó đi đến động mạch tử cung hai
bên. Chất tắc mạch PVA được bơm qua ống thông làm tắc toàn bộ các mạch máu nuôi
UXTC khiến khối u bị thiếu oxy và chất dinh dưỡng, dẫn đến hoại tử vô trùng. Từ đó
chúng dần dần teo nhỏ trở thành sẹo không có mạch máu hoặc biến mất hoàn toàn.
Bệnh nhận có thể ra viện sau thực hiện kỹ thuật tắc mạch 1-2 ngày, cảm giác đau tức
sau 3-5 ngày. Việc khám kiểm tra định kỳ được thực hiện ba tháng một lần trong
vòng một năm sau điều trị.

Kết quả điều trị UXTC ở khoa Can thiệp tim mạch của Bệnh viện Trung Ương Quân
đội 108 cho thấy tỷ lệ thành công là 90-95 %; tỷ lệ tái phát nhân xơ sau ba năm chỉ là
1-2 % và chưa ghi nhận trường hợp nào bị tai biến, biến chứng nặng. Tuy nhiên,
phương pháp này chống chỉ định cho nhóm bệnh nhân không có triệu chứng, khi nghi
ngờ có thai khoặc viêm vòi trứng, các u xơ dưới thanh mạc có cuống hoặc kích thước
lớn.

