BẠCH ĐẬU KHẤU
(Kỳ 2)
Mô tả:
Cây thảo cao khoảng 2-3m. Thân rnằm ngang to bằng ngón tay,
hình dải, mũi mác, nhọn 2 đầu, dài tới 55cm, rộng 6cm mặt trên nhẵn, dưới có
vài lông rải rác bẹ nhẵn, khía, lưỡi bẹ rất ngắn. Cụm hoa mọc gốc của
thân mang lá, mọc bò, dài khoảng 40cm, mảnh, nhẵn, bao bởi nhiều vảy
chuyển dần thành bắc phía trên, bắc mau rụng. Cuống chung của cm
hoa ngắn, mang 3-5 hoa, nách những bắc nhỏ hình trái soan. Hoa màu
trắng m, cuống ngắn, đài hình ống nhẵn, 3 răng ngắn. Tràng hình ống
nhẵn, dài hơn đài 2 lần, thùy hình trái xoan tù, thùy giữa hơi dài rộng hơn, lõm
hơn. Cánh môi hình thoi. Qunang hình trứng, bao bởi đài tồn tại, khi lớn
đến 4cm.
Phân biệt: Ngoài cây trên người ta còn dùng các cây với những tên Bạch
đậu khấu.
(1) Cây Amomum krervanh Pierre.
(2) Cây Amomum cardamomum Lin.
(3) Cây Elettaria cardamomum Maton gọi là Tiễn đậu khấu.
(4) Cây Alpinia sp. gọi là Thhương khấu. Mọc hoang tỉnh Quảng
Tây (Trung Quốc).
Địa lý: Cây mọc hoang dại vùng thượng du bắc bộ (Cao Bằng, Lào
Cai) Việt Nam và Cam pu chia. Cây này Vit Nam còn phải nhập.
Thu hái, chế: Thu hái vào mùa thu, hái cây trên 3 năm, hái qu còn
giai đoạn xanh chuyển sang vàng xanh. Hái vphơi trong râm cho khô, khi
phơi khô xong bcuống rồi xông diêm sinh cho vtrắng cất dùng, khi dùng
bóc vỏ lấy hạt.
Mô tdược liệu:
1) Bạch đậu khấu, quả nang khô, hình cầu hoặc hình cầu dẹt, không đều,
đường kính khoảng 4-5 phân, vquả màu vàng trắng, rãnh trơn 3 rãnh dọc
sâu, ràng nhiều vân rãnh cn, một đầu vết quả lồi lên hình tròn. V
quchất dòn thường nứt ra, lộ ra bên trong hạt màu nâu tthành hình khối,
trong có 3 buồng mỗi buồng 9-12 hạt, hạt hình đa giác màu xám trắng. Vỏ quả
bóc ra gọi là Đậu khấu xác (Vỏ đậu khấu), mùi thơm rất nhẹ.
2) Hoa bạch đậu khấu màu nâu đến nhạt, thể hiện hình khối dài ép dẹt,
mặt ngoài bao phhoa bị chất màng, gân dọc rõ ràng, đầu dưới giữ cuống
hoa tàn, thương phẩm thường phiến vụn, chất màng vật dạng sơ, xen kẽ
số ít cuống hoa, hơi có mùi thơm.
Phần dùng làm thuốc: Hạt quả và hoa.
Tính vị qui kinh: Bạch đậu khấu
+ Vcay, the, mùi thơm, tính nóng, vào kinh Phế, Tỳ, Vị (Trung Quốc
Dược Học Đại Từ Điển).
+ Vị cay, tính ấm, vào kinh Phế, Tỳ, Vị (Đông dược học thiết yếu).
Tham khảo:
+”Tính vcông năng của Bạch đậu khấu Súc sa nhân cùng n
nhau nhưng Bạch đậu khấu mùi thơm mát, nhẹ, từ từ thấm vào m, Tỳ,
thiên vđi lên trước rồi mới đi xuống sau. Súc sa nhân lại khác hẳn: giỏi vđi
xuống nhưng lại hơi ấm và đi lên. Thăng giáng của 2 vị này đều có cái hay của
- Bạch đậu khấu vcay, thơm, tính m, mầu trắng, đi vào Phế, sở trường về
điều trị hàn thượng tiêu. Bạch khấu xác được cái khí của nhân Đạu
khấu, tính tương đối hòa hoãn. Nếu Phế, Vị có vẻ hơi đầy, dùng vào thấy thông
vùng ngực, lý khí, hòa Vị” (Đông Dược Học Thiết Yếu).
. Cây Bạch đậu khấu còn cho xác hoa, gọi Đậu khấu xác, Đậu
khấu hoa, tác dụng như Bạch đậu khấu nhưng kém n (Thường Dụng
Trung Dược).
. Đậu khấu và Sa nhân tính vvà công dụng giống nhau, đều là thuốc
ôn vị tán hàn, lý khí hóa thấp. Nhưng Khấu nhân chuyên về ôn vị chỉ ẩu còn Sa
nhân thì chuyên về ôn Tỳ chỉ tả (Thường Dụng Trung Dược).
. Bạch đậu khấu còn dùng để giải độc rượu, say rượu không tỉnh có thể
dùng nó (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Sa nhân, Khấu nhân tính ôn, vị cay, đề thể ôn Tỳ, tán hàn, khí,
hoá thấp, đều là thuốc chủ yếu để khí, khoan hung, đều thể trị bụng đầy
trướng, bụng đau, nôn mửa nhưng Sa nhân tuy vị thơm nhưng khí lại trọc,
sức tán hàn khá mạnh, chuyên vhạ tiêu và trung tiêu, thích hợp với hàn thấp
tích trệ, hàn tả, lãnh lỵ, lại tác dụng an thai. Bạch khấu vthơm khí
thanh, tính ôn táo yếu hơn, chuyên về thượng tiêu trung tiêu, thích hợp với
các chứng nấc, nôn do thấp trọc ngăn trở Vị, lại thể tuyên thông Phế khí,
trngực đầy do thấp ngăn trở khí. Chứng thấp trệ thiên vnhiệt, thường dùng
Bạch khấu, không dùng Sa nhân. Bạch khấu và Sa nhân khi sắc thuốc, nên cho
vào sau để tránh bay mất k(Thực Dụng Trung Y Học).
nv