TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2001

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

MỤC LỤC

BÀI I : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI GỐC HOA

(cho đến đầu thế kỷ XVI, khi người Âu xuất hiện ở ĐNÁ) .................................................05 1. Quá trình hình thành ban đầu của các cộng đồng người Hoa ..................................................05 2. Các hình thức tổ chức của di dân người Hoa ...........................................................................06 3. Tình hình khái quát các khu di trú của người Hoa

trong những thế kỷ XV – XVIII..................................................................................................08

Ở ĐÔNG NAM Á (Cho đến nửa đầu thế kỷ XX) ........................................ 03 Mục đích của chuyên đề ....................................................................................................................04 Chương I : Buổi đầu di dân của người Hoa đến các nước Đông Nam Á

Chương II : Sự hình thành các cộng đồng người Hoa trong thời kỳ tư bản thực dân phương Tây xâm lăng Đông Nam Á (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)............................................................15 1. Mối quan hệ kinh tế giữa người Hoa và tư bản thực dân châu Âu. ...........................................15 2. Những va chạm ban đầu giữa người Hoa và thực dân châu Âu ...............................................17 3. Chế độ trưng thuế và người Hoa ...............................................................................................18 4. Tình hình của cộng đồng người Hoa trong nửa sau thế kỷ XIX.................................................20

Chương III: Quá trình hình thành xã hội - kinh tế của cộng đồng

người Hoa trong bối cảnh khủng hoảng của chế độ thuộc địa ................................24 1. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Đông Dương.......................................................................24 2. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Philippines ..........................................................................25 3. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Indonesia ...........................................................................25 4. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Miến Điện ...........................................................................26 5. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Malaya ................................................................................26 6. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Xiêm....................................................................................26

Chương IV: Quy chế pháp lý của người Hoa ở các nước

Đông Nam Á trong nửa đầu thế kỷ XX .......................................................................28 1. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Indonesia .........................................................................28 2. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Malaya..............................................................................29 3. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Xiêm .................................................................................29 4. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Đông Dương và Miến Điện ..............................................29 5. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Philippines .......................................................................30

Chương V: Các nhóm sắc tộc người Hoa và cuộc đấu tranh

chống thực dân của nhân dân Đông Nam Á ...............................................................32 1. Thế kỷ XVII - nửa sau thế kỷ XIX................................................................................................32 2. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX..................................................................................................34 3. Trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 - 1939) .............................................38 4. Trong những năm chiếm đóng của Nhật ( 1942 - 1945) ...........................................................47 Kết luận ................................................................................................................. 48 Tài liệu tham khảo ............................................................................................................................51

BÀI II : CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA SINGAPORE

1

DƯỚI THỜI CHÍNH PHỦ LÝ QUANG DIỆU (1965 – 1990)........................ 53 Mục đích của chuyên đề..................................................................................................................53 Chương I : Sơ lược về đất nước và lịch sử Singapore trước ngày độc lập ..............................54 I. Đất nước và con người................................................................................................................54 II. Sơ lược lịch sử Singapore trước ngày độc lập ..........................................................................55

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Chương II: Chiến lược "Sống còn dân tộc" .................................................................................58 I. Khái niệm " thành phố toàn cầu" và "trung lập tích cực" ............................................................58 II. Học thuyết An ninh quốc gia ......................................................................................................61 III. Từ chủ nghĩa toàn cầu đến chủ thuyết vùng .............................................................................64 Chương III : Các hoạt động đối ngoại của Singapore trong thập niên 80 .................................67 I. Những đặc điểm của tình hình quốc tế trong vùng......................................................................67 II. Tình hình phát triển kinh tế và chính trị của Singapore trong thập niên 80...............................70 III. Những thay đổi trong quan điểm đối ngoại ...............................................................................72 IV. Singapore và Phong trào không liên kết trong những năm 80..................................................76 Kết luận ................................................................................................................. 80 Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 87

BÀI III: VAI TRÒ CỦA QĐ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ Ở CỘNG HÒA

2

INDONESIA DƯỚI THỜI SUKARNO (1945 - 1967) ................................. 89 Mục đích của chuyên đề..................................................................................................................89 I. Giai đoạn đấu tranh giành độc lập (1945 - 1949) .......................................................................89 II. Giai đoạn dân chủ đại nghị (1950 – 1959)..................................................................................91 III.Giai đoạn dân chủ có lãnh đạo" (1959 – 1965) ..........................................................................96 Tài liệu tham khảo ................................................................................ 106

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

BÀI I (cid:90)(cid:85)(cid:89) LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI GỐC HOA Ở ĐÔNG NAM Á (cho đến nửa đầu thế kỷ XX)

3

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ (cid:90)(cid:85)(cid:89)

Đó là những câu hỏi mà chuyên đề "Lịch sử hình thành cộng đồng người gốc

4

Trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á (tất cả hiện nay đều là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN)((cid:31)), người gốc Hoa đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, thậm chí ở một vài nước (Indonesia, Singapore) còn mang tính quyết định. Không có họ, nền kinh tế các nước trong vùng chắc chắn sẽ vấp phải không ít khó khăn. Trong vòng trên dưới hai thập niên trở lại đây, vị thế của họ trong sinh hoạt kinh tế ở các nước Đông Nam Á lại có chiều hướng tăng lên do đó họ có những mối quan hệ khăng khít với các lãnh thổ Trung Hoa, vốn đang trải qua thời kỳ phát triển thịnh đạt về kinh tế, như Trung Quốc, Đài Loan và Hongkong. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa người gốc Hoa và người bản địa không phải lúc nào cũng êm đẹp. Ở những nước Đông Nam Á nào có tỷ lệ người gốc Hoa cao (như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Việt Nam), người bản địa thường nhìn sự giàu có, mà sinh hoạt kinh tế đã mang lại cho người gốc Hoa, bằng con mắt đố kỵ và thèm muốn. Mỗi khi xảy ra những biến động chính trị, người gốc Hoa dễ trở thành vật bung xung cho những tình cảm bực dọc bị dồn nén lâu lay trong nhân dân. Biến cố tháng 5-1998 vừa qua ở Indonesia là một ví dụ điển hình. Tại sao dù người Hoa đã có mặt ở các nước Đông Nam Á, phổ biến từ trên dưới 100 năm nay, cá biệt có trường hợp từ vài ba thế kỷ, giữa các cộng đồng sắc tộc người Hoa và người bản địa vẫn tồn tại một hố ngăn cách không thể vượt qua được ; vì sao người Hoa dễ trở thành đối tượng của những cơn biến động chính trị và kinh tế ở các nước trong vùng ? Hoa ở Đông Nam Á cho đến nửa đầu thế kỷ XX" góp phần giải quyết.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

CHƯƠNG I BUỔI ĐẦU DI DÂN CỦA NGƯỜI HOA ĐẾN CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Cho đến thế kỷ XVI, khi người Âu xuất hiện ở Đông Nam Á) _________________________________

5

1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH BAN ĐẦU CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau ở Đông Nam Á và tổ tiên người Hoa đã diễn ra các cuộc tiếp xúc cách đây nhiều ngàn năm, vào khoảng thiên niên kỷ VII- VI tr.CN (theo ý kiến của nhà khảo cổ học người Mỹ W.Solheim)((cid:31)). Khu vực diễn ra đặc biệt sôi động các cuộc tiếp xúc sắc tộc là vùng lưu vực sông Tây Giang và cả thượng và trung lưu sông Dương Tử, nơi cách đây vài ngàn năm có nhiều sắc tộc sinh sống và hòa lẫn vào nhau. Theo cách phân loại dựa vào ngôn ngữ, đó là các tộc Việt, Indonesia, Thái, Môn-Khơme và Tây Tạng-Miến. Từ thế kỷ I tr.CN đến thế kỷ X. s.CN, miền Bắc bán đảo Đông Dương bị rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Nơi đây trở thành chốn cư trú tạm thời hay lâu dài của các binh lính, quan chức và có thể cả thương nhân và thợ thủ công người Hoa. Tìm đến đây thỉnh thoảng có cả những làn sóng người chạy nạn chiến tranh, chạy trốn sự truy bức mỗi khi có sự thay đổi triều đại ở Trung Quốc, hay chạy đói vì thiên tai. Bắc bán đảo Đông Dương còn là nơi dung thân của những kẻ tham gia các cuộc nổi dậy nông dân bị thất bại, chẳng hạn cuộc nổi dậy Hoàng Sào nổi tiếng trong thế kỷ X ((cid:31)). Ngoài ra, ở một số tụ điểm dân cư trong một vùng đất rộng lớn trải dài từ Thượng Miến đến phía bắc phần lãnh thổ của Campuchia hiện nay đã có mặt các thương nhân Hoa ngay từ thế kỷ II s.CN ((cid:31)). Tuy nhiên, không thể cho rằng những cuộc dịch chuyển vừa kể trên như là bước khởi đầu trực tiếp của quá trình hình thành các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á vì chúng diễn ra rời rạc, cách nhau từng khoảng thời gian khá dài và nhất là vì chưa tạo được những cộng đồng dân cư đông đảo, mà trong đó tộc người Hoa chiếm đa số từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cộng đồng người Hoa di dân sang đây trong thiên niên kỷ đầu sau Công nguyên không tồn tại lâu dài, lúc hiện, lúc mất, vì một số quay về tổ quốc, còn số ở lại đã lấy người bản xứ, học ngôn ngữ và tiếp thu cả phong tục, tập quán địa phương để rồi sau vài thế hệ hoàn toàn bị hòa tan vào cộng đồng người bản xứ, quên đi tiếng mẹ đẻ và thậm chí cả nguồn gốc tổ tiên mình. Tính không ổn định của các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á kéo dài cho đến nửa đầu thiên niên kỷ I s.CN. Tuy nhiên, tình hình bắt đầu thay đổi từ thế kỷ XII, đặc biệt rõ rệt từ thế kỷ XIV-XV. Những hiện tượng như: một số quay về Trung Quốc, số khác bị đồng hóa với người bản địa vẫn còn nguyên ; nhưng lúc này số người di dân từ Trung Quốc tăng lên đến mức chẳng những cộng đồng người Hoa đông hơn, mà cả mức cố kết về xã hội và sắc tộc của họ cũng trở nên chặt chẽ hơn. Có thể nói đây là thời điểm bắt đầu hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa như là một bộ phận dân cư riêng biệt ở các nước Đông Nam Á. Những thay đổi này gắn liền với với sự kiện là ở Trung Quốc đã xuất hiện một tình huống thúc đẩy khá nhiều người dân rời bỏ quê

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

6

hương để tìm đến những vùng đất lạ. Đó là: đất cày thiếu, số người không có đất canh tác tăng lên ; nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ ra đời đã thúc đẩy các thương nhân đi tìm thêm thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đó là chưa kể chế độ phong kiến Trung Quốc còn đề ra chính sách kiểm soát ngặt nghèo ngoại thương và trưng dụng tùy tiện các phương tiện sinh nhai của thương nhân. Hậu quả là không ít bần nông và thương nhân đã tìm đến sinh nhai ở vùng Đông Nam Á, nơi có khí hậu ôn hòa và nhiều đất hoang và cũng là nơi một nền kinh tế hàng hóa đang hình thành. Những yếu tố này đã thu hút không ít người Hoa tìm đến định cư lâu dài ở Đông Nam Á. Dù trong các thế kỷ XIV - XV không phải nơi nào ở Đông Nam Á cũng đều cần đến một khối lượng đông đảo lao động người Hoa, họ vẫn có thể tìm được một chỗ làm cho mình, hoặc trong các ngành nghề thủ công, hoặc trong hoạt động thương mại, hoặc khai phá đất hoang. Cần nhấn mạnh ở đây là thương mại, vốn bị xem là một nghề phụ, hoặc thậm chí hạ đẳng ở Trung Quốc, thì ở Đông Nam Á lại được coi là con đường tốt nhất để đưa đến cuộc sống sung túc, giàu có. Sau khi nhà Nguyên bị lật đổ và được thay bằng nhà Minh (thế kỷ XIV-XVII), các mối liên hệ ngoại giao và thương mại giữa Trung Quốc và các vương quốc Đông Nam Á được đẩy mạnh. Làn sóng người từ Trung Quốc kéo sang các nước này diễn ra nhộn nhịp đến mức vào khoảng thế kỷ XVII trên khắp các miền ở Đông Nam Á - từ Miến Điện và Lào đến những khu vực hẻo lánh trên quần đảo Maluku và Philippines - đều xuất hiện những nhóm người Hoa ít nhiều đông đảo. Cho đến lúc này, việc người Hoa di cư sang và định cư ở Đông Nam Á diễn ra một cách êm ả, không gặp trở ngại nào đáng kể từ phía giới cầm quyền cũng như người dân bản địa. Đó là vì ở Đông Nam Á có nhiều đất hoang, nhưng chủ yếu là vì các hoạt động kinh tế cơ bản của di dân người Hoa - thương mại và thủ công nghiệp - không va chạm trực tiếp đến quyền lợi của người bản xứ, thậm chí chúng còn mang lại sự sung túc cho địa phương, nơi họ tìm đến cư trú. Do đó, không những không cấm đoán, giới cầm quyền Đông Nam Á còn cố sức rút ra các lợi ích không nhỏ từ hoạt động kinh tế của di dân người Hoa. Nhưng như vậy không có nghĩa là người Hoa không gặp trở ngại gì trên bước đường kiếm sống ở nơi định cư mới. Khó khăn chính là họ phải sống trong một môi trường xã hội và văn hóa hoàn toàn xa lạ (ngoại trừ ở Việt Nam). Do đó, giữa dân địa phương và di dân người Hoa đã tồn tại một sự xa cách, mà đôi khi đã đưa đến mối quan hệ thù địch, nhất là ở những nơi thương nhân người Hoa nắm độc quyền cung cấp và thu gom hàng hóa, định đặt giá cả và cho vay nặng lãi. 2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA DI DÂN NGƯỜI HOA. Sinh sống trong một môi trường hoàn toàn xa lạ, không hiếm khi thù địch như trên, người Hoa đã tìm kiếm những hình thức tự vệ về tâm lý và xã hội. Hoặc là họ dấn sâu hơn nữa vào môi trường bằng cách lấy vợ người địa phương (di dân người Hoa hầu hết là đàn ông) và học ngôn ngữ địa phương. Nhưng đa số người Hoa đi theo con đường khác - giữ gìn và thiết chế hóa các rào cản xã hội - tâm lý giữa họ và các sắc dân địa phương, bằng cách sử dụng những hình thức tổ chức xã hội riêng biệt đã hình thành từ lâu. Hình thức tổ chức bền vững nhất của các di dân người Hoa là hội đồng tộc, mà trong thuật ngữ khoa học gọi là "hội tộc" ("clan"). Xuất hiện từ thời rất xa xưa, hội tộc ở Trung Quốc lan tràn rộng rãi trong các thế kỷ XV - XVII và mở rộng chức năng của nó ở ngay tại các lãnh thổ miền Nam Trung Quốc, nơi xuất phát các đợt di dân

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

7

đến Đông Nam Á. Bản thân việc rời bỏ quê hương để tìm đến lập nghiệp ở những vùng đất xa xôi phải được sự đồng ý của các thành viên lớn tuổi nhất trong tộc. Chi phí đi đường không hiếm khi được quỹ của tộc đài thọ. Còn người ra đi nếu làm ăn khấm khá, phải đóng góp một phần tài sản cho tộc. Do vậy, dù việc rời bỏ Trung Quốc ra đi trên thực tế có nghĩa là đã cắt đứt mọi quan hệ thân thuộc, những di dân người Hoa vẫn có một thoí quen rất bền vững là tìm đến những người cùng họ ở vùng đất mới để kết hợp thành một thứ na ná như hội tộc, bất chấp họ có phải là bà con thực sự hay không (cần nhớ rằng ở Trung Quốc, số người cùng một họ rất đông, vì số họ trong cả nước chỉ hơn một trăm). Vai trò của hội tộc trong đời sống hàng ngày của di dân người Hoa rất đáng kể. Những nghĩa vụ tương trợ lâu dài đã đoàn kết những thành viên của hội tộc ở vùng đất lập cư, tăng cường tính bền vững của cộng đồng, nhưng đồng thời đòi hỏi mỗi người Hoa phải tuân phục triệt để trưởng hội tộc. Một hình thức tổ chức khác là "hội đồng hương", ra đời từ một thực tế lịch sử - sắc tộc là cư dân miền Nam Trung Quốc, nơi phát xuất đại bộ phận di dân người Hoa ở Đông Nam Á, đã sống phân tán thành nhiều nhóm trên các lãnh thổ ít nhiều biệt lập với nhau. Mỗi nhóm có một thổ ngữ riêng. Tình hình đã khiến họ khó hiểu nhau khi phải tiếp xúc với nhau bằng ngôn ngữ nói. Di dân người Hoa ở Đông Nam Á sử dụng rất nhiều thổ ngữ, như tiếng Hẹ (gốc miền Đông Quảng Đông), Phúc Kiến, Quảng Châu, Triều Châu, Hải Nam. Tại vùng định cư mới, những người nói cùng thổ ngữ sống quần tụ trong một khu phố, làng hay cả vùng. Giữa họ nảy sinh tình cảm của những người cùng một quê hương gốc tích và nói cùng một ngôn ngữ. "Hội đồng hương" ra đời chính trên cơ sở tình cảm quê hương - ngôn ngữ này. Với thời gian, mối quan hệ này trở nên bền vững đến mức cho đến tận thế kỷ XIX dù sinh sống ở những miền đất rất cách xa nhau tại xứ sở mới, những người cùng quê hương và ngôn ngữ vẫn tìm đến nhau để lập "Hội đồng hương". Hình thức tổ chức này bắt đầu mang tính chất của một thiết chế. Nó trở thành một hiệp hội có cấu trúc tổ chức rõ ràng, có lề thói xử sự được quy chế hóa, có chế độ tự quản theo luật định. "Hội đồng hương" đã giúp đỡ các di dân trong cuộc đấu tranh để sinh tồn, nhưng đồng thời lại khiến những di dân người Hoa thêm xa lạ với nhau: những người không nói cùng thổ ngữ chẳng những không hiểu nhau, mà đôi lúc còn thù địch nhau. Sự việc không ít lần đã đưa đến những cuộc ẩu đả đổ máu. Một hình thức tổ chức khác là hội cùng nghề, theo kiểu các phường hội. Thông thường, việc cùng ở chung một hội đồng hương đã định trước việc chọn nghề : những người cùng hội đồng hương đều chọn nghề giống nhau. Cả ba loại hiệp hội nói trên, ngoài chức năng tương trợ vật chất và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trên cơ sở đảm bảo quyền kiểm soát của giới lãnh đạo đối với các thành viên của hội, còn thủ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn các nghi thức tinh thần và tâm lý biểu trưng cho tộc của mình, chẳng hạn như tuân thủ các chuẩn mực đạo đức lâu đời trong sinh hoạt gia đình, tiến hành các lễ nghi thờ cúng, các ngày lễ tôn giáo, nghi thức cưới hỏi và ma chay, tài trợ các đền chùa, nghĩa địa và sau này cả bệnh viện của hội. Dù đã được thu hút vào các hình thức tổ chức khác nhau, cộng đồng người Hoa ở các nước Đông Nam Á vẫn chưa thể được xem là một hiện tượng ổn cố hoàn toàn. Có những bằng chứng cho thấy những người mới đến vẫn luôn nuôi hy vọng quay về cố quốc, sau khi đã trở nên khá giả (nếu ra đi vì lý do kinh tế) hoặc sau khi tình hình đã trở nên ổn định (ra đi vì lý do chính trị)((cid:31)). Một điều cũng cần lưu ý là giữa các cộng đồng người Hoa di dân ở Đông

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

8

Nam Á với nhau và với chính quyền phong kiến Trung Quốc lúc đó là nhà Minh không tồn tại một mối quan hệ nào, dù Bắc Kinh đang tiến hành một chính sách ngoại giao tích cực trong vùng. Có thể giải thích hiện tượng này bằng các nguyên nhân sau. Thứ nhất, là chịu ảnh hưởng của học thuyết Khổng Tử, giới cầm quyền phong kiến Trung Quốc lên án bất kỳ hành động rời bỏ quê hương xứ sở, mồ mã cha ông để đến lập nghiệp ở những vùng đất xa lạ nằm ngoài cương thổ Trung Quốc. Sự ra đi của người Hoa hoàn toàn là việc của cá nhân và họ tộc của người đó. Nhà Minh và cả nhà Thanh sau này không bao giờ đề ra chủ trương xây dựng những khu cư trú (colony) ở hải ngoại. Thứ hai, là họ lo sợ sự ra đời ở nước ngoài của các trung tâm chống đối ách thống trị nặng nề và chế độ kiểm soát ti tiện của họ ở trong nước. Cuối cùng là chính quyền phong kiến nhìn bằng con mắt hồ nghi các hoạt động thương mại của các thương nhân - di dân người Hoa ở vùng bờ biển Trung Quốc, vì chúng không chịu sự kiểm soát của họ. Vì những nguyên nhân trên, dù các khu di trú của di dân người Hoa ở Đông Nam Á trong các thế kỷ XV-XVII đã xuất hiện nhiều và với số dân không nhỏ, người ta hoàn toàn không thể gọi chúng là hệ thống các khu di trú. Chính đây là sự khác biệt cơ bản giữa các khu di trú người Hoa và khu di trú người Âu, vốn sẽ ra đời không lâu sau đó ở Đông Nam Á. 3. TÌNH HÌNH KHÁI QUÁT CÁC KHU DI TRÚ CỦA NGƯỜI HOA TỪ THẾ KỶ XV-XVIII. Một trong những nơi mà người Hoa có mặt sớm nhất và đông nhất là vương quốc Đại Việt, nằm ở khu vực duyên hải miền Bắc và miền Trung bán đảo Đông Dương, ngay từ thế kỷ X, sau khi nhân dân vương quốc này bằng cuộc đấu tranh kiên cường đã thoát khỏi ách thống trị kéo dài cả ngàn năm của phong kiến Trung Quốc. Sau khi những kẻ xâm lược bị đánh đuổi, khoảng 87.000 quan chức người Hoa và gia đình đã bị trục xuất, nhưng vẫn còn một số đáng kể đã ở lại và đăng ký vào sổ bộ như người Việt Nam ((cid:31)). Trong các thế kỷ XI - XIV, tức thời kỳ tồn tại của Đế chế Angkor trên lãnh thổ Campuchia, trong nước này đã xuất hiện một khu di trú cố định của người Hoa. Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề buôn bán ((cid:31)). Họ chở đến đây kim loại màu, vải lụa và vải bông, đồ gốm và giấy. Luân chuyển qua tay họ một khối lượng đáng kể hàng hóa bản địa - ngà voi, gia vị và dầu ăn. Thương nhân Campuchia thường chỉ đóng vai trò người trung gian giữa dân địa phương và thương nhân Trung Quốc. Người Hoa ở Campuchia cũng dự phần vào hoạt động thương mại quốc tế : vào thời đó Angkor là trung tâm thương mại quan trọng trên các ngã giao đường giữa Đông và Tây. Trong vùng lưu vực sông Mênam thuộc miền Trung Thái Lan hiện nay và cả dọc theo bờ duyên hải vịnh Thái Lan, từ thế kỷ XIII- XIV, người Hoa đã xuất hiện và sống lẫn với người địa phương. Hoạt động kinh tế của họ là buôn bán và khai thác thiếc ((cid:31)). Trong lãnh thổ vương quốc Sukhothay (thế kỷ XVIII) có một công xưởng sản xuất đồ gốm sử dụng lao động từ Trung Quốc sang. Dưới thời vương quốc Ayuthay (thế kỷ XIV - XVIII), số người Hoa sinh sống ở Xiêm đã tăng lên đáng kể. Theo lời một trong các quan chức phụ trách ngoại thương của Ayuthay, vào những năm 60 của thế kỷ XVII trên toàn lãnh thổ vương quốc có "nhiều ngàn người Hoa". Họ đã sống ở đây từ thời xa xưa, lập gia đình và sống lẫn với dân bản địa. Tích cực tự đồng hóa với dân bản địa là nét nổi bật trong khoảng thời gian dài trong sinh hoạt của di dân người Hoa ở Xiêm.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Người Hoa ở Xiêm đa số sống bằng buôn bán, số còn lại sống bằng các

9

Các vùng bình nguyên Xiêm thường là nơi tìm đến bằng đường biển của những người dân ở các tỉnh đông nam Trung Quốc, còn các miền núi là nơi định cư của những người phát xuất từ tỉnh Vân Nam. Người ta gọi họ là người "Hồ". Họ khác về nhiều mặt so với các cộng đồng người Hoa còn lại : tôn giáo (chủ yếu theo đạo Hồi), về tiếng nói và cả lối sống. Họ sống thành từng làng, trồng cây thuốc phiện và buôn bán đường dài (theo thương đội). nghề thủ công, canh tác đất đai. Một số ít hơn làm nghề thuốc và ca hát. Theo lời nhà truyền giáo người Pháp G. Tachar, phần lớn hoạt động thương mại ở Xiêm vào cuối thế kỷ XVIII nằm trong tay thương nhân người Hoa. HọÏ cạnh tranh với các thương nhân đến từ Nhật, Ấn, Ba Tư và các nước châu Âu. Các hội đoàn thương mại của người Hoa ở kinh đô Ayuthay và các đô thị cảng bên bờ biển Xiêm đã làm những người đương thời phải sững sờ vì sự đoàn kết chặt chẽ và thế lực của chúng. Chẳng hạn ở Pattaya, chính quyền địa phương thậm chí không dám đánh thuế thương nhân người Hoa ở đây ((cid:31)). Các thuyền buôn của Anh đến cảng Nakhon Sithammarat đã tìm đến không phải giới chức địa phương, mà hội đoàn người Hoa để xin phép buôn bán tại cảng này ((cid:31)). Trong cuộc cạnh tranh gay gắt với giới thương nhân châu Âu, các nhà buôn người Hoa đã không ngần ngại sử dụng cả võ lực. Năm 1633, một người Hoa có vũ trang đã bao vây tiệm buôn của người Hà Lan và tống xuất họ khỏi Xiêm. Trong thế kỷ XVIII ở Xiêm có thông lệ là bán các chức tước cấp tỉnh ở miền Nam. Không ít thương nhân người Hoa đã trở thành quan chức bằng con đường này. Trong bộ máy công quyền đã hình thành một tầng lớp ổn định quan lại gốc người Hoa. Sau khi quân Miến tràn vào lãnh thổ Xiêm và vương quốc Ayuthay bị sụp đổ năm 1767, một quan chức cấp tỉnh gốc Iukchin (tức có cha người Hoa và mẹ người Thái) tên P'ya Taksin đã cầm đầu một đạo quân. Ông tỏ ra là người cầm quân xuất chúng khi chỉ trong vòng một năm đã đánh đuổi được quân xâm lược Miến và sau đó lên ngôi vua ((cid:31)). Dưới thời P'ya Taksin, kinh đô chuyển về Thonburin và sau đó đến Bangkok, gần với các con đường thương mại của thế giới. Lúc này, vốn liếng của thương nhân chuyển mạnh hơn sang ngành thủ công - cơ xưởng và nông nghiệp ; nhiều đồn điền trồng tiêu mọc lên. Họ cũng thu mua lúa và chuyển sang Trung Quốc. Với những tiểu quốc nằm trên quần đảo Mã Lai, Trung Quốc đã lập quan hệ ngoại giao từ thế kỷ V, và những di dân người Hoa đã có mặt ở bờ biển Bắc Java vào thế kỷ X, nhưng phải đến thế kỷ XI số người Hoa ở đây mới tăng lên đáng kể. Sau khi Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt thất bại trong mưu toan đánh chiếm Java (cuối thế kỷ XIII), hơn 100 chiến binh Trung Quốc nằm trong đạo quân xâm lược đã không thích quay về cố quốc. HọÏ tìm đến định cư trên đảo Billinton. Nơi đây đã thành khu di trú lâu dài của người Hoa. Sự ra đời của cộng đồng người Hoa ởû bờ biển phía Bắc Java, trong vùng Semarang hiện nay, gắn liền với chuyến đi của Trịnh Hòa, một quan chức nhà Minh đến vùng biển phía Nam Trung Quốc vào đầu thế kỷ XV. Các thủy thủ Trung Quốc đặt chân lên đây đã tạo ra những khu di trú người Hoa đông đảo nhất trên quần đảo ((cid:31)). Trong các thế kỷ XIII - XV có những nhóm khá đông người Hoa sinh sống thường xuyên trên đảo Java - ở Tuban, Surabaya, trong lãnh thổ các tiểu vương quốc Bantam và Jakarta. Đây là trung tâm hoạt động thương mại chính của họ. Ít lâu

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

10

sau, các hiệu buôn của người Hoa xuất hiện ở bờ biển Bắc và Tây Kalimantan - ở Bunkomi (Brunei hiện nay), Sambas, Pontianaka và Sucadan, và trên đảo Tamasik (Singapore hiện nay) và ở đô thị - cảng Malacca ((cid:31)). Không phải là hiếm chuyện giới thống trị các tiểu vương quốc lấy người Hoa nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các đội tàu buôn từ Trung Quốc thỉnh thoảng kéo sang đây, hay nhận những điều kiện cộng tác ưu đãi với các thương nhân người Hoa định cư tại chỗ. Về phần mình, các đại diện cộng đồng người Hoa cũng không bỏ lỡ cơ hội lập mối quan hệ thông gia với các quan chức địa phương để được hưởng các chế độ ưu đãi, hoặc được phân chia ruộng đất cùng với các nông dân sống trên đó và thậm chí được tưởng thưởng cả một số chức tước. Để hình dung cuộc sống trong môi trường xa lạ của những di dân người Hoa thành đạt nhất, có thể tìm đọc trong các thư tịch cổ ở Bantam thuộc Tây bộ Java. Theo sự miêu tả trong đó, khu phố của người Hoa, được vây quanh bằng một lớp hàng rào chắc chắn và đường hào đầy nước, gồm những căn nhà vững chắc xây bằng đá. Nằm bên cạnh đó là nhà của dân địa phương xây bằng các loại cây sậy trông chẳng khác những túp lều tồi tàn. Đa phần cư dân người Hoa là thương nhân, một số có cả nô lệ. Hoạt động thương mại ở các thị trấn Java diễn ra nhộn nhịp. Người ta bán các mặt hàng chở từ Trung Quốc sang, như đồ lụa, đồ vải, chén đĩa bằng sứ, thuốc súng, đồ trang sức. Thương nhân người Hoa thu mua của người bản xứ đồ gia vị và thiếc để chở sang Trung Quốc hay bán lại cho thương nhân người Âu ((cid:31)). Thương mại là hoạt động kinh tế chính, nhưng không phải là duy nhất của người Hoa. Ở Tây bộ Kalimantan chẳng hạn, họ còn làm ruộng. Một số người đã làm chủ các đồn điền trồng tiêu hay nhiều thửa ruộng ở tiểu quốc Bantan. Ở Java, người Hoa xây dựng các nhà máy luyện đường. Các xưởng thủ công ở các đô thị thời đó phần lớn là của người Hoa ((cid:31)). Lịch sử Trung Quốc của người Hoa trên lãnh thổ tiểu quốc Palambang (đảo Sumatra) có nội dung khá lý thú. Vào khoảng năm 1380, vài ngàn người Hoa sinh sống ở đây bằng nghề thương mại hàng hải đã bầu một trong số các thương nhân giàu có lên làm thủ lĩnh của họ. Lợi dụng vị trí thuận lợi của Palembang nằm trên các tuyến đường nhộn nhịp giữa Ấn Độ Dương và biển Đông, các tiểu vương cai trị Palembang không chỉ tìm cách buôn bán kiếm lời, mà còn hành nghề thủy tặc, cướp đoạt ngay cả các chuyến tàu của hoàng đế Trung Quốc chở các cống vật từ các nước phương Nam về Trung Quốc. Một trong các tiểu vương Palembang trong một lần tổ chức đánh cướp như vậy đã bị bắt và bị gia hình, nhưng tiểu quốc này vẫn được hoàng đế Trung Quốc cho phép hưởng chế độ tự trị, mà không bị thiên triều hỏi tội. Diễn biến vừa kể là một ví dụ hùng hồn cho thấy ảnh hưởng rất có giới hạn của nhà Minh đối với các cộng đồng cư dân người Hoa ở Đông Nam Á, ngay cả đối với vùng quần đảo Malaya - Indonesia, nơi không tồn tại một nhà nước phong kiến tập trung nào đủ sức chống chọi với áp lực quân sự của Trung Quốc. Quần đảo Philippines từ cuối thế kỷ X thỉnh thoảng tiếp đón các đoàn thương thuyền Trung Quốc lui tới. Chúng chở hàng hóa, và đôi khi cả người đến sống một thời gian. Người Hoa thường tìm đến sống trong các khu dân cư đông đúc ven bờ biển, chủ yếu ở Manila trên đảo Luzon. Trong các thế kỷ XII và XIII, trung tâm hoạt động thương mại nhộn nhịp với Trung Quốc là quần đảo Sulu. Trong số các hàng hóa phát xuất từ đây có ngọc trai. Đầu thế kỷ XV giữa các tiểu vương quốc trên đảo Luzon và Trung Quốc lần đầu tiên có sự trao đổi sứ bộ. Diễn biến này cho thấy có lẽ trên đảo đã tồn tại các

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

11

khu cư trú ổn định của người Hoa, nhưng quy mô của chúng ra sao, các tài liệu không đưa ra những số liệu thống nhất. Một tài liệu biên niên của Trung Quốc viết rằng trên đảo có khoảng vài chục ngàn thương nhân giàu có gốc Phúc Kiến. HọÏ đã sinh sống ở đây từ lâu và không còn tính đến chuyện trở về Trung Quốc. Thậm chí họ đã ở đây đến đời con hoặc cháu. Con số người Hoa chắc chắn đã bị phóng đại lên nhiều, vì những người Tây Ban Nha đầu tiên đặt chân đến Manila năm 1570 cho biết rằng trong số cư dân trên đảo Luzon, họ chỉ đếm được gần 150 người Hoa ((cid:31)). Thế kỷ XVII đánh dấu một bược ngoặt trong lịch sử các nước Đông Nam Á, và tất nhiên cả số phận của những nhóm người Hoa sinh sống trên lãnh thổ các quốc gia này. Từ đầu thế kỷ, nhân dân các nước Đông Nam Á - đảo lần lượt rơi vào ách thống trị của các thực dân phương Tây xâm nhập vào trong vùng, đầu tiên là người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người Hà Lan và Anh. Số phận của cư dân người Hoa trong các thuộc địa của người Âu ở Đông Nam Á - đảo sẽ được xem xét trong chương kế tiếp. Ở đây chúng tôi xin đề cập tiếp đến cuộc sống của các cộng đồng người Hoa trong thế kỷ XVII - XIX ở vùng lãnh thổ của Đông Nam Á - lục địa, vốn sẽ duy trì được độc lập của mình thêm được khoảng 200 năm nữa. Tác động đến tình hình của di dân người Hoa ở các nước Đông Nam Á - lục địa không chỉ là bước đầu bành trướng của thực dân châu Âu ở trong vùng, mà còn có cả một biến chuyển hết sức sâu xa diễn ra ở Trung Quốc vào giữa thế kỷ XVII, sau khi nước này bị rơi vào ách thống trị của những kẻ xâm lược từ bên ngoài - người Mãn Châu. Một triều đại phong kiến mới được dựng lên - triều Thanh, thay cho triều Minh cũ. Vào những năm 80 của thế kỷ XVII, quân lính Mãn Châu đã trấn áp thẳng tay những ổ kháng cự cuối cùng của người Trung Quốc ở phần lãnh thổ Đông Nam của đất nước - ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và đảo Đài Loan - và tỉnh Vân Nam. Bộ phận quân lính Trung Quốc trung thành với nhà Minh còn sống sót đã kịp bỏ chạy sang lãnh thổ Miến Điện, Việt Nam và xa hơn nữa về phía nam. Kết quả là nhiều cộng đồng di dân người Hoa ở Đông Nam Á trở thành trung tâm hoạt động của những kẻ chống đối kiên định với chính quyền Mãn Châu đã được xác lập ở Bắc Kinh. Với thời gian, ở những nơi này đã xuất hiện nhiều hội kín, tương tự như các hội yêu nước bí mật kháng Thanh được thành lập ở miền Nam Trung Quốc. Trong hoàn cảnh ở các khu di trú, các hội kín đã mang một số nét đặc thù sau : cơ sở xã hội của chúng là dân nghèo thành thị (thay vì bần cố nông như ở Trung Quốc). Chúng không chỉ kháng Thanh, mà còn bảo vệ, trong trường hợp cần thiết, những đồng hương của mình chống lại những kẻ áp bức người bản địa. Vũ khí của chúng chủ yếu là khủng bố, còn những nguồn cung cấp tài chính cho chúng là các sòng bạc, nhà chứa, tiệm hút, hoạt động buôn lậu. Giới cầm đầu các hội tộc người Hoa ra sức nắm lấy các hội kín. Chính vũ khí khủng bố và những nguồn cung cấp tài chính kiểu như vậy đã tạo nên tính chất hai mặt của chúng. Triều Thanh gắng hết sức hạn chế mọi mưu toan thiết lập các mối liên lạc giữa các di dân người Hoa ở Đông Nam Á và Trung Quốc. Chính quyền mới dồn đuổi mọi người dân sống ở ven biển vào sâu trong đất liền, nhằm cắt đứt liên lạc với phía nam theo đường biển; việc ra nước ngoài bị cấm đoán bằng hình phạt tử hình; ngoại thương bị coi là độc quyền của Nhà nước và bị giảm mạnh ((cid:31)). Tất cả những biện pháp trên không chỉ khiến các cộng đồng di dân người Hoa trở nên ngày càng xa lạ với cố quốc, mà còn góp phần đáng kể vào việc củng cố và ổn định chúng, vì nguồn bổ sung di dân mới bị đình trệ trong một thời gian dài, mọi hy vọng quay về cố quốc dù là do tuổi già xem ra khó lòng trở thành hiện thực. Trong

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

12

những điều kiện như vậy, di dân đành bằng lòng với cuộc sống ổn cố lâu dài ở nơi cư ngụ mới và đi tìm những phương cách sống chung tốt nhất với dân bản địa. Tình hình của các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á mãi đến cuối thế kỷ XVIII và trong thế kỷ XIX mới thay đổi ít nhiều, khi nhà Thanh, dưới sức ép của những đòi hỏi kinh tế trong nước, đặc biệt của tiến trình bành trướng tích cực ở biển Đông của các cường quốc phương Tây, đã buộc lòng giảm bớt những hạn chế đối với ngoại thương, đối với việc ra nước ngoài, và cho phép cả việc tuyển mộ công nhân trong nước ra làm việc ở ngoại quốc. Tất nhiên là tác động của những chuyển biến trên, đối với các cộng đồng người Hoa ở các nước Đông Nam Á là không như nhau. Chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất là cộng đồng người Hoa ở Miến Điện và Việt Nam. Sau khi những toán lính Trung Quốc, cùng với một trong những hậu duệ cuối cùng của nhà Minh bị lật đổ, chạy sang lánh nạn ở Miến Điện trước sức ép nặng nề của quân Mãn Châu thắng trận, quân Thanh trong suốt thế kỷ XVII đã nhiều lần xâm nhập vào lãnh thổ Miến Điện nhằm thanh toán những ổ kháng Thanh xuất hiện ở đó. Trong những năm 1765 - 1769 quân Thanh lại xâm nhập lãnh thổ Miến Điện, lần này với một mục đích rõ ràng hơn - chinh phục xứ này, nhưng đã bị người Miến đánh lui. Cứ mỗi lần lui binh như vậy, một số ít quân lính Trung Quốc đã tìm cách ở lại và hòa nhập vào số người Hoa đã có mặt sẵn. Đến đầu thế kỷ XIX, theo lời tường thuật của các nhà lữ hành châu Âu, người ta trông thấy những nhóm người Hoa không đông lắm sinh sống bằng nghề buôn bán ở các đô thị chính trong nước, như Ava hay Amarapura. Trong một thời gian dài, người Hoa còn được các vua Miến Điện cho phép khai thác các mỏ bạc hay mỏ đá quý. Việt Nam tiếp đón một khối lượng người Hoa chạy nạn đông đảo hơn nhiều so với Miến Điện. Năm 1679, một đạo quân khoảng 7.000 người cùng với gia đình họ chạy trốn quân Mãn Châu trên 50 chiếc thuyền đã cập vào bờ biển miền Trung Việt Nam. Họ đã xin chúa Nguyễn cho phép được tị nạn. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn đang cố gắng mở rộng bờ cõi về phía Nam. Đám người Hoa tị nạn đã được hướng dẫn đến định cư ở vùng Đông Phố. Từ đây, họ phân tán xuống miền Tây Nam bộ (Mỹ Tho) hay miền Đông Nam bộ (Biên Hòa) ((cid:31)). Năm 1715, thêm một nhóm đông đảo người Hoa tìm đến lánh nạn ở miền Nam Việt Nam cũng bằng đường biển. Cầm đầu họ là một viên quan đại thần tên Mạc Cửu. Họ được phép đến định cư tại một vùng ở tận cùng dãi đất phía Nam tức Hà Tiên, và được hưởng quy chế tự trị. Được sự khai phá của họ, Hà Tiên dẫn đầu trở thành trung tâm thương mại, tiểu thủ công nghiệp và văn hóa. Con trai của Mạc Cửu đã lập hội tao đàn, phổ biến học thuyết Khổng Tử. Tất cả những hoạt động này đã nhận được sự khuyến khích của các chúa Nguyễn ((cid:31)). Từ thế kỷ XVIII, người Hoa khi tìm sang Việt Nam thường đến miền Nam (tức Đàng Trong). Lý do có thể là các chúa Nguyễn đã tạo cho họ nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với miền Bắc (tức Đàng Ngoài). Chúa Nguyễn hy vọng họ sẽ trở thành chỗ dựa xã hội và chính trị ở vùng đất mới, nơi số người Việt hãy còn ít ỏi so với các dân tộc bản địa, vốn chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác. Trong khi đó ở Đàng Ngoài, vua Lê và sau đó chúa Trịnh lại thi hành chính sách chèn ép các di dân người Hoa. Họ không được phép tự do đi lại trong nước, thương nhân người Hoa chỉ được buôn bán ở các địa điểm đã được quy định sẵn.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

1 Fujiwara Ruchiro. Chính saùch ñoái vôùi daân Trung Hoa di cö cuûa caùc trieàu ñaïi Vieät Nam.

13

Người Hoa không những phải tuân theo các phong tục tập quán của người Việt Nam, mà họ còn bị buộc mặc quần áo và để đầu tóc như người bản xứ. Số thợ người Hoa làm việc ở những nơi khai thác quặng mỏ, đặc biệt là quặng bạc bị giới hạn. Tuy nhiên, như các nguồn sử liệu thời đó cho thấy lệnh này thường không được tuân thủ nghiêm ngặt. Dù bị cấm đoán, tại mỏ bạc Đồng Thịnh số công nhân người Hoa lên đến 10.000. Các di dân người Hoa sống lẫn lộn với người địa phương. Họ mở các hiệu buôn và quán ăn. Dù không được phép sống ở Thăng Long, họ vẫn tìm cách mở các quán hàng ở đây (1). Trong khí đó, các chúa Nguyễn lại theo đuổi một chính sách khác hẳn. Họ cho phép di dân người Hoa được tự do ghé lại tất cả các cảng. Ở cảng Hội An trên sông Thu Bồn xuất hiện các điểm cư trú của thương nhân và thợ thủ công người Hoa. Ở các thị trấn, di dân người Hoa được phép sống quần tụ thành từng khu riêng biệt và được phép tự quản theo các truyền thống, lề thói lâu nay của người Trung Quốc. Quá trình xây dựng các thị trấn mới ở miền Nam từ thế kỷ XVIII đều diễn ra với sự tiếp tay của người Hoa. Trong thời kỳ diễn ra cuộc nổi dậy của phong trào Tây Sơn chống chúa Nguyễn, cư dân đô thị người Hoa do sợ mất đi sự đỡ đầu của chính quyền, đã không ủng hộ phong trào. Vì lẽ này, họ đôi khi phải trả giá đắt. Nhiều nơi cư trú của họ đã bị quân Tây Sơn đốt trụi, riêng ở Chợ Lớn không dưới một vạn người Hoa bị giết ((cid:31)). Năm 1802, triều Tây Sơn bị tiêu diệt. Triều đại mới lên cầm quyền là nhà Nguyễn. Một trong những sắc chỉ đầu tiên của chính quyền mới là thu hút các sĩ phu người Hoa vào làm trong bộ máy công quyền và quân đội ((cid:31)). Ở Campuchia, người Hoa bắt đầu tìm đến định cư từ cuối thế kỷ XVII. Một số người Hoa sau khi đến Mỹ Tho đã ngược dòng Cửu Long đi sâu vào bên trong lãnh thổ Campuchia. Một vùng khác ở xứ này có số người Hoa đáng kể là tỉnh Kampot nằm bên bờ vịnh Xiêm La. Cai quản họ không ai khác hơn chính là Mạc Cửu, được vua Campuchia phong cho chức Tổng đốc. Lãnh thổ thuộc quyền cai trị của ông này trải dài từ Kampot đến Cà Mau ((cid:31)). Người Hoa ở các miền này sống chủ yếu trong các thị trấn và làm nghề buôn bán. Họ kiểm soát hầu hết các hoạt động mậu dịch giữa Việt Nam và Campuchia. Năm 1859, Mouhot, một khách du hành người Pháp, khi viếng Kampot đã ghi nhận rằng trong thị trấn có 3.000 cư dân này, người buôn bán ở chợ chủ yếu là người Hoa và một số ít người Âu, còn trong số 10.000 cư dân Phnompenh, người Hoa chiếm đại bộ phận. Thương nhân người Hoa sinh sống trên lãnh thổ Campuchia bị buộc phải cung cấp các khoản chi phí dùng vào việc tiếp rước các quan chức địa phương, đài thọ việc tổ chức các lễ hội của người bản xứ... Ngoài ra, họ còn phải đóng thuế tương xứng với số tài sản của mình, thuế hành nghề ngoại thương, buôn bán ngoài chợ... Trong cộng đồng di dân người Hoa ở Campuchia, có một số không nhiều sinh sống bằng nghề nông : họ trồng bông và tiêu. Sản phẩm của họ được mang ra bán ở chợ. Như vậy, nông dân người Hoa xét theo khía cạnh này vẫn rất khác nông dân bản xứ, vốn vẫn canh tác trong khuôn khổ một nền kinh tế tự nhiên. Theo luật lệ Khmer, người Hoa sinh sống ở Campuchia được coi là thần dân của nhà vua, nhưng họ được bầu người đứng đầu cộng đồng. Ông này chịu trách nhiệm thu thuế và giữ gìn trật tự. Họ được miễn các nghĩa vụ lao dịch và binh dịch,

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

14

đồng thời có thể giữ các chức vụ trong bộ máy công quyền bằng cách mua các chức quan. Dù người Hoa ở Campuchia có các tổ chức cộng đồng riêng của mình, họ không sống khép kín, mà thường xuyên quan hệ với người địa phương. Cho đến nửa sau thế kỷ XIX, số người Hoa sinh sống ở Lào là rất ít. Họ chủ yếu là con cháu của người Hoa đến đây định cư trong các thế kỷ XV - XVII. Cộng đồng của họ sau này có phát triển lên ít nhiều là nhờ mở rộng các quan hệ mậu dịch với người láng giềng phía bắc. Như vậy, có thể nhận thấy rằng trên lãnh thổ bán đảo Đông Dương đã diễn ra quá trình hình thành các cộng đồng sắc tộc người Hoa như là một bộ phận cấu thành bền vững của xã hội đa sắc tộc. Nó diễn ra một cách tự nhiên, không gây ra những chấn động xã hội hoặc chính trị lớn. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIV, quá trình vừa kể kéo dài vài thế kỷ, trong đó các thế hệ người di dân từ Trung Quốc sang và dân bản địa sống hòa lẫn vào nhau một cách tự nhiên. Giữa họ không diễn ra các cuộc va chạm đáng kể nào, hay có những xung khắc về văn hóa hoặc tôn giáo không thể hoà giải được. Hơn thế nữa, họ còn được gắn kết với nhau bằng những quyền lợi chung nhất định, mặc dù họ vẫn giữ gìn những nét đặc sắc xã hội - văn hóa, và bằng những nét đặc thù trong nếp sinh hoạt hàng ngày của mình. Chẳng hạn, như di dân người Hoa ở Xiêm La trong nửa sau thế kỷ XVIII đã tích cực tham gia vào hoạt động đấu tranh quân sự nhằm giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của Miến Điện. Tuy nhiên, tiến trình hòa nhập một cách tự nhiên này đã bị phá vỡ sau khi chủ nghĩa tư bản thực dân phương Tây xâm nhập vào Đông Nam Á và biến các quốc gia trong vùng thành các thuộc địa hay nước phụ thuộc. Số phận của các nhóm sắc tộc người Hoa cũng bị biến cố này tác động rất mạnh.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

CHƯƠNG II SỰ HÌNH THÀNH CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG THỜI KỲ TƯ BẢN THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY XÂM CHIẾM ĐÔNG NAM Á (Thế kỷ XVI - Thế kỷ XIX) ________________________________

15

1. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA NGƯỜI HOA VÀ TƯ BẢN THỰC DÂN CHÂU ÂU. Sự xâm nhập của tư bản thực dân phương Tây vào các nước Đông Nam Á đã tác động mạnh đến toàn bộ tiến trình hình thành các cộng đồng người Hoa trong vùng. Tất cả đều thay đổi : nhịp độ và động lực của các đợt di dân, nhưng thay đổi chính yếu nằm trong cấu trúc xã hội, địa hạt sinh sống, phong cách sinh hoạt của các cộng đồng người Hoa và tính chất các mối quan hệ giữa họ với dân bản địa. Di sản của một thời kỳ dài bị thực dân thống trị vẫn còn để lại những ảnh hưởng tiêu cực đến diện mạo xã hội của các cộng đồng người Hoa, đến nhận thức xã hội của hậu duệ của các di dân người Hoa đầu tiên và đến các mối quan hệ phức tạp hiện nay giữa Hoa kiều và dân bản địa Đông Nam Á. Khi những thực dân châu Âu đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á trong thế kỷ XVII, họ đã bị những thương nhân người Hoa định cư ở đây từ lâu tiếp đón với thái độ thù địch. Trước đó, thương nhân người Hoa đã phải cạnh tranh với nhiều thương nhân ngoại quốc khác - Ấn, Ả Rập, Nhật. Nhưng cạnh tranh với người Bồ Đào Nha, Hà Lan và những người Âu khác là chuyện khó khăn hơn nhiều. Vì những thương nhân Âu này thường đi chung với những đạo quân được trang bị hùng hậu. Nhờ đó, họ dễ dàng đánh chiếm các cứ điểm, để rồi biến chúng thành các thương điếm riêng lẻ, và cuối cùng mở rộng ra thành các khu thuộc địa thị tứ rộng lớn. Họ cũng khuất phục không ít các qúy tộc địa phương bằng nhiều cách khác nhau : mua chuộc hay vũ lực. Và hoạt động kinh doanh của họ cứ thế phát triển mạnh lên trước con mắt ganh tỵ của thương nhân người Hoa. Nhưng dần dà với thời gian , hai bên phát hiện ra rằng có những lĩnh vực nhất định mà sự cộng tác giữa hai bên sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả hai. Các thương nhân châu Âu cần có một số lượng ngày càng lớn những hàng hóa đã được họ tuyển chọn, nhưng không thể thu mua đủ số vì vấp phải nhiều trở ngại - bất đồng ngôn ngữ, không thông hiểu tập quá địa phương hay lề thói mua bán. Trong khi đó, cấu trúc xã hội ở các nước Đông Nam Á chưa phân hóa đủ sâu sắc để cho ra đời tầng lớp thương nhân chuyên nghiệp bản xứ. Vậy là vai trò của các thương nhân người Hoa với kinh nghiệm mua bán nhiều năm với dân địa phương đã được xác lập như là người trung gian giữa thương nhân châu Âu với nông dân, thợ thủ công và đôi khi phong kiến bản địa. Ngoài ra, cũng bởi nguyên nhân tương tự, không ít thương nhân trung gian người Hoa trở thành người thầu thuế và thuế quan ở các vùng bị người Âu chiếm làm thuộc địa. Do đó, không đáng ngạc nhiên nếu dân địa phương không ít lần tỏ thái độ khinh ghét đám thương nhân giàu có người Hoa. Chính họ định giá hàng hóa, cho vay nặng lãi, đã thế lại còn làm người phò tá trực tiếp cho bọn xâm lược Âu đáng ghét. Họ quên rằng họ cũng là người nước ngoài, theo một tín ngưỡng xa lạ, nói tiếng nói khác, sống theo những phong tục, tập quán lạ lùng đối với người địa phương, mặc những bộ đồ không giống như họ. Trong khi chỉ mỗi một trong số những khác biệt vừa kể cũng đủ gây mối ác cảm nơi người bản xứ.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

1 Purcell V., Sñd, p.396.

16

Trên đây là đại thể số phận của những di dân người Hoa và mối quan hệ giữa họ với người bản xứ. Nếu đi sâu vào chi tiết, ta sẽ thấy trong từng nước Đông Nam Á, chúng chịu sự tác động của nhiều yếu tố thuộc bản chất của chế độ thuộc địa, những thay đổi trong sinh hoạt kinh tế và phương pháp bóc lột thuộc địa. Do đó, chúng có những nét riêng biệt ở từng nước cụ thể. Sau khi người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ XVI xâm chiếm Philippines, nguồn kích thích chính khiến người Hoa tìm đến sinh sống ở đây là nền thương mại thương thuyền. Các thương nhân Tây Ban Nha dùng thuyền chở bạc từ Mexico đến quần đảo. Tại đây, họ mua lụa được mang từ Trung Quốc sang và chở đến Mexico bán lại. Theo cách nói của một nhà sử học người Mỹ, "nhu cầu của Mexico đối với lụa của Trung Quốc là không giới hạn, còn sự thèm muốn của thương nhân Trung Quốc đối với bạc của châu Mỹ thì không bao giờ được thỏa mãn". Đầu những năm 80 của thế kỷ XVI, một khu đất bên bờ sông Pasig ở Manila được dành riêng cho người Hoa đến tụ hội buôn bán, đó là khu "Parian" ("Chợ lụa"). Tại đây, thương nhân Hoa đã kéo đến mở cửa hàng, thợ thủ công mở xưởng thợ - đóng thuyền, làm đồ đạc, làm bánh mì... Ngoài ra, cũng có người làm nghề đánh cá, làm vườn, thợ mộc, thợ nề. Ngay trong khoảng thời gian này, khu Parian đã quy tụ từ 6 đến 7.000 người Hoa, trong đó từ 3 đến 4.000 sinh sống thường xuyên. Tất cả những công trình kiến trúc bằng đá ở Manila đều được dựng lên bằng bàn tay của người thợ Trung Quốc. Người Hoa còn buôn bán hàng hóa ngoại quốc. Họ cung cấp cho người Tây Ban Nha và những người dân Manila khác lương thực, mà họ thu mua từ các miền quê chung quanh. Như vậy, có thể nói rằng trong buổi đầu xây dựng và phát triển của nó, Manila - trung tâm quyền lực của chế độ thực dân Tây Ban Nha ở Philippines - đã dựa chủ yếu vào bàn tay của di dân người Hoa. Công ty Đông Ấn của Hà Lan, để xác lập độc quyền buôn bán gia vị ở vùng quần đảo Indonesia trong thế kỷ XVII, lúc đầu đã kiên trì đấu tranh chống những kẻ cạnh tranh thuộc nhiều nước khác nhau, trong đó có cả người Hoa đã định cư từ trước đó trên quần đảo. Nhưng những lãnh đạo Công ty mau chóng hiểu ra rằng di dân người Hoa có thể thủ giữ một vai trò có ích nào đó. Chẳng hạn, đôi lúc họ là người phiên dịch trong các cuộc đàm phán giữa người Hà Lan với giới thống trị địa phương, hoặc trở thành người cung cấp lương thực, bởi vì người bản địa đôi khi từ chối buôn bán với những kẻ xâm lược. Chính quyền thuộc địa do đó đã khuyến khích sự gia tăng dân số người Hoa ở những vùng bị nó thống trị. Chẳng hạn nếu số dân cư người Hoa ở Batavia trong năm 1619 không vượt quá 400 người, thì trong năm 1629 nó đã lên đến 2.000 và đến năm 1725 đã lên tới 10.000 ((cid:31)). Trong những năm 20 của thế kỷ XVII, chính quyền thực dân Hà Lan chính thức cho phép người Hoa được buôn bán lẻ trên đảo Java. Giải thích những lý do cho phép người Hoa sống tại địa phương được hành nghề buôn bán, Toàn quyền Hà Lan Koon nói rằng khả năng của họ trong lĩnh vực này "vượt xa khả năng của người Hà Lan". Người Hoa cũng được phép thực hiện những chuyến buôn hàng hải giữa Trung Quốc và Java, hoặc buôn bán ven bờ biển hay giao dịch với Batavia - pháo đài chính của Hà Lan (1). Như nhà kinh tế học người Anh Cator đã nhận xét, thương nhân Hoa bám theo ngọn cờ của Hà Lan ; việc mở rộng quyền thống trị của Hà Lan trong quần đảo Indonesia "luôn luôn đi kèm với việc xuất hiện các thương điếm mới của người Hoa".

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

17

Chính quyền Hà Lan đảm bảo cho người Hoa an ninh cá nhân, quyền tư hữu, những điều kiện thuận lợi để kinh doanh cả trong lĩnh vực thương mại, lẫn trong việc xây cất các công trình quân sự và chổ ở. Được Công ty giúp đỡ, người Hoa đã tổ chức ngành công nghiệp chế biến đường mía. Năm 1710, chỉ quanh Batavia đã có đến 130 nhà máy đường, với trên 25.000 công nhân, trong đó có gần 7.000 người Hoa. Có thể nói vào thời đó người Hoa kinh doanh trong ngành sản xuất đường có vị thế kinh tế xem ra vững chắc hơn người bản xứ sản xuất cà phê ((cid:31)). 2. NHỮNG VA CHẠM BAN ĐẦU GIỮA NGƯỜI HOA VÀø THỰC DÂN CHÂU ÂU. Nhưng dần dà với thời gian quan hệ sống chung cùng có lợi giữa di dân người Hoa và thực dân châu Âu đã tỏ ra không bền vững và nhường chỗ cho những cuộc va chạm gắt gao giữa họ với nhau ở cả Philippines lẫn Indonesia. Ở Philippines, số di dân người Hoa tăng lên nhanh chóng (đầu thế kỷ XVII con số này đã là vài chục ngàn) đã bắt đầu làm chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha lo lắng. Đã có nhiều biện pháp khe khắt chống họ được đưa ra . Họ bị đánh những khoản thuế rất nặng, bị cấm làm một số nghề nhất định, chẳng hạn như buôn bán lẻ và bị hạn chế đi lại trong phạm vi lãnh thổ quần đảo. Bất kỳ mưu toan phản đối nào từ phía họ cũng đều bị trấn áp thẳng tay. Năm 1657, Toàn quyền Telo ra lệnh trục xuất khỏi Manila tất cả những người Hoa "dư thừa", chỉ để lại trong thành phố không quá 3 - 4.000 người, đủ để đảm bảo sinh hoạt kinh tế. Khu Parian bị đốt phá, tài sản của người Hoa sống ở đây hầu như bị phá tiêu. Những mệnh lệnh trục xuất người Hoa vốn được công bố nhiều lần từ thế kỷ XVII - XVIII, thường kèm theo những hoạt động ruồng bố và thảm sát. Chỉ trong năm 1603 có đến gần 25.000 bị tống xuất vào khu rừng núi tỉnh Pampanga. Tại đây, số lớn đã bị giết. Năm 1639, khu Parian lại bị đốt phá và có đến 22.000 người Hoa bị giết. Nhưng mệnh lệnh trục xuất người Hoa chỉ sau một thời gian bị bãi bỏ, vì nền thương mại bằng thuyền đổi bạc Mexico lấy hàng Trung Quốc là nguồn sinh lợi cho các viên chức thuộc địa Tây Ban Nha. Đến giữa thế kỷ XVIII, khi nền thương mại bằng thuyền dần dà tàn lụi, sự quan tâm của chính quyền thuộc địa đối với hàng hóa của Trung Quốc giảm dần, cộng đồng người Hoa lại một lần nữa bị đối xử khe khắc. Đến năm 1766, đa số người Hoa bị trục xuất khỏi quần đảo. Chỉ còn lại vỏn vẹn gần 5.000, hơn nữa họ chỉ được sống trong những vùng cận Manila và bị buộc phục vụ người Tây Ban Nha. Từ thời điểm này, vị thế kinh tế của người Hoa lai - tức con cháu sinh ra từ các cuộc hôn phối giữa những người đàn ông Hoa và các phụ nữ địa phương - bắt đầu được củng cố. Đầu thế kỷ XIX, trên toàn lãnh thổ Philippines chỉ có khoảng 7.000 người Hoa sinh sống, trong lúc số người lai lên đến hơn 119.000. Nhiều người trong số này đã theo đạo Công giáo. Họ lại được chính quyền thuộc địa cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế và tư pháp hơn so với người Hoa. Họ thu mua nông sản để xuất ra bên ngoài, làm nghề cho vay lãi và buôn bán lẻ ở vùng ven. Ở Indonesia, tình trạng căng thẳng trong quan hệ giữa người Hà Lan và di dân người Hoa diễn ra trong những năm 30 - đầu những năm 40 của thế kỷ XVIII. Tình trạng này gắn liền với con số di dân người Hoa đổ sang đây lên cao và không phải lúc nào cũng tìm được việc làm. Vào năm 1733, chỉ riêng ở Batavia và vùng phụ cận đã có không dưới 8 vạn người Hoa sinh sống ((cid:31)). Tình cảnh của họ thêm phức tạp do nhà Thanh năm 1728 cấm mọi người Hoa đi ra nước ngoài một cách bất hợp pháp được quay về tổ quốc.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

18

Chính quyền thuộc địa Hà Lan, về phần mình, lo sợ số di dân dồn tụ quá đông, đã thắt chặt chính sách đối với di dân người Hoa sinh sống trên đảo Java. Họ bị cấm "đi lang thang", nghĩa là đi lại trong nước tìm việc làm, hoặc mở cửa hàng mới. Thương nhân bị đánh thuế rất nặng. Chỉ những lỗi lầm nhỏ cũng đủ để người Hoa bị trừng phạt nghiêm kkhắc. Không có lệnh viết tay của chính quyền thuộc địa, người Hoa không có quyền đi ra khỏi phạm vi thị trấn, nơi họ đang sống. Bất kỳ người Hoa nào không đưa ra được câu trả lời thỏa đáng về nguồn gốc phương tiện sinh sống của họ đều sẽ bị tịch thu của cải và bị trục xuất đến các thuộc địa khác của Hà Lan, đến đảo Banda, Ceylan hay Mũi Hảo Vọng. Những biện pháp trừng phạt, đi kèm với các hành động nhũng nhiễu của các viên chức thuộc địa, đã khiến cộng đồng di dân người Hoa rất bất bình và năm 1740 đã đưa đến những cuộc bạo loạn. Chính quyền thuộc địa Hà Lan đã trấn áp thẳng tay những kẻ bất bình: gần một vạn người Hoa bị giết ((cid:31)). Sau những biến cố bi thảm này, ở Batavia chỉ còn lại không hơn 3.000 người Hoa. Thêm vào đó những biện pháp trừng phạt đã đưa ra trước đây vẫn được giữ nguyên: người Hoa chỉ được sống trong những khu phố và địa điểm riêng lẻ, do chính quyền quy định, phải có phép đặc biệt mới được đi đến những thành phố khác. Đồng thời những biến cố năm 1740 tỏ cho thấy người Hoa giữ một vị thế vững chắc trong sinh hoạt kinh tế ở thuộc địa, rằng họ thật cần thiết trong vai trò là người trung gian cả cho người Hà Lan, lẫn cho người dân bản địa. Do đó, vào khoảng năm 1742, sau khi những cuộc chống đối của người Hoa bị dập tắt, chính quyền thuộc địa đã tuyên bố lệnh ân xá, còn ban quản lý Công ty Đông Ấn cam kết sẽ quan tâm đến quyền lợi của họ trong những địa hạt hoạt động mà họ được phép. Nhờ vậy, trong nửa sau thế kỷ XVIII tổng số người Hoa và hoạt động kinh tế của họ đã được phục hồi. 3. CHẾ ĐỘ TRƯNG THUẾ VÀ NGƯỜI HOA. Trong những năm sau đó, ở các nước thuộc địa Đông Nam Á vị thế kinh tế của tầng lớp trên trong cộng đồng người Hoa được tăng cường không chỉ và cũng không phải hoàn toàn nhờ mở rộng hoạt động kinh doanh, mà chủ yếu nhờ được phép mở rộng độc quyền trưng thuế. Trong các thế kỷ XVII - XIX, chế độ trưng thuế được thực hiện trong hầu hết các nước trong vùng, đặc biệt là ở Indonesia. Thực ra việc giao cho các cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định quyền trưng thuế, hoặc độc quyền sản xuất, hoặc bán các loại sản phẩm nào đó đã từng được thực hiện ở trong vùng từ trước đó. Nhưng chế độ này phát triển rộng rãi nhất trong nửa sau thế kỷ XVIII, mà trong đó người Hoa thường thủ giữ vai trò người thu mua hoặc trưng thuế. Người trưng thuế thu thuế thương nghiệp ở các chợ và thu mua sản phẩm do dân địa phương làm ra. Không bị ai kiểm soát, họ là ông chủ thực sự ở chợ. Người trưng thuế Hoa kiều thời đó nắm cả độc quyền đánh bắt cá trên sông ngòi hay trong vịnh, buôn bán thuốc lá, rượu và thuốc phiện, và cả quyền thu thuế thân. Công ty Đông Ấn, vốn được giao độc quyền chế biến và bán muối, đã giao khoán cho người trưng thuế toàn bộ các làng Java ven biển; dân cư các làng này bị buộc phải hành nghề khai thác muối và bán toàn bộ sản phẩm cho người trưng thuế. Đến cuối thế kỷ XVIII, độc quyền của người trưng thuế được mở rộng ra khắp nhiều vùng. Nhờ vậy, họ đã có thể phát triển các hoạt động kinh doanh của mình.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

19

Năm 1796, trong số 8535 làng nằm dưới quyền cai quản trực tiếp của Công ty, 1134 được giao thác cho người Hoa thu mua. Bằng các hợp đồng đã được ký, người trưng thuế Hoa kiều thực sự nắm quyền cai quản những phần lãnh thổ đáng kể, và họ đã trở thành một thứ phong kiến: dân làng buộc phải nộp thuế đất và những sắc thuế khác, và phải thực hiện cả các nghĩa vụ lao động. Ở trong một tình cảnh đặc biệt nặng nề là dân cư các làng và vùng bị giao khoán thu thuế trong một thời gian ngắn (một hoặc hai năm). Thường quyền trưng thuế ở những nơi này là do người Hoa nhận được từ tay giới chức địa phương, vốn nằm dưới quyền của thực dân Hà Lan. Người trưng thuế cố bằng mọi cách thu được càng nhiều lợi lộc càng tốt, mà hoàn toàn không để tâm đến tình cảnh của dân cư các địa phương thuộc quyền họ. Họ sử dụng những kẻ đánh thuê có vũ trang, một thứ "cảnh sát tư", để khuất phục dân làng. Với một chế độ trưng thuế như vậy, người Hoa cố bòn rút được bao nhiêu thì bòn rút. Cách trưng thuế kiểu này đã làm khánh tận vô số làng và khiến dân địa phương bất bình. Chỉ trong miền Cheribon từ năm 1718 đến năm 1802 đã xảy ra hàng loạt cuộc bạo động của người dân vì nguyên nhân vừa kể. Đến cuối thế kỷ XVIII, trên đảo Java và Madura có gần 10 vạn người Hoa sinh sống. Thêm vài chục ngàn ở các đảo khác trong cùng thời gian. Con số này cho thấy ở Indonesia đã hình thành một cộng đồng người Hoa khá đông đảo, mà thành viên của nó đã trở thành một bộ phận không thể tách lìa khỏi dân cư Indonesia thuộc Hà Lan. Thực dân đã thành công trong việc xây dựng một chế độ cai trị gián tiếp, nhưng hiệu quả, bằng sự giúp đỡ của các viên chức được tuyển mộ từ trong tầng lớp trên trong cộng đồng người Hoa. Họ phải chịu trách nhiệm trước giới thống trị Hà Lan. Hệ thống này hình thành ngay từ cuối thế kỷ XVIII và tồn tại trong suốt thời kỳ thống trị của Hà Lan ở Indonesia. Đến giữa thế kỷ XIX, chế độ trưng thuế đã trở nên lỗi thời, nhưng những chân trời mới đã mở ra trước các doanh gia người Hoa, vốn đã kịp tích lũy một số vốn không nhỏ. Họ bắt đầu mở rộng hoạt động của mình trong tư cách người cho vay lãi, người trung gian ngành ngoại thương, thu mua rộng rãi các sản phẩm hàng hóa của các đồn điền và sơ chế chúng, bước vào những ngành công nghiệp truyền thống của dân địa phương (chẳng hạn sản xuất vải batik), cạnh tranh với người Hà Lan trong kinh tế đồn điền, mà kết quả là không ít đồn điền lớn đã chuyển sang tay họ. Người Hoa còn thu được những nguồn lợi từ các nhà hút, nhà chứa, sòng bạc, mà họ là chủ ((cid:31)). Vào khoảng thời gian này ở Indonesia xét về mặt xã hội - văn hóa, cộng đồng người Hoa đã bị phân cách rõ rệt thành hai loại, mà tiếng địa phương gọi là "peranakan" và "totok". Nhóm đầu bao gồm những người Hoa sinh ra ở Indonesia và chuyển sang dùng hoàn toàn tiếng địa phương, kể cả trong quan hệ gia đình, và đi theo các chuẩn mực văn hóa của dân bản địa sống chung quanh. Loại thứ hai là những người Hoa địa phương vẫn sử dụng tiếng Hoa khi giao tiếp với nhau, dù là được sinh ra ở Trung Quốc hay ở Indonesia (trong đa số trường hợp đây là những di dân thuộc thế hệ thứ nhất hoặc thế hệ thứ hai). Peranakan và totok đã và đang sống (tức cho đến nay thành những cộng đồng riêng biệt, cả về mặt lãnh thổ cũng như xã hội: họ không thích giao tiếp với nhau, và lắm khi không có thiện cảm với nhau). Dù vậy, cả hai giới vẫn tự coi họ là người Hoa và xét về thực chất là một cộng đồng sắc tộc duy nhất. Trong chuyện này, người Indonesia (và chính quyền Hà Lan trong thời thuộc địa) cũng coi cả hai nhóm đều là người Hoa.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

4. TÌNH HÌNH CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG NỬA SAU THẾ KỶ XIX. Trong nửa sau thế kỷ XIX, số di dân người Hoa mới mang đến những nét mới về chất, do chỗ ách bóc lột thuộc địa giờ đây hoàn toàn phục vụ nhu cầu của tư bản châu Âu công nghiệp, chứ không phải thương nghiệp như trước đây. Ở các thuộc địa xuất hiện các nhu cầu cần lực lượng lao động, mà một xã hội phong kiến và gia trưởng vốn còn ngự trị trên phần lớn lãnh thổ Đông Nam Á không thể cung cấp được. Những kẻ khai thác thực dân yêu cầu nhập một khối lượng lớn lực lượng lao động từ ngoài vào - từ Ấn, nhưng chủ yếu từ Trung Quốc, nơi người ta có thể dễ dàng tuyển mộ rất nhiều người nghèo không phương tiện sinh nhai, sẵn sàng đi làm ở bất kỳ nơi đâu với đồng lương rẻ mạt. Những người tuyển mộ không ai khác hơn thường là thương nhân người Hoa, vốn đang làm ăn với các nước Đông Nam Á hay đã hoàn toàn sang đây sinh sống. Không phải là hiếm nếu dựa vào các hội kín, chủ giao kèo bóc lột thẳng tay và đánh lừa những người tuyển mộ để thu những món lợi kếch sù. Sau khi nhận việc, culi (tên gọi chính thức của các công nhân Trung Quốc đã ký giao kèo) bị mắc nợ ông chủ không ít. Năm 1860, sau khi chiến tranh á phiện lần thứ hai chấm dứt, các cường quốc phương Tây đã buộc nhà Thanh chấp nhận việc tuyển mộ và đưa ra nước ngoài công nhân Trung Quốc. Từ thời điểm đó, con số người Hoa ở Đông Nam Á tăng nhanh. Số mới đến đa phần là công nhân đã ký giao kèo, hay "tự do". Nếu năm 1860, ở Indonesia có 211.000 người Hoa sinh sống, thì đến năm 1890, con số này đã lên đến 537.000. Ở Singapore, năm 1860 người Hoa chiếm 63% dân số, trong lúc 30 năm trước đó tỷ lệnày chỉ mới là 39%. Ở Miến Điện, số người Hoa năm 1861 là 10.00, 1891 - 43.000 và đến năm 1911 là 124.000. Trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến tình cảnh của các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á là ách thống trị của thực dân châu Âu. Vào thời điểm đang nói toàn bộ vùng này đã bị các cường quốc thực dân Âu Mỹ chia xong : Anh hoàn toàn làm chủ Malaya và Miến Điện, Pháp hoàn tất xong việc chiếm đóng Việt Nam, Lào và Campuchia, Hà Lan đã kiểm soát quần đảo Indonesia, Mỹ chuẩn bị thay Tây Ban Nha ở Philippines, còn sót lại mỗi nước Xiêm độc lập thì phải chịu sự chi phối của Anh và Pháp. Tình cảnh của các cộng đồng người Hoa tại các thuộc địa của Pháp phản ánh nét đặc thù trong chính sách cai trị của Pháp ở từng thuộc địa. Người Hoa sống ở Nam Kỳ có quyền sở hữu và thừa hưởng ruộng đất, hoặc được tự do di chuyển (trong toàn cõi Đông Dương) , buôn bán, ký các hợp đồng thực hiện các công trình xây dựng và đánh bắt cá. Chính quyền thuộc địa trao cho người cầm đầu các hội quán kinh doanh của người Hoa những chức năng cảnh sát và thuế má rộng rãi để họ duy trì trật tự và thu thuế trong cộng đồng. Những điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đã giúp tăng số người Hoa ở Nam Kỳ. Nếu năm 1859, ở xứ này có gần 44.00 người Hoa sinh sống, thì năm 1889 con số này là 56.000. Con số di dân người Hoa tăng đều trong những năm sau đó. Ở các phần đất bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ (ngoại trừ các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng), quyền của người Hoa bị hạn chế hơn so với ở Nam Kỳ dù ở đất bảo hộ nhiều người Hoa vẫn làm chủ một số bất động sản đáng kể và nhiều đất đai, được phép buôn bán, nhưng khác với Nam Kỳ một bộ phận đáng kể người Hoa ở Bắc Việt Nam lại trực tiếp làm các nghề sản xuất. Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ

20

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Tuy không phải là một thuộc địa, nhưng những hiệp ước bất bình đẳng mà các nước phương Tây buộc Xiêm ký đã thực sự biến nền kinh tế của nước này thành vật phụ thuộc về nông nghiệp cho các nước tư bản phát triển. Sự xâm nhập của tư bản nước ngoài vào Xiêm đã tác động mạnh đến cộng đồng người Hoa. Số tư bản phương Tây đổ vào và cả sự tăng trưởng của tư sản Thái vào những năm 70 của thế kỷ XIX đã hạn chế ở mức độ đáng kể khả năng của tư bản Hoa trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không cản trở quá trình tăng cường vị thế của tư bản Hoa trong các lĩnh vực tài chính (cho vay, trưng thuế) và thương mại (xuất khẩu). Đồng thời, quá trình hoà nhập giữa tầng lớp trên của cộng đồng người Hoa và quý tộc địa phương cũng được đẩy nhanh. Chẳng hạn, người đứng đầu hội tộc Chin nổi tiếng trong cộng đồng người Hoa, vốn có một vị thế nhất định trong ngành xuất khẩu vào đầu những năm 80, sau khi kết hôn với con gái của một gia đình quý tộc tiểu vương

21

Vào đầu những năm 1920 ở Lào chỉ vỏn vẹn gần 7.000 người Hoa. Sinh hoạt XX ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ số di dân người Hoa mới đến chủ yếu là công nhân ký hợp đồng. Người ta cần họ cho những công việc trong nền kinh tế đồn điền đang tăng trưởng của thực dân. Nhiều người Hoa lao động tại các mỏ than ở Hòn Gai. Ngoài ra, người Hoa còn hành nghề đánh cá, làm vườn, làm việc ở bến cảng, xưởng đồ gốm. Trong số chủ nhân các quán ăn nhỏ, hiệu giặt ủi, tiệm may có không ít người Hoa ((cid:31)). Một số đáng kể di dân người Hoa sống tập trung ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng; những thành phố này thuộc quyền cai trị trực tiếp của chính quyền thuộc địa Pháp ; dân cư người Hoa sống ở đây cũng được hưởng các quyền như ở Nam Kỳ. Cùng với việc Campuchia bị biến thành thuộc địa trong ba thập niên cuối của thế kỷ XIX, trong tình cảnh của di dân người Hoa sinh sống ở nước này cũng diễn ra những thay đổi nhất định. Phát xuất từ các quan điểm liên quan đến chính sách thuế và xã hội, chính quyền thuộc địa Pháp đã ban hành chế độ quản lý gián tiếp cộng đồng người Hoa lúc đó còn đang trong quá trình hình thành. Năm 1891, chế độ lập hội đoàn được mang ra áp dụng cho tất cả những người châu Á - nước ngoài. Lãnh đạo các hội đoàn người Hoa được thành lập theo nguyên tắc cùng thổ ngữ và quê quán là những người được bầu ra. Họ thực ra đóng vai trò là người trung gian trong các quan hệ giữa cộng đồng và chính quyền thuộc địa. Người thủ lĩnh hội đoàn có toàn quyền đối với các thành viên. Không có phép của người thủ lĩnh, di dân không thể sống ở Campuchia, đi từ tỉnh này sang tỉnh khác hoặc ra khỏi nước. Chế độ này mang lại quyền hành rất lớn trong hội đoàn gắn liền với việc tăng thuế thân của người Hoa (năm 1897 ngoài các loại thuế, thêm các sắc thuế mới : thuế thân bổ sung và chế độ trả bằng tiền nghĩa vụ 10 ngày công lao động). Chính sách này, đặc biệt là trong giai đoạn đầu, đồng thời giúp tăng giới doanh nghiệp người Hoa. Ngoài ra, năm 1886 người Hoa được quyền sở hữu đất đai - cả ở thành thị lẫn nông thôn. Vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ tính riêng ở nông thôn, người Hoa đã sở hữu gần một vạn hecta ruộng đất. Nhưng số cư dân người Hoa tăng lên chậm chạp. Nếu trước khi thực dân Pháp chiếm Campuchia năm 1874, trong nước có khoảng 107.000 người Hoa sinh sống, thì đến đầu Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, con số này là 114.000. Trong số các lãnh thổ của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, Lào là nơi có ít doanh nhân người Hoa sinh sống. Lý do có nhiều: lãnh thổ bị chia cắt manh mún và khó tới, không có cửa ngõ trực tiếp dẫn ra biển, các phương tiện vận chuyển không phát triển và quan trọng hơn cả là thị trường nội địa hạn hẹp. kinh tế chính của họ là buôn bán lẻ. Ngoài ra, họ cũng làm nghề xay xát gạo ((cid:31)).

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

22

quốc Lampong đã được nhượng cho việc khai thác gỗ tek trong vương quốc này. Vào cuối những năm 1880, ông ta trở thành người đồng trưng thuế ba nhà đánh bạc và được độc quyền bán rượu. Vào đầu thế kỷ XX, gia đình ông ta làm chủ năm nhà máy xay lúa, nhà máy xẻ gỗ và ụ tàu ((cid:31)). Từ cuối thế kỷ XIX, Xiêm đã tiến hành một số cải cách để ứng phó với sự xâm nhập của tư bản nước ngoài và những điều kiện của thị trường bên ngoài. Cộng đồng người Hoa cũng bị tác động bởi những diễn biến này. Chế độ trưng thuế bị bãi bỏ, các hội đoàn bí mật bị cấm, còn những người cầm đầu chúng bị biên chế vào bộ máy quan liêu nhà nước. Những thay đổi trong cấu trúc lãnh đạo cộng đồng người Hoa tỏ cho thấy các mối quan hệ xã hội trong nội bộ cộng đồng giờ mang tính tư sản rõ nét hơn. Từ nửa sau thế kỷ XIX, nhịp độ gia tăng dân số của người Hoa diễn ra nhanh hơn và vượt cả nhịp độ gia tăng toàn bộ dân cư trong nước. Theo đánh giá của G. Skinner, tổng dân số người Hoa ở Xiêm từ năm 1850 đến năm 1930 tăng từ 30 vạn lên đến 1,5 triệu ((cid:31)). Từ cuối thế kỷ XIX, cùng với sự tăng trưởng của tư sản công thương nghiệp người Hoa, tổng số người Hoa sinh sống ở Xiêm cũng tăng nhanh nhờ số thợ hợp đồng di cư sang đây. Vì tư bản nước ngoài bóc lột Xiêm chủ yếu bằng con đường ngoại thương, tư sản mại bản đã đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Các doanh gia người Hoa chiếm giữ một vị thế vững chắc. Thông thường họ làm đại lý cho các hãng buôn nước ngoài. Chẳng hạn, trong năm 1890 người Hoa nắm đến 62% doanh số thương nghiệp, các hãng buôn Anh 26%, còn người Ấn chỉ có 8% ((cid:31)). Việc thu mua các sản phẩm xuất khẩu là độc quyền của tư sản mại bản người Hoa. Các hãng buôn châu Âu thường chọn những nhà buôn người Hoa giàu có và quen thuộc với phong cách buôn bán của phương Tây để giao cho các hoạt động mại bản. Khoảng 5 hay 6 nhà buôn như vậy kết hợp thành những hội buôn nắm giữ các đường vận chuyển trên sông và sở hữu nhiều kho bãi và cửa hàng. Nhờ những tổ chức này, thương nhân người Hoa đã thiết lập được một mạng lưới chi nhánh, và đồng thời cũng là phân phối, thống nhất. Tổ chức này kiểm soát những người bán hàng rong, chủ các thuyền buôn, những cửa hiệu nhỏ và vừa. Mỗi mắt xích này đều được đảm bảo lợi nhuận và các cơ hội đầu tư và luân chuyển vốn nhanh. Để tài trợ cho hoạt động buôn gạo, nhiều ngân hàng người Hoa đã được thành lập. Họ có cả phòng thương mại, nơi tập trung và điều hành toàn bộ hệ thống mậu dịch. Vào cuối thế kỷ XIX, cùng với sự xuất hiện của các xí nghiệp công nghiệp lớn do tư bản phương Tây xây dựng, số xí nghiệp thuộc quyền sở hữu của người Hoa tăng lên. Năm 1890, những người thu mua lúa và mại bản Hoa kiều có trong tay 20 trong tổng số 25 nhà máy lúa ở Bangkok được trang bị máy móc hiện đại nhất. Năm 1908, người Hoa có 4 trong tổng số 11 nhà máy xẻ gỗ. Người Hoa cũng chiếm đa số áp đảo trong giai cấp công nhân đang trong quá trình hình thành ở Xiêm. Có đến gần 10.000 công nhân Hoa kiều làm việc trong các nhà máy xay xát gạo và xẻ gỗ ở Bangkok vào đầu thế kỷ XX ((cid:31)). Công nhân người Hoa cũng có mặt trong các công việc vận chuyển và đóng gạo vào bao; vài ngàn người làm việc trên các công trường xây dựng, ở bến bãi; phu khuân vác trên các công trường xây dựng đường sắt ((cid:31)). Có tới 4 vạn công nhân người Hoa có mặt tại các mỏ thiếc trên đảo Phuket.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

23

Vào đầu thế kỷ XX, khi nền nông nghiệp các vùng đông dân quanh Bangkok có xu hướng chuyển sang sản xuất hàng hóa, các trang trại do người Hoa làm chủ đã trồng nhiều rau quả và phát triển mạnh chăn nuôi. Chúng sử dụng đến hàng ngàn công nhân nông nghiệp người Hoa. Nơi cần dùng nhiều lao động làm thuê là các đồn điền cao su ở miền Nam, mà chủ nhân chính là người Hoa. Họ thường thuê mướn công nhân đồng hương. Nhiều xưởng hay cửa hàng tiểu, thủ công nghiệp trong nước như đóng tàu thuyền, rèn, làm đồ gốm, đóng giày, đồ mộc, đồ trang sức... nằm trong tay các tiểu chủ người Hoa. Cùng lao động với họ có không ít thợ người Hoa ((cid:31)). Vốn mạnh, nhiều kinh nghiệm trên thương trường, chỗ dựa chính trị vững chắc... là những thế mạnh của tư bản phương Tây, mà giới doanh gia người Hoa ở Đông Nam Á đang trong quá trình hình thành không thể có, và tất nhiên họ gặp khó khăn không ít khi phải cạnh tranh với tư bản châu Âu. Một trong những biện pháp bảo vệ vị thế của mình, mà tư bản Hoa bắt đầu sử dụng từ đầu thế kỷ XX là các phòng thương mại của họ. Đây là những tổ chức khép kín được lập ra nhằm tương trợ cho nhau, trao đổi tin tức trên thương trường, chia xẻ vùng ảnh hưởng, hòa giải trong nội bộ các bất đồng giữa các đồng nghiệp - đồng hương... Lúc đầu, phòng thương mại được thành lập theo ngành nghề, cơ bản là theo các hội buôn cũ, thời gian sau xuất hiện các liên hiệp phòng thương mại trên quy mô cả nước. Những phòng thương mại Hoa kiều xuất hiện ở Philippines năm 1904, ở Singapore năm 1906, Indonesia năm 1907. Về sau xuất hiện thêm các phòng thương mại hỗn hợp, như Philippines - Hoa, Indonesia - Hoa... Như vậy, khi các nước Đông Nam Á lần lượt rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, các nhóm sắc tộc người Hoa trong vùng đã bị cuốn hút mạnh mẽ vào trong tiến trình tư sản hóa. Do một loạt các nhân tố xã hội - lịch sử đã miêu tả ở trên, sự ra đời của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong cộng đồng di dân người Hoa diễn ra nhanh hơn nhiều so với trong nội bộ dân bản xứ. Sự khác biệt này được duy trì trong một thời gian khá dài và sẽ để lại những hậu quả quan trọng đối với điều kiện sinh tồn của thiểu số người Hoa ở Đông Nam Á.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

CHƯƠNG III QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN XÃ HỘI - KINH TẾ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA _________________________________

24

1. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở ĐÔNG DƯƠNG. Sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất và Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười Nga, chế độ thuộc địa ở các nước Đông Nam Á bị rơi vào khủng hoảng, giống như toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới. Tình hình này đã làm xuất hiện một loạt các hiện tượng mới đáng kể trong cuộc sống của các nhóm sắc tộc người Hoa trong vùng. Chúng đụng chạm đến mọi mặt trong sinh hoạt của cộng đồng người Hoa. Trước hết, chúng tôi xin đề cập đến khía cạnh xã hội - kinh tế của tiến t rình. Vào những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, tư bản người Hoa ở các nước Đông Nam Á đã bị tư bản độc quyền Âu Mỹ, dựa vào các phương thức hiện đại khai thác lao động và tài nguyên tự nhiên cùng kỹ thuật tân kỳ, đẩy lùi dần xuống vị trí thứ yếu. Nếu năm 1913, phần của người Hoa trong ngành khai thác mỏ thiếc ở Malaya là 68% sản lượng, thì năm 1925 còn 56% và đến năm 1929 chỉ còn lại 39%. Bức tranh tương tự cũng được nhìn thấy ở Xiêm: trong những năm 1916 - 1917, các mỏ thiếc của người Hoa cung cấp hơn 67% sản lượng thiếc khai thác được, nhưng trong những năm 1936 - 1939 còn không đầy 38%. Còn tư bản Mỹ ở Philippines đã đánh bật người Hoa khỏi công nghiệp khai khoáng và khái thác gỗ, cũng như nhiều ngành công nghiệp khác trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Ở Indonesia, trong khoảng thời gian này tổng số đầu tư của tư bản Hà Lan được xác định là 1.040 triệu đô la, còn của người Hoa chỉ 150 triệu ((cid:31)). Tuy nhiên, ở những nước chúng ta vừa xem xét tư bản người Hoa vẫn nắm chắc, giống như trước đây, hầu như toàn bộ hoạt động thương mại, dịch vụ, và phần nào đó công nghiệp khai khoáng và chế biến, kinh tế đồn điền. Ở Việt Nam, vị thế vững chắc của tư bản người Hoa nằm trong lĩnh vực thương nghiệp. Họ làm chủ hầu hết thuyền buôn (trong tay họ có đến 3.000 thuyền), thương nhân Hoa hầu như nắm độc quyền việc buôn bán gạo. Họ nắm trong tay đa số nhà máy xay xát gạo ở Chợ Lớn. Thương nhân Hoa buôn gạo còn thành lập các đại lý, vốn cũng là người Hoa để thu gom lúa trực tiếp từ tay người sản xuất ((cid:31)). Những nhà buôn sỉ cỡ lớn cũng làm luôn cả nghề cho vay và cung cấp tín dụng. Họ cung cấp tín dụng cho các nhà buôn sỉ cấp hai. Những người này mua chịu hàng của họ, kể cả hàng nhập khẩu, và bán lại cho những người buôn lẻ. Theo tính toán của nhà kinh tế học người Mỹ Callis,vào năm 1941 tổng số vốn đầu tư của người Hoa ở các nước Đông Dương thuộc Pháp là 80 triệu đô la, trong lúc toàn bộ vốn đầu tư của tư bản nước ngoài là 384 triệu ((cid:31)). Thành phần của doanh nhân người Hoa, ngoài thương nhân, còn có chủ nhà máy xẻ gổ, nhà máy đường, đồn điền. Nhiều người Hoa cũng làm các nghề tiểu, thủ công nghiệp, làm vườn, đánh cá ((cid:31)). Trong cấu trúc xã hội của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trước Chiến tranh

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

25

Thế giới thứ Hai chiếm vị trí quan trọng vẫn là công nhân làm việc nhiều nhất trong công nghiệp khai khoáng và ở các cảng. Con số công nhân làm thuê từ Trung Quốc kéo đến Việt Nam và những nước Đông Nam Á khác trong những năm này không còn bị ràng buộc bởi những hợp đồng nô dịch do các hội kín đưa ra. Giờ đây họ (cả thợ không chuyên môn và chuyên môn) đều được tuyển mộ theo những hợp đồng tự nguyện. Nhưng chính quyền thực dân đã đưa ra những định suất để hạn chế bớt số di dân người Hoa. 2. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở PHILIPPINES. Ở Philippines, năm 1939 theo số liệu thống kê chính thức (chỉ tính đến số người nước ngoài) có 117.500 người Hoa sinh sống. Đa phần họ thuộc "giai cấp trung bình". Vốn của người Hoa là 180 triệu peso (không tính ngành công nghiệp), trong đó có 150 triệu đầu tư vào thương mại, còn 26 triệu dành cho công nghiệp chế biến. Để so sánh, có thể nêu ra số vốn của tư bản Mỹ trong những năm này là 315 triệu peso. Giới thương nhân người Hoa ở Philippines đa số là người buôn bán nhỏ và rất nhỏ. Khắp các làng trên quần đảo đều có những cửa hiệu nhỏ, mà dân địa phương gọi là "sari-sari" ("chạp phô"). Ở đây, người ta có thể mua đủ thứ mặt hàng thiết yếu hàng ngày với giá không mắc. Chủ nhân các "sari-sari" này thường chật vật xoay sở hàng ngày, nhưng dẫu sao cũng kiếm được chút đỉnh và không bỏ qua dịp có thể cho vay lấy lãi. 80% cửa hàng "sari-sari" là của người Hoa, còn tư bản người Hoa kiểm soát gần nửa hoạt động buôn bán lẻ ở Philippines. Năm 1936, chính phủ tự trị Philippines ban hành đạo luật về cửa hàng tạp phẩm buộc thương nhân người Hoa phải ghi chép sổ xuất nhập bằng tiếng địa phương, chứ không bằng tiếng mẹ đẻ ; biện pháp này tất nhiên gây khó khăn nhiều nhất cho các cửa hàng nhỏ. 3. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở INDONESIA. Ở Indonesia vào đầu những năm 30 có 1,223 triệu người Hoa (so với 0,537 triệu năm 1900). Trong bất kỳ tầng lớp xã hội nào cũng có mặt họ : tư bản lớn, chủ ngân hàng, thương nhân, thợ công nhật nông nghiệp và công nhân làm thuê. Tính chung trong cả nước (số liệu năm 1920) gần 40% người Hoa thuộc về loại peranakan, số còn lại là totok. Nhưng trên đảo Java, peranakan chiếm đến 70% số người Hoa, còn ở các phần lãnh thổ khác - chỉ 10%. Năm 1939, vốn đầu tư của tư sản người Hoa địa phương là 848 tr. guilde, trong số đó 350 tr. cho thương mại và hoạt động ngân hàng ; 100 tr. vào công nghiệp chế biến và 29 tr. cho kinh tế đồn điền. Cũng vào khoảng thời gian này, vốn của tư bản Hà Lan và những doanh nghiệp tư nhân khác lần lượt là 3.860 tr. và 2.110 tr. guilde, còn của tư bản Indonesia chỉ vỏn vẹn có 42 tr., tức 11 lần ít hơn so với người Hoa, dù dân số của họ không vượt quá 3% toàn bộ dân số Indonesia. Trong tổng số dân tự lập người Hoa là 183.000 người trên đảo Java và 287.000 trên các đảo khác, tỷ lệ hành nghề mua bán lần lượt là 58% và 23%. Thương mại, chủ yếu là buôn bán lẻ, là lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của tư bản Hoa : họ chiếm hàng đầu nơi đây. Cho vay lãi vẫn là lĩnh vực đầu tư vốn quan trọng của người Hoa. Người Hoa cho vay với lãi suất không cao hơn ngân hàng và không giống như ngân hàng, họ không đòi hỏi bất kỳ sự đảm bảo vật chất nào đối với số tiền vay. Do đó, nông dân thích tìm đến chủ nợ người Hoa, hơn là đến các quỹ cho vay của nhà nước.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

26

Đến đầu những năm 1930 ở Indonesia có nhiều công nhân làm thuê Trung Quốc. Từ năm 1912 đến năm 1932 tính chung có gần 225.000 công nhân Trung Quốc được tuyển sang làm việc ở Indonesia. Nhưng trong thời gian có cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1932, đại bộ phận đã rời khỏi đây. Trong số 62.000 culi làm việc ở các mỏ và đồn điền chỉ còn 1.300 người. Cùng với làn sóng người Hoa ồ ạt trở về nước, nhiều người Hoa còn ở lại đã rời bỏ chỗ làm thuê cũ để quay sang hành nghề buôn bán hoặc xin vào làm nhân viên trong các văn phòng. Do đó, đến trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai, số công nhân làm thuê ở Indonesia còn lại tương đối không nhiều. 4. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở MIẾN ĐIỆN. Trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai, cộng đồng người Hoa chiếm gần nửa số thương nhân ở Miến Điện. Theo số liệu đăng ký năm 1931, thương mại là hoạt động kinh tế chính đối với 42% số người Hoa sống tự lập trên toàn lãnh thổ Miến Điện, còn ở vùng trung tâm và vùng đồng bằng sông Irrawaddy tỷ lệ này lần lượt là 64 và 72%. Người Hoa độc quyền các cửa hiệu cầm đồ, nắm giữ toàn bộ hoạt động buôn bán rượu và thuốc phiện ; cùng với người Ấn, họ kiểm soát đại bộ phận ngành nhập khẩu. Phần của người Hoa, vốn chiếm 1,5% dân số tự lập về kinh tế, trong buôn bán lương thực là 25%. Còn trong những ngành khác, phần của người Hoa là như sau : khách sạn, nhà hàng - 21% ; thương mại và môi giới - 11% ; ngân hàng - tín dụng - 10%. Gần 21% dân hoạt động kinh tế trong cộng đồng người Hoa ở Miến Điện làm trong công nghiệp, đặc biệt trong các ngành khai khoáng, các ngành sản xuất thủ công nghiệp và cơ xưởng, chà gạo và xẻ gỗ. Năm 1940, hơn 20% số xí nghiệp cơ xưởng thuộc quyền sở hữu của các doanh nhân người Hoa. Dù 23% người Hoa trên toàn Miến Điện kiếm sống bằng nghề nông, đa số họ sống tập trung trong những vùng riêng lẻ và biệt lập của người Shan. Ở những vùng khác có khoảng 12% người Hoa sinh sống bằng nghề nông, chủ yếu là chăn nuôi và làm vườn. Trong số họ có cả địa chủ - cho vay lãi. Công nhân chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong cộng đồng người Hoa ở Miến Điện. 5. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở MALAYA. Số di dân người Hoa sang Malaya tiếp tục tăng lên trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh. Từ năm 1921 đến 1941, cư dân người Hoa ở thuộc địa này tăng từ 1,174 tr. lên 2,379 tr. người, chiếm 43% dân số, dù trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế nhiều người Hoa đã rời khỏi Malaya. Không ít người Hoa làm culi trong các mỏ và đồn điền. Nhưng giống như trước đây, đa số sống ở thành thị. Nhiều người làm nghề buôn bán. Số đông tư sản trung và tiểu ở Malaya là người Hoa, cũng giống như tầng lớp trí thức. Trong cộng đồng người Hoa có cả đại tư sản. Đáng nói là trong cộng đồng người Hoa ở Malaya có một bộ phận mang nét đặc thù xã hội - văn hóa riêng biệt, đó là giới baba - tức người Hoa sống ở Straits Settlements được coi là công dân Anh. 6. SINH HOẠT KINH TẾ CỦA NGƯỜI HOA Ở XIÊM. Ở Xiêm trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai, tư sản người Hoa địa phương,

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

27

vốn giàu lên nhờ các hoạt động thương mại - cho vay và trưng thuế, đã chiếm vị trí áp đảo trong một số ngành công nghiệp : tư sản Hoa sở hữu đến 90% nhà máy chà gạo, gần 50% số gỗ tek được xẻ ở các nhà máy có chủ là người Hoa ((cid:31)). Dù trong ngành khai thác thiếc tư bản châu Âu đến cuối những năm 1920 đã đánh bật người Hoa, nhưng các nhà máy của người Hoa vẫn sản xuất được một khối lượng thiếc lớn gấp hai số được sản xuất ở các nhà máy tư bản phương Tây (chủ yếu là tư bản Anh). Tư bản Hoa tích cực dự phần vào việc xây dựng nhiều đồn điền cao su ở miền Nam Xiêm trong những năm 1920 (đến năm 1929 tư bản Hoa sở hữu đến 60.000 hecta cao su). Trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai, tư bản của người Hoa địa phương được đầu tư vào hàng trăm công ty và xí nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng ở Bangkok ((cid:31)). Tư bản Hoa chiếm ưu thế trong hoạt động vận chuyển bằng sà lan từ cửa sông Menam, nơi các tàu biển cập bến, đến cảng Bangkok. Ở Xiêm, cũng như ở những nước Đông Nam Á khác, đã có một số culi Trung Quốc sau khi mãn hợp đồng đã cố tìm cách xoay qua buôn bán với hy vọng sẽ trở thành những ông chủ nhỏ. Tiến trình phát triển xã hội - kinh tế của bộ phận người Hoa trong dân cư Đông Nam Á diễn ra theo chiều hướng quan hệ tư bản chủ nghĩa tăng lên, giống như xu hướng phát triển của cả vùng. Sự tập trung đông đảo dân cư người Hoa ở các thành phố, sự tích lũy một số vốn đáng kể trong tay giới thương nhân Hoa kiều, một khối lượng đông đảo công nhân đến từ Trung Quốc. Tất cả những yếu tố vừa kể là nguyên nhân khiến quá trình tư sản hóa giới thương nhân, quá trình tư bản thương nghiệp phát triển lên thành tư bản công nghiệp và sự ra đời của đạo quân làm thuê kiểu hiện đại diễn ra trong các nhóm sắc tộc người Hoa với cường độ lớn hơn nhiều so với trong cộng đồng dân cư bản địa. Nhưng chiều hướng tiến triển xã hội được lịch sử quy định là như nhau đối với mọi tầng lớp dân cư Đông Nam Á. Do đó có thể kết luận rằng trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới đã hình thành một cách khách quan nhiều tiền đề cho việc hòa nhập về mặt xã hội và kinh tế các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á vào cộng đồng xã hội của nước, nơi họ đang sinh sống. Trong số những trở ngại vẫn chưa được khắc phục của sự hòa nhập này là ách thống trị thực dân. Chế độ thực dân một mặt kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế dân tộc ở các nước Đông Nam Á và giới hạn khả năng hoạt động kinh tế của bộ phận người Hoa, mặt khác nó lại ra sức giữ các doanh nhân người Hoa ở lại trong vai trò trung gian phục vụ việc khai thác thuộc địa và bằng cách này, đã duy trì sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa người Hoa và tư bản bản xứ bị thực dân ra sức o ép. Tình hình này, đến lượt nó, đã kích động chủ nghĩa dân tộc sôvanh chống người Hoa trong giới tư sản bản xứ và tạo ra quan hệ xã hội ghẻ lạnh giữa cư dân bản địa và người Hoa. Những chuyển biến vừa kể rõ ràng chỉ có lợi cho chính quyền thực dân trong lĩnh vực chính trị. Khách quan mà nói, chế độ thực dân là kẻ thù của tất cả cư dân trong vùng, bất kể sắc tộc của họ.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

CHƯƠNG IV QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX _________________________________

Không thể không lưu ý rằng tình trạng pháp lý của người Hoa ở Đông Nam Á

Trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, tình hình pháp lý của người Hoa ở các nước Đông Nam Á vẫn khá phức tạp. Theo các đạo luật được chính quyền thực dân hay chính quyền sở tại ban hành, những người Hoa sinh ra trên lãnh thổ những nước Đông Nam Á đều được coi là công dân các nước này, nhưng không phải lúc nào họ cũng được đối xử bình đẳng như cư dân địa phương, hay như những người Âu ngụ cư tại thuộc địa. Các di dân người Hoa sinh ra tại Trung Quốc thường bị liệt vào nhóm có tên gọi " người nước ngoài - châu Á" hay "người nước ngoài phương Đông". Nhóm này không có quyền ngang bằng với những người Âu sinh sống tại Đông Nam Á, hoặc thậm chí cả với một số người châu Á khác, chẳng hạn với người Nhật. Một đạo luật được Trung Quốc thông qua năm 1909 đã làm tình trạng pháp lý của người Hoa ở Đông Nam Á phức tạp hơn nhiều. Theo đạo luật này, mà nền tảng là nguyên tắc huyết thống, con cái có cha mẹ là người Hoa đều được coi là có quốc tịch Trung Quốc, bất kể nơi chúng được sinh ra và đang cư ngụ. Nguyên tắc này được khẳng định một lần nữa trong đạo luật về quyền công dân được Trung Quốc thông qua năm 1929. Đạo luật đặc biệt nêu rõ rằng chỉ những người Hoa nào được phép của Bộ trưởng Nội vụ Trung Quốc mới có thể trở thành công dân nước khác. Đạo luật này như vậy đã tương khắc với luật pháp của một số nước Đông Nam Á. Trong nhiều trường hợp, cơ sở cho tình trạng pháp lý của người Hoa là nguyên tắc lãnh thổ, nghĩa là những người nào sinh ra trên lãnh thổ nước sở tại sẽ là công dân của nước đó, bất kể quốc tịch của cha mẹ. thay đổi không ít lần và khác nhau một cách đáng kể theo từng nước. 1. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở INDONESIA. Theo đạo luật về quốc tịch được Hà Lan ban hành năm 1910, những người Hoa sinh ra và sinh sống trên lãnh thổ thuộc địa Indonesia được coi là công dân Hà Lan. Trên bậc thang pháp lý họ đứng cao hơn người Indonesia bản địa, nhưng lại không có quyền ngang bằng với người Âu. Do muốn có đại diện lãnh sự ở Indonesia, chính phủ Trung Quốc đã nhượng bộ Hà Lan theo thỏa ước về lãnh sự ký giữa Trung Quốc và chính quyền thuộc địa Hà Lan năm 1911 : Trung Quốc chính thức từ bỏ các yêu sách về quyền tài phán đối với người Hoa sinh ra ở thuộc địa và đồng ý với cách xác lập quốc tịch của người Hoa địa phương phù hợp với luật của nước nơi họ sinh sống. Khi đồng ý xem những người Hoa sinh tại thuộc địa là công dân Hà Lan, Trung Quốc vẫn đạt được sự thỏa thuận sau : nếu những người này di dân sang Trung Quốc hay sinh sống ở đó, thì họ được xem là công dân Trung Quốc. Nhưng những lời hứa của Trung Quốc, được ghi trong thỏa ước về lãnh sự, trên thực tế không được thực hiện. Các lãnh sự Trung Quốc đến nhận chức ở Indonesia đã hành động như thể họ có quyền tài phán đối với người totok lẫn người peranakan và tìm cách đưa vào sổ bộ của họ tên tuổi tất cả những người gốc Hoa sinh sống ở thuộc địa.

28

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

29

2. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở MALAYA. Ở Malaya thuộc Anh quy chế pháp lý của người Hoa cũng mâu thuẫn. Những người Hoa nào sinh ra và sống ở Straits Settlements đều được xem là công dân Anh và không thể bị trục xuất. Trong lúc đó, người gốc Hoa sinh sống tại các tiểu vương Mã Lai lại chịu sự bảo hộ của Anh, nhưng các sultan của những tiểu vương quốc này không coi họ là công dân của mình. Ở Malaya cũng như ở Indonesia, những người Hoa không có quốc tịch bản địa nhưng sống ở thuộc địa không dưới tám năm được hưởng quy chế thường trú. Quy chế này cho họ hưởng những quyền rộng rãi hơn những người Hoa nước ngoài không có quy chế này. Ở Indonesia chẳng hạn, những quyền theo quy chế thường trú trên thực tế ngang bằng với quyền của công dân Hà Lan có cha mẹ không sinh sống thường xuyên ở thuộc địa. Người được hưởng quy chế thường trú có quyền thành lập các hiệp hội, tổ chức hội họp và công bố thỉnh nguyện thư. Nhưng tất cả những người Hoa nước ngoài bị cấm trở thành thành viên của các đảng chính trị và không bị gọi vào quân đội. Quyền tham dự bầu cử và ứng cử chỉ được dành cho các công dân Hà Lan ((cid:31)). 3. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở XIÊM. Theo một đạo luật về quốc tịch được ban hành ở Xiêm năm 1913 theo nguyên tắc lãnh thổ, tất cả những người sinh ra trên lãnh thổ Xiêm đều được coi là công dân Xiêm, bất kể quốc tịch của cha mẹ họ. Những mưu toan của Trung Quốc đặt những người Hoa sinh sống ở Xiêm dưới quyền tài phán của mình trên cơ sở đạo luật năm 1909 không mang lại kết quả. Người Hoa phải đóng cho chính quyền Xiêm một sắc thuế đặc biệt, còn con cháu của họ do không có lãnh sự Trung Quốc nên đã không thể đăng ký như là công dân Trung Quốc, nhưng được đăng ký như người Xiêm ((cid:31)). Còn những người Hoa nào không muốn làm công dân Xiêm có thể xin trở thành công dân các nước khác. Năm 1936, trong số 55.000 "người châu Á" - công dân Anh tuyệt đại bộ phận là người Hoa ((cid:31)). Người Hoa ở Xiêm, kể cả những người sinh ra ở Trung Quốc, đều không có quyền tham gia bầu cử và làm việc trong bộ máy công quyền, nhưng được hưởng những quyền tự do rộng rãi khác. Họ được sinh sống ở nơi họ thích, được tự do đi lại trong nước, có thể hưởng mọi loại hình sở hữu. Nhìn chung, vị thế của người Hoa ở Xiêm, cũng giống như công dân nước này và những người ngoại quốc, thực sự cho họ cùng những cơ hội làm việc và kinh doanh, giống như dân bản xứ ((cid:31)). 4. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở ĐÔNG DƯƠNG VÀ MIẾN ĐIỆN. Ở các nước Đông Dương thuộc Pháp, người Hoa địa phương, ngoại trừ những người đã được nhập tịch Pháp, được liệt vào loại "người nước ngoài phương Đông". Nằm dưới sự "bảo trợ" của Pháp, họ vẫn bị xem hoặc là công dân các nước Đông Dương đang sống dưới chế độ bảo hộ của Pháp, hoặc là công dân Trung Quốc (1). Nhằm mục đích hạn chế số di dân người Hoa vào các nước Đông Dương, chính quyền thuộc địa Pháp đã lập một sắc thuế thân khá cao đối với người Hoa địa phương. Trong việc thu thuế, chính quyền được sự hỗ trợ của các hội đoàn Hoa kiều ; những người cầm đầu hội đoàn đã dùng sự hỗ trợ này làm phương tiện củng cố ảnh hưởng của họ đối với đồng bào mình ((cid:31)). 1 Legal Status of Aliens in Pacific Countries L., 1967, p.162 - 163.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

30

Ở Campuchia, theo đạo luật năm 1924 chỉ những công dân Pháp mới được phép sở hữu bất động sản trong thành phố. Còn đạo luật năm 1929 cấm người Hoa có quyền sở hữu ở làng mạc. Nhưng bất chấp những hạn chế tương tự, người Hoa ở các nước Đông Dương vẫn có nhiều cơ hội đáng kể để tham gia hoạt động kinh doanh. Họ có thể đi lại tương đối tự do trên toàn cõi Đông Dương, buôn bán, thực hiện các công việc theo hợp đồng đã ký ((cid:31)). Ở Miến Điện thuộc Anh, theo hiệp ước ký năm 1894 giữa Miến Điện và Anh, người Hoa được coi là công dân nước ngoài và được hưởng một số ưu đãi nhất định. Khi đến Miến Điện, người Hoa có thể nhận giấy thông hành từ chính quyền Anh và được quyền bất khả xâm phạm tương đối như người nước ngoài ((cid:31)). 5. TÌNH TRẠNG PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI HOA Ở PHILIPPINES. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Philippines trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai được quy định trong hiến pháp ban hành năm 1935. Cơ sở của việc cấp quyền công dân là nguyên tắc huyết thống chứ không phải lãnh thổ ; do đó đa số người Hoa sinh sống trên quần đảo vẫn là công dân Trung Quốc. Theo đạo luật được ban hành sau đó, người Hoa chỉ có thể trở thành công dân Philippines sau khi đã hoàn tất thủ tục xin nhập tịch. Quyền nhập tịch được đặt ra kèm với nhiều điều kiện. Chỉ được hưởng quyền này những người đã đến 21 tuổi, sống thường xuyên ở Philippines không dưới 10 năm, "ổn định về tinh thần", chấp nhận các nguyên tắc cơ bản của hiến pháp, trung thành với chính phủ, có bất động sản ở Philippines trị giá không dưới 5.000 peso, là nhà buôn khá giả hay đang làm một công việc được trả lương hậu. Người muốn được nhập quốc tịch Philippines phải biết nói và viết tiếng Anh hay tiếng Tây Ban Nha và biết bất kỳ một trong các ngôn ngữ chính của Philippines. Bị tước quyền nhập tịch những ai trong vị thế "chống chính phủ", truyền bá bạo lực, ủng hộ chế độ đa thê ((cid:31)). Theo nhận xét của nhà nghiên cứu người Pháp J. Amyot, người Hoa phần lớn không bỏ sức xin nhập quốc tịch Philippines, còn các viên chức Philippines không mặn mà cấp quốc tịch cho người Hoa: những đơn của người Hoa xin nhập tịch bị xếp xó hàng năm trời ((cid:31)). Được mau chóng trở thành công dân Philippines chỉ những người Hoa (cũng như những người gốc nước ngoài) nào lúc hiến pháp được ban hành được bổ nhiệm vào những chức vụ hành chánh nào đó. Cũng trở thành công dân Philippines những người có cha là người nước ngoài (người Hoa chẳng hạn) và mẹ là người Philippines, và lấy quốc tịch Philippines khi đến tuổi trưởng thành. Những người Hoa sinh sống ở Philippines, mà vẫn còn là công dân nước ngoài bị va chạm với các đạo luật hạn chế quyền lợi kinh tế của họ. Chẳng hạn, họ không có quyền tậu làm của riêng những mảnh đất nằm trong quỹ đất của chính phủ. Người Hoa bị cấm làm một số nghề, chẳng hạn trong lĩnh vực tư pháp ((cid:31)). Trong tất cả các nước Đông Nam Á, tính chất địa phương, đặc biệt là thuộc địa, của các đạo luật về quốc tịch, mâu thuẫn giữa chúng và yêu sách tài phán của Trung Quốc đã làm phát sinh trong nhiều năm sắp tới vấn đề "quốc tịch đôi" của đa số thành viên trong các nhóm sắc tộc người Hoa. Tình hình này đã ảnh hưởng tiêu

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

31

cực đến tiến trình hội nhập về xã hội của người Hoa vào cư dân bản địa, đến hoạt động kinh tế của người Hoa ở địa phương, và sau rốt trở thành một trong những nguồn đưa đến các mối quan hệ phức tạp, đôi lúc xung đột, giữa Trung Quốc và các nước đang có di dân người Hoa sinh sống.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

CHƯƠNG V CÁC NHÓM SẮC TỘC NGƯỜI HOA VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN CỦA NHÂN DÂN ĐÔNG NAM Á ___________________________________

Toàn bộ những yếu tố kể trên đã định trước vai trò mâu thuẫn của các cộng

32

Những nét miêu tả ở trên về các giai đoạn chính trong quá trình hình thành các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á và trong quá trình xác lập cấu trúc xã hội đặc thù của chúng đã cho phép có đủ cơ sở để, trên nền tảng lịch sử chung của cả vùng, đánh giá vai trò phức tạp, không đồng nhất mà các nhóm sắc tộc này thủ giữ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Như đã từng nêu, bản chất của môi trường xã hội đơn vị các nhóm sắc tộc người Hoa, nghĩa là tính chất của các mối quan hệ giữa chúng và môi trường xã hội vây quanh, kể cả với chính quyền thuộc địa, nằm trong sự đan kết những yếu tố trái ngược nhau. Tầng lớp trên giàu có của cộng đồng người Hoa nhìn thấy ở bọn thực dân những người đỡ đầu tốt bụng, nhưng đồng thời cũng là những kẻ cạnh tranh thương mại, chèn ép đáng ghét. Còn đối với các tầng lớp bị bóc lột của cộng đồng người Hoa, chính quyền thực dân ở nơi nào cũng chỉ là những kẻ nô dịch khắc nghiệt. Nếu trong một bộ phận đáng kể dân bản địa người ta cảm thấy khinh ghét những người Hoa nào trở thành những thương gia hám lợi, những kẻ cho vay lãi, trưng thuế, thì đồng thời sự hiện diện của một kẻ thù chung - thực dân phương Tây - đã tạo cơ sở cho tình cảm đoàn kết quyền lợi của toàn bộ nhân dân của nước bị nô dịch, để vượt qua những rào cản xã hội - tâm lý phát sinh từ những thành kiến và sự dị biệt về sắc tộc. Còn tầng lớp thượng lưu bản địa, chẳng hạn quý tộc, đại địa chủ, viên chức hay doanh gia, thái độ của họ đối với di dân người Hoa cũng mang tính chất hai mặt : nỗ lực chèn ép những đối thủ trong kinh doanh hòa lẫn với sự mưu tìm con đường đoàn kết với họ trước sức ép của thực dân phương Tây. đồng người Hoa trong phong trào chống thực dân qua các giai đoạn khác nhau. 1. THẾ KỶ XVII - NỬA SAU THẾ KỶ XIX. Giai đoạn đầu tiên của phong trào chống thực dân bao trùm thời kỳ từ lúc thực dân châu Âu bắt đầu xâm nhập Đông Nam Á trong thế kỷ XVII đến nửa sau thế kỷ XIX , khi toàn vùng (trừ Xiêm) đều bị thực dân khuất phục. Đây cũng là thời kỳ Trung Quốc sống dưới ách nô dịch của triều Thanh Mãn Châu, vốn là một chế độ, như chúng tôi đã nhấn mạnh ở trên, nổi tiếng với chính sách cực kỳ thù địch kéo dài hầu như đến ngày tàn của nó chống lại những người Hoa nào sống ngoài cương giới của Đế chế. Hơn hai thế kỷ hoàn toàn biệt lập với Trung Quốc đã tăng cường tính đặc thù bản địa trong các tiến trình tự phát triển về mặt xã hội - kinh tế và sắc tộc - văn hóa của các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á. Sự phân hóa về mặt xã hội vốn có ngay từ đầu trong các nhóm người Hoa sống ở nước ngoài đã được bổ sung thêm bằng sự dị biệt trong môi trường sống của họ quanh các mối quan hệ qua lại vừa với các giai cấp khác nhau trong dân cư bản xứ chung quanh, vừa với chính quyền thực dân. Cần nói thêm rằng quan hệ của cộng đồng người Hoa với chính quyền thực dân lệ thuộc ở mức đáng kể vào tính chất của mối quan hệ giữa cư dân bản địa và di dân người Hoa. Các mối quan hệ này khác biệt không chỉ theo từng nước, mà còn đối với cả các tầng lớp xã hội khác nhau. Đối với loại cư dân

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

33

người Hoa này, các mối liên hệ liên sắc tộc diễn ra theo hướng lai hóa và đồng hóa, khác nhau về nhịp độ và mức độ sâu đậm (tiến trình diễn ra mạnh nhất ở Philippines, Xiêm, trong vài địa phương ở Malaya và Indonesia); những người Hoa bị đồng hóa tham gia phong trào chống thực dân cùng với những tầng lớp nhân dân, mà trong đó họ bị hòa tan. Còn ở những người Hoa khác, sự phát triển đi theo con đường tách biệt về xã hội - tâm lý và chính trị không chỉ với Trung Quốc nhà Thanh, mà cả với cộng đồng sắc tộc bản địa. Họ giữ lại, dù không nguyên vẹn, di sản văn hóa truyền thống Trung Quốc và hình thức tổ chức xã hội. Bộ phận người Hoa này trong lúc quan hệ với thực dân chỉ quan tâm đến quyền lợi riêng, thậm chí trong một số trường hợp này còn thông đồng với chúng, trong một số trường hợp khác thì ra mặt đấu tranh để khỏi bị chèn ép. Thực dân cũng đối phó theo nhiều cách khác nhau, tùy theo hoàn cảnh : khi thì khuyến khích những hoạt động nào của người Hoa địa phương có lợi cho thực dân, lúc thì ra mặt trấn áp và vây bủa bằng những hạn chế pháp lý, thỉnh thoảng truy bức và giết hại nhiều người Hoa như là những kẻ cạnh tranh nguy hiểm. Chính ý thức tự bảo vệ đã thúc đẩy người Hoa hai lần ồ ạt chống chính quyền thực dân Tây Ban Nha ở Philippines trong thế kỷ XVII, dù bị trấn áp dã man ; cũng chính nguyên nhân này đã làm bùng lên cuộc đấu tranh vũ trang của họ chống các cứ điểm Hà Lan ở Malaya và Indonesia. Vào cuối thế kỷ XVIII, khi Manila bị quân lính Anh chiếm đóng trong vòng hai năm, người Anh đã tống giam một số người Hoa địa phương. Nhưng số khác lại cộng tác với chính quyền Anh, nhưng không phải vì muốn đoàn kết với những nhà yêu nước Philippines nào lợi dụng tình thế để cầm vũ khí nổi lên chống Tây Ban Nha bằng cách tính dựa vào sự giúp đỡ của người Anh, mà chỉ bởi vì họ oán ghét thực dân Tây Ban Nha, vốn chèn ép gay gắt cư dân người Hoa trên quần đảo. Khi lấy lại Manila, chính quyền Tây Ban Nha đã ra lệnh trục xuất khỏi Philippines toàn bộ người Hoa về tội phản bội (cũng nên nói thêm là lệnh này bị bãi bỏ 20 năm sau đó). Trong phần lãnh thổ Bắc Kalimantan (Brunei hiện nay) nằm dưới quyền cai trị của "ngài rajah Sarawak da trắng" James Brook người Anh, năm 1875 đã diễn ra một cuộc nổi dậy của người Hoa chống thực dân. Đây là phản ứng trước quyết định của Brook đánh một khoản thuế nặng lên mọi người Hoa định cư ở Sarawak: thương nhân, thợ thủ công, người trồng thuốc lá, người tìm vàng. Brook còn cấm đoán cả các hội đoàn và bất kỳ hoạt động có tổ chức nào của cộng đồng người Hoa. 600 người Hoa có vũ trang đã bất thần tấn công dinh thự của Brook và nhà cửa của người Anh, đốt cháy phần lớn thành phố. Nhưng quân lính đã đánh bật họ và đã thẳng tay trấn áp các gia đình người Hoa địa phương. Không dưới 1.000 người Hoa bị giết. Còn dân Mã Lai không bày tỏ chút đồng cảm nào với những người Hoa nổi dậy. Vốn sống đại bộ phận ở đô thị, di dân người Hoa ở Đông Nam Á không cảm thấy chung đụng quyền lợi với những phong trào chống thực dân thuộc xu hướng phong kiến (chẳng hạn cuộc nổi dậy Diponegoro, cuộc chiến tranh ở Aceh, phong trào Samin), với lực lượng cơ bản là nông dân, còn tầng lớp lãnh đạo là quý tộc hay giới tu sĩ. Nhưng điều này không ngăn cản những người Hoa giàu có quan hệ gần gũi với giới cầm quyền một số nước Đông Nam Á nào duy trì được độc lập trong một thời gian dài như Xiêm và Việt Nam. Ở hai nước này một số người Hoa (và cả người Âu) được bổ nhiệm vào những chức vụ cao cấp, kể cả cận thần trong triều và quan tổng đốc, với những phẩm hàm tương xứng. Như đã đề cập, một trong các vị vua Xiêm trong thời cận đại là Taksin, một người gốc Hoa. Giới cầm quyền ở Xiêm trong các thế kỷ XVIII - XIX đã khuyến khích làn sóng đông đảo người Hoa (thương nhân,

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

34

thợ thủ công, nông dân) kéo sang Xiêm và đưa một số họ vào trong bộ máy công quyền, với hy vọng củng cố được cơ sở của mình. Giới thư lại gốc Hoa tích cực góp phần vào việc củng cố, mở rộng và tăng cường chế độ quân chủ, mà họ đang phục vụ, đặc biệt là ở Xiêm và ở Việt Nam. Khước từ công nhận tính hợp pháp của chính quyền Thanh, những người Hoa ở nước ngoài đã lưu giữ một tình cảm yêu nước nhất định đối với tổ quốc đang bị người Mãn Châu thống trị. Trong những khu vực Đông Nam Á bị Anh thống trị vào giữa thế kỷ XIX, họ đã biểu thị tình cảm này bằng những hoạt động chống Anh, khi các cuộc chiến tranh nha phiến diễn ra. Khi Anh xâm lăng Miến Điện, các cộng đồng người Hoa ở nước ngoài cũng đã lên tiếng phản đối. Ở Việt Nam, trước cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ra Bắc kỳ, đã diễn ra cuộc chiến đấu chung giữa quân lính Việt Nam và quân Cờ đen. Ở vương quốc Campuchia, cư dân người Hoa đã tham gia vào những cuộc nổi dậy của nhân dân bản địa trong những năm 60 và 80 chống thực dân Pháp. 2. CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX. Giai đoạn mới trong phong trào chống thực dân ở Đông Nam Á (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) đã ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình và xu hướng chính trị của các nhóm người Hoa ở Đông Nam Á. Trước hết từ trong giới thương nhân người Hoa đã tách ra tầng lớp mại bản phục vụ trực tiếp cho phương cách bóc lột mới nhân dân Đông Nam Á của chủ nghĩa đế quốc. Những chức năng kinh tế mới và gắn liền với chúng là số vốn gia tăng, mà các thương nhân người Hoa giàu có nhất tích lũy được đã đưa họ đến quan điểm rất bảo thủ và sẵn sàng cộng tác với chính quyền thực dân. Bên cạnh đó, trong các nhóm sắc tộc người Hoa cũng đang hình thành, dưới tác động của phương cách bóc lột mới, với tốc độ ngày càng nhanh, tầng lớp vô sản sống dưới đáy tận cùng của sự nghèo đói và không được pháp luật bảo vệ. Do đó, họ sẵn sàng đi đến nhiều hình thức phản đối xã hội cực đoan nhất. Cũng cần thêm rằng từ cuối thế kỷ XIX trong một số nước Đông Nam Á (trước hết là ở Philippines và Xiêm) đã xuất hiện giới trí thức Tây học người Hoa (hay lai) địa phương. Họ phản ứng nhạy cảm trước các ý tưởng chống đế quốc, phát xuất từ các giới dân chủ ở châu Âu, từ những kẻ thù của chế độ phong kiến nhà Thanh ở Trung Quốc, hoặc sinh ra trên mảnh đất bản địa ở Đông Nam Á ((cid:31)). Những chuyển biến trong cấu trúc xã hội của các cộng đồng người Hoa đi liền với sự hình thành trong các cộng đồng này một vài thiết chế xã hội mới. Các hội đồng hương được phát triển và được tổ chức chặt chẽ hơn. Ngoài những nhiệm vụ thông thường, hình thức tổ chức này còn đóng thêm vai trò che lấp các mâu thuẫn giai cấp đang trở nên gay gắt hơn bằng tình cảm phi giai cấp cùng một sắc tộc. Bên cạnh đó, còn có các phòng thương mại, nơi quy tụ các nhà kinh doanh người Hoa không phân biệt quê hương - thổ ngữ. Là những doanh nhân giàu có, những người lãnh đạo hội đồng hương hay phòng thương mại họ đã tạo được ảnh hưởng chính trị đáng kể trong các nhóm sắc tộc người Hoa và bắt đầu đóng vai trò người đại diện bán chính thức trong quan hệ với chính phủ thuộc địa, và cả với Trung Quốc. Mối liên lạc với cố quốc được phục hồi ít nhiều vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX dưới tác động của những chuyển biến trong chính sách của nhà Thanh: đầu tiên Bắc Kinh xóa bỏ một số các đạo luật đàn áp người di dân, và từ năm 1910 hủy bỏ lệnh cấm ra nước ngoài. Bằng những hành động này, nhà Thanh hy vọng sẽ nhận được sự ủng hộ vật chất và chính trị từ phía Hoa kiều (từ này bắt đầu được dùng từ cuối thế kỷ XIX để chỉ các nhóm sắc tộc người Hoa. Bản thân nó ngầm chứa trong ngữ nghĩa của mình sự ám chỉ tính tạm thời, khả hồi trong hành động ngụ cư của người Hoa ở

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

1 The Chinese in Indonesia, Melbourne, 1976, p.28.

35

nước ngoài). Cũng cần nói thêm rằng giới lãnh đạo cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á phản ứng dè dặt trước trò ve vãn của chính quyền Thanh ; khi cần thiết cho công việc kinh doanh của mình, họ không ngần ngại khai thác sự giúp đỡ của các lãnh sự Trung Quốc, nhưng trong quá trình giao tiếp với Trung Quốc họ thích quan hệ không phải với Bắc Kinh, mà với các viên tổng đốc những tỉnh miền Nam, vốn là quê hương của tổ tiên hầu hết Hoa kiều. Cố giành được ảnh hưởng trong các nhóm sắc tộc người Hoa ở nước ngoài và sự ủng hộ của họ không chỉ cần cho nhà Thanh, mà cho cả các đối thủ chính trị của nó. Hoạt động tích cực trong chuyện này vào những năm 1890 có các nhà hoạt động của phong trào cải cách tư sản, mà đứng đầu là Khang Hữu Vi, và trong những năm đầu của thế kỷ XX có những nhà dân chủ cách mạng do Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Lời kêu gọi của họ gởi đến số kiều bào sống ở các nước Đông Nam Á còn lâu mới được đáp ứng mau lẹ: tình trạng bị cắt lìa trong một thời gian dài khỏi mọi diễn biến diễn ra ở cố quốc là nguyên nhân chính. Nhưng dần dần trong hàng ngũ Hoa kiều bắt đầu xuất hiện những nhóm ủng hộ cương lĩnh quân chủ lập hiến của Khang Hữu Vi. Giữa họ và những người ủng hộ tư tưởng Tôn Dật Tiên đôi khi xảy ra xung đột, Chẳng hạn, trong một truyền đơn gửi tới người Hoa ở nước ngoài vào năm 1907, các nhà cách mạng đã cáo giác chính sách đầu hàng của Khang Hữu Vi và rằng ông này "âm mưu bòn rút bằng mọi giá tiền bạc của di dân", kêu gọi Hoa kiều ủng hộ cuộc đấu tranh "đánh đuổi người Mãn Châu khỏi Bắc Kinh, thiết lập một chính phủ riêng cai trị theo lề lối dân chủ". Nhưng đây chỉ là những trường hợp cá biệt; cả những người cộng hòa lẫn những người cải cách đều tự coi mình trước hết là đối thủ của nhà Thanh. Những người cộng hòa và cá nhân Tôn Dật Tiên để tranh thủ Hoa kiều về phía mình đã đi lại khắp Đông Nam Á để vận động, họ đã ra các tờ báo Hoa ngữ, góp phần vào việc xây dựng mạng lưới trường học cho người Hoa. Và dù những thành quả vừa kể không làm thay đổi cán cân so sánh lực lượng ở chính Trung Quốc, những hoạt động tuyên truyền và tổ chức của những người cộng hòa vẫn tác động mạnh đến bầu trong khí tư tưởng - chính trị trong giới Hoa kiều. Chúng đã thức tỉnh không chỉ tình cảm phản phong, mà cả "phản ngoại" (chủ yếu là phản đế), chính trị hóa sinh hoạt xã hội của họ. Những thay đổi này đã được phản ánh cả trong các hoạt động công khai của những hội đồng hương, câu lạc bộ, trường học và báo chí, cũng như trong các hoạt động của những hội kín đã tồn tại từ lâu. Một vài trong số những hội này trong khoảng thời gian đang đề cập ở đây bắt đầu mang tính chất của những tổ chức chính trị chống thực dân, mà lớn nhất là hội "Tam Hoàng". Ở Indonesia, ngoài các phòng thương mại và các câu lạc bộ khác nhau còn có một tổ chức chính trị toàn Trung Quốc "Trung Hoa Hải Ngoại" (THHN) xuất hiện ở Batavia năm 1900. Giới người Hoa ở đây ngày càng quan tâm đến học thuyết Khổng Tử, lịch sử Trung Quốc, các phong tục và truyền thống Trung Quốc, đến việc học chữ Hán, kể cả ở những gia đình mà đã từ lâu không còn dùng đến nó nữa. Trong những trường học được xây dựng với sự đỡ đầu của THHN, người ta dạy tiếng Quan Thoại nhằm khắc phục tình trạng ngăn cách giữa những Hoa kiều gốc ở các miền khác nhau tại Trung Quốc. Những lý tưởng dân tộc của người Hoa được phản ánh trên các trang báo "Sin Po" (in bằng các thứ tiếng Mã Lai và Hoa) và báo "Keng Po" (in bằng tiếng Hoa) (1). Những cuộc nổi dậy cách mạng chống Mãn Châu bùng ra ở miền Nam Trung Quốc trong thập niên đầu thế kỷ XX đã tác động đến tình hình trong những miền Đông Nam Á nằm sát đó, trước hết là Việt Nam. Không ít lần những người khởi

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

36

nghĩa bị buộc phải lánh sang lãnh thổ Việt Nam. Và tại đây, họ đã lập những quan hệ với người Hoa địa phương và dân bản địa. Chẳng hạn, năm 1903 một quan chức thuộc địa Pháp đã báo cáo về Paris về mối hiểm họa cho sự ổn định của chế độ thuộc địa ở Bắc Kỳ, "nơi có những phe nhóm người Hoa đang hoạt động". Năm 1908, trước sức ép của quân lính nhà Thanh nhiều toán hoạt động của Đồng Minh Hội đã chạy sang lãnh thổ Đông Dương. Lãnh tụ Tôn Dật Tiên khi đó đang sống ở Hà Nội, đã bị chính quyền thực dân Pháp trục xuất phải bỏ lánh sang Singapore, rồi từ đó đi Penang. Nhờ những nỗ lực của ông này, các phân ban Đồng Minh Hội đã được thiết lập trong giới người Hoa ở Singapore và ở tám thành phố khác của Malaya và ở những nước Đông Nam Á khác. Nhưng chẳng lâu sau, chính quyền thực dân đã bủa vây các tổ chức này, ngoại trừ ở Xiêm. Cách mạng Tân Hợi 1911 - 1912 lật đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh đã được các cộng đồng Hoa kiều ở hải ngoại hân hoan chào đó. Tổng thống lâm thời của chế độ Cộng hòa Tôn Dật Tiên đã tuyên bố rằng ông thấy cần bảo vệ quyền lợi của Hoa kiều và ra sắc lệnh đặc biệt "Về việc soạn thảo các biện pháp cấm bán người Hoa làm nô lệ cho người nước ngoài và bảo vệ các di dân người Hoa". Những hội kín chống Mãn Thanh nằm rải rác khắp Đông Nam Á tiếp tục tồn tại dù nhà Thanh đã bị lật đổ, nhưng phải trải qua những thay đổi : nội dung phản đế và và chính trị nói chung của chúng bắt đầu phai mờ dần, để nhường chỗ cho khía cạnh được giấu kín nhất của chúng - hoạt động kinh doanh phi pháp các loại. Nhưng chuyển biến này hoàn toàn không có nghĩa là tiến trình chính trị hóa Hoa kiều nói chung bị khựng lại. Ngược lại, tiến trình đó sau thắng lợi của Cách mạng Tân HợÏi đã được thúc đẩy mạnh thêm. Khắp nơi trong vùng Đông Nam Á đã xuất hiện các phân bộ của Quốc Dân đảng (QDĐ), một chính đảng được Tôn Dật Tiên thành lập trên cơ sở các tổ chức cách mạng - dân chủ cũ. Tiến trình chính trị hóa cộng đồng người Hoa vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã nâng cao khả năng lĩnh hội của họ đối với những vấn đề toàn dân tộc của nước sở tại, đối với các biến cố liên quan đến phong trào chống thực dân của người dân bản xứ. Trong chuyện này, cách phản ứng của người Hoa bị phân hóa rất rõ ràng, tùy theo quyền lợi xã hội của mỗi tầng lớp trong cộng đồng hoặc mức độ đồng hóa sắc tộc. Chẳng hạn, trong Chiến tranh Giải phóng Dân tộc 1896 - 1901 ở Philippines (cũng như trong phong trào cải cách trước đó) đã có sự tham gia tích cực của đại diện tư sản và trí thức người Hoa lai. Một vài người trong số họ đã nằm trong hàng ngũ những người lãnh đạo tối cao ; đồng thời đa số các thương nhân Hoa kiều lại cố đứng bên lề khi cuộc Chiến tranh Giải phóng bùng nổ và hơn nữa, sẵn sàng tỏ thái độ trung thành đối với chính quyền thuộc địa, đầu tiên là Tây Ban Nha, rồi sau đó là Mỹ. Ở Indonesia, âm vang cuộc Cách mạng Tân Hợi làm lộ rõ tình trạng phân hóa về mặt giai cấp và chính trị trong giới người Hoa địa phương, đã gây ra những cuộc va chạm trực tiếp giữa đa số cộng đồng ủng hộ cách mạng và giới chóp bu bảo thủ hợp tác chặt chẽ với thực dân Hà Lan. Những biến cố cách mạng ở Trung Quốc, tư tưởng "Tam Dân" của Tôn Dật Tiên đã được biết đến rộng rãi trong vùng Đông Nam Á, nhờ, ở một mức độ đáng kể, trung gian của các nhóm sắc tộc người Hoa. Nhờ đó, tính tổ chức của phong trào

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

37

chống thực dân ở các nước Đông Nam Á được nâng cao. Thậm chí, có trường hợp như ở Malaya, những mầm mống đầu tiên của phong trào cách mạng có tổ chức xuất hiện ngay trong cư dân Hoa kiều. Trong tác phẩm nghiên cứu về lịch sử Thái Lan, nhà sử học Liên Xô N.V. Rebricova đã đưa ra kết luận sau : "Vào đầu thế kỷ XX... người bày tỏ các quan điểm dân tộc tư sản là bộ phận tư sản và trí thức tư sản người Hoa địa phương, vốn trở nên cách biệt với Trung Quốc không những về mặt lãnh thổ, mà cả về mặt kinh tế. Bộ phận này trong thực tế đã trở thành một thành phần của dân tộc Xiêm đang hình thành... Tư sản người Hoa sống ở Xiêm còn nhận thức nhanh hơn cả tư sản Trung Quốc về tính không thể hòa đồng giữa quyền lợi của họ và quyền lợi của chế độ phong kiến và thuộc địa... Cương lĩnh cách mạng của Tôn Dật Tiên đã nhận được sự ủng hộ của trí thức tư sản người Hoa sống ở Xiêm, dù thành phần này không đông nhưng lại thủ giữ vai trò rất quan trọng trong nước. Lần đầu tiên trong lịch sử Xiêm, những trí thức này đã đề xuất ý tưởng về sự cần thiết cải tiến chế độ chính trị trong nước". Cũng nên trích thêm cảm tưởng của một nhà ngoại giao Nga thời đó ở Bangkok, người đã gửi báo cáo về Saint-Petersburg trước khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra : "Ở cách xa sức ép của chế độ Bắc Kinh và các quan lại, người Hoa ở đây luôn luôn là mồi lửa cho mọi cơn chấn động cách mạng yêu nước". Người ta còn nhận thấy ảnh hưởng của Cách mạng 1911 trong việc thành lập tổ chức bí mật của các sĩ quan bộ binh và hải quân mang quốc tịch Xiêm và Trung Quốc nhằm chuẩn bị cho việc lật đổ chế độ quân chủ và thiết lập chế độ cộng hòa. Âm mưu bất thành, nhưng bản thân sự kết hợp trong cùng một tổ chức các nhà cách mạng Xiêm và Hoa cho thấy đây là bước tiến quan trọng của phong trào dân chủ. Dù sự bộc lộ quan hệ kình địch giữa các nhóm sắc tộc người Hoa và cư dân bản địa nhìn chung đã trở nên mờ nhạt vào đầu thế kỷ XX so với thời kỳ trước đó, dẫu sao người ta vẫn còn nhận ra hiện tượng này trong giới tư sản người Hoa ở nước này nước nọ. Tệ hơn nữa, khi quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển hơn, quan hệ kình địch địch giữa tư sản người Hoa và tư sản bản xứ càng thêm gay gắt. Chính sự cạnh tranh thương mại đã là cơ sở cho xu hướng bài Hoa trong cương lĩnh và hành động của liên minh dân tộc "Sarekat Dalang Islam" được thành lập năm 1911 và biến thành "Sarekat Islam" năm 1912. Nhưng chỉ vài năm sau đó, ý tưởng đấu tranh chống tư tưởng người Hoa đã lùi xuống hàng thứ yếu. Những hoạt động qua khích bài Hoa vốn thấy trong thời kỳ đầu nay đã chấm dứt. Cũng những lý do kinh tế đã thúc đẩy chính phủ Xiêm từ năm 1910 từ bỏ chính sách đã áp dụng từ cả thế kỷ nay là khuyến khích tư bản Hoa để chuyển sang chính sách chèn ép nó. Trong năm đó, những ưu đãi về thuế dành cho người Hoa bị bãi bỏ. Hành động này đã gây sự bất bình trong cộng đồng người Hoa, nhiều chủ hiệu người Hoa ở Bangkok đã đóng cửa tiệm để tỏ thái độ phản đối. Nhưng họ đã bị cảnh sát mau chóng trấn áp. Bản thân vua Rama VI đã viết nhiều bài báo đả kích gay gắt Hoa kiều ((cid:31)). Thời kỳ mới trong sinh hoạt xã hội không chính trị của các nhóm sắc tộc người Hoa cũng như của toàn thể nhân dân Đông Nam Á bắt đầu từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất và sau Cách mạng tháng Mười Nga. Thời kỳ mới này đã có những chuyển biến đáng chú ý sau : ý thức chính trị của di dân người Hoa tăng lên, tư tưởng cộng sản chủ nghĩa được phổ biến trong các cộng đồng di dân người Hoa cùng với sự tăng cường phân hóa giai cấp và tư tưởng - chính trị bên trong cộng đồng, nhất là trong giai đoạn có cuộc Cách mạng Trung Quốc 1925 - 1927. Cấu trúc

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

38

xã hội của cộng đồng cũng thay đổi mạnh: giai cấp công nhân tăng lên nhiều về số lượng chủ yếu nhờ dân nghèo từ Trung Quốc tràn sang các nước Đông Nam Á kiếm việc làm. Trong lúc phong trào cách mạng ở Trung Quốc còn đang trong giai đoạn cao trào, nghĩa là trước năm 1927, những mâu thuẫn giai cấp trong các cộng đồng người Hoa ở hải ngoại tạm lắng yên do ở Trung Quốc mặt trận thống nhất dân tộc đang hoạt động có hiệu quả, những người cộng sản vốn gia nhập QDĐ từ năm 1924 còn giữ một vai trò tích cực trong chính đảng này. Trong các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á, người ta cũng quan sát thấy chiều hướng phát triển tương tự - các lực lượng dân chủ chống đế quốc đang đứng sát cạnh nhau. Các bộ phận của QDĐ được tổ chức lại đang hoạt động. Nhiều đại biểu của chúng được cử đi tham dự các đại hội QDĐ ở Trung Quốc. Chẳng hạn, tại Đại hội QDĐ (1926), trong số 256 đại biểu có mặt 33 đại biểu của các cộng đồng người Hoa ở hải ngoại (chủ yếu từ Đông Nam Á). Dù các phân bộ QDĐ hải ngoại (nằm rải rác khắp vùng Đông Nam Á) không thủ giữ một vai trò quyết định trong việc hoạch định chính sách của đảng này tại Trung Quốc, sự có mặt của chúng tại các đại hội đảng đã có một ý nghĩa tương trưng tích cực trong việc khẳng định quan hệ đoàn kết giữa các xu thế dân chủ - cách mạng trong cộng đồng người Hoa và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Nhưng quan hệ đoàn kết này không kéo dài lâu. Chính biến vào tháng 4 - 1927 ở Thượng Hải và những hậu quả kéo theo sau đó mau chóng dẫn đến sự phân hóa trong mọi cộng đồng người Hoa ở hải ngoại: các thành viên tư sản của phân bộ QDĐ trở thành những kẻ chống cộng công khai, còn các nhóm cánh tả vẫn chịu ảnh hưởng đáng kể của quan điểm cộng sản. Tình hình lại thay đổi lần nữa 10 năm sau đó, tức trong nửa sau những năm 1930, khi ở Đông Nam Á cũng như trên toàn thế giới nổi lên các mặt trận đoàn kết dân tộc chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh, mà trong đó những người cộng sản thủ giữ vai trò rất quan trọng, và đôi khi quyết định. Ở Trung Quốc năm 1937, liên minh Quốc - Cộng lần thứ hai ra đời vì cuộc đấu tranh chống quân phiệt Nhật. Các cộng đồng Hoa kiều ở Đông Nam Á tất chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tiến trình chung đang diễn ra trên toàn thế giới này. Tại đây, đã xuất hiện những tổ chức xã hội đoàn kết rộng rãi các tầng lớp Hoa kiều thuộc mọi màu sắc chính trị khác nhau vào dưới một khẩu hiệu chung chống nguy cơ từ phía Nhật. 3. TRONG GIAI ĐOẠN GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1918 - 1939). Những bước ngoặt trong tình hình chính trị quốc tế trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới đã gây ra, tất nhiên, những chuyển biến tương xứng trong lập trường của các tầng lớp khác nhau trong cư dân người Hoa ở Đông Nam Á đối với cuộc đấu tranh chống ách thống trị thực dân. Trong các thuộc địa của Anh trên bán đảo Malaya tổ chức phản đế tích cực nhất trong những năm 1920 là QDĐ Malaya gồm những người Hoa. Trong đảng này cùng tồn tại song song trong một thời gian cánh hữu và cánh tả. Trong cánh sau có những người mác xít quần tụ thành một nhóm nhỏ. Vào đầu những năm 20, họ đã đặt nền móng, dù còn rất khiêm tốn, cho việc truyền bá tư tưởng cộng sản và giúp vào việc thành lập Liên đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1936. Trong những năm này những công đoàn đầu tiên được thành lập với sự tham gia của cánh tả QDĐ. Lúc đầu chúng chỉ gồm toàn công nhân viên chức người Hoa. Sau khi QDĐ ở Trung

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

39

Quốc bị phân rã, những người cánh tả cũng rút ra khỏi QDĐ Malaya. Năm 1927, vài nhóm nhỏ người Hoa ở Singapore thành lập Đảng Cộng sản Nam Dương, đồng thời cũng xuất hiện những tổ chức phản đế như Ủy ban Cách mạng của QDĐ Malaya và Phong trào Công - Nông. Cũng trong năm 1928, với sự tham gia trong vai trò nồng cốt của công nhân người Hoa trong cả nước đã diễn ra một làn sóng bãi công, nhưng bị chính quyền Anh trấn áp dã man. Đáng để ý là sau khi cấm QDĐ Malaya hoạt động năm 1925, chính quyền thuộc địa lại cho phép nó hoạt động trở lại vào năm 1930, sau khi biết rõ rằng QDĐ Malaya đã "tẩy sạch" các phần tử cánh tả và các nhà lãnh đạo của nó sẵn sàng cộng tác với Anh ((cid:31)). Cao trào đấu tranh chống thực dân trong những năm 1920 đã tạo điều kiện để quy hợp các nhóm mác xít rời rạc vào Đảng Cộng sản Malaya được thành lập tháng 4-1930 (số đông đảng viên là công nhân người Hoa). Đảng cố gắng mang lại tính chất vô sản cho cuộc đấu tranh có tổ chức của công nhân, bởi lời kêu gọi đoàn kết quốc tế đến những người vô sản trong các cộng đồng sắc tộc ở Malaysia. Nhưng cũng cần lưu ý rằng trong một thời gian dài quyền lợi cộng đồng sắc tộc trong giới lao động người Hoa chiếm ưu thế hơn những quyền lợi quốc tế, vô sản. Hình thức tổ chức chính trong giới lao động người Hoa là công hội, quy tụ cả chủ lẫn thợ. Trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai ở Malaya có 144 công hội như vậy, trong lúc con số công đoàn, vốn chỉ quy tụ công nhân và viên chức, chỉ là 92. Sau khi mối hiểm họa xâm lược của Nhật ở Đông Nam Á đã trở nên rõ ràng trong cộng đồng người Hoa ở Malaya đã xuất hiện Hội cứu quốc (1937) quy tụ những người cộng sản cũng như những người QDĐ, còn trên cơ sở các công đoàn cánh tả xuất hiện Hội Yểm trợ cuộc đấu tranh của dân lao động chống kẻ thù (tức chống Nhật)((cid:31)). Trong thời gian này, một số công đoàn đã được thành lập, quy tụ công nhân của các cộng đồng sắc tộc chính ở Malaya. Nhìn chung, cho đến trước Chiến tranh Thái Bình Dương (1941 - 1945), so với hai cộng đồng sắc tộc kia - Mã Lai và Ấn Độ, cộng đồng người Hoa đã đóng một vai trò rất tích cực trong sinh hoạt chính trị ở Malaya. Đặc biệt là trong thập niên 1930, Đảng Cộng sản Malaya đã trở thành nhân tố chính trong phong trào đấu tranh chống thực dân. Nhưng do chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa và cũng vì nhiều lý do khác, những hoạt động đấu tranh sôi nổi của cộng đồng người Hoa đã không thu hút nỗi sự tham gia của các nhà hoạt động chính trị từ các cộng đồng Ấn và Mã Lai. Điển hình cho sự biệt lập về cộng đồng - sắc tộc này là Đảng Cộng sản Malaya. Theo tư liệu của chính phủ Malaya, tỷ lệ hội viên người Hoa so với hội viên của hai sắc tộc Mã Lai và Ấn trong các tổ chức của Đảng Cộng sản trong những năm 1930 là 15/1, còn trong đảng tỷ lệ này là 50/1. Chính sự phát triển biệt lập này đã để lại những ảnh hưởng rất tiêu cực lên cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống Nhật trong nửa đầu những năm 1940. Ở Xiêm, trong những năm 1920 tư sản địa phương gốc Hoa tỏ ra cách mạng nhất. Họ đi đầu trong phong trào phản đế và phản phong, ra đời vào thời kỳ đó. Trong những năm này, giai cấp công nhân tăng trưởng về mặt số lượng, chủ yếu là nhờ làn sóng nhập cư đông đảo của công nhân từ Trung Quốc sang. Trình độ tổ chức và ý thức giai cấp của những người vô sản nhìn chung hãy còn thấp. Nhưng với sự giúp đỡ của nhóm tuyên truyền chủ nghĩa Mác đầu tiên ở Bangkok năm 1928 và hoạt động trong giới công nhân gốc Hoa, giới này đã sớm trưởng thành về chính trị hơn những giới khác và sẵn sàng đấu tranh vì quyền lợi giai cấp. Những phu kéo xe người Hoa bắt đầu làn sóng bãi công diễn ra năm 1932 ở Bangkok. Cuộc bãi công lớn nhất vào thời đó ở các nhà máy chà thóc (1934) cũng chỉ thu hút công nhân

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

40

người Hoa. Nhưng trong cuộc đình công diễn ra cũng trong thời điểm vừa kể của các công nhân đường sắùt, người ta thấy có sự tham gia của công nhân Hoa và Thái. Diễn biến này là mốc khởi đầu cho xu hướng khắc phục tình trạng dị biệt về sắc tộc trong giới vô sản. Nhưng cũng cần để ý rằng Tổng liên đoàn được thành lập năm 1934 bao gồm chủ yếu các tổ chức của công nhân người Hoa. Tình hình này cho thấy tình trạng phân dị về sắc tộc vẫn tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực lên sự phát triển của phong trào công nhân. Chính phủ và những nhà kinh doanh cố sức duy trì và làm cho gay gắt thêm tình trạng phân ly về sắc tộc trong giai cấp vô sản. Theo khuyến cáo của Ủy ban đặc biệt của chính phủ về vấn đề công nhân, năm 1934 một đạo luật đã được thông qua. Theo đó, các xí nghiệp của một số ngành người Hoa không được quá 50 - 70% số người Hoa làm ở đó. Tính phức tạp của một giải pháp liên quan đến vấn đề đoàn kết giữa các sắc tộc được nhận thấy ngay trong tầng lớp công nhân có ý thức nhất về chính trị và trí thức cánh tả. Minh chứng cho hiện tượng này là sự kiện trong những năm trước và năm đầu tiên của thời chính trị, trong nước đã xuất hiện ba tổ chức cộng sản độc lập với nhau - của người Hoa, của người Thái và của người Mã Lai. Việc phổ biến ý thức cộng sản ở Miến Điện, cũng như ở Malaya và Xiêm, bắt đầu trong giới những phần tử có cảm tình với cách mạng thuộc cộng đồng người Hoa (dưới tác động của các sự biến ở Trung Quốc) vài năm sớm hơn trong giới dân bản xứ. Ngay sau khi Liên minh Quốc - Cộng tan rã ở Trung Quốc, một tổ chức cộng sản đã được thành lập năm 1928 trong giới người Hoa có xu hướng tiến bộ ở Xiêm. Nó tiến hành công tác tuyên truyền phản đế và thiết lập các mối liên lạc quốc tế. Năm 1932, tổ chức này đã bị chính quyền Anh đập tan, còn các lãnh tụ của nó bị trục xuất khỏi Miến. Ở các nước Đông Nam Á khác, việc truyền bá tư tưởng mác xít diễn ra chủ yếu không phải thông qua Trung Quốc, mà là bằng sự trợ giúp của các đảng cộng sản chính quốc - Hà Lan, Pháp, Hoa Kỳ ; và những tổ chức Mác xít đầu tiên ở Indonesia, ở Việt Nam và Philippines xuất hiện trong giới công nhân và trí thức người bản xứ. Nhưng trong giới các nhóm sắc tộc người Hoa ở những nước này, dưới ảnh hưởng chung của Cách mạng tháng Mười và những biến cố cách mạng ở Trung Quốc trong những năm 20, trong quá trình phân hóa chính trị đã nổi lên những người ủng hộ quan điểm mác xít. Khi các đảng cộng sản được thành lập, họ đã xin gia nhập. Về vấn đề quy tụ trong một đảng cộng sản duy nhất đại diện của những nhóm sắc tộc đã được đặt ra. Trong giai đoạn đầu của nỗ lực du nhập hệ ý thức mác xít vào phong trào công nhân, việc giải quyết vấn đề này không phải là không gặp những khó khăn. Ở Việt Nam, những công đoàn cách mạng đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn trong những năm đầu của thập niên 20, bị phân chia thành công đoàn của người Việt và công đoàn của người Hoa, dù chúng cộng tác với nhau khi tổ chức các cuộc đình công. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa do những người cộng sản tổ chức ở Quảng Châu tháng 12-1927 (Quảng Châu công xã), một số người khởi nghĩa đã lánh sang Việt Nam, và ở đây tại vùng Sài Gòn - Chợ Lớn họ đã thành lập nhóm cộng sản. Đại diện của nhóm năm 1930 đã tham gia vào thành phần ủy ban kêu gọi thông nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam ra đời vào lúc đó. Cuối cùng, Đảng Cộng sản Đông Dương thống nhất được thành lập, những nhóm cộng sản người Hoa trong một thời gian dài vẫn tiếp tục chỉ phục tùng ủy ban lãnh đạo của mình, vốn gắn bó trực tiếp với Đảng Cộng sản Trung Quốc và từ khước gởi người của mình vào Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

41

Còn về giai cấp tư sản Trung Quốc ở Việt Nam, nhìn chung họ không chỉ thich đứng bên lề cuộc đấu tranh chống thực dân, mà còn bày tỏ lòng trung thành đối với chính quyền Pháp, dù có vấp phải sự cạnh tranh của các doanh gia người Pháp trong lĩnh vực kinh tế. Chỉ những đại diện tư bản Hoa nào sau một thời gian dài hoạt động ở Việt Nam trên thực tế đã hòa nhập vào tư bản bản xứ, mới chịu chia sẻ và ủng hộ nỗ lực chống thực dân của nó, mới chịu góp phần vào phong trào dân tộc ở Việt Nam, và do đó không đứng tách biệt riêng bên trong phong trào này. Đối với tư sản người Hoa ở Indonesia, cho đến giữa thập niên 19 - 20, đặc tính chính là tự xa lánh sinh hoạt chính trị trong nước. Chẳng hạn, giới cầm đầu tư sản Hoa đã khước từ tham gia vào công việc của Volksraad do chính quyền thuộc địa thành lập năm 1918. Họ cho rằng toàn thể người Hoa ở Indonesia xét về thực chất là người nước ngoài. Do đó, họ phải được quy tụ thành cộng đồng quay quanh totok thông qua con đường "tái Hán hóa" (nghĩa là hồi phục toàn bộ những nét văn hóa của sắc tộc Hoa) người peranakan. Trong những năm 20, trong phong trào tư sản dân tộc ở Indonesia đã xuất hiện một trào lưu mới - trào lưu hội nhập. Những người chủ trương trào lưu này cho rằng việc người Hoa nhận thức được những quyền lợi cộng đồng riêng biệt của mình và việc xuất hiện những hình thức mới của các tổ chức cộng đồng phải được dùng vào mục đích dự phần trực tiếp vào sinh hoạt chính trị ở Indonesia của Hà Lan. Là những người truyền bá trào lưu mới, người peranakan vẫn duy trì lập trường xã hội riêng của họ, vốn rất khác biệt với lập trường của người totok. Mặc dù vậy, họ vẫn tìm cách cộng tác với những người này. Cả hai nhóm trong cộng đồng người Hoa - tức peranakan và totok - đều có một điểm xuất phát chung là, theo họ, người Hoa xét về mặt văn hóa vẫn phải là một cộng đồng riêng biệt. Do đó, họ chống lại việc đồng hóa về mặt văn hóa với dân bản địa và có thái độ hồ nghi đối với chuyện này. Hội Hoa kiều (HHK) - đảng chủ trương hội nhập đầu tiên của người Hoa - được thành lập năm 1928. Có tất cả ba nhóm người Hoa địa phương góp phần thành lập đảng này - các nhà chính trị tham gia vào Volksraad do người Hà Lan thành lập và các hội đồng quản hạt thành phố, các thương nhân lớn và người peranakan có trình độ Tây học, trung và đại học. Tất cả họ đều dùng tiếng Hà Lan khi tiếp xúc với nhau. Khi được thành lập, HHK được xem như là người đại diện quyền lợi của người Hoa. Những nhà lãnh đạo không phản đối việc cấp quy chế quốc tịch Hà Lan cho người Hoa (trong lúc những người theo chủ nghĩa dân tộc làm ngược lại) và kêu gọi cải thiện điều kiện pháp lý cho cuộc sống của người Hoa trong khuôn khổ hiến pháp hiện tồn. Nhưng những nỗ lực của đảng này nhằm mang lại cho người Hoa sự bình đẳng trong quyền sở hữu đất đai ngang với người bản xứ, cũng như sự bình đẳng về pháp lý ngang với người châu Âu đã không thành công. Việc thành lập HHK đã vấp phải thái độ tiếp nhận không thân thiện không chỉ ở người Hoa theo chủ nghĩa dân tộc, mà cả ở người Indonesia. Người dân bản xứ cho rằng HHK là tổ chức trung thành với chính quyền thuộc địa, vốn chống lại không chỉ việc giao trả nền độc lập cho Indonesia, mà cả quyền tự trị. Trong Volksraad, chủ tịch HHK H.H. Kan đã cùng với các đại biểu Hà Lan bỏ phiếu chống lại đề nghị thuận cho người bản xứ có được đa số trong cơ quan này. Năm 1936, ông còn kêu gọi các đại biểu đảng không ủng hộ thỉnh nguyện thư của Subardjo đòi triêụ tập hội nghị thảo luận vấn đề trao cho Indonesia quyền tự quản. H.H. Kan không ngần ngại khi tuyên

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

42

bố rằng HHK gồm "những công dân trung thành với Hà Lan". Chỉ những người Hoa nào sinh trưởng ở Indonesia mới trở thành đảng viên chính thức của HHK, còn những người khác chỉ có quyền tư vấn. Dù trung thành với chính quyền Hà Lan, giới lãnh đạo HHK chủ trương gìn giữ truyền thống Trung Hoa, các phong tục và tôn giáo, bảo vệ quyền được học chữ Hán, lịch sử và địa lý Trung Quốc cả trong các trường công dành cho người Hoa và được giảng dạy bằng tiếng Hà Lan, lẫn trong các trường tư do chính người Hoa lập ra. Các nhà lãnh đạo HHK cũng ra sức thống nhất cộng đồng người Hoa, nhưng không phải theo cách của những người dân tộc chủ nghĩa - tức bằng con đường "tái Hán hóa" người peranakan, mà bằng con đường lôi kéo người totok vào hệ thống giáo dục của Hà Lan và vào tiến trình hội nhập. Đảng chủ trương hội nhập thứ hai là Đảng Indonesia Trung Quốc (PTI) được thành lập năm 1932 ở Surabaya. Là những đại diện của các nhóm tiến bộ nhất trong cộng đồng Hoa kiều, những nhà lãnh đạo đảng này đã phê phán lập trường hòa thuận của HHK với chính quyền thuộc địa, thái độ tiêu cực của nó đối với phong trào giải phóng dân tộc của người bản xứ. Từ đó, PTI cho rằng HHK chỉ đại diện quyền lợi của giới người Hoa giàu có. PTI tích cực ủng hộ người Indonesia trong yêu sách đòi độc lập của họ, chống lại việc trao quy chế công dân Hà Lan cho người Hoa. Thay vào đó, đảng đề nghị một quy chế "người Indonesia" thống nhất cho toàn bộ cư dân trong nước. Đại diện PTI trong Volksraad Ko Kwat Ching ủng hộ thỉnh nguyện thư của Subardjo. Trong đảng PTI có một số nhà mác xít hướng về những người "bần cùng" trong cộng đồng người Hoa bằng lời kêu gọi họ chống lại HHK và người Hoa giàu có. Nhưng PTI chỉ là một đảng thiểu số, chỉ được sự ủng hộ ở địa phương. Trong các cuộc bầu cử vào Volksraad và hội đồng quản hạt thành phố, nó được ít ghế hơn đảng HHK. Dù những nhà lãnh đạo PTI tự coi đảng của họ là đảng dân tộc Indonesia (trong hàng ngũ của nó, cũng như của đảng HHK, chỉ có những thành viên sinh trưởng ở Indonesia), những nhà dân tộc chủ nghĩa bản xứ không hoàn toàn thừa nhận PTI là một chính đảng như vậy. Năm 1939, khi Liên hiệp các chính đảng Indonesia (GAP) được thành lập, PTI được mời tham gia không phải là với tư cách một thành viên đầy đủ, mà chỉ như một thành viên liên kết. Do những điều kiện không bình đẳng như vậy, PTI đã khước từ lời mời. Dù ủng hộ việc cấp quy chế công dân Indonesia cho người Hoa, PTI không kêu gọi từ bỏ văn hóa, truyền thống và tập quán Trung Hoa. Giữa lúc đó, vào giữa thập niên 30 trong giới người Hoa ở địa phương đã xuất hiện những người ủng hộ đầu tiên cho việc hội nhập hoàn toàn với dân bản xứ. Đại biểu xuất sắc nhất của những người này là We Hing Chat, vốn trước đó là người Hoa dân tộc chủ nghĩa cực đoan. Vào giữa những năm 30 khi trở thành người chủ biên một tờ báo, We bắt đầu truyền bá ý tưởng rằng đã đến lúc để tất cả những người peranakan chiếm lấy vị trí của mình là "những người con của Indonesia". Theo lời giải thích của ông, đây là đòi hỏi không chỉ cùng chung sức hoạt động với người bản xứ vì nền độc lập của đất nước, mà còn là sự mong muốn đồng hóa hoàn toàn với người bản xứ. Những ý tưởng đồng hóa của We không nhận được sự ủng hộ đáng kể nào. Vốn ủng hộ PTI, tờ Java Tangah Review viết rằng ý tưởng của We hoàn toàn trái ngược với đường lối của PTI là không thôi thúc người Hoa đồng hóa với người Indonesia, mà chỉ thuyết phục người totok và người peranakan cùng chung sức hoạt động với người Indonesia trong các lĩnh vực khác nhau, để họ đạt đến sự thông hiểu và kính trọng lẫn nhau, và cùng chung sức lao động để thúc đẩy cuộc

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

43

sống phồn vinh của nhân dân và sự tiến bộ của Indonesia ((cid:31)). Trong hàng ngũ những nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa của Indonesia có xu hướng bài Hoa, những ý tưởng trên cũng không được ủng hộ. Trong khoảng thời gian này, một số ít chính đảng tư sản Indonesia đồng ý tiếp nhận người peranakan làm thành viên đầy đủ. Đảng cộng sản Indonesia (PKI) và Phong trào Nhân dân Indonesia (Gerindo) - các tổ chức cánh tả - có vài người peranakan trong đội ngũ của mình. Trong giới vô sản Indonesia, các khác biệt về sắc tộc được nhận thấy rất rõ và chúng đã tạo ra những trở ngại nhất định cho tình đoàn kết trong giai cấp công nhân, nhưng chúng không phải là những trở ngại cho sự thống nhất hành động trong cuộc đấu tranh chống thực dân, như trong trường hợp của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Ngay từ năm 1918, người ta đã ghi nhận trường hợp công nhân Hoa và công nhân Java cùng tham gia bãi công. Năm 1925, ngay giữa lúc phong trào cách mạng đang hồi phát triển sôi nổi nhất ở Trung Quốc, khắp Indonesia đã diễn ra các cuộc mítting đoàn kết với nhân dân Trung Quốc, các cuộc quyên góp tiền của giúp Trung Quốc. Tham quan vào chiến dịch này, ngoài cộng đồng Hoa kiều, còn có các nhà dân tộc chủ nghĩa và những người cộng sản Indonesia. Gia nhập vào hàng ngũ Đảng PKI và những công đoàn được thành lập dưới sự lãnh đạo của PKI trong năm này có nhiều người Hoa địa phương ; một số tờ báo của người Hoa ở Batavia và Surabaya sẵn sàng in những bài báo thân cộng. Trong cuộc nổi dậy do những người cộng sản tổ chức (1926), có nhiều người vùng Cheribon đã tham gia, còn các tờ báo địa phương như "Sin Po" và "Sin It Po" đã phê phán lời tuyên truyền của chính phủ thuộc địa rằng cuộc nổi dậy là do Moskva xúi giục. Các tờ báo còn hài lòng nhận xét rằng những người nổi dậy đã không tỏ thái độ thù địch với người Hoa. Trong những năm 30, sau các thất bại của cuộc khởi nghĩa, các nhóm người Hoa riêng lẻ đã bắt đầu hoạt động tuyên truyền cộng sản trên các đảo Java và Sumatra, bằng cách sử dụng các trường tư của người Hoa, và trong năm 1933 đã thu xếp việc phát hành tờ báo cộng sản bằng tiếng Hoa "Si Pao". Năm 1939, một số nhà hoạt động công đoàn cánh tả ở Semaran đã tổ chức hội nghị thành lập Liên hiệp các ủy ban Những người thất nghiệp Indonesia và Hoa. Chẳng lâu sau đó ở Surabaya người ta tổ chức cuộc họp các đại biểu những người thất nghiệp. Hội nghị đã ra lời kêu gọi công nhân Indonesia, Hoa và Hà Lan cùng đoàn kết để bảo vệ quyền lợi chung của giai cấp vô sản. Tờ "Sin It Po" trong những năm 1935 - 36 đã đăng nhiều bài chống lại chính sách phân biệt sắc tộc trong việc trả công lao động (đặc biệt là ở các xưởng lọc dầu), kêu gọi thành lập các công đoàn thống nhất công nhân mọi quốc tịch - Hoa, Indonesia và Âu. Xu hướng phân hóa giai cấp, vốn là đặc tính đối với các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á trong thời kỳ khủng hoảng của chế độ thuộc địa đã được nhận thấy rõ ở Philippines, dù cộng đồng người Hoa ở đây không đông về số lượng và khác với cộng đồng người Hoa ở những nước Đông Nam Á khác ở chỗ khá tương đồng về sắc tộc - văn hóa, do hầu hết các thành viên của nó đều phát xuất từ một miền ở Trung Quốc và do đó nói cùng thổ ngữ. Ngay những tin tức đầu tiên về thắng lợi của chính quyền Xô Viết ở nước Nga xa xôi đã tạo ra các phản ứng khác nhau trong cộng đồng người Hoa. Tờ "Philippines Chinese Advocate" của tư sản Hoa đã bày tỏ lo lắng : "Hiện nay đã trở

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

44

nên đặc biệt rõ ràng một xu hướng nguy hiểm có tính phá hoại... Một mặt, những người Bônsêvích Nga ra mặt hành động... Mặt khác, những người tuyên truyền cách mạng ra sức chỉ trích chính phủ... Dường như là xu hướng Bônsêvích bắt đầu bao trùm lên thái độ của các công nhân làm thuê đối với giới chủ xí nghiệp". Cũng thời gian này, trong giới công nhân người Hoa xuất hiện Hội Công nhân người Hoa ở Philippines quy tụ 4.000 thành viên. Đối với sự ra đời của tổ chức này không thể không có tác động của những nhà mác xít địa phương đầu tiên. Để kết hợp vào trong một liên minh duy nhất công nhân thuộc mọi quốc tịch, rõ ràng lúc này các điều kiện xã hội - tâm lý chưa chín muồi, sự xa lạ về mặt sắc tộc hình thành nhiều năm nay vẫn còn đó. Nhưng Đảng Công nhân (tổ chức đầu tiên của những người mác xít Philippines) đã thành công trong việc đưa tổ chức công đoàn lớn nhất trong nước - Đại hội Công nhân (trong đó cánh tả có ảnh hưởng mạnh) và Hội Công nhân người Hoa, lúc đó đang có lập trường bài QDĐ rõ ràng sau cuộc chính biến tháng 4 - 1927 ở Trung Quốc, cùng đi đến chỗ ký một hiệp ước thân hữu. Đảng Công nhân và Đảng Cộng sản Philippines (PCP) xuất hiện sau đó trên cơ sở của đảng này đã quyết tâm chống những mưu toan của giới lãnh đạo công đoàn cánh hữu khích bẩy công nhân Philippines gây hiềm khích với công nhân người Hoa, chống lại những yêu sách của họnhư đòi đuổi công nhân người Hoa về nước về tội "cạnh tranh". Trong hàng ngũ đảng viên PCP lúc được thành lập có mặt những người gốc Hoa, còn trong thành phần cơ quan lãnh đạo của nó có một nhà lãnh đạo của Hội Công nhân người Hoa. Sau khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, nhất là khi QDĐ và Đảng Cộng sản Trung Quốc ký hiệp ước liên minh năm 1937, những hoạt động yêu nước trong cư dân người Hoa ở Philippines được đẩy mạnh. Những người cộng sản đã góp phần tích cực vào đó : tẩy chay hàng hóa Nhật, quyên góp tiền của giúp đỡ Trung Quốc. Trong những năm 1938 - 1940, ở Philippines có 5 - 6 tờ báo ra bằng tiếng Hoa, và một số câu lạc bộ của người Hoa (một vài trong số tờ báo và câu lạc bộ này chịu ảnh hưởng rõ rệt của những người cộng sản). Tại Đại hội III của PCP được tổ chức công khai lần đầu tiên ở Manila năm 1938, đã có hai diễn giả người Hoa phát biểu : một là đại diện của phân bộ QDĐ địa phương, còn người kia là đảng viên Cộng sản. Nhưng mối quan hệ giữa giới lãnh đạo PCP và những người cộng sản gốc Hoa trong đảng tỏ ra không đơn giản. Những người cộng sản Hoa có xu hướng biệt lập về tổ chức và năm 1938 họ đã thành lập cơ quan lãnh đạo của riêng mình - Văn phòng Trung Quốc. Cơ quan này bắt liên lạc với Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sau lưng giới lãnh đạo PCP. Hành động này chẳng những đi ngược lại đòi hỏi có tính chất điều lệ của Quốc tế Cộng sản về quy chế xây dựng đảng ở những nước đa dân tộc, mà còn trực tiếp đe dọa làm suy yếu phong trào cộng sản. Chỉ sau những cuộc thương thuyết kéo dài với sự tham dự của đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, người ta mới đưa ra được nghị quyết về việc giải tán văn phòng song đôi, nhưng phải ưng thuận giữ lại các tổ chức đảng riêng biệt của người Hoa. Mặc dù vậy, sau nghị quyết vừa kể, tổ chức cộng sản của người Hoa địa phương trên thực tế vẫn được tự trị ở mức đáng kể và tiếp tục duy trì liên lạc riêng với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hiện trạng này rõ ràng có ảnh hưởng không lợi đến nỗ lực đoàn kết mọi lực lượng yêu nước tiến bộ để cùng đấu tranh ngăn chặn nguy cơ xâm lược hiện ra ngày càng rõ ràng từ phía Nhật. Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, ở tất cả các nước Đông Nam Á, người ta đều quan sát thấy xu hướng và hoạt động bài Hoa trở nên mạnh mẽ hơn trong giới tư sản dân tộc bản xứ. Có thể giải thích tình hình này bằng những

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

45

nguyên nhân sau. Trước hết, công nhân người Hoa trở thành trong con mắt của các nhà doanh nghiệp những kẻ "gây rối" nguy hiểm (phát xuất từ các diễn biến cách mạng ở Trung Quốc) ; thứ hai là cuộc cạnh tranh gay gắt, trong đó doanh nhân người Hoa thường chiếm ưu thế ; thứ ba là nhiều nhà tư sản người Hoa sẵn sàng thông đồng với tư bản chính quốc làm hại giới doanh nghiệp dân tộc (tất nhiên ở đây chỉ muốn nói đến bộ phận tư bản Hoa địa phương vẫn cố giữ tính biệt lập và không sẵn sàng hòa nhập về kinh tế và chính trị với tư bản bản xứ). Năm 1926, xuất hiện Liên minh những người Mã Lai ở Singapore hướng hoàn toàn vào cuộc đấu tranh chống bộ phận cư dân người Hoa dưới khẩu hiệu bảo vệ người Mã Lai khỏi họa "thoái hóa". Rất đáng để ý là chính quyền Anh, vốn không lâu trước đó ra lệnh cấm công đoàn đầu tiên của Malaya, lần này không chỉ có thái độ dễ dãi đối với việc thành lập liên minh này, mà còn tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động của nó đến các thành phần lãnh thổ khác của Malaya. Rõ ràng ở đây có mưu toan của chính quyền thuộc địa kích động mối ác cảm sắc tộc. Ở Indonesia, thành kiến bài Hoa của tư sản dân tộc vẫn còn nguyên như trước đây : những nhân tố sôvanh bài Hoa ngân vang trong các bài phát biểu Volksraad của những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo, như Chokroaminoto và Abdul Muis. Trong những năm 30, nhiều nhà dân tộc tư sản đã đề ra khái niệm "mâu thuẫn nâu" của nhân dân Indonesia nhằm chống lại cả người Ấn lẫn người Hoa. Trong số những người dân tộc chủ nghĩa tư sản cánh hữu người Philippines, có M. Rojas, người sùng bái tư tưởng Mussolini, lớn tiếng tuyên truyền chủ nghĩa sôvanh cực đoan nhất. Năm 1930, ông ta đã thành lập tổ chức quần chúng "Katipunan mới". Rojas tự coi mình là kẻ thù của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, nhưng đồng thời cũng là người chống cộng điên cuồng nhất và tiến hành các hoạt động săn đuổi nhằm vào người Hoa và người Hồi giáo. Ở Xiêm, chính sách o ép tư bản Hoa, và sau đó những biện pháp phân biệt chống toàn bộ người Hoa đã tăng lên vào giữa những năm 30. Đây cũng là thời điểm nổi lên trên sân khấu chính trị đại biểu của giới tư sản dân tộc, đặc biệt là sau khi Phibun Songkhram, người theo chủ nghĩa dân tộc phát xít, lên cầm quyền năm 1938. Bằng cách tăng thuế đánh vào các nhà kinh doanh Hoa kiều, chính quyền Bangkok bắt đầu đẩy họ ra khỏi những ngành kinh tế beó bở nhất. Việc di dân người Hoa sang đây bị hạn chế nghiêm ngặt. Các trường của họ bị đóng cửa. Một vài nhà tư tưởng cuồng nhiệt nhất của các nhóm cánh hữu thậm chí lên tiếng đòi bắn bỏ cư dân người Hoa. Vichit Vatacan, một người trong số họ, năm 1938 đã đưa ra ý kiến rằng trong việc giải quyết vấn đề Hoa, Xiêm nên đi theo con đường mà nước Đức Hitler đã đi khi giải quyết vấn đề Do Thái. Kiểu cách tuyên truyền như trên không thể không để lại vết tích trong đám đông quần chúng ít học, không am tường chính trị. Và hậu quả là thỉnh thoảng lại bùng lên những cuộc săn đuổi người Hoa đi kèm với những cảnh đốt phá nhà cửa, cướp bóc, giết người ; nhiều biến cố đẫm máu đã diễn ra ở Philippines trong năm 1924 tại các thành phố Manila và Kabanatuan, năm 1931 ở San Fablo. Năm 1931 ở Miến Điện đã xảy ra vụ bạo hành nhằm vào người Hoa. Những biến cố như vậy đã in đậm trong trí nhớ người dân và đã tạo ra sự xa cách, sự không tin cậy lẫn nhau giữa các nhóm sắc tộc. Phải ghi nhận rằng những thành kiến sắc tộc thâm căn cố đế cùng với nỗ lực tuyên truyền gây chia rẽ của chính quyền thuộc địa đã để lại những hậu quả tai hại. Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh, kiều dân người Hoa và dân bản địa

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Ở Philippines, người Nhật cũng cho thành lập Hiệp hội Hoa kiều do các

46

không phải lúc nào cũng chịu đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, dù nhiều nhà hoạt động chính trị tiến bộ của cả hai phía đã kiên trì nỗ lực gây dựng quan hệ đoàn kết bền vững giữa nhân dân các nước Đông Nam Á trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội - chính trị. 4. TRONG NHỮNG NĂM CHIẾM ĐÓNG CỦA NHẬT (1942 - 1945). Trong những năm Nhật chiếm đóng Đông Nam Á (1942 - 1945), cấu trúc và tình trạng phân bố lực lượng chính trị ở các nước trong vùng đã thay đổi hẳn. Giờ đây chuẩn mực phân biệt thái độ chính trị của mỗi người, kể cả thành phần cư dân người Hoa, là lập trường của họ đối với quân chiếm đóng. Tất nhiên, có không ít người Hoa tìm cách giữ thái độ trung lập; nhưng cách chiếm đóng quá đỗi khắc nghiệt của quân phiệt Nhật đã không để lại một mảnh đất nào cho lập trường trung dung. Trong số 10 vạn người chết trên công trường "con đường tử thần" nối liền Miến Điện - Thái Lan, có không ít người Hoa. Quân chiếm đóng Nhật bằng đủ mọi cách khuyến khích những phần tử chủ trương hợp tác, đặc biệt là trong giới tư sản bản xứ và tư sản Hoa. Ở Miến Điện, Hiệp hội Hoa kiều Hải ngoại được thành lập dưới sự đỡ đầu của chính quyền Nhật. Các doanh gia người Hoa phải bỏ ra 20 vạn rupi để mua phi cơ Nhật. Một tháng sau, đến lượt các địa chủ Hoa phải đóng góp 10 vạn rupi cho cùng mục đích. Ở Singapore, người Nhật buộc giới lãnh đạo cộng đồng Hoa kiều quyên góp 50 triệu đô la phục vụ cho nhu cầu của quân đội chiếm đóng. Ở Indonesia, chính quyền Nhật giải tán mọi tổ chức chính trị và quần chúng Hoa kiều, đóng cửa các tờ báo của họ, bắt giam nhiều nhà lãnh đạo. Thay vào các tổ chức này, năm 1942 Liên hiệp hội Hoa kiều thân Nhật được thành lập. Cả nhóm totok, lẫn nhóm peranakan đều có phần trong Liên hiệp hội. Tuy nhiên, Liên hiệp Hội không giữ một vai trò chính trị nào đáng kể, dù chính quyền Nhật đã đưa ra những biện pháp "tái Hán hóa" người peranakan, theo yêu cầu của không ít nhà dân tộc chủ nghĩa Hoa. thương nhân giàu có người Hoa phụ trách. Tuy nhiên, phần lớn cư dân Hoa ở các nước bị chiếm đóng đã chọn con đường phản kháng, và không chỉ ở người nghèo, mà ngay cả những người khá giả. Cấp độ phản kháng của họ có khác nhau : cả tích cực lẫn thụ động, vũ trang hoặc chính trị, tùy tình hình chính trị cụ thể ở từng nước. Ở các nước Đông Nam Á này, cuộc đấu tranh chống Nhật diễn ra mạnh hơn ở một số nước Đông Nam Á khác. Lực lượng chính trị trong cuộc đấu tranh ở Malaya là thành phần công dân người Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Quốc dân Đảng Malaya là do tư sản người Hoa lãnh đạo cũng chọn con đường kháng chiến, nhưng họ từ khước yêu cầu cộng tác từ phía những người cộng sản. Bị thúc ép bởi tình thế và trước nỗ lực kiên trì của Đảng Cộng sản, chính quyền thuộc địa đã thả những người cộng sản đang bị giam cầm giúp Đảng Cộng sản thành lập và trang bị một số đơn vị vũ trang. Theo nhận xét của nhà sử học Anh Victor Purcell, những người cộng sản Mã Lai đã chiến đấu can trường chống quân phiệt Nhật. Nhưng do lực lượng không cân xứng, Bộ Tư lệnh Anh đã tuyên bố đầu hàng sau hai tháng cầm cự. Những người Hoa nào bị bắt hoặc chỉ đơn giản bị xem là "nguy hiểm" đều bị quân Nhật xử bắn công khai ; chỉ riêng ở Singapore đã có 5.000 người Hoa bị

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

47

giết như vậy. Đảng Cộng sản đã chuyển sang tổ chức chiến tranh trong rừng rậm và hoạt động bí mật ở thành thị, nhất là ở những vùng tập trung một khối lượng đông đảo người Hoa. Ở những miền đất Bắc Kalimantan, đặc biệt ở Sarawak và Sabah, cuộc kháng chiến vũ trang chống Nhật cũng do người Hoa địa phương thực hiện. Mãi cho đến cuối năm 1943, trong các đơn vị du kích ở Malaya, mới thấy xuất hiện một số người Mã Lai. Các đơn vị này được quy hợp thành Quân đội Nhân dân Mã Lai kháng Nhật (MPAJA). Nhưng bất chấp những cố gắng của những người tổ chức ra đạo quân này - những người cộng sản, MPAJA thực chất là tổ chức kháng chiến vũ trang của cộng đồng người Hoa; nó không thu hút được sự tham gia của hai cộng đồng còn lại - Mã Lai và Ấn Độ. Ở Philippines, có nhiều tổ chức vũ trang và các nhóm bí mật hoạt động chống Nhật, trong đó chiếm vị trí nổi bật là Quân đội kháng Nhật Hukbalahap do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong hàng ngũ đội quân này có một đơn vị chỉ gồm toàn người Hoa - Đại đội 48 đông khoảng 80 chiến binh. Và lúc cuộc chiến kết thúc, quân số của đơn vị lên đến 1.000 người, tức gần 10% quân số Hukbalahap. Nhưng có điều nên lưu ý là quan hệ giữa những người chỉ huy đại đội 48 và Bộ tư lệnh Huklabahap có phần phức tạp, giống như tình trạng trong những năm trước chiến tranh trong quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Philippines và những chi bộ gồm toàn đảng viên người Hoa. Những người chỉ huy đại đội 48 đôi lúc coi thường mệnh lệnh của Bộ tham mưu Hukbalahap, và thậm chí trong vài trường hợp đã ép bộ tư lệnh thông qua những kế hoạch hành quân mà, theo ý kiến của Bộ tư lệnh, tỏ ra không phù hợp với tình thế đương thời. Ở những nước Đông Nam Á khác, phong trào kháng Nhật không mang tính chất của một cuộc chiến tranh du kích như ở Malaya hay Philippines. Nhưng thành phần cư dân người Hoa, đặc biệt là công nhân, không đứng bên lề những cuộc nổi dậy chống Nhật của dân bản địa diễn ra trong tháng 8 -1945 ở Việt Nam và Indonesia, ngay trước khi chính quyền chiếm đóng sụp đổ. Ở Thái Lan (tên gọi của Xiêm từ năm 1939), phong trào kháng Nhật không chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh đã xuất hiện những tổ chức chính trị tiến bộ quy tụ cả người Hoa và người bản xứ, như Đảng Cộng sản (1942), Hiệp hội các Công đoàn Thái Lan (1944). Cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc bằng thắng lợi của các lực lượng chống phát xít đã mở ra một trang sử hoàn toàn mới không chỉ cho cư dân bản địa các nước Đông Nam Á, mà còn cho cả thành phần cư dân gốc Hoa. Từ sau biến cố này, quá trình phát triển của các nhóm người Hoa ở Đông Nam Á sẽ chịu tác động của những nhân tố, mà trước đó không hề có : phong trào kháng chiến chống thực dân giành độc lập dân tộc, sự ra đời của những nhà nước Đông Nam Á độc lập, sự xâm nhập trên quy mô lớn của tư bản Hoa Kỳ và tư bản Nhật, vai trò của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa...

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

KẾT LUẬN (cid:90)(cid:85)(cid:89)

48

Sau khoảng bốn thế kỷ có mặt ở các nước Đông Nam Á (tính từ thế kỷ XVI, khi các cộng đồng sắc tộc người Hoa ở các nước trong vùng đã trở nên ổn định), người Hoa đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong thành phần dân tộc của nước sở tại. Hơn thế nữa, là một thành phần rất thành đạt. Vơi con số 28 triệu người sống tại các quốc gia ở Đông Nam Á, trong vòng 40 năm qua họ đã tạo ra những phép lạ kinh tế mà cả thế giới phải thán phục, nhất là khi họ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn, trừ ở Malaysia và Singapore, trong thành phần không đầy 4%, nhưng kiểm soát đến 75% tài sản quốc gia. Ở Thái Lan, với 8% dân số, họ làm chủ 80% tài sản quốc gia. Ở Philippines, còn đáng kinh ngạc hơn nữa, chỉ với một số dân ít hơn 2%, họ chi phối đến 70% tài sản quốc gia. Ngay cả tại các nước như Campuchia, Lào, Việt Nam, nền kinh tế ở đây đang gặp nhiều khó khăn và phức tạp, người Hoa vẫn nắm những cổ phần to lớn trong các công trình đầu tư về mọi mặt. Tuy nhiên, quá trình hội nhập của người Hoa vào cộng đồng dân bản xứ vấp phải không biết bao nhiêu trở ngại. Và không chỉ trở ngại! Lịch sử hình thành các cộng đồng sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á đã cho thấy không ít lần giữa cộng đồng dân sở tại và cộng đồng người Hoa đã xảy ra những cuộc xung đột đẫm máu với những hậu quả rất khốc hại. Có thể liệt kê ra đây rất nhiều nguyên nhân. Nhưng dễ thấy nhất chính là tình trạng cách biệt giữa hai cộng đồng, hay nói khác đi không có sự hoà nhập giữa cộng đồng dân bản xứ và cộng đồng người Hoa. Người bản xứ thường đặt câu hỏi về lòng ái quốc và sự đóng góp của người Hoa cho quốc gia đang cưu mang họ, những đóng góp về y tế, giáo dục, phát triển xã hội... để nâng cao đời sống của 80% dân nghèo tại những quốc gia đó. Cần nhấn mạnh ở đây là đại diện cho đám đông quần chúng này là những nhân công làm việc ngày 10 tiếng tại các hãng xưởng sản xuất do người Hoa làm chủ. Họ làm công suốt cả đời, nhưng chỉ kiếm đủ ăn. Tình hình này tất dẫn đến mối ác cảm của họ chống lại các chủ nhân Hoa kiều. Sống nghèo khó ngay trên quê hương mình, người bản xứ đã nhìn sự thành đạt của người Hoa, những kẻ đến làm giàu ngay tại chính quê hương họ, bằng con mắt đố kỵ và thèm muốùn. Trong hoàn cảnh như vậy, cứ mỗi khi có sự biến chính trị, kinh tế hoặc xã hội lớn lao nào, người Hoa dễ trở thành vật bung xung cho những sai lầm của các thế lực cầm quyền, hay xú páp an toàn cho tình trạng căng thẳng trong nước. Sự giàu có trở thành mối đe dọa cho chính sự an toàn của họ. Lo sợ cho tài sản của mình, người Hoa ở Đông Nam Á đã chuyển một số vốn không nhỏ ra nước ngoài. Người ta ước tính số vốn này trị giá vào khoảng 200 - 250 tỷ USD. Tất nhiên, đây là một mất mát khổng lồ đối với các nước sở tại, vốn đang rất cần vốn để phát triển kinh tế. Trớ trêu thay, nước được hưởng lợi nhiều nhất từ tình trạng kém an toàn của cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á lại là Trung Quốc, đối thủ cạnh tranh quyết liệt trong nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh quốc phòng, với hầu hết các nước trong vùng. Trong số hàng chục, rồi hàng trăm tỷ USD đầu tư vào Trung Quốc trong

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

49

thời mở cửa, vốn của cộng đồng Hoa kiều ở Đông Nam Á chiếm tỷ lệ quá nửa. Chính quyền Bắc Kinh đã thừa nhận nền kinh tế của CHND Trung Quốc không thể có được như ngày nay nếu không được nguồn tài trợ này. Nếu Trung Quốc được hưởng lợi, thì các quốc gia Đông Nam Á lại chịu thiệt hại. Thử tưởng tượng nếu những món tiền khổng lồ nêu trên được tái đầu tư vào nền kinh tế của các nước trong vùng, thì chúng sẽ mang lại cho nhân dân các nước này không biết bao nhiêu công ăn việc làm ! Người ta đã đưa ra nhiều lý do để lý giải cho câu hỏi tại sao phần lớn tài sản tại các quốc gia Đông Nam Á lại lọt vào tay Hoa kiều. Đã có câu trả lời là sự siêng năng, cần cù, chịu khó của người Hoa. Thực ra, vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Một giám đốc của công ty Singapore tại Indonesia, vốn là người gốc Hoa đã cho chúng ta một câu trả lời rất có ý nghĩa: "Người Hoa khi di dân ra nước ngoài cũng giống như người tiên phong của Mỹ đi chiếm đất lập nghiệp. Đối với họ các tư tưởng về tôn giáo hay lý tưởng cho cuộc sống không quan trọng. Chỉ có một lý tưởng kiếm tiền và họ đã để hết linh hồn và tâm trí để đi đến một mục tiêu duy nhất là chiến thắng trên thương trường. Họ thường tâm niệm rằng "thương trường là chiến thắng". Do đó, họ không thể thất bại. Mọi mánh lới, dù rất xảo quyệt và thâm độc đều được mang ra sử dụng". Làn sóng người Hoa bắt đầu ồ ạt tràn vào Đông Nam Á hồi cuối thế kỷ XIX, tức thời thịnh trị nhất của các cường quốc châu Âu tại các thuộc địa trong vùng. Hầu hết những người di dân Hoa đều thất học. Họ tới từ những miền đất cằn cỗi, bão lụt liên miên. Họ phải rời bỏ quê hương đi tìm đất sống ở nơi xa lạ. Đa số đều là đàn ông độc thân hoặc để lại vợ con. Những người này rất cần cù làm việc, không từ một công việc nào và sống rất cần kiệm. Dù thất học, người Hoa lại được thiên phú là tính toán rất mau. Tới những xứ sở mà họ không được quyền làm chủ ruộng đất và các chức vụ trong chính quyền, những xã hội mà tầng lớp thương gia là hạng thấp nhất và tuyệt đại bộ phận người dân đều sống bằng nghề làm ruộng và không hiểu gì về hoạt động thương mại, người Hoa sẵn sàng nhảy vào khoảng trống này. Khởi đầu bằng các quán hàng rong, ít năm sau họ đã trở thành chủ các cửa tiệm cung cấp các sản phẩm thiết yếu hàng ngày cho dân địa phương. Những thương gia thành công hơn đã khuếch trương hoạt động của mình ra khắp Đông Nam Á. Truyền thống làm ăn của người Hoa đều giống nhau. Họ chỉ tin dùng những người có liên hệ trong dòng họ hay ít ra phải là người đồng hương. Nỗ lực mở rộng môi trường hoạt động của họ được thực hiện thông qua con đường thông gia. Hậu quả là các công ty của họ được điều khiển bởi một đại gia đình. Thêm vào nữa, để đảm bảo thành công, tất cả các đại thương gia Hoa kiều đều có một mối liên hệ kín đáo và chặt chẽ với các chính trị gia bản xứ nắm đầy quyền hành trong bộ máy quyền lực. Được lót tay bằng những khoản tiền hậu hĩnh, hay những món quà đắt giá, các quan chức bản xứ đã dành mọi sự dễ dàng cho các thương gia Hoa kiều trên thương trường, cho phép họ được độc quyền xuất nhập cảng và thiết lập các công ty sản xuất, được hưởng những đặc ân về thuế. Một giám đốc gốc Hoa đã phải kết luận : "Hầu hết các đại công ty thành công nhất tại Đông Nam Á của Hoa kiều là kết quả của sự độc quyền thị trường và sự bảo trợ của các tay chính trị gia đầy quyền lực. Thực ra, không có sự cạnh tranh công bằng, vì các quan lớn đã đặt quyền lợi cá nhân lên quyền lợi của dân tộc. Không có đạo luật chống độc quyền và chống sử dụng các thủ đoạn bất minh trong cạnh tranh buôn bán. Tại các quốc gia chậm tiến, tham nhũng và hối lộ là điều kiện phải có để thành công". Nhưng kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy phương cách tốt nhất để tồn tại ở một đất nước xa lạ là hòa nhập vào cộng đồng người bản xứ. Sự che chở của những kẻ cầm quyền chỉ có tính chất nhất thời. Cũng trở nên rõ ràng rằng để loại bỏ mọi khả

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

50

năng tái xuất hiện những cuộc xung đột gay gắt giữa thành phần cư dân bản địa và cộng đồng người Hoa ở các nước Đông Nam Á, cần tuân thủ ít ra hai điều kiện chính trị : thứ nhất là, chính quyền các nước sở tại, nơi có các nhóm sắc tộc người Hoa sinh sống, phải đảm bảo việc bảo vệ quyền công dân cho các thành viên của những nhóm sắc tộc này, phải tuân thủ bản Tuyên bố về quyền con người mà Liên Hiệp Quốc đã thông qua ; thứ hai là, phải tán đồng một thông lệ trong sinh hoạt quốc tế là không một nước nào có quyền can thiệp vào quan hệ giữa chính phủ và công dân của một nước khác, bất chấp thành phần sắc tộc của công dân đó, vì quan hệ này suy cho đến cùng nằm trong công việc nội bộ của quốc gia liên quan. Nếu hai điều kiện tiên quyết trên được đảm bảo, đời sống của những người Hoa ở các nước Đông Nam Á sẽ không còn là nguồn gốc của những bất ổn về chính trị trong nước, hay nguyên cớ của những cuộc xung đột quốc tế./.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

TÀI LIỆU THAM KHẢO (cid:90)(cid:85)(cid:89)

I. SÁCH TIẾNG VIỆT.

Thái Thị Ngọc Dư, Địa lý các nước Đông Nam Á, Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh, 1993 1.

Ngô Văn Doanh, Tìm hiểu lịch sử văn hóa Đông Nam Á hải đảo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 1994. 2.

Châu Thị Hải, "Vài nét về sự di dân của người Hoa xuống Đông Nam Á và

3. các tổ chức cộng đồng xã hội của họ" -Về lịch sử Đông Nam Á hiện đại Viện Đông Nam Á, Hà Nội, 1983.

Châu Thị Hải, "Tìm hiểu sự hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt 4. Nam trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á" (Luận văn Phó Tiến sĩ). Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1990. 5. Trần Khánh, Vai trò người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Đà Nẵng, 1992.

6. Hoàng Kim, "Một số vấn đề nghiên cứu người Hoa ở Đông Nam Á" - Về lịch sử Đông Nam Á hiện đại. Viện Đông Nam Á, Hà Nội, 1983.

Nguyễn Quốc Lộc, Đông Nam Á ngày nay số 2, Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh, 1993. 7.

Nguyễn Quốc Lộc, Đông Nam Á ngày nay số 3, Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh, 1995. 8.

Đào Trinh Nhất. Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ. Hà Nội, 1924. 9.

10. Lương Ninh - Hà Bích Liên, Lịch sử các nước Đông Nam Á (T.I). Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh, 1994.

11. Huỳnh Văn Tòng - Đinh Kim Phúc, Lịch sử các nước Đông Nam Á (T.1 & T.2), Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh, 1993 - 1994.

12. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Philippines, Đại học Mở bán công TP.HCM, 1993

Đại học Mở bán công TP.HCM, 1993.

13. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Malaysia, Singapore và Brunei,

14. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Indonesia, Đại học Mở bán công TP.HCM, 1994.

15. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Thái Lan, Đại học Mở bán công TP.HCM, 1994. II. SÁCH TIẾNG NƯỚC NGOÀI.

Amyot J. - The Chinese and the National Integration in Southeast Asia. Bangkok, 1972. 1.

Cady F.F. - Southeast Asia: Its Historical Development. N.Y., 1964. 2.

The Chinese in Indonesia, Melbourne, 1976. 3.

51

The Chinese in Indonesia, the Philippines and Malaysia. L., 1972. 4.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

The Chinese in the Philippines. Vol. II (1770 - 1898). Manila, 1967. 5.

6.

Fistié P. - Evolution de la Thailande Contemporaine. P., 1972. Freemand M. - The Chinese in Southeast Asia - Pacific Affairs. 1958, N03. 7.

The Hoa in Vietnam. Dossier I and II. Hanoi, 1978. 8.

Legal Status of Aliens in Pacific Countries. L., 1937. 9.

10. Leigh M.- The Chinese Community of Sarawak. Singapore, 1964.

11. Purcell V.- The Chinese in Southeast Asia. L., 1965.

12. Willmott D.E. The Chinese of Semarang, N.Y., 1960.

13. Willmott D.E. The Chinese in Cambodia, Vancouver, 1967.

III. BÁO CHÍ - TẠP CHÍ.

Fujiwara Ruchiro. "Chính sách đối với dân Trung Hoa di cư của các triều đại phong kiến Việt Nam". Việt Nam khảo cổ tập san, số 8, 1974. 1.

Tân Việt Điểu. "Lịch sử người Hoa ở Việt Nam". Văn hóa Nguyệt san số 66, 1961. 2.

Trần Văn Đỉnh. "Chính sách kinh tế của Việt Nam đối với Hoa kiều". Quê Hương, số 21, 1961. 3.

Trần Khánh. "Vai trò tư bản người Hoa trong nền kinh tế Thái Lan". Thông tin kinh tế Thái Lan, số 8, 1988, Viện Quản lý kinh tế T.Ư. xuất bản, 1988. 4.

Trần Khánh. Hoạt động được của đồng bào Hoa phát triển sôi nổi". Việt Nam đầu tư nước ngoài, Vol 1, số 10, 1992. 5.

Trần Khánh. "Chiến lược và phương pháp kinh doanh của người Hoa". Kinh tế thị trường : Lý luận và thực tiễn. Tập II. Hà Nội : Trung tâm đào tạo, tư vấn và thông tin kinh tế, Hội Kinh tế Việt Nam, 1992. 6.

7. Trương Thị Yến. "Quan hệ của triều Nguyễn đối với thương nhân người

52

Hoa". Nghiên cứu lịch sử số 3, 1981.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

BÀI II CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA SINGAPORE DƯỚI THỜI CHÍNH PHỦ LÝ QUANG DIỆU (1965 - 1990) MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ

53

So với các nước Đông Nam Á, Singapore là nước có diện tích nhỏ nhất với số dân chỉ vào khoảng 3 triệu người. Còn tài nguyên tự nhiên hầu như không có gì. Tuy nhiên, chỉ trong vòng trên dưới 20 năm sau ngày tuyên bố độc lập (1965), Singapore lại đứng vào hàng ngũ những nước có mức lợi tức tính theo đầu người thuộc hạng cao trên thế giới, bỏ xa các nước Đông Nam Á khác. Thành tích này thật là đáng khâm phục. Ngày nay, Singapore là một trong những trung tâm thương mại và tài chính quan trọng vào hàng đầu của thế giới. Cũng trong khoảng thời gian kể trên, các nước khác trong cùng khu vực dù rất vất vả và tốn không ít công sức cũng không thể nào thành công như Singapore. Nguyên nhân nào đã khiến Singapore đạt được những thành tích phi thường như vậy ? Câu hỏi trên đã được không ít các nhà nghiên cứu tìm hiểu và tìm cách giải đáp trong các sách viết về nền kinh tế Singapore đã từng xuất bản ở Việt Nam ((cid:31)). Chuyên đề này có ý định tìm kiếm câu trả lời trong một lĩnh vực khác - chính sách đối ngoại của chính phủ Singapore trong thời gian cầm quyền của Thủ tướng Lý Quang Diệu từ 1965 đến 1990, tức tính từ ngày độc lập cho đến lúc ông về hưu. Đây là khoảng thời gian chứng kiến Singapore vươn lên trở thành nước có sức mạnh về kinh tế, tài chính và thương mại đứng vào hàng đầu không chỉ ở Đông Nam Á, mà còn trên thế giới nữa. Ngay từ lúc hoạch định những nét lớn trong đường lối cầm quyền, chính phủ Lý Quang Diệu đã xác định rất rõ ràng mục tiêu chính của bộ máy cầm quyền là đảm bảo sự sống còn của đảo quốc không chỉ bằng biện pháp an ninh quốc gia, mà còn bằng sự phát triển kinh tế. Tất nhiên, đây cũng là mục tiêu chính trong hoạt động của bộ máy đối ngoại Singapore.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Chương I SƠ LƯỢC VỀ ĐẤT NƯỚC & LỊCH SỬ SINGAPORE TRƯỚC NGÀY ĐỘC LẬP

Vốn là sự tiếp nối của chính sách đối nội, chính sách đối ngoại của mỗi nước chịu tác động trực tiếp qua lại của nhiều nhân tố khác nhau: tính chất và đặc điểm của thực tại kinh tế quốc dân và chính trị - xã hội; mối tương quan thực tế giữa các lực lượng chính trị và xã hội, đại diện cho quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp, phe nhóm sắc tộc và xã hội có ảnh hưởng quyết định đến việc hoạch định chính sách đối ngoại; các tính toán chiến lược và sách lược của lực lượng cầm quyền và cá nhân người lãnh đạo; quá khứ lịch sử, vị trí địa lý, tình hình trong khu vực của nước liên quan... Chính những nhân tố này sẽ giải thích tính chất và các đặc điểm cụ thể trong đường lối đối ngoại của mỗi nước. Do vậy, cần biết qua về đất nước, con người và phân tích vắn tắt những giai đoạn quan trọng nhất trong tiến trình phát triển lịch sử và xã hội - chính trị của Cộng hòa Singapore, mà trong đó đã diễn ra việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại của đảo quốc này. I. ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI. Singapore, với tên gọi chính thức là Cộng hòa Singapore, là một quốc gia - thành thị độc lập nằm trong vùng Đông Nam Á, bao gồm một đảo lớn và hơn 50 đảo nhỏ nằm gần bên. Đảo lớn, mà tên được dùng để đặt cho các đảo quốc, nằm ở mũi cực nam bán đảo Malaya và được ngăn cách khỏi bán đảo bằng một eo biển rất hẹp mang tên eo biển Johor. Đó là mặt bắc của đảo. Còn mặt nam của đảo được ngăn cách với quần đảo Riau của Cộng hòa Indonesia bằng eo biển Singapore. Đây là một tuyến đường biển quan trọng nối liền Ấn Độ Dương với phía tây biển Đông. Thành phố Singapore nằm ở cực đông nam trên đảo chính, đó là thành phố - cảng và trung tâm thương mại - tài chính quan trọng nhất trong vùng Đông Nam Á. Tổng diện tích của đảo quốc là 640 km2. Đảo Singapore là một miền đất khá bằng phẳng, không có những chỗ nhô cao hẳn lên so với mặt bằng chung quanh. Vùng đồi trung tâm có độ cao tối đa là 176m. Trên bề mặt đảo có nhiều dòng suối nhỏ chạy ngang dọc. Dãy san hô ngầm nằm rải rác theo bờ biển phia tây. Đảo có khí hậu nhiệt đới ấm, với nhiệt độ trung bình hàng năm là 2702. Mực nước mưa rơi hàng năm vào khoảng 2.413mm. Khoảng thời gian ẩm ướt nhất trong năm kéo dài từ tháng 11 đến hết tháng 1. Hầu hết các cánh rừng nguyên sinh và đầm lầy đã được thu dọn sạch để dùng vào các mục đích xây dựng chỗ ở và phát triển kinh tế (chủ yếu là công nghiệp). Chỉ một khu vực nhỏ nằm trong vùng đồi trung tâm là còn giữ lại được vẻ tự nhiên nguyên sinh của nó. Đất không được màu mỡ lắm, lòng đất không có tài nguyên gì đáng kể, ngoại trừ đất sét và cát. Dân số Singapore năm 1992 là hơn 2.800.000. Mật độ dân số tính trên cả đảo là 4.400 người/km2. Đa phần dân sống tập trung ở phần phía nam của đảo. Dân Singapore không phức tạp lắm về mặt sắc tộc: Hoa (chiếm 78% dân số), Mã Lai (14%) và Ấn Độ (7%). Đất nước có bốn ngôn ngữ chính là: Anh, Hoa, Mã Lai và Tamil. Tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ hành chính. Dân Singapore theo các đạo

54

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

gốc của sắc tộc họ - Phật, Islam, Hindu, Khổng giáo và Công giáo. Vào cuối những năm 1980, đất nước có khoảng 290 trường tiểu học với trên 278.000 học sinh và 160 trường trung học với trên 200.000 học sinh. Trường đại học chính là Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore (được thành lập năm 1980 trên cơ sở sát nhập hai trường đại học lớn) có các học viện kỹ thuật và một trường sư phạm. Singapore được cai trị theo hiến pháp năm 1959 đã được tu chỉnh vài lần. Người đứng đầu Nhà nước là tổng thống được bầu theo nhiệm kỳ 4 năm, nhưng thực quyền cai trị trong nước thuộc về thủ tướng, người cầm đầu chính phủ. Cho đến trước năm 1991, tổng thống được quốc hội bầu, nhưng sau lần tu chính năm 1991, chức vụ tổng thống giờ đây do dân trực tiếp bầu. Quyền lập pháp thuộc về quốc hội gồm 81 thành viên được bầu theo lối trực tiếp và phổ thông. Kể từ ngày độc lập đến nay, sinh hoạt chính trị trong nước hoàn toàn chịu sự chi phối của đảng Hành động Nhân dân (HĐND). Phe đối lập không có vị thế đáng kể trên chính trường. Singapore là nước có mức sống vào hàng cao nhất không chỉ ở châu Á, mà còn cả trên thế giới. Vào cuối những năm 1980, tổng sản phẩm nội địa được ước tính vào khoảng 23,7 tỷ USD, tức 8.870 USD/đầu người. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng không đáng kể trong kinh tế quốc dân vì không có nhiều đất nông nghiệp và đất lại không màu mỡ, nhưng vẫn cung cấp một khối lượng nhất định rau quả cho thị trường nội địa. Ngành đánh cá tập trung ở cảng Jurong, nằm ở phia tây nam đảo. Công nghiệp phát triển mạnh từ thập niên 1960 và cho rất nhiều mặt hàng khác nhau, bao gồm: hóa, hóa dược, điện tử, may mặc, nhựa dẻo, cao su, thép, chế biến... Đóng tàu và lọc dầu cũng chiếm một vị trí quan trọng. Khu công nghiệp quan trọng hàng đầu của cả nước là Jurong. Singapore là một cảng lớn với các phương tiện bốc dở hiện đại dọc theo bến Keppel ở bờ biển nam. Hoạt động của nó phần lớn là tái bốc dở các hàng hóa sản xuất trong vùng. Vào cuối những năm 80, giá trị hàng nhập khẩu là 40,3 tỉ, trong lúc hàng xuất khẩu trị giá 38 tỉ USD. Bạn hàng chính của Singapore là Hoa Kỳ, Nhật, Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Đức và Hongkong. Singapore là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Du lịch và hoạt động ngân hàng là những nguồn quan trọng mang lại ngoại tệ cho đất nước. Singapore có một trong những phi trường lớn nhất châu Á và một tuyến đường sắt dài 26km băng ngang qua eo biển Johor và nối với hệ thống đường sắt Malaysia.

55

II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ SINGAPORE TRƯỚC NGÀY ĐỘC LẬP. Chiến tranh Thế giới thứ Hai và sau đó Chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc bằng sự thất bại của các nước phe Trục, mà Nhật là một trong những thành viên, đã làm phát sinh một tình hình hoàn toàn mới ở Đông Nam Á. Đó là sự sụp đổ của chế độ thống trị thực dân và sự ra đời của một số nhà nước độc lập - Indonesia (8-1945), Việt Nam (9-1945), Philippines (7-1946) và Miến Điện (1-1948) - và vai trò ngày càng tăng lên của Hoa Kỳ. Dựa vào sức mạnh kinh tế, tài chính và quân sự, mà chiến thắng trong chiến tranh mang lại, Hoa Kỳ đã tìm cách thay dần các nước thực dân cũ - Anh, Pháp, Hà Lan - để tiến hành một cách có hiệu quả hơn điều mà họ gọi là sự nghiệp đấu tranh chống "mối đe dọa và âm mưu xâm lược của chủ nghĩa cộng sản" ở trong vùng, đặc biệt là từ khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ (6-1950). Đây cũng là thời điểm Hoa Kỳ công bố "Học thuyết Domino" nhằm biện minh cho sự can thiệp trực tiếp của mình vào công việc nội bộ của các nước Đông Nam Á có chủ quyền. Học thuyết này được mang ra thực hiện vào năm 1954, bằng việc ký, theo sáng kiến của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John F. Dulles, Hiệp ước Manila thành lập "Tổ chức minh ước Đông Nam Á" (SEATO) bao gồm: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Australia, New Zealand, Pakistan và hai nước Đông Nam Á là Philippines và Thái Lan. Mục đích hiển nhiên của việc thành lập tổ chức này là liên minh và đặt nền

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

56

móng pháp lý cho sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào Đông Dương. Hậu quả là Hoa Kỳ đã bị lôi ngày càng sâu vào "bãi lầy Đông Dương". Cuộc chiến tranh của người Mỹ ở Đông Dương đã tác động mạnh đến toàn bộ tình hình trong vùng Đông Nam Á và đưa đến sự hình thành hai khối nước theo hai thể chế chính trị và xã hội hoàn toàn đối lập nhau: khối các nước xã hội chủ nghĩa, mà cho đến năm 1975 chỉ gồm mỗi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và khối các nước tư bản chủ nghĩa bao gồm tất cả những nước Đông Nam Á còn lại. Khối sau không phải là một tập hợp thuần nhất. Nếu chỉ xét riêng về mặt đối ngoại, có thể chia các nước Đông Nam Á tư bản chủ nghĩa thành hai loại: các nước trung lập (Miến Điện, Campuchia đến năm 1970 và Indonesia đến năm 1965) và các nước thân phương Tây ở những mức độ khác nhau (Thái Lan, Malaysia...). Singapore nằm trong loại nước sau cùng này. Vị thế trên của Singapore trong quan hệ đối ngoại trong vùng Đông Nam Á nói riêng và trên trường quốc tế nói chung có thể được giải thích bằng những điều kiện cụ thể trong tiến trình phát triển chính trị, kinh tế và xã hội của các nước này kể từ sau Chiến tranh Thái Bình Dương cho đến ngày được độc lập và trong các thập niên 60 và 70. Sau khi chủ nghĩa quân phiệt Nhật bị đánh bại, người Anh đã lập lại chính sách cai trị thực dân lên bán đảo Malaya, nhưng cách tổ chức bộ máy hành chính của họ có một sự thay đổi lớn lao, vốn sẽ ảnh hưởng nhiều đến vị thế của Singapore sau này: từ ngày 01-04-1946, Singapore được tách ra thành một thuộc địa riêng biệt của Vương quốc Anh. Còn các bang Mã Lai, kể cả Penang và Malacca được gom vào một thuộc địa khác - Liên bang Malaya. Sự thay đổi kể trên cho thấy tầm quan trọng của Singapore trong các tính toán chiến lược của đế quốc Anh ở vùng Đông Nam Á trong thời hậu chiến. Bằng vào kinh nghiệm của nhiều thế kỷ thống trị thuộc địa, giới thống trị Anh, vốn luôn ở trung tâm các sự kiện trọng đại trên thế giới, nhận thức được rằng trước làn sóng đấu tranh giải phóng dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ ở khắp nơi trên thế giới và đặc biệt trong vùng Đông Nam Á, không còn có thể cai trị thuộc địa theo các phương thức cũ của thời trước chiến tranh. Nhưng thay đổi như thế nào để quyền lợi của tư bản Anh ở Singapore, cũng như trên toàn bán đảo Mã Lai, không bị ảnh hưởng quá mức. Bị thúc đẩy bởi tính toán này, thực dân Anh đã quyết định thẳng tay đối phó với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc do đảng Cộng sản Malaya lãnh đạo và những lực lượng chống đế quốc tả khuynh khác bằng sắc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn bán đảo ban hành trong tháng 6 -1948, nhưng lại tạo điều kiện để các lực lượng chính trị bản xứ khác hoạt động tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Kết quả là phong trào đấu tranh do đảng Cộng sản lãnh đạo dần dần bị suy yếu, vai trò của giới trí thức tiểu tư sản có xu hướng chống thực dân, thường tốt nghiệp ở các nước Tây Âu (chủ yếu là Anh), trở nên quan trọng hơn. Giới này trở thành lực lượng chính trong cuộc đấu tranh đòi độc lập cho đất nước. Chủ trương của họ là phát triển đất nước bằng những cuộc cải cách từ từ, mang định hướng tư sản. Sự thay đổi quan trọng kể trên trong phong trào chống thực dân đã cho phép chính quyền thuộc địa tiến thêm một bước trong việc tăng cường vị thế của các lực lượng chính trị bản xứ theo xu hướng ôn hòa và cải cách bằng cách tổ chức cuộc bầu cử vào Hội đồng Lập pháp thuộc địa năm 1955. Chiến thắng đã thuộc về Mặt trận Lao động. Thủ tướng đầu tiên của Singapore trong thời kỳ ngự trị là David Marshall. Tiếp theo đó, trong những năm 1956- 1959, giữa Singapore và Anh đã diễn ra các cuộc đàm phán xoay quanh nội dung bản hiến pháp của "Quốc gia tự trị Singapore trong Liên hiệp Anh ".

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

57

Cũng trong thời gian trên, tháng 11 - 1954, đảng Hành động Nhân dân (HĐND) được thành lập với người cầm đầu là Lý Quang Diệu, vốn là một luật sư tốt nghiệp Đại học Cambridge, và Toh Chin Chi, cũng tốt nghiệp đại học ở Anh. Đây là chính đảng quy tụ đại diện giới trí thức hoạt động năng nổ theo xu hướng cải cách và đại diện lực lượng cánh tả. Trong cuộc bầu cử quốc hội diễn ra ngày 30-5-1959, đảng HĐND đã giành được thắng lợi. Lý Quang Diệu được giao thành lập chính phủ của "Nhà nước tự quản Singapore". Ngay khi lên cầm quyền, chính phủ Lý Quang Diệu đã phải đương đầu ngay với nạn thất nghiệp (13,5% lực lượng lao động trong năm 1959). Giải quyết vấn nạn này theo con đường phát triển kinh tế cũ, tức phát triển mậu dịch tái xuất khẩu và những ngành liên quan đến hoạt động này, tỏ ra không có tiền đề. Từ đầu năm 1960, chính phủ đảng HĐND đã đề ra kế hoạch phát triển đầu tiên (1961 - 1965) nhằm cấu trúc lại nền kinh tế quốc dân theo hướng lấy phát triển công nghiệp làm nền tảng của kinh tế quốc dân, mặc dù hoạt động tái xuất khẩu vẫn tiếp tục giữ một tỷ trọng đáng kể. Chính phủ chú ý sử dụng rộng rãi giới doanh nghiệp tư nhân - cả bản xứ lẫn nước ngoài. Khu công nghiệp lớn nhất Đông Nam Á bắt đầu được xây dựng ở Jurong. Việc xây dựng nhà ở cũng được tiến hành khẩn trương. Ngoài ra chính phủ Lý Quang Diệu bày tỏ ý muốn tái thống nhất với Malaya. Bất chấp sự chống đối của giới doanh gia Mã Lai vì lo sợ khả năng cạnh tranh của tư sản Singapore và xu hướng chính trị mà họ cho là tả khuynh của chính quyền tự quản Singapore, việc thống nhất vẫn diễn ra vào ngày 16-9-1963 bằng sự ra đời của Liên bang Malaysia Tuy nhiên, việc Singapore gia nhập Liên bang Malaysia không mang lại những kinh tế kinh tế và chính trị, như mong đợi của giới lãnh đạo và tư sản đảo quốc. Tệ hơn nữa, việc thống nhất với Malaysia không được tiến hành trên cơ sở bình đẳng. Singapore chỉ nhận có 15 trong tổng số 159 ghế trong Quốc hội, ít hơn hai lần so với tỷ lệ số dân của nó trong Liên bang. Công dân Singapore không được ứng cử vào các bang Mã Lai. Chính phủ Singapore phải nộp vào Ngân sách Liên bang 40% thu nhập của mình. Trong khi đó, việc thành lập "thị trường chung" giữa Singapore và Malaysia và việc giải quyết những vấn đề khác bị dời lại. Bằng chứng biện pháp này, rõ ràng là Chính phủ Liên bang mưu toan đảm bảo ưu thế về chính trị cho người Mã Lai so với người Hoa ở Singapore, vốn chiếm vị thế áp đảo về kinh tế. Những bất bình đẳng trên diễn ra trong bối cảnh của chính sách kỳ thị bài Hoa của giới cầm quyền Malaysia. Ngày 21 đến ngày 25-7-1964 ở Singapore đã diễn ra các cuộc xung đột đẫm máu giữa người Hoa và người Mã Lai.Tháng 9, tình trạng thiết quân luật được ban hành vì lại bùng ra những cuộc ẩu đả mới. Tháng 5 - 1965, Liên minh đoàn kết Malaysia được thành lập, bao gồm cả 5 đảng phái đối lập với chính phủ Lý Quang Diệu. Sự kiện vừa kể càng làm cho quan hệ giữa chính phủ này với chính phủ Liên bang thêm căng thẳng. Ngày 7-8-1965, Lý Quang Diệu và Abdul Rahman ký hiệp ước về việc Singapore rút ra khỏi Liên bang. Ngày 9-8, chính phủ Lý Quang Diệu tuyên bố thành lập nền cộng hòa Singapore. Từ đó đến năm 1990, khi ông xin về hưu, Lý Quang Diệu liên tục giữ chức thủ tướng của nước Cộng hòa.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Chương II CHIẾN LƯỢC "SỐNG CÒN DÂN TỘC"

I. KHÁI NIỆM "THÀNH PHỐ TOÀN CẦU " VÀ "TRUNG LẬP TÍCH CỰC". Cộng hòa Singapore ra đời trong một hoàn cảnh có nhiều khó khăn trong lĩnh vực đối nội cùng với những diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế ở vùng Đông Nam Á. Về đối nội, mặc dù cấu trúc nền kinh tế đã trải qua những thay đổi đáng kể sau nỗ lực thực hiện kế hoạch công nghiệp hóa và phát triển những ngành sản xuất đòi hỏi nhiều công lao động, đến giữa thập niên 60, Singapore vẫn lệ thuộc vào nhiều hoạt động tái xuất khẩu, còn vấn đề thất nghiệp vẫn rất phức tạp. Kế hoạch thành lập "thị trường chung" với Malaysia không được thực hiện. Hơn thế nữa, Malaysia lại đang ra sức giảm bớt sự lệ thuộc từ lâu nay của mình vào cảng Singapore trong các hoạt động ngoại thương và thiết lập chế độ thuế quan đánh vào nhiều mặt hàng công nghiệp của Singapore. Nhưng nếu Singapore phản ứng lại cũng bằng cách tương tự, tức thi hành chính sách bảo hộ nhằm vào các mặt hàng từ trước vẫn nhập miễn thuế từ Malaysia, thì việc làm này rõ ràng sẽ đe dọa đến chính hoạt động tái xuất khẩu, tức quyền lợi kinh tế trực tiếp của Singapore. Tình hình quốc tế ở trong vùng vẫn tiếp tục rất căng thẳng và chứa đựng nguy cơ bùng nổ nhiều cuộc xung đột. Nhiều sự kiện rất phức tạp diễn ra ngay trong năm tuyên bố độc lập của Cộng hòa Singapore. Có ảnh hưởng bao trùm lên tất cả là cuộc chiến tranh Việt - Mỹ bùng nổ. Nó mau chóng trở thành tiêu điểm của cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ, đại diện cho hai khối nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó là chính biến 30-9-1965 diễn ra ở Indonesia. Tuy đây là một biến cố chỉ liên quan đến tình hình nội bộ của nước này, nhưng do các mối quan hệ truyền thống trong thế giới Mã Lai - Indonesia và cũng bởi chính sách đối nội của chính phủ Jakarta đối với việc thành lập Liên bang Malaysia, sự biến ngày 30-9 không thể không tác động lên chính sách đối nội và đối ngoại của Singapore. Cũng trong năm 1965, chính phủ Bắc Kinh bắt đầu mang ra thực hiện chính sách xuất khẩu cách mạng "lấy nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới" nhằm kích động các đảng cộng sản Đông Nam Á phát động khởi nghĩa vũ trang chống chính quyền sở tại.

58

Ngoài ra, trong nửa sau thập niên 60 và đầu thập niên 70, tình hình đối ngoại của nhiều nước láng giềng Đông Nam Á của Singapore là rất không ổn định, như việc ban hành tình trạng khẩn cấp ở Philippines, các cuộc xung đột đẫm máu giữa các cộng đồng sắc tộc ở Malaysia, các cuộc đảo chính quân sự ở Thái Lan và Campuchia. Trong những tình huống phức tạp như trên về đối nội và đối ngoại, giới lãnh đạo Singapore cần soạn thảo một đường lối đối ngoại thích hợp cho phép đảm bảo đến mức tối đa và đạt hiệu quả nhất quyền lợi dân tộc của một quốc gia còn non trẻ. Trong chuyện này, chính phủ Singapore cần cân nhắc một cách thực tế các khả năng và sức mạnh tiềm tàng của đất nước, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế, cũng như vô số những trở ngại cho sự phát triển phát sinh từ quy mô nhỏ hẹp của lãnh thổ và dân số, từ sự thiếu vắng tài nguyên tự nhiên, từ các đặc điểm trong tình hình sắc tộc trong nước. Trên cơ sở cân nhắc những yếu tố vừa kể, chính phủ Lý Quang

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

59

Diệu đã đề ra học thuyết " Chủ nghĩa xã hội dân chủ" với những nội dung cơ bản như: đoàn kết dân tộc, vai trò chỉ đạo của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế... nhằm tạo nền tảng lý luận cho việc hoạch định các chính sách đối nội và đối ngoại. Các phương châm tiến hành phải trực tiếp hướng vào nỗ lực cố kết xã hội quanh những chương trình cải cách, mà chính phủ đã đề ra và mở rộng cơ sở quần chúng của chế độ. Khi mang ra thực hiện, các phương châm này biến thành khẩu hiệu " sống còn của dân tộc", mà trong lĩnh vực đối ngoại sẽ là chính sách cố gắng thiết lập quan hệ với mọi quốc gia khác nhau trên thế giới trên cơ sở bình đẳng. Chính sách trên có nghĩa là " sự sống còn" của Singapore độc lập tùy thuộc "vào việc có thật ít quốc gia thù địch và thật nhiều quốc gia thân hữu". Giới lãnh đạo Singapore nói rõ thêm : "Sức mạnh của Singapore là rất không đáng kể để có thể lèo lái các sự biến quốc tế. Thực tế là để sống còn và phát triển phồn vinh về kinh tế, chính sách đối ngoại của Singapore phải đáp ứng tình hình thực tại trong vùng và trên thế giới" ((cid:31)). Phát triển ý tưởng thích ứng với tình hình trong vùng, tại phiên họp đầu tiên của Quốc hội Singapore, Tổng thống Iusuf bin Ishak tuyên bố: "Chúng ta không nên bị cô lập và nên có bạn ở Đông Nam Á..."((cid:31)). Phát xuất từ quan điểm này, chính phủ Singapore tuyên bố rằng trong hoạt động của họ trên chính trường quốc tế, họ sẽ đi theo 3 nguyên tắc cơ bản sau: 1) Quan tâm phát triển đất nước; 2) Đảm bảo an ninh trong và ngoài nước; 3) Không liên kết ((cid:31)). Như vậy, phát triển đất nước được đặt lên hàng đầu trong 3 nguyên tắc đối ngoại cơ bản. Vị thế ưu tiên này có nghĩa là chính sách đối ngoại phải phục vụ trước hết cho nền kinh tế đối ngoại, mà đến lượt nó, gắn liền với việc thực hiện quan điểm "thành phố toàn cầu": Singapore với tình hình kinh tế đặc thù của một quốc gia - thành thị cần kiên trì gia nhập hệ thống các mối quan hệ kinh tế và tự khẳng định trên thị trường thế giới ((cid:31)) bằng cách đạt được các mối quan hệ tốt đẹp với những nước trong và ngoài vùng. Nếu như trong liõnh vực kinh tế, hoạt động đối ngoại của chính phủ Singapore đặt nền tảng trên quan điểm "thành phố toàn cầu", thì ngay trong lĩnh vực chính trị - đối ngoại họ đã nắm lấy khái niệm "trung lập tích cực". Để thực hiện nó, các nhiệm vụ sau đây đã được đề ra: thiết lập và mở rộng quan hệ không chỉ với những nước đã phát triển, mà cả với những nước đang phát triển, với những nước xã hội chủ nghĩa và tích cực tham gia phong trào không liên kết. Một chính sách đối ngoại theo đuổi các mục tiêu vừa đa dạng (phục vụ phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh, chủ quyền của đất nước), vừa đối nghịch (mong muốn quan hệ thân hữu với tất cả các khối nước trong hoàn cảnh Chiến tranh Lạnh trên thế giới và căng thẳng trong vùng) đòi hỏi chính phủ Lý Quang Diệu phải vạch ra những đối sách rất linh hoạt, sẵn sàng đáp ứng những thay đổi dù rất bất ngờ trên trường quốc tế trong và ngoài vùng. Có ảnh hưởng đáng kể đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của Singapore ở những năm cuối thập niên 60 - đầu thập niên 70 là những sự kiện sau trong đời sống quốc tế: quyết định của chính phủ Anh về việc bãi bỏ các căn cứ quân sự của họ "nằm về phía đông kênh Suez", những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cho "phù hợp với học thuyết Guam", vai trò ngày càng lớn của Nhật ở Đông Nam Á, chính sách đối ngoại cực tả của Trung Quốc và mối quan hệ vẫn còn phức tạp giữa Singapore với hai nước láng giềng gần nhất - Malaysia và Indonesia. Ngay trong năm 1965, Singapore đã thực hiện một chính sách ngoại giao rộng rãi nhằm mục đích mở rộng quan hệ kinh tế và chính trị với các nước Á, Phi không liên kết. Một phái đoàn "thiện chí" do một vị phó thủ tướng cầm đầu đã đi thăm chín

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

1 Trích theo Kawin Wilairat, Sñd, p.35.

60

nước châu Phi, Nam Tư, Liên Xô, Ấn Độ, Campuchia và Thái Lan. Trong vài năm sau đó, Lý Quang Diệu viếng thăm tổng cộng 45 nước trên tất cả các châu lục. Hào hứng trước nỗ lực đối ngoại cao độ của Lý Quang Diệu, một quan chức Singapore đã nói vui:"Nhờ nghe bảng thông báo đề cập đến các chuyến đi của ông, chúng tôi đã mở rộng tầm hiểu biết của mình về địa lý và nền chính trị thế giới"((cid:31)). Trong nửa sau thập niên 60, Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc, trở thành thành viên của Khối thịnh vượng chung và nhiều tổ chức quốc tế khác. Sự tích cực trên của giới lãnh đạo Singapore trên trường quốc tế có thể được giải thích bằng các mục tiêu cụ thể sau: trước tiên là cân bằng tình trạng lệ thuộc về kinh tế của đảo quốc với các nước tư bản hàng đầu, giành lấy sự công nhận của các nước Á - Phi không liên kết và cố sức xóa tan cảm tưởng rằng Singapore là "pháo đài chống Cộng và thành trì quân sự của chủ nghĩa đế quốc" do chỗ trên lãnh thổ đảo quốc có căn cứ quân sự của Anh. Chính sách không liên kết đồng thời cũng có nghĩa là đường lối "trung lập tích cực", tức thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ với các nước Á- Phi. Giới lãnh đạo Singapore cho rằng đường lối đối ngoại này phục vụ thiết thân nhất cho các quyền lợi riêng của quốc gia Singapore. Ngay từ năm 1959, khi đảng HĐND thành lập chính phủ đầu tiên của "Nhà nước tự trị", Lý Quang Diệu đã phác họa đường hướng chính trong chính sách đối ngoại của Singapore như sau : "Nếu chúng ta có thể tự đánh đồng mình với những quốc gia mới khai sinh, với ý tưởng và quan điểm của chúng về thế nào là một quốc gia mới và hiện đại của thế kỷ XX, thì chúng ta sẽ giảm đáng kể nguy cơ bị lợi dụng như một con tốt đen" ((cid:31)). Chính sách không liên kết của Singapore, như Quốc vụ khanh Rahim Ishak nhấn mạnh, "không đồng nghĩa với chính sách cô lập. Nó không ngăn cản chúng ta có ý kiến riêng về những vấn đề riêng biệt, phát xuất từ sự nhận thức của chính chúng ta về các hậu quả mà chính sách này có thể tạo ra đối với mối quan hệ quốc tế của chúng ta. Khi chúng ta bày tỏ quan điểm hay ý kiến của chúng ta về những vấn đề riêng biệt, chúng ta sẽ hành xử hòan toàn theo vụ việc và trước hết hoàn toàn vì quyền lợi quốc gia, chứ không phải vì chúng ta nằm trong khối này hay khối kia" (1). Đường lối "trung lập tích cực" giải thích vì sao trong những năm đầu sau khi độc lập, chính phủ Lý Quang Diệu đã theo đuổi một lập trường chống phương Tây - cụ thể là chống Anh và Mỹ - rõ rệt. Nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa là Singapore không cần tới sự hiện diện của lực lượng trú đóng Anh trên đảo. Lý do là sau khi độc lập, Singapore hầu như không có lực lượng quốc phòng riêng . Hơn thế nữa, lực lượng trú đóng Anh có một ý nghĩa đặc biệt trong sinh hoạt kinh tế của đảo quốc: nó đóng góp tới 25% thu nhập quốc dân của Singapore và mang lại 25 vạn việc làm cho dân bản xứ. Mãi đến tháng 11 - 1971, hai nước mới đạt được thỏa thuận về việc rút quân Anh ra khỏi Singapore. Phía Anh đồng ý trả cho Singapore 50 triệu sterling để đền bù những thiệt hại kinh tế do việc rút quân Anh gây ra, chuyển giao cho Singapore ụ tàu và tham gia xây dựng lực lượng không quân cho đảo quốc. Đồng thời, khi nền kinh tế của Singapore với thời gian ngày càng gắn chặt với hệ thống kinh tế của các nước tư bản phương Tây và Nhật Bản, nội dung "trung lập tích cực" và không liên kết trong đường lối đối ngoại của Singapore phai nhạt dần. Chuyển biến này thể hiện rất rõ trong thái độ của Singapore đối với chính sách của Mỹ ở trong vùng, đặc biệt là cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Dấu hiệu cho sự thay đổi trong lập trường của Singapore là chính phủ nước này đã quyết định cho phép nhân viên quân sự Mỹ đến đây nghỉ ngơi và tăng cường lượng dầu xuất khẩu sang Nam Việt Nam. Nhưng thay đổi rõ rệt nhất là chuyến viếng thăm Hoa Kỳ năm

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

1971 của Thủ tướng Lý Quang Diệu, khi ông này lên tiếng bày tỏ sự cảm thông và ủng hộ hoạt động của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Trong một loạt bài phát biểu của mình, ông tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã giúp châu Á trong cuộc đấu tranh chống lại những người Cộng sản Việt Nam, rằng châu Á phải giữ một vai trò quan trọng không kém gì Tây Âu trong chính sách đối ngoại của Mỹ và nếu Hoa Kỳ rút khỏi châu Á, những nước nhỏ trong vùng sẽ sa vào một cuộc chiến đấu khốc liệt! ((cid:31)). Tất nhiên, những thay đổi trên không chỉ được giải thích bằng lý do kinh tế, mà còn bằng cả các suy tính chiến lược. Với việc ra đi ngày càng gần kề của người Anh, duy trì sự hiện diện của người Mỹ được giới lãnh đạo Singapore xem là điều tối cần cho sự đảm bảo cân bằng lực lượng và ổn định trong vùng. Ngoài ra, mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại của Singapore ngay trước ngày quân Anh rút đi là tìm kiếm một bạn đồng hành mới không chỉ đủ sức bảo vệ đảo quốc mà còn góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế đất nước. Để đạt được mục tiêu đề ra, theo giới lãnh đạo Singapore, Hoa Kỳ được xem là giải pháp tối ưu. Ý kiến này có thêm một chỗ dựa vững chắc là đã từ lâu Hoa Kỳ chiếm vị trí hàng đầu trong những nước đầu tư vào Singapore, và là bạn hàng đứng vị trí thứ hai của nước này. Thay đổi thứ ba diễn ra quanh lập trường của Singapore đối với chính phong trào không liên kết. Trong những năm 70, khi trong quan hệ quốc tế đang diễn ra tiến trình hòa dịu, những nhà lãnh đạo Singapore bắt đầu khẳng định rằng phong trào không liên kết, vốn ra đời từ "chiến tranh lạnh", nên trong hoàn cảnh đã đổi thay, cần xem xét lại mục tiêu và nhiệm vụ của mình. Phát biểu về vấn đề này tại Hội nghị Thượng đỉnh lần III diễn ra trong tháng 9-1970 tại Lusaka, Lý Quang Diệu đã đề cập đến sự cần thiết "xem xét lại nhu cầu và vấn đề của các nước được giải phóng về đảm bảo an ninh và sự phát triển của họ". Ông đặc biệt nhấn mạnh đến sự cần thiết xác lập "luận cứ mới và vị trí mới của phong trào trong hoàn cảnh đang thay đổi" ((cid:31)). Trong những cuộc tiếp xúc với đại diện của các nước không liên kết diễn ra trong những năm 70, đặc biệt là tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước này ở Georgetown, đại diện Singapore đã phát biểu ủng hộ luận điệu, mà một số đoàn đại biểu đã đưa ra khi cho rằng sự cải thiện quan hệ của Xô - Mỹ ngầm chứa trong lòng nó mối hiểm họa cho các nước đang phát triển, rằng phát triển quan hệ cộng tác và hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa dường như là mâu thuẫn với các nguyên tắc của phong trào không liên kết. Tuy nhiên, khi lợi ích kinh tế của Singapore bị va chạm, chẳng hạn khi hàng hóa xuất khẩu của nó vấp phải các biện pháp bảo hộ của các nước tư bản phát triển, hay lo lắng trước cuộc khủng hoảng nhiên liệu trong nửa đầu thập niên 70..., Singapore, cũng như các nước không liên kết khác, đã ủng hộ việc thành lập một "trật tự kinh tế thế giới mới". Về vấn đề quan hệ "Bắc - Nam", Singapore nhìn chung đứng về phía các nước nghèo, dù nền kinh tế của nó gắn chặt với các nước tư bản phát triển.

61

II. HỌC THUYẾT AN NINH QUỐC GIA. Vấn đề đảm bảo an ninh quốc gia luôn chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động đối ngoại của bất kỳ nước nào. Và Singapore không phải là một trường hợp ngoại lệ. Để đạt được mục tiêu này, trong những năm 60 - 70 giới cầm quyền đảo quốc đã đưa ra ba nhiệm vụ gắn bó với nhau như sau: phát triển một đất nước có khả năng tự bảo vệ và phồn vinh về vật chất; đảm bảo an ninh quốc gia; hỗ trợ "hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực" ((cid:31)). Một vấn đề cần làm sáng tỏ ở đây: đó là nội dung của khái niệm "an ninh" theo quan điểm của giới lãnh đạo Singapore. Làm sao đạt được mục tiêu đảm bảo an ninh quốc gia, khi nền tảng của đường lối đối ngoại của đảo quốc đã được xác định rõ là "trung lập tích cực" (tức theo đuổi các nguyên tắc không liên kết), trong lúc

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

chính trường thế giới cũng như trong vùng bị chi phối hoàn toàn bởi "chiến tranh lạnh"? Những nhà lãnh đạo Singapore giải thích rằng trung lập theo họ trước hết là duy trì vị thế đứng ngoài "bất kỳ quan hệ kình chống hay xung đột giữa các khối quân sự". Tất nhiên, Singapore sẽ không thể vẫn cứ trung lập, nếu sự sống còn an ninh hay sự thịnh vượng của nó bị đe dọa. Trong số những phương sách đảm bảo an ninh quốc gia, mà giới cầm quyền Singapore đặc biệt chú trọng có sự tăng cường lực lượng quốc phòng, nhất là trong hoàn cảnh rất phức tạp ở Đông Nam Á từ giữa thập niên 60, tức đúng ngay thời điểm Singapore tuyên bố độc lập. Chính phủ Lý Quang Diệu đã sử dụng bối cảnh phức tạp trong vùng để biện minh cho sự cần thiết tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước. Trong năm 1967, tổng chi phí quân sự chiếm 13,2% ngân sách quốc gia, tăng 2,2% so với năm 1966. Tháng 3-1967, đạo luật nghĩa vụ quân sự toàn dân đã được ban hành, theo đó tất cả các nam công dân đến tuổi 18 đều phải phục vụ trong quân đội trong vòng 2 - 2,5 năm. Sau khoảng thời gian đó, họ được chuyển sang chế độ dự bị và hàng năm đều phải tập huấn quân sự. Ngân sách quốc phòng của Singapore sau đó tăng đều mỗi năm để đến cuối thập niên 70, xét về tỷ lệ đầu người nó đứng đầu trong số các nước thành viên ASEAN. Còn về con số tuyệt đối trong năm tài chính 1979 - 1980 đã lên đến 1.051,2 triệu đô la Singapore, so với 26,2 triệu năm 1966 và 500 triệu năm 1975. Song song với việc tăng cường khả năng quốc phòng, Singapore còn chủ trương thành lập liên minh quân sự nhiều bên để làm phương tiện quan trọng giải quyết vấn đề gìn giữ hòa bình ở châu Á. Chẳng hạn, khi viếng thăm Ấn Độ năm 1966, Lý Quang Diệu đã cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của một trong những nước châu Á lớn nhất cho kế hoạch phối hợp hoạt động của các nước thuộc châu lục này chống "sức ép lộ liễu từ bên ngoài".

Khi đưa ra đề nghị kể trên, tất Lý Quang Diệu đã xuất phát từ những tính toán riêng dựa trên hoàn cảnh cụ thể của Singapore: vị trí chiến lược của Singapore, mối quan hệ kinh tế ngày càng chặt chẽ với các nước tư bản phát triển và nỗ lực tăng cường khả năng quốc phòng đã khiến Singapore ngày càng lệ thuộc vào phương Tây và Nhật Bản. Đề nghị của Lý Quang Diệu là nhằm giảm bớt viễn ảnh không lấy gì làm tốt đẹp này.

Dần dà với thời gian, trong các phương tiện bảo vệ an ninh quốc gia đã có một sự chuyển biến rõ rệt: các phương tiện quân sự nhường chỗ cho việc sử dụng các phương tiện chính trị và kinh tế. Sự thay đổi này diễn ra trong thời điểm Singapore đang đạt được những thành tích ngoạn mục trong phát triển kinh tế. Do đó, đảo quốc đã kịp thời thích ứng với xu thế phát triển của thời đại. Hơn thế nữa, thất bại của hành động can thiệp của Mỹ ở Việt Nam và sự ra đời của Học thuyết Nixon đã cung cấp cho những người lãnh đạo Singapore không ít bài học hữu dụng. Chúng làm cho họ hiểu rằng việc sử dụng sức mạnh quân sự không phải lúc nào cũng đem đến những kết quả mong đợi, và cũng chẳng khiến uy tín trên trường quốc tế được tăng lên. Bầu không khí hòa dịu trên thế giới đã có tác động riêng của nó: tăng cường vị thế của các phương tiện phi quân sự trong việc xúc tiến đường lối đối ngoại của các nước. Thay cho đối đầu và đe dọa sử dụng vũ khí quân sự, giờ người ta thích nói đến đàm phán hòa bình và hợp tác quốc tế.

62

Do vậy, sẽ không phải là đáng kinh ngạc khi vào đầu những năm 70, Singapore lên tiếng ủng hộ đề nghị do Malaysia đưa ra về việc biến Đông Nam Á thành "khu vực hòa bình, tự do và trung lập". Tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN diễn ra trong tháng 11-1971 tại Kuala Lumpur, đề nghị này đã nhận được sự ủng hộ chính thức của tổ chức. Dù sau đó có được bổ sung thêm bằng khái niệm "tính đề kháng dân tộc và vùng" do Indonesia đưa ra, đề nghị vẫn phản ánh

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

đầy đủ lập trường chung của các nước ASEAN về các vấn đề an ninh khu vực. Bên cạnh đó, mỗi nước thành viên đều có cách hiểu của riêng mình về các vấn đề an ninh khu vực nói chung và vai trò của họ trong việc bảo vệ nền an ninh này trên quy mô vùng và từng nước.

Theo quan điểm của giới lãnh đạo Singapore, việc thực hiện công thức "hòa bình, tự do và trung lập" ở Đông Nam Á nhìn chung đáp ứng được quyền lợi dân tộc của đảo quốc, vì nó cho phép củng cố vị thế của Singapore trong các mối quan hệ chính trị và kinh tế trong khu vực và mang lại cho đảo quốc sự đảm bảo tập thể đối với chủ quyền không thể bị xâm phạm của mình từ phía các nước thành viên ASEAN và từ cả các nước Đông Nam Á khác. Còn về phía các cường quốc ngoài vùng nào có những quyền lợi rõ rệt, và hơn nữa ngày càng tăng, ở Đông Nam Á, cụ thể là Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc và Nhật, thì Singapore cho rằng thành công hay thất bại của sáng kiến trung lập Đông Nam Á lệ thuộc đáng kể vào sự duy trì thế cân bằng lực lượng trong vùng giữa các cường quốc này. Một trong những nhân tố của sự cân bằng này là mức độ bành trướng kinh tế của Hoa Kỳ và Nhật trong vùng phải ngang ngửa, vì nếu không, một trong hai cường quốc này sẽ chiếm lĩnh vị trí thống soái trong vùng và do đó quyền lợi kinh tế của các nước ASEAN, trong đó có Singapore, sẽ bị tổn hại. Còn về quan hệ Xô -Trung, giới lãnh đạo Singapore cho rằng quyền lợi của đảo quốc đòi hỏi duy trì bất đồng giữa hai nước và theo đuổi chính sách "lánh đều" hai nước. Có làm như vậy mới dựng được một "hàng rào vệ sinh" nhằm ngăn cản sự lan tràn của hệ ý thức cộng sản ở Đông Nam Á.

Như vậy, khái niệm "trung lập tích cực" theo cách diễn đạt của Singapore giờ đây có ý nghĩa là thừa nhận một thực tế hiển nhiên: sự hiện diện của các cường quốc Đông Nam Á là điều không thể tránh khỏi và được xem là hữu ích nỗ lực duy trì tình trạng cân bằng lực lượng giữa họ ở nơi đây. Và nếu sự hiện diện của họ là tất yếu, thì cần tìm cách thu hút sự quan tâm của họ vào việc phát triển kinh tế của Singapore và sử dụng sự hiện diện tập thể của họ vào sự đảm bảo hòa bình và an ninh trong vùng ((cid:31)). Như vậy chính sách thích ứng của Singapore sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên.

63

Lập trường của Singapore được biểu lộ đầy đủ và chính xác trong lời phát biểu sau của Bộ trưởng Ngoại giao Rajaratnam: "Chúng ta chấp nhận sự hiện diện của các cường quốc lớn và sự cạnh tranh của họ như là một nhân tố hiển nhiên trong sự hoạt quốc tế... Vì chúng ta không thể không tính đến mối quan hệ cạnh tranh này, do đó, theo quan điểm của chúng ta, lối thoát tốt nhất cho tình trạng này đối với những nước nhỏ là sự hiện diện của tất cả các cường quốc lớn. Ở nơi đâu có nhiều mặt trời, thì lực hút của chúng không những sẽ yếu đi, mà còn nhờ tác động và phản tác động của lực này, các hành tinh nhỏ sẽ được tự do hơn trong chuyển động của mình" ((cid:31)). Thế cân bằng lực lượng trong vùng có thể đạt được, theo ý kiến của giới lãnh đạo Singapore, bằng hai con đường. Thứ nhất là thực hiện ý tưởng của bản tuyên bố Kuala Lumpur về trung lập hóa Đông Nam Á. Nhưng trong điều kiện sinh hoạt quốc tế cụ thể thời đó, ý tưởng này sẽ không thể thành tựu được. Hơn nữa, theo suy nghĩ của chính phủ Lý Quang Diệu, các cường quốc đều cho rằng ý tưởng trung lập hóa Đông Nam Á không phù hợp với quyền lợi của họ (vì nó đòi hỏi các cường quốc không được can thiệp vào công việc nội bộ của các nước trong vùng và những cuộc tranh chấp ở đây). Do đó họ sẽ không đầu tư phát triển kinh tế các nước trong vùng, và như vậy, đến lượt các nước này sẽ bị thiệt hại, đặc biệt là Singapore, vốn lệ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài. Vậy nên đi theo con đường thứ hai - sự hiện diện của tất cả các cường quốc lớn, quan hệ cạnh tranh giữa họ sẽ không cho phép cường quốc nào chiếm được vị thế độc quyền. Đây là điều kiện đảm bảo phồn vinh kinh tế

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

và ổn định chính trị của chính Singapore. Họ tuyên bố : "Thay vì đóng cửa không cho các nước ngoài vùng xâm nhập vào đây (tức Đông Nam Á), thiết nghĩ nên thu hút tư bản của càng nhiều nước càng tốt vào việc phát triển vùng; cách này sẽ không tạo ưu thế cho một cường quốc lớn nào cả" ((cid:31)). Năm 1973, trong chuyến đi thăm thường lệ ở Hoa Kỳ, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã giải thích thêm ý tưởng trên: "Đây là cách tốt nhất hiện nay, mà các nước Đông Nam Á có thể vận dụng trong nỗ lực tìm kiếm ổn định chính trị và tiến bộ. Hòa bình và phồn vinh chắc chắn sẽ dễ duy trì hơn, nếu gánh nặng sau đây - đảm bảo ổn định và tạo điều kiện cho thương mại và hoạt động đầu tư - được các cường quốc và những nước lớn chia sẻ với nhau. Nếu được vậy, không một nước nhỏ nào thấy cần phải gia nhập một liên minh kinh tế này khác do vị thế thống trị của một cường quốc này và do sự vắng mặt của một cường quốc khác" ((cid:31)). Tóm lại, vào đầu những năm 70, giới lãnh đạo Singapore đã xác định được rằng Singapore có thể tìm thấy chỗ đứng và vai trò của mình trên thế giới bằng cách dựa vào các phương tiện kinh tế và ngoại giao, thông qua tính linh hoạt chính trị và chủ nghĩa thực dụng. Nghĩa là đảo quốc phải biết thích ứng với các biến chuyển trên chính trường quốc tế và khuyến khích sự hiện diện của nước ngoài chẳng những trong vùng, mà trước hết ngay tại nước mình, tất nhiên là với tất cả sự cẩn trọng để không gây tổn hại cho độc lập dân tộc ((cid:31)).

64

III. TỪ CHỦ NGHĨA TOÀN CẦU ĐẾN CHỦ THUYẾT VÙNG. Trong những năm đầu sau khi được độc lập, Singapore chú tâm đến các mối quan hệ mang tính chất toàn cầu nhiều hơn là để ý phát triển các mối quan hệ chính trị và kinh tế với các nước trong vùng. Có thể giải thích xu hướng này bằng nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất là Singapore, sau khi được độc lập, muốn tự khẳng định vị thế của mình trong cộng đồng thế giới bằng cách xin gia nhập nhiều tổ chức quốc tế, thiết lập quan hệ với nhiều loại nước khác nhau. Để phù hợp với mục tiêu này, giới lãnh đạo Singapore đã công bố đường lối "trung lập tích cực", gia nhập Phong trào không liên kết và lập quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Thứ hai là để phát triển kinh tế, điều kiện quyết định cho việc duy trì ổn định chính trị và xã hội, Singapore phải thú hút rộng rãi vốn đầu tư nước ngoài, mà trong hoàn cảnh lúc đó chỉ có các nước tư bản phát triển mới có thể cung cấp. Thứ ba là lúc tuyên bố độc lập, quan hệ giữa Singapore và các nước láng giềng gần nhất, Malaysia và Indonesia, rõ ràng còn mang tính chất thù địch, đối đầu, hơn là cộng tác. Thứ tư là chính sách đảm bảo an ninh quốc gia của Singapore còn dựa vào các mối quan hệ lâu đời với Anh. Với thời gian, tác động của những nhân tố kể trên thay đổi trông thấy do sự xuất hiện của những xu hướng mới trong sinh hoạt quốc tế trong vùng: sự thất bại của người Mỹ ở Đông Dương, vai trò ngày càng trở nên quan trọng hơn của người Nhật ở Đông Nam Á, các nước Đông Nam Á quan tâm hơn đến việc kết hợp các nỗ lực của từng nước nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội và kinh tế. Chính trong điều kiện của tình thế quốc tế mới mà Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) bao gồm Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Singapore được thành lập năm 1967. Mục tiêu của Hiệp hội được xác định rõ là thành lập và phát triển quan hệ cộng tác về kinh tế và văn hóa giữa các nước thành viên. Dù quan hệ cộng tác chính trị lúc đầu không được nhắc đến, nhưng chỉ vài năm sau đó, không một nước thành viên nào phủ nhận sự hiện diện của nó. Lúc đầu, thái độ của giới lãnh đạo Singapore đối với khả năng và viễn ảnh của ASEAN trong cả lĩnh vực kinh tế lẫn chính trị mang tính chất hai mặt. Họ vừa hiểu rằng trong tình thế quốc tế mới, không thể không thắt chặt quan hệ cộng tác với các nước Đông Nam Á khác, nhưng họ vừa cho rằng Singapore - một nước có trình

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

độ phát triển kinh tế cao nhất trong vùng - sẽ không được hưởng lợi nhiều khi thiết lập quan hệ cộng tác với các nước có trình độ phát triển kinh tế kém hơn. Bộ trưởng Ngoại giao Rajaratnam đã có lần phát biểu: "Quan hệ cộng tác giữa các yếu tố về kinh tế và không ổn định về chính trị không thể mang lại sự tăng trưởng và tiến bộ mau chóng... Đối với Đông Nam Á, việc động viên mọi nỗ lực nhằm thay đổi số phận của mình chỉ có thể thành công với điều kiện có được đối tác mạnh hơn và tiên tiến hơn cùng chung sức đảm bảo an ninh chung về phồn vinh" ((cid:31)). Quan điểm trên đã khiến Singapore, dù là một nước thành viên - sáng lập ASEAN, vẫn tiếp tục chú trọng các quan hệ cộng tác ngoài vùng hơn là trong vùng. Có thể nói cho đến giữa thập niên 70, quan hệ giữa Singapore và các nước thành viên ASEAN khác cùng lắm chỉ có thể được xem là "lạnh lùng và đúng mực". Chẳng hạn, cho đến những năm 1972 - 1973, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã không ít lần viếng thăm các nước Âu Mỹ, nhưng chưa lần nào đến các nước ASEAN, và tỏ ra không sốt sắng lắm với các công việc liên quan đến Hiệp hội. Do vậy có những lời chỉ trích rằng Singapore gia nhập ASEAN chẳng qua là một thủ thuật chính trị nhằm tránh bị cô lập với các nước khác trong vùng, hoặc vì nhắm đến một viễn ảnh xa xôi. Thái độ trên của Singapore đối với ASEAN vẫn tiếp tục được duy trì cho đến năm 1975, khi những diễn biến lớn lao ở các nước Đông Dương đã thúc đẩy nhanh tiến trình nhất thể hóa trong ASEAN và đã ảnh hưởng quyết định đến lập trường của Singapore đối với mối quan hệ cộng tác trong vùng. Cột mốc quan trọng trong tiến trình này là Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất được tổ chức trong các ngày từ 22 đến 24-2-1976 trên đảo Bali (Indonesia). Mục tiêu của Hội nghị là tăng cường Hiệp hội và đẩy mạnh quan hệ cộng tác thương mại - kinh tế giữa các nước thành viên. Từ thời điểm này, chính sách vùng bắt đầu chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động đối ngoại của Chính phủ Lý Quang Diệu. Tất nhiên, việc tổ chức Hội nghị Bali tự bản thân nó sẽ không làm thay đổi lập trường của giới cầm quyền Singapore đối với ASEAN, nếu nó không diễn ra trong một bối cảnh chính trị và kinh tế hoàn toàn khác so với lúc Hiệp hội được thành lập năm 1967. Trước hết, những thắng lợi của các nước Đông Dương trong cuộc chiến tranh với Mỹ đã bị giới lãnh đạo Singapore xem là " sự tăng cường mối đe dọa cộng sản". Do vậy, Singapore cần đẩy mạnh cộng tác với ASEAN để đảm bảo ổn định trong nước. Nếu có những bước đi khéo léo, Singapore sẽ khiến ASEAN trở thành chỗ dựa vững chắc khi hoạch định chính sách đối với các nước Đông Dương cũng như trong quan hệ đối với các nước ngoài vùng. Sau nữa, những thay đổi lớn lao bắt đầu diễn ra trong cấu trúc kinh tế của các nước trong vùng, như các ngành công nghiệp chế biến mới ra đời cần nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng ở các nước phương Tây đã buộc các nước ASEAN phải tăng cường quan hệ cộng tác kinh tế với nhau nhằm tìm những thị trường thay thế và cũng để đủ sức đối phó với các nước tư bản phát triển hơn. Các nước này, đặc biệt là Nhật Bản, trong nỗ lực hạ giá thành sản phẩm và xuất khẩu các ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi nhiều công lao động và hao tốn nhiều nguyên, nhiên liệu, đã tăng cường đầu tư vào ASEAN.

65

Tất cả những thay đổi trên đã khiến giới lãnh đạo Singapore tin rằng tăng cường cộng tác với ASEAN sẽ mang lại không ít lợïi ích cho đảo quốc. Kinh nghiệm hoạt động của ASEAN trong những năm sau đó cho thấy Hiệp hội có thể buộc các nước tư bản phát triển phải tính đến quyền lợi kinh tế và chính trị của các nước thành viên nếu họ thương lượng như nhóm thống nhất và có lập trường đồng thuận.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

66

Đó là lý do khiến từ giữa thập niên 70, ASEAN thường xuyên tổ chức các hội nghị bộ trưởng ngoại giao như diễn đàn toàn vùng để thảo luận các vấn đề và hoạch định lập trường chung không chỉ, và thậm chí chủ yếu không phải, về các vấn đề kinh tế, mà chủ yếu về các vấn đề đối ngoại. Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này là nhằm xác lập một đối sách chung trước diễn biến phức tạp trong quan hệ giữa các nước Đông Dương với nhau. Nguyên là từ sau thắng lợi của các nước Đông Dương, tình hình đối nội và đối ngoại của các nước này đã trải qua nhiều biến động lớn lao: chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Campuchia và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trở nên căng thẳng, vấn đề Hoa Kiều... Tất cả đã đẩy nền kinh tế Việt Nam rơi vào cảnh hỗn loạn và do đó đã khiến không ít người Việt Nam bỏ trốn ra nước ngoài. Nhưng quan trọng hơn là các sự kiện diễn ra trong tháng 1-1979: chế độ Pol Pot ở Campuchia bị lật đổ và Việt Nam đưa quân vào nước này. Các diễn biến này, mà vốn sau đó làm phát sinh "vấn đề Campuchia" đã bị các nước ASEAN xem là mối đe dọa trực tiếp đến sự ổn định chính trị của họ. Singapore có một lập trường đặc biệt gay gắt và không khoan nhượng trong vấn đề Campuchia. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN họp ở Bali tháng 6-1979, Bộ trưởng ngoại giao Singapore Rajaratnam chủ trương rằng ASEAN cần cung cấp vũ khí và ủng hộ vật chất cho các lực lượng chống Việt Nam ở Campuchia. Ông còn nhắc nhở các nước ASEAN rằng không được có bất cứ chính sách hòa giải nào với Hà Nội, rằng Việt Nam không thể được đối xử như "một láng giềng chủ yếu là yêu hòa bình". Chính Singapore là nước trực tiếp tổ chức liên minh ba phái ở Campuchia. Tháng 3-1981, Bộ trưởng Ngoại giao Singapore Danabalan còn đưa ra đề nghị rằng các nước ASEAN nên viện trợ quân sự cho liên minh này. Lập trường gay gắt của Singapore trong vấn đề Campuchia là một trong những nguyên nhân khiến nước này tích cực ủng hộ việc duy trì sự hiện diện về quân sự của Hoa Kỳ ở trong vùng và mở rộng quan hệ về nhiều mặt với nước được xem là đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa. Đến cuối những năm 70, Mỹ trở thành nước đứng đầu trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp của tư nhân vào Singapore. Trong lĩnh vực quân sự, Singapore trở thành cảng mà Hạm đội 7 của Mỹ thường xuyên cập bến. Giữa lực lượng quân sự giữa hai nước đã diễn ra nhiều cuộc tập trận chung. Nhưng đường hướng này không có nghĩa là Singapore mong muốn đi đến một liên minh quân sự với Mỹ. Đơn giản là vì giới lãnh đạo Singapore chỉ muốn sử dụng việc tăng cường quan hệ quân sự với Hoa Kỳ như là một nhân tố tạo sức ép lên Việt Nam trong vấn đề Campuchia. Một liên minh quân sự như vậy sẽ không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho Singapore.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Chương III CÁC HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA SINGAPORE TRONG THẬP NIÊN 80

67

I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH HÌNH QUỐC TẾ TRONG VÙNG. Cũng giống như trong những giai đoạn trước, tình hình quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á trong những năm 80 tiếp tục chịu tác động từ nhiều nhân tố ở ngay trong vùng, cũng như trên thế giới. Sau một thời gian "hòa dịu", từ cuối thập niên 70, quan hệ giữa hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ bắt đầu chuyển dần sang trạng thái "đối đầu". Năm 1978, cho rằng việc Liên Xô triển khai các tên lửa SS - 20 là hành động trực tiếp đe dọa đến an ninh của mình, các nước thành viên khối NATO đã quyết định tăng cường lực lượng quốc phòng bằng cách đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Tại cuộc họp của Hội đồng NATO diễn ra ở Washington trong tháng 5, kế hoạch gia tăng đều đặn ngân sách quốc phòng của các nước thành viên cho đến cuối thế kỷ XX đã được thông qua. Đồng thời, cũng từ năm 1978, các nước phương Tây bắt đầu phát động một chiến dịch ầm ĩ quanh vấn đề bảo vệ " quyền con người" sống trong các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày 22-12-1979, NATO thông qua nghị quyết về việc sản xuất và triển khai tên lửa tầm trung của Mỹ ở Tây Âu trong trường hợp cuộc đàm phán tài giảm binh bị thất bại. Đồng thời, Thượng viện Mỹ quyết định tạm ngưng thảo luận việc phê chuẩn Hiệp ước SALT-2 và các cuộc đàm phán nhằm hạn chế cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô. Ngày 27-12-1979, giới lãnh đạo Liên Xô quyết định đưa quân đội vào Afghanistan nhằm giúp đỡ, theo lời họ, nhân dân nước này chống lại sự can thiệp từ bên ngoài, mà ở đây hàm ý từ phía Mỹ và các đồng minh thân cận - Trung Quốc và Pakistan. Quyết định này đã gây ra một phản ứng gay gắt ở các nước phương Tây và từ phía chính quyền Trung Quốc. Họ coi đây là một biểu hiện khác của "chủ nghĩa bành trướng Xô Viết" nhằm vào miền Nam Á. Họ bực tức nhắc lại rằng chỉ mới một năm trước đó, giới lãnh đạo Xô Viết đã tích cực ủng hộ một hành động tương tự của Việt Nam ở Campuchia. Và rõ ràng ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á được mở rộng và tăng cường nhờ sự can thiệp của Việt Nam vào Campuchia. Do đó, không phải là đáng ngạc nhiên khi thập niên 80 mở đầu bằng tình trạng gay gắt trong quan hệ giữa các cường quốc lớn trên thế giới. Chống Liên Xô trở thành nội dung chính trong chính sách đối ngoại của chính phủ Mỹ Jimmy Carter. Cùng với Hoa Kỳ, Trung Quốc đã dồn sức vào việc "ngăn chặn bá quyền Xô Viết". Giới cầm quyền Bắc Kinh kêu gọi "gây sức ép quân sự lên chủ nghĩa bá quyền Xô Viết", "cảnh giác cao độ" trước "chính sách bao vây các nước láng giềng" mà Liên Xô đang thực hiện. Để đáp trả hành động chống Xô Viết của các nước phương Tây và Trung Quốc, giới lãnh đạo Xô Viết đã tỏ thái độ không kém phần quyết liệt. Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Liên Xô tháng 6-1980 đã thông qua nghị quyết "Về tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Liên Xô" trong đó nêu rõ rằng " trong tình hình phức tạp hiện nay, khi các hoạt động phiêu lưu của Hoa Kỳ và đồng minh của nó đã làm tăng nguy cơ chiến tranh, cần kiên trì theo đuổi đường lối của các Đại hội XIV, XV của Đảng Cộng sản Liên Xô là tăng cường toàn diện quan hệ liên minh anh em giữa các nước xã hội chủ nghĩa, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa vì tự do và độc lập của nhân dân các nước". Để thực hiện nghị quyết

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

68

vừa kể, Liên Xô đã tăng cường giúp đỡ về chính trị và quân sự cho chính phủ Kabul và chính phủ Việt Nam. Moskva lên án các cuộc đàm phán diễn ra giữa Bắc Kinh và Washington và nhấn mạnh rằng chúng "nhằm tăng cường đối đầu với Liên Xô" và cảnh cáo rằng " sự hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc trên cơ sở chống Liên Xô sẽ được xem xét một cách thích đáng tại Liên Xô trong bối cảnh chung của các mối quan hệ Xô - Mỹ và Xô - Trung. Liên Xô sẽ thông qua những biện pháp, mà tình hình phát sinh đòi hỏi". Tuy nhiên, trong nửa sau thập niên 80 đã xuất hiện xu thế đi đến hòa dịu trong quan hệ giữa ba cường quốc, vốn có ảnh hưởng không nhỏ trong vùng Đông Nam Á - Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc. Các cuộc gặp gỡ giữa những vị nguyên thủ Hoa Kỳ và Liên Xô - Tổng thống R. Reagan và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M. Gorbachev, chuyến viếng thăm của M. Gorbachev đến Trung Quốc... đã góp phần không nhỏ vào việc làm cho bầu không khí quốc tế trên thế giới cũng như trong vùng trở nên dễ chịu hơn. Như vậy thập niên 80 chứng kiến hai xu thế trái ngược nhau cùng tồn tại trên chính trường quốc tế: một tạo ra tình trạng căng thẳng, đối đầu; một đưa đến tình trạng hòa dịu, tan băng trong quan hệ giữa các cường quốc. Chính trường quốc tế Đông Nam Á cũng chịu tác động của hai xu thế trái ngược nhau này. Dù nhìn chung tình hình Đông Nam Á bị chi phối bởi các vấn đề cục bộ mà quan trọng nhất trong số này là vấn đề Campuchia. Tuy xét về mặt địa lý đây là vấn đề cục bộ, nhưng do có nhiều cường quốc ngoài vùng dính líu vào đây, vấn đề đã thực sự mang tính chất toàn cầu. Hoa Kỳ vẫn là cường quốc có nhiều quyền lợi rộng rãi trong vùng và trong mọi lĩnh vực, dù đã phải giảm nhiều vai trò quân sự sau cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Dưới thời chính phủ Reagan (1981-1989), Hoa Kỳ bắt đầu công khai để lộ ý đồ khôi phục và mở rộng sự hiện hữu của mình ở Đông Nam Á. Các nước ASEAN chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt kinh tế - tài chính của Hoa Kỳ ((cid:31)). Về phần các nước Đông dương, Hoa Kỳ đặc biệt chú trọng tăng cường chính sách cấm vận chống Việt Nam và tích cực can thiệp vào vấn đề Campuchia bằng cách ủng hộ Liên minh ba phái do Norodom Sihanuk cầm đầu ((cid:31)). Khác với những thập niên 50 - 70, khi Hoa Kỳ đơn độc đứng ra bảo vệ "an ninh của thế giới tự do", giờ đây Hoa Kỳ tìm cách lôi kéo sự tham gia của các cường quốc khác, đặc biệt là Nhật, một đồng minh thân cận, lâu đời và có tiềm lực của Hoa Kỳ ở Viễn Đông. Đối với Nhật, Đông Nam Á giờ đây không chỉ là nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của Nhật, là nơi kiểm soát các tàu chở dầu từ Trung Đông đến Nhật, mà giờ đây còn là nơi để Nhật đầu tư và thử nghiệm vai trò cường quốc mới nổi. Thực vậy, nếu đến giữa thập niên 70 chiếm vị trí trung tâm trong các nhiệm vụ đối ngoại của Tokyo ở vùng Đông Nam Á vẫn là các mục tiêu thuần kinh tế, thì từ nửa sau thập niên 70 các vấn đề chính trị bắt đầu được nhấn mạnh. Các biến cố diễn ra ở Campuchia và quanh nó đã được giới cầm quyền Nhật đánh giá là tiền đề thuận lợi cho sự tăng cường hơn nữa ảnh hưởng chính trị của nước này ở Đông Nam Á. Nhật trở thành nước tham dự cần thiết trong các hội nghị tư vấn hàng năm giữa các nước tư bản hàng đầu và các nước ASEAN ở cấp bộ trưởng ngoại giao, ngày càng tích cực sử dụng viện trợ kinh tế như là một công cụ đắc lực cho việc tăng cường ảnh hưởng đối với các nước thành viên Hiệp hội, đưa ra nhiều sáng kiến giải quyết vấn đề Campuchia... Một sự thay đổi cực kỳ quan trọng khác trong mối quan hệ giữa các cường quốc ngoài vùng, nhưng có những quyền lợi sống còn ở Đông Nam Á diễn ra trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Cho đến những năm đầu thập niên 70, Hoa Kỳ vẫn coi Trung Quốc như một mối đe dọa chính yếu đến an ninh trong vùng Đông

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

69

Nam Á và đến quyền lợi của Hoa Kỳ ở đây, thì trong nửa sau thập niên 70, cái nhìn của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đã chuyển sang một bước ngoặt hoàn toàn ngược lại. Sử dụng "con bài Trung Quốc" đã trở thành công cụ quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Hoa Kỳ ở trong vùng, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc đã lần lượt thiết lập quan hệ bình thường với đa số các nước ASEAN. Gắn liền với chuyển biến này, quan hệ giữa Singapore và Trung Quốc cũng được cải thiện và phát triển, mà mốc khởi đầu đầy ý nghĩa tích cực là chuyến viếng thăm Bắc Kinh tháng 3-1975 của Bộ trưởng Ngoại giao Singapore Rajaratnam và chuyến viếng thăm chính thức Trung Quốc tháng 5-1976 của Thủ tướng Lý Quang Diệu. Sẽ không phải là cường điệu nếu nói rằng quan hệ với Trung Quốc trở thành một trong những phương hướng chính trong chính sách đối ngoại của Singapore. Việc phát triển quan hệ giữa hai bên gặp không ít trở ngại từ phía Singapore, như Singapore vẫn luôn coi Trung Quốc là đại biểu của khối các nước có hệ thống chính trị - xã hội thù địch với chế độ hiện hữu ở Singapore, chính sách hai mặt và đầy hậu ý không tốt của Bắc Kinh đối với cộng đồng Hoa Kiều ở Đông Nam Á, trong lúc ở Singapore người gốc Hoa lại chiếm đến 3/4 dân số và giới lãnh đạo đảo quốc luôn nhấn mạnh rằng xét về mặt địa lý, lịch sử, kinh tế cũng như chính trị, Singapore là một phần không thể tách lìa của Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc Trung Quốc từ cuối thập niên 70 cố gắng phát triển quan hệ về mọi mặt với các nước tư bản phát triển, mà Singapore có những mối giao hữu chặt chẽ đã tạo điều kiện cho sự tăng cường quan hệ giữa Singapore và Trung Quốc. Cần lưu ý thêm là sự phát triển này không đưa đến việc lập quan hệ chính thức giữa hai nước, vì giới lãnh đạo Singapore đã tuyên bố rằng điều này chỉ được thực hiện, sau khi Indonesia và Trung Quốc tái lập quan hệ chính thức. Trong thời gian đó, quan hệ tài chính - kinh tế giữa Singapore và Trung Quốc phát triển rất mạnh. Tổng giá trị hàng hóa trao đổi giữa hai nước tăng từ 1,9 lên 4,5 tỷ đô la Singapore trong khoảng thời gian 1980 - 1987. Singapore trở thành bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Các công ty Singapore đầu tư nhiều vào Trung Quốc và dự phần thực hiện 114 dự án kinh tế ở Trung Quốc ((cid:31)). Trong khi đó, quan hệ giữa Trung Quốc và nhiều nước Đông Nam Á khác lại diễn ra theo chiều hướng tiêu cực. Chính sách của Trung Quốc đối với vấn đề Campuchia, đối với Việt Nam, hành động phô diễn sức mạnh của Trung Quốc trong vùng quần đảo Trường Sa đầu năm 1988... đã khiến các nước Đông Nam Á vẫn giữ cái nhìn e dè và không thân thiện đối với Trung Quốc. Giữ vai trò quyết định đến quan hệ giữa các nước trong vùng là vấn đề Campuchia. Nó đã làm xấu đi quan hệ vốn đang phát triển theo chiều hướng được cải thiện rõ rệt giữa Việt Nam và ASEAN. Tệ hơn nữa, nó đã tạo ra tình trạng đối đầu giữa hai khối nước - Đông Dương và ASEAN. Trong số các nước ASEAN có Thái Lan và Singapore giữ lập trường đặc biệt gay gắt quanh vấn đề Campuchia. Tuy nhiên, từ giữa thập niên 80, giữa hai bên xuất hiện xu thế đối thoại thay vì đối đầu nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề này. Trong khối các nước ASEAN, từ đầu thập niên 80 đã nổi lên xu thế mở rộng quy mô hợp tác thương mại - kinh tế và tăng cường phối hợp các hoạt động đối ngoại giữa các nước thành viên. Dù còn nhiều bất đồng quanh vấn đề cộng tác kinh tế, các nước thành viên ít ra đã tìm thấy một tiếng nói chung trong vấn đề chính trong sinh hoạt quốc tế trong vùng - vấn đề Campuchia. Nhờ tiềm năng kinh tế được tăng cường, sự đồng thuận này đã cho phép Hiệp hội củng cố được vị thế của mình. Có thể nói, sau hơn một thập niên kể từ lúc được thành lập, Hiệp hội giờ đây đã tìm thấy được chỗ đứng của mình trên chính trường quốc tế.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ CỦA SINGAPORE TRONG THẬP NIÊN 80.

Tình hình phát triển kinh tế nói trên không thể không tác động đến tình hình

70

Vào đầu những năm 80, nền kinh tế Singapore tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao (gần 8%/năm). Với những thông số như xuất khẩu tăng đều đặn 9,8%, tỷ lệ công nghiệp trong tổng sản phẩm nội địa là 25%, Singapore chiếm vị trí hàng đầu trong số những nước đang phát triển. Singapore còn thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức độ thấp 3,8%/năm (trong khoảng thời gian 1980 - 1984). Tỷ lệ thất nghiệp cũng tương đối thấp: 2,9% (1981), 3,2% (1983) và 2,7% (1984) ((cid:31)). Tuy nhiên, từ giữa thập niên 80, trong nền kinh tế Singapore bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu đáng lo ngại. Trong năm 1985, lần đầu tiên kể từ sau ngày được độc lập, giá trị tổng sản phẩm nội địa giảm 1,8% so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp lên đến 4,1%. Tình hình kinh tế trở nên nghiêm trọng đến mức tháng 8 -1985, trong bài diễn văn đọc nhân ngày lễ độc lập, Thủ tướng Lý Quang Diệu nói: "Khi phát biểu trong dịp này, tôi thường kể cho các bạn nghe những thành tựu của chúng ta. Nhưng lần này, tôi buộc phải báo cho các bạn biết những dấu hiệu đáng lo ngại " ((cid:31)). Có nhiều nguyên nhân được đưa ra để giải thích tình trạng suy thoái kinh tế ở Singapore. Trước hết là do nhịp độ tăng trường kinh tế chậm lại ở Mỹ trong những năm 1984 - 1985 (từ 6,8 xuống còn 2,3%). Đây lại là thị trường tiêu thụ đến 20% tổng giá trị hàng xuất khẩu của Singapore. Chính nơi đây, người ta lại nhìn thấy một gốc tích khác của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Singapore: mô hình phát triển kinh tế của đảo quốc lấy xuất khẩu làm mục tiêu chính. Do đó, vào đầu thập niên 80, khi nền kinh tế các nước tư bản phát triển bị sa vào khuảng hoảng, tiếp theo đó là thời kỳ suy thoái kéo dài, thị trường tiêu thụ ở những nước này bị thu hẹp lại. Bối cảnh không thuận lợi này đã có tác động trực tiếp đến kinh tế Singapore. Thêm một yếu tố nữa khiến mô hình kinh tế Singapore dễ bị tổn thương là trong suốt toàn bộ khoảng thời gian từ sau ngày độc lập, tư bản nước ngoài luôn chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng giá trị sản phẩm nội địa: trong những năm 1973 - 1979 đã là 23,6%, còn trong những năm 1979 - 1984 là 28,1%. Vị thế của tư bản nước ngoài đặc biệt mạnh trong công nghiệp chế biến, nơi số xí nghiệp thuộc quyền của họ năm 1984 chiếm đến 53% tổng công nhân viên chức, sản xuất hơn 70% và thực hiện 82% hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến trong nước ((cid:31)). Để thoát khỏi cơn khủng hoảng, chính phủ Singapore vẫn duy trì mô hình cũ, nhưng đồng thời có bổ sung thêm một số thay đổi, trong số đó chiếm vị trí chủ yếu là chính sách tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho tư bản thương nhân. Về phần mình, chính phủ phải phát triển hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất và tạo điều kiện cho sự phát triển của khu vực dịch vụ. Giới lãnh đạo kêu gọi công nhân viên chức nên "thắt lưng buộc bụng", mà cụ thể là "không nên trông đợi trong những năm sắp đến một phép mầu nào liên quan đến tiền lương". Chính phủ còn giảm rất nhiều phần đóng góp bắt buộc của giới chủ nhân vào quỹ bảo hiểm do chính phủ thiết lập và kiểm soát, giảm thuế lợi tức cho các công ty trong và ngoài nước... Nhờ những biện pháp khắc khổ trên, trong năm 1986 tổng sản phẩm nội địa tăng 1,9%, và bước sang đầu năm 1987 nền kinh tế Singapore đã vượt qua cực điểm của cơn suy thoái và bắt đầu hồi phục. Thêm một năm nữa, cuộc khủng hoảng cơ bản đã được khắc phục. chính trị. Trong nửa đầu thập niên 80, biến cố chính trị lớn nhất và mang lại nhiều bài học nhất cho giới lãnh đạo Singapore có lẽ là một số đại biểu của phe đối lập được

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

1 Straits Times, 23-12-1984.

71

bầu vào trong Quốc hội. Cuộc tổng tuyển cử năm 1980 không mang lại một thay đổi đáng kể nào trong tình trạng phân bố lực lượng trong nước và một lần nữa đã xác lập vị thế thống soái của đảng HĐND trong cấu trúc chính trị trong nước : Đảng được 75,5% số phiếu bầu so với 72,4% năm 1976. Nhưng trong cuộc bầu cử bổ sung năm 1981, J. Jayagratnam lãnh tụ đảng Công nhân đối lập, đã được bầu vào Quốc hội. Kết quả này cho thấy trong điều kiện quyền lực của đảng cầm quyền ngày càng được củng cố, hệ thống chính trị trong nước không thể hoạt động hiệu quả nếu không có một lực lượng đối lập trung thành và có trách nhiệm. Vấn đề đặt ra cho giới lãnh đạo đảng HĐND là tìm ra một phương cách giải quyết vấn đề được đặt ra một cách dễ chấp nhận nhất. Ngày 26-6-1984, Quốc hội Singapore đã thông qua tu chính án bổ sung hiến pháp về việc tổ chức bầu cử Quốc hội. Theo đó, con số đại biểu đối lập trong Quốc hội sẽ được nâng lên đến 60. Nhưng nếu trong cuộc bầu cử Quốc hội sắp đến, không một đại biểu đối lập nào chiến thắng, phe đối lập vẫn được quyền có ba ghế trong Quốc hội. Và những người này phải giành được ít nhất 15% số phiếu bầu tại đơn vị bầu cử của họ. Những ghế này sẽ bỏ trống, nếu những người được đề cử vào đó từ chối không nhận. Trong trường hợp một đại biểu đối lập qua đời hay từ chức, ghế của ông ta cũng sẽ bị bỏ trống. Những đại biểu được phe đối lập đề cử sẽ không có quyền bỏ phiếu trong những vấn đề liên quan đến tiền tệ - tài chính và hiến pháp. Sau khi tu chính án được thông qua, đảng HĐND đã tích cực chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội được dự định tổ chức vào ngày 22-12-1984. Đảng cho công bố "Cương lĩnh hành động" nêu rõ những nhà lãnh đạo trẻ của Đảng sẽ làm gì trong thập niên tới. Cương lĩnh cũng nhấn mạnh rằng dưới sự lãnh đạo của đảng HĐND, Singapore sẽ trở thành một quốc gia hiện đại, có nền văn hóa cao, phát triển thịnh vượng, hoàn toàn được vi tính hóa với một chính phủ năng động; mức sống của người dân đến cuối thiên niên kỷ sẽ cao hơn mức sống vào giữa thập niên 80 của người Nhật và người Mỹ. Trong quá trình chuẩn bị bầu cử, giới lãnh đạo đảng HĐND chú ý thu hút vào các vị trí lãnh đạo trong đảng và trong bộ máy chính quyền những người trẻ có năng lực và có học thức, chủ yếu từ trong giới những nhà khoa học - kỹ thuật. Không lâu trước ngày bầu cử, hầu như toàn bộ Ban chấp hành trung ương đảng HĐND đều bị thay thế: trong số 14 thành viên của "đội ngũ già", chỉ mỗi Lý Quang Diệu còn ngồi lại ở chức vụ Tổng bí thư Đảng. Sự chuẩn bị kỹ càng đã cho phép đảng HĐND giành được 77 trong tổng số 79 ghế trong Quốc hội. Nhưng tỷ lệ cử tri bầu cho Đảng chỉ còn 62,9% so với 75,5% năm 1980. Con số bày cho thấy sự không đồng tình của họ đối với phong cách lãnh đạo đất nước nói chung của các lãnh tụ đảng HĐND, cũng như đối với một số chính sách cụ thể của họ. Thủ tướng Lý Quang Diệu đã bình luận như sau về diễn biến này : "Kết quả của cuộc bầu cử cho thấy cử tri muốn tạo sức ép đối với đảng HĐND, buộc chúng tôi phải thay đổi chính sách, giảm bớt tính khắc nghiệt của những biện pháp đã được đưa ra" (1). Sau cuộc bầu cử, trong hàng ngũ chóp bu đảng - chính quyền đã diễn ra những thay đổi lớn về nhân sự: những nhà kỹ trị trẻ được bổ nhiệm vào những chức vụ cao cấp trong chính phủ thay thế những thành viên lớn tuổi. Trongnội các mới, "đội ngũ cũ", ngoại trừ Lý Quang Diệu, chỉ còn lại Phó thủ tướng Rajaratnam và Bộ trưởng Tư pháp E.U. Berker. Trong số những nhà kỹ trị trên nổi bật lên Go Chok Tong trong chức Phó thủ tướng thứ Nhất kiêm Bộ trưởng Quốc phòng. Một nhân vật trẻ tuổi khác cũng thu hút được sự chú ý của nhiều người là Lý Hiển Long, con trai

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

của Lý Quang Diệu, được bầu vào Ban chấp hành trung ướng Đảng HĐND vào tháng 11-1986. Từng là Bộ trưởng Quốc phòng, bộ trưởng thương mại và công nghiệp và người phụ trách Ủy ban tìm lối thoát cho nền kinh tế Singapore đang bị khủng hoảng, Lý Hiển Long giờ phụ trách một nhóm soạn thảo tuyên ngôn mới của Đảng. Ông còn là người cầm đầu cánh trẻ tuổi trong Đảng, vốn bao gồm những thành viên dưới 35 tuổi. Những chuyểân biến trên cho thấy cuộc bầu cử 1984 đánh dấu mốc chuyển giao dần quyền hành từ đội ngũ lớn tuổi sang nhóm các nhà lãnh đạo trẻ do Lý Quang Diệu tuyển chọn và huấn luyện. Về chuyện này, Go Chok Tong đã tuyên bố: "Quan hệ "thầy -trò", vốn tồn tại trước cuộc bầu cử, đã biến thành mối quan hệ bình đẳng hơn... Chúng tôi không còn tự coi mình là học trò nữa"((cid:31)).

Ngày 3-9-1988 đã diễn ra cuộc bầu cử Quốc hội mới. Đảng HĐND đã giành được 80 trong tổng số 81 ghế và 64,6% số phiếu bầu. Trong cuộc họp báo diễn ra ngày hôm sau, Lý Quang Diệu tuyên bố rằng do kết quả của cuộc bầu cử, việc chuyển giao quyền lực cho "đội hậu bị" đã hoàn tất. ((cid:31)). Ông vẫn sẽ chủ trì các cuộc họp của chính phủ, nhưng công việc lãnh đạo trên thực tế sẽ do Phó thủ tướng thứ nhất Go Chok Tong đảm nhiệm. Có mặt tại buổi họp báo, Go Chok Tong 46 tuổi tuyên bố rằng ông sẵn sàng đảm nhận chức thủ tướng trong vòng hai năm nữa. Và quả thật, trong năm 90 đã diễn ra cuộc chuyển giao quyền lực lớn lần đầu tiên kể từ sau ngày Singapore được độc lập: Lý Quang Diệu - thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Singapore - sau 25 năm cầm quyền đã chính thức chuyển giao toàn bộ quyền lực cho người kế nghiệm - tân thủ tướng Go Chok Tong, để trở thành cố vấn cấp cao của chính phủ. Một điều cần nói ngay là quan điểm của "đội hậu bị" Go Chok Tong, Lý Hiển Long, S. Danabalan... về các vấn đề liên quan đến chính sách đối nội không có gì khác so với quan điểm của "đội ngũ già". Vẫn là chủ trương phải có một chính phủ mạnh, với lối cai trị thường bị đánh giá là độc đoán. Vẫn là chính sách trấn áp thẳng tay lực lượng độc lập. Và toàn bộ phong cách cầm quyền này vẫn tiếp tục được biện minh bằng ý muốn đảm bảo sự ổn định trong nước, sự tiếp tục phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhưng để đối phó với những vấn đề đặt ra trong hoạt động đối ngoại thật không thể đơn giản như vậy. Những thay đổi lớn lao về mọi mặt trên chính trường quốc tế đã buộc giới lãnh đạo Singapore phải xem xét lại hàng loạt quan điểm đối ngoại của mình.

72

III. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG QUAN ĐIỂM ĐỐI NGOẠI. Khi xác định những mục tiêu và nhiệm vụ của đường lối đối ngoại trong những năm 80, các nhà lãnh đạo Singapore đã nhấn mạnh rằng họ vẫn tuân thủ các nguyên tắc chỉ đạo của những năm trước: thiết lập quan hệ bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội; theo đuổi chính sách không liên kết; tăng cường hợp tác với các nước thành viên ASEAN; phát triển quan hệ hợp tác thương mại - kinh tế rộng rãi và cùng có lợi với tất cả các nước trên thế giới ((cid:31)). Nhưng theo Bộ trưởng Ngoại giao S. Danabalan, trong tình hình quốc tế đã xuất hiện những nhân tố mới buộc giới lãnh đạo Singapore phải xem xét lại tư duy chính trị. Đó là: 1/ sự tăng cường chính sách bảo hộ trong thương mại quốc tế; 2/ Hoa Kỳ đánh mất ưu thế chiến lược trong thế giới tự do; 3/ tình trạng bất ổn ở Đông Dương tăng lên; 4/ Liên Xô mở rộng sự có mặt trong vùng Đông Nam Á. Những nhân tố này buộc Singapore phải đặt chính sách hợp tác với ASEAN lên vị trí hàng đầu trong đường lối đối ngoại của mình trong những năm 80. Tất nhiên, điều này hoàn toàn không có nghĩa là giới lãnh đạo Singapore có thể bảo vệ quyền lợi dân tộc chỉ bằng cách trông cậy vào các mối quan hệ với những nước ASEAN láng giềng.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

73

Trái lại, Singapore còn tỏ ra tích cực hơn nữa trong việc duy trì và mở rộng quan hệ với những nước tư bản phát triển, đặc biệt là với những nước có nhiều quyền lợi ở Đông Nam Á và có chính sách ảnh hưởng đến vị thế và quyền lợi của Singapore. Nhưng có một điều mà Singapore cố tránh, đó là những mối quan hệ quá chặt với phương Tây trong lĩnh vực chính trị, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự. Có hai lý do để giải thích thái độ trên của Singapore. Thứ nhất là Singapore không muốn để bị các nước thành viên ASEAN coi là đang theo đuổi chính sách lấy ASEAN làm chỗ dựa để có thể thương lượng trong thế mạnh với các nước tư bản phát triển, và do đó không thực tâm mở rộng quan hệ hợp tác trong khuôn khổ Hiệp hội. Thứ hai là các nhà lãnh đạo Singapore cho rằng trong những điều kiện cụ thể của tình hình quốc tế trong thập niên 80, sự đảm bảo an ninh quốc gia cần được xây dựng trên cơ sở duy trì thế cân bằng lực lượng ở Đông Nam Á có lợi cho Singapore, chủ yếu bằng các phương tiện chính trị, hơn là bằng các phương tiện quân sự. Trong chuyện này, Singapore đặc biệt chú trọng ủng hộ đường lối của Mỹ ở Đông Nam Á và chủ trương Nhật nên làm một tác nhân tích cực trong nỗ lực duy trì thế cân bằng lực lượng trong vùng. Đồng thời, giới lãnh đạo Singapore không lơ là trong việc củng cố khả năng quốc phòng của mình. Vì theo họ: "Chúng ta có ý hoàn toàn đảm bảo rằng bất kỳ ai nuôi mưu toan nuốt chửng chúng ta, sẽ như nuốt phải xương cá khiến họ bị hóc ở cổ"((cid:31)). Để cho lời tuyên bố này không thành lời nói suông, Singapore đã tăng nhanh ngân sách quốc phòng: trong nửa đầu thập niên 80 tăng bình quân 18%/ năm và trong năm 1985 đã vượt 2,5 tỷ đô la Singapore. Kết quả là xét về chi phí quốc phòng trong ngân sách, Singapore chỉ thua mỗi Thái Lan; còn nếu so với tổng sản phẩm quốc dân, chi phí này năm 1985 đạt 6,2%, cao nhất trong số các nước thành viên ASEAN. Xét về mặt trang bị kỹ thuật, quân đội Singapore đứng vị trí hàng đầu ở Đông Nam Á. Năm 1986, không quân Singapore có 155 máy bay chiến đấu, nhiều hơn cả Indonesia và Malaysia cộng lại (2). Giới lãnh đạo Singapore còn tìm cách thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia lực lượng xây dựng quốc phòng toàn dân. Trong bài phát biểu nhân ngày lễ độc lập 09-08-1982, Lý Quang Diệu tuyên bố : "Tôi quan tâm nhất đến chuyện làm thế nào khiến giới trẻ nhận thức tốt hơn về sự cần thiết đảm bảo an ninh dân tộc" ((cid:31)). Việc động viên toàn dân tham gia xây dựng quốc phòng, theo những người lãnh đạo Singapore, không đơn giản chỉ để đối phó với một mối đe dọa có thể có từ bên ngoài, mà còn vì những lý do đối nội sâu xa. Theo họ, Singapore càng vững chắc về kinh tế chừng nào, người dân, đặc biệt là lớp trẻ càng tỏ ra tự mãn chừng đó. Do đó, luật nghĩa vụ quân sự và chính sách động viên quân sự toàn dân ngoài những chức năng thông thường còn phải giáo dục lớp trẻ tình cảm yêu nước và trách nhiệm đối với số phận và an ninh của tổ quốc. Tránh để bị các nước thành viên ASEAN hiểu lầm trước các nỗ lực tích cực trong việc xây dựng quốc phòng của mình, Singapore tích cực đề xướng một quan hệ hợp tác quân sự chặt chẽ hơn với những nước này. Quan hệ hợp tác này có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: phối hợp hoạt động của bộ tham mưu trên cơ sở song phương hoặc đa phương, trao đổi tin tức tình báo hoặc chuyên gia quân sự. Trong những năm 80, Singapore thường xuyên tiến hành các cuộc tập dượt quân sự hỗn hợp với Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines. Lý do Singapore tăng cường cộng tác với các nước thành viên ASEAN khác trong lĩnh vực quốc phòng có thể được giải thích bằng nhiều nguyên nhân. Trước hết là sự thay đổi trong cách nhìn của giới lãnh đạo đảo quốc về các phương tiện và phương pháp đảm bảo an ninh đất nước trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang. Trước đây, học thuyết quốc phòng của Singapore chú trọng đến việc xây dựng và hoàn chỉnh khả năng tác chiến của đất nước, cũng như đến hệ thống quốc phòng

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

1 Straits Times, 21-10-1983.

74

toàn dân. Nhưng từ giữa thập niên 80, giới lãnh đạo bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ biên giới Singapore bằng cách đưa lực lượng quân sự cùng tham gia tập luyện đẩy lui âm mưu tiến công quân sự vào bất kỳ nước thành viên ASEAN nào. Các cuộc thao diễn quân sự chung với các nước ASEAN được diễn ra thường xuyên hơn. Nguyên nhân khác là Singapore muốn giới thiệu mình như "Thụy Sĩ ở Đông Nam Á", tức một đất nước muốn sống hoà hiếu với những nước láng giềng chung quanh và có một đường lối quốc phòng là "chính sách không liên kết và hoạt động đối ngoại tích cực trong quan hệ cộng tác chặt chẽ với các bạn đồng hành ASEAN nhằm mục đích gìn giữ hòa bình và an ninh". Tóm lại, từ nửa sau thập niên 80, quan hệ hợp tác giữa Singapore và ASEAN bắt đầu lan rộng sang nhiều lĩnh vực khác nhau - từ kinh tế, văn hóa, chính trị lúc đầu, và bây giờ là quân sự, quốc phòng. Là nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhất ở Đông Nam Á, Singapore đã đòi thúc đẩy nhanh tiến trình tự do hóa quan hệ mậu dịch đến mức thành lập liên minh quan thuế, hoặc thậm chí thị trường chung. Nhưng lập trường này của Singapore đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của các nước ASEAN, đặc biệt là của Indonesia. Không chỉ các nhà lãnh đạo chính trị và kinh tế, mà giới học thuật cũng tham gia thảo luận vấn đề này. Đáng chú ý hơn cả là tại Hội nghị khoa học được tiến hành năm 1986 ở trường Đại học tổng hợp Chulalongkorn tại Bangkok, những nhà nghiên cứu đã nhìn nhận rằng quá trình thực hiện các biện pháp nhất thể hóa trong khuôn khổ ASEAN không thể diễn ra theo con đường cổ điển (khu vực tự do mậu dịch - liên minh quan thuế - thị trường chung). Vì, chẳng hạn, khi thành lập khu vực tự do mậu dịch, tức nơi hàng hóa của các nước tham gia sẽ được miễn toàn bộ thuế quan, thì nước hưởng lợi nhiều nhất đương nhiên sẽ là Singapore, trong khi những nước còn lại sẽ bất lực trước làn sóng hàng hóa nước ngoài tự do tràn vào thị trường của họ thông qua cửa ngỏ Singapore, vốn theo quy chế của một cảng tự do. Đến lượt mình, việc thành lập liên minh quan thuế với một mức thuế như nhau đánh vào hàng nhập khẩu từ nước thứ ba sẽ phá vỡ quy chế cảng tự do của Singapore. Vị thế của Singapore là nước có trình độ phát triển cao hơn cả về công nghiệp và khoa học - kỹ thuật so với các nước ASEAN khác đã tạo ra nhiều rắc rối trong quan hệ hợp tác giữa nó với các bạn đồng hành ASEAN không chỉ trong lĩnh vực thương mại, mà cả trong những lĩnh vực kinh tế khác. Do đó, phần của Singapore trong quan hệ cộng tác công nghiệp trong khuôn khổ ASEAN là không đáng kể. Tình hình đôi lúc đã làm phát sinh lời cáo buộc rằng Singapore đã mang vào trong quan hệ giữa nó và ASEAN một thứ tinh thần đồng hành hoàn toàn không bình đẳng. "Có ít nhất một thành viên của Hiệp hội mơ tưởng trở thành người duy nhất cung cấp hàng công nghiệp cho tất cả những nước còn lại", Phó thủ tướng Thái Lan tuyên bố tại hội nghị các nước ASEAN về vấn đề quản lý diễn ra trong tháng 10-1983. Rõ ràng đây là lời ám chỉ nhằm vào Singapore (1). Mặc dù thường không thu được lợi trực tiếp từ quan hệ cộng tác với những nước ASEAN khác, Singapore dẫu sao vẫn tích cực sử dụng, dù rất giới hạn, những cơ hội gián tiếp mà tư cách thành viên Hiệp hội mang lại. Chẳng hạn, thuế biểu quan ưu đãi mà các nước tư bản phát triển như Hoa Kỳ, Nhật và EEC đã cho tất cả những nước ASEAN hưởng, đã được Singapore khai thác một cách có lợi hơn là so với những bạn đồng hành Hiệp hội khác. Hoặc giả Singapore, nhờ là thành viên của ASEAN, được liệt vào hàng ngũ các nước đang phát triển, và do đó được vay nhiều khoản tín dụng với những điều kiện ưu đãi, mà lẽ ra với trình độ phát triển kinh tế như hiện nay, Singapore đã không được hưởng.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

75

Dù ra đời như một tổ chức khu vực có chức năng chủ yếu là kinh tế, ASEAN thực ra ngay từ lúc khởi đầu đã hoạt động như một tổ chức chính trị. Khía cạnh chính trị trong hoạt động của ASEAN được khẳng định năm 1971, khi các thành viên của nó ủng hộ việc thành lập "khu vực hòa bình, tự do và trung lập", và được xác lập hoàn toàn tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất họp ở Bali năm 1976. Hội nghị đã thông qua Hiệâp ước Hữu nghị và Hợp tác, trong đó nêu rõ những nguyên tắc quan trọng nhất của quan hệ hợp tác chính trị giữa các nước thành viên, và quy chế giải quyết những bất đồng hoặc xung đột nảy sinh giữa họ. Sau Hội nghị Bali, cấu trúc tổ chức của ASEAN được sắp xếp lại, hàng loạt tổ chức xã hội - chính trị được thành lập, như Liên minh Quốc hội, Liên đoàn Phụ nữ, Ủy ban hợp tác thanh niên, Hội đồng các tổ chức công đoàn ASEAN... Về phần mình, Singapore ra sức ủng hộ việc mở rộng các mối quan hệ về tư vấn trong khuôn khổ ASEAN, ca ngợi mọi nỗ lực phổ biến chúng đến mọi tầng lớp nhân dân, mọi cơ quan trong và ngoài chính phủ, các tổ chức, đoàn thể xã hội quần chúng. Theo giới lãnh đạo Singapore, việc làm này sẽ góp phần đắc lực vào việc tạo sự cảm thông giữa các tầng lớp nhân dân trong ASEAN, do đó giảm thiểu đến mức thấp nhất nguy cơ xuất hiện những bất đồng và bùng nổ các cuộc va chạm. Lập trường được phản ánh trong nỗ lực của Singapore nhằm phát triển các mối quan hệ song phương trong khuôn khổ Hiệp hội. Chẳng hạn, năm 1980 Ủy ban liên chính phủ Singapore - Malaysia được thành lập. Nhiệm vụ chính của cơ quan này là đảm bảo việc xem xét những vấn đề có liên quan đến hai nước ở cấp cao nhất, vì nó phụ thuộc trực tiếp vào thủ tướng mỗi nước. Hội nghị liên chính phủ Singapore - Indonesia đầu tiên diễn ra tháng 7-1986 trên đảo Bali đã được giới lãnh đạo hai nước đánh giá là sự đóng góp đáng kể vào sự củng cố mối cảm thông giữa hai dân tộc và là " công cụ cực kỳ quan trọng để thảo luận những quan điểm khác nhau theo một phương cách bình tĩnh, hợp lý và hữu nghị". Theo sự lưu ý của giới báo chí, phương thức cộng tác liên minh chính phủ này có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, vì vào cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90, quyền lực trong những nước này sẽ thuộc về các nhà lãnh đạo "thế hệ mới", do đó, thật là cần thu xếp trước bộ máy hợp tác. Cũng trong khoảng thời gian diễn ra Hội nghị trên, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã viếng thăm Philippines và gặp Tổng thống Corazon Aquino. Hai bên đã thảo luận những vấn đề liên quan đến quan hệ vùng và song phương. Hai bên đặc biệt xem xét khả năng chuyển từ Singapore sang Philippines một số ngành sản xuất cần nhiều lao động, thành lập các công ty hỗn hợp và cả vấn đề phát triển mậu dịch song phương. Những bước phát triển trong quan hệ song phương như trên, mặc dù vậy, vẫn chưa thể hoàn toàn xóa tan khả năng bùng lên các cuộc xung đột giữa Singapore và các nước láng giềng ASEAN, mà trước hết là với Malaysia, nước láng giềng gần nhất và trong quá khứ từng có nhiều vấn đề nhất với đảo quốc. Sự kiện sau đây sẽ cho thấy rõ nhận xét này. Cuối tháng 11-1986, Tổng thống Israel H. Herzog viếng thăm Singapore. Nhân biến cố này, tờ Utusan Malaysia thân chính quyền đã cho công bố bài báo nhan đề "Singapore đùa với lửa". Theo bài báo, chuyến viếng thăm này đã tạo ra phản ứng dữ dội nơi những người Mã Lai theo đạo Hồi. Hàng loạt phân bộ thuộc cánh tả trong đảng UMNO đã ra nghị quyết kêu gọi chính phủ Singapore hủy bỏ lời mời Tổng thống Israel. Trong hai tuần lễ liền ở Malaysia, đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống lại quan hệ Singapore - Israel, đặc biệt ở thành phố Johore - Bahru nằm sát biên giới hai nước. Thậm chí, còn có nhiều kiến nghị kêu gọi chính phủ Kuala Lumpur và Brunei cắt đứt quan hệ ngoại giao với Singapore. Dù Thủ tướng Malaysia Mahathir Muhamad đã trả lời rằng Malaysia không thể phản đối quyết định này của

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

chính phủ Singapore, sự biến cuối tháng 11-1986 đã cho thấy rõ vị thế chính trị phức tạp và dễ bị tổn thương của Singapore, vốn bị bao vây bởi những quốc gia có số dân phần lớn theo đạo Hồi. Do vậy, việc tăng cường quan hệ cộng tác chính trị với những nước láng giềng ASEAN trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong đường lối đối ngoại của Singapore trong thập niên 80. Một điều khá lý thú là Singapore lại không gặp trắc trở nhiều trong nỗ lực này, vì cũng trong thập niên 80, các nước ASEAN đã - dù muốn dù không, phải chung sức đối phó với một vấn đề lớn nhất chi phối đường lối đối ngoại chẳng những của những nước trong vùng, mà cả các cường quốc ngoài vùng. Đó là vấn đề Campuchia. Sau các sự biến tháng 1-1979 ở Campuchia, chế độ Pol Pot bị lật đổ, một chế độ mới ra đời. Các nước ASEAN đã đồng ý với Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Australia khi xem sự hiện diện của một số lượng đông đảo binh lính Việt Nam ở xứ Chùa Tháp là hành động chiếm đóng xứ này và là mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của Thái Lan - nước thành viên của Hiệp hội. Không chỉ Thái Lan, mà cả Singapore đã có một lập trường đặc biệt gay gắt chống Việt Nam trong vấn đề Campuchia. Ngoài việc ủng hộ mọi sáng kiến, đề nghị của ASEAN liên quan đến vấn đề Campuchia, Singapore còn đề xuất những sáng kiến riêng và có những hoạt động riêng nhằm "xóa bỏ nguy cơ bành trướng từ phía Việt Nam", theo lời giới lãnh đạo Singapore. Chính Singapore là tác giả ý tưởng " trung lập hóa" Campuchia, mà một trong những nội dung chủ yếu của nó là toàn bộ quân đội nước ngoài rút ngay ra khỏi xứ này. Tháng 6-1980, Bộ trưởng Ngoại giao Danabalan, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên tờ Straits Times, đã tuyên bố rằng Singapore tiếp tục "ủng hộ tinh thần tất cả mọi tổ chức yêu nước nào của Campuchia muốn chiến đấu cho nền độc lập và tự do của đất nước". Câu tuyên bố tiếp theo của ông cho thấy rõ Singapore sẽ ủng hộ những tổ chức yêu nước nào của Campuchia: "Singapore và những nước ASEAN khác không có sự lựa chọn nào khác, ngoài việc ủng hộ Pol Pot vì những lý do nguyên tắc" ((cid:31)). Không chỉ "ủng hộ tinh thần", Singapore còn ngầm cung cấp sự trợ giúp vật chất cho các lực lượng chính trị chống chính phủ Phnompenh. Theo tờ Far Eastern Economic Review, lực lượng vũ trang của Son Sann đã được Singapore cung cấp vũ khí ngay từ đầu thập niên 80 ((cid:31)). Giải thích cho hành động này, Bộ trưởng Ngoại giao Danabalan nói:"Chúng tôi giúp đỡ phe kháng chiến. Chúng tôi cỗ võ phe kháng chiến. Chúng tôi tạo sức ép kinh tế và chính trị lên người Việt Nam" ((cid:31)). Tuy nhiên, từ năm 1987, khi chính phủ Campuchia bắt đầu đề ra chính sách hòa giải dân tộc và Việt Nam đẩy nhanh tiến độ rút quân từ Campuchia về, lập trường của Singapore đối với vấn đề Campuchia trở nên hòa dịu dần. Cùng với các nước ASEAN khác, Singapore đã hoan nghênh các cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Hun Sen và Sihanuk, cỗ võ cho một giải pháp chính trị toàn bộ vấn đề Campuchia. Sau khi Việt Nam rút toàn bộ quân đội từ Campuchia về (tháng 9-1989), Singapore đã thay đổi dần thái độ đối với Việt Nam.

76

IV. SINGAPORE VÀ PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT TRONG NHỮNG NĂM 80. Qua các lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo Singapore, sự dự phần của Singapore vào phong trào không liên kết tiếp tục là một trong những đường hướng chính trong hoạt động đối ngoại của Singapore. Sau một quá trình phân tích các nguyên nhân đưa đến những cuộc xung đột - chiến tranh hoặc nội chiến - diễn ra trong phong trào không liên kết, giới lãnh đạo Singapore cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng kém phát triển của các nước thế giới thứ ba. Họ lập luận rằng các cuộc xung đột giữa những nước kém phát triển tỏ ra nguy hiểm không kém gì nguy cơ tiềm tàng của một cuộc chiến tranh

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

thế giới mới phát sinh từ cuộc chạy đua vũ trang giữa hai siêu cường đối đầu nhau là Liên Xô và Mỹ. Phát xuất từ nhận định này, họ cho rằng những nước kém phát triển nên cố sức phát triển kinh tế, làm cho đất nước trở nên phú cường hơn là để bị lôi vào các cuộc tranh chấp giữa hai siêu cường. Trong thập niên 70 và 80, nét nổi bật của phong trào không liên kết là xu hướng trung lập tích cực: tuy tránh không đứng về phe nào trong cuộc đối đầu giữa hai siêu cường, phong trào không liên kết tại các hội nghị thượng đỉnh (ở Habana năm 1979, New Dehli năm 1983 và Harare năm 1986) đã bày tỏ sự bất bình đối với chính sách của các nước tư bản phát triển trong nhiều vấn đề khác nhau. Tại các hội nghị vừa kể, lập trường của Singapore về các vấn đề chính trị trong quan hệ quốc tế hiện đại nhìn chung không khác lắm so với các nước phương Tây. Nhưng không thể nói như vậy về lập trường của Singapore đối với các vấn đề kinh tế. Sự khác biệt này có nguyên nhân của nó.

Cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng hơn ở các nước tư bản vào giữa thập niên 80 đã gây ra những thiệt hại không nhỏ cho Singapore, nhất là trong hoàn cảnh các nước tư bản giàu có đã cố tìm cách trút gánh nặng khủng hoảng lên những nước có nền kinh tế yếu hơn, mà Singapore là một trong số những nước như vậy. Singapore đã tích cực ủng hộ bản Tuyên bố kinh tế của Hội nghị Harare lên án chính sách bảo hộ trong nền mậu dịch quốc tế và đòi giải quyết ngay vấn đề nợ nần của các nước đang phát triển. Singapore cũng ủng hộ yêu sách đòi các nước tư bản phát triển không được giảm, trái lại mở rộng lĩnh vực hoạt động của thuế biểu ưu đãi dành cho các nước đang phát triển. Sau rốt, Singapore bày tỏ thái độ đồng tình với nỗ lực mở rộng quan hệ hợp tác phát triển kinh tế giữa chính các nước đang phát triển với nhau, cả trong quy mô vùng lẫn trên phạm vi toàn thế giới.

Năm 1985, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã viếng thăm chính thức Hoa Kỳ. Phát biểu trước Quốc hội Mỹ, ông đã lên tiếng chỉ trích chính sách bảo trợ trong nền mậu dịch quốc tế. Ông cảnh báo các nhà làm luật Mỹ không nên thông qua những biện pháp điều chỉnh mới có tác dụng hạn chế một cách giả tạo việc nhập khẩu hàng hóa từ các nước đang phát triển, vì một hiệp định như vậy sẽ gây phương hại cho quyền lợi không chỉ của những nước này, mà còn cho cả chính Hoa Kỳ ((cid:31)). Hai năm sau đó, tại phiên khai mạc Hội nghị lần thứ 20 Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, Lý Quang Diệu cũng đã lập lại những ý tưởng tương tự.

Cùng với những nước ASEAN khác, Singapore đã tiến hành nhiều cuộc đàm phán quan trọng trong khuôn khổ GATT về việc hủy bỏ các biện pháp bảo hộ do Hoa Kỳ, Nhật và EEC thực hiện đối với việc nhập vải và hàng dệt từ các nước thành viên ASEAN, và đòi thành lập trong tổ chức GATT một bộ máy bảo vệ quyền của những nước đang phát triển chống lại các biện pháp có tính chất phân biệt của những nước công nghiệp phát triển.

77

Đồng thời, Singapore giữ một thái độ kiềm chế, cẩn trọng trong những lời chỉ trích nhằm vào phương Tây. Thí dụ của nhận xét này là bài phát biểu của Lý Hiển Long vào tháng 9-1986 tại Punta Del Este (Uruguay), nơi ông cầm đầu một phái đoàn của Singapore tham dự cuộc họp cấp bộ trưởng của các nước thành viên GATT. Trong cuộc thảo luận gay gắt diễn ra quanh vấn đề thương mại, Singapore đã từ khước ủng hộ lập trường của một số nước đang phát triển (trước hết là của Ấn Độ, Brasil và Nigeria), khi họ bày tỏ mối quan hệ rằng yêu sách của phương Tây về tự do hóa dịch vụ thương mại có thể khiến khu vực dịch vụ vừa ra đời của các nước thứ ba bị các công ty độc quyền đa quốc gia nuốt chửng. Vừa tán đồng việc đưa vấn đề về dịch vụ thương mại vào trong vòng đàm phán mới trong khuôn khổ GATT (tức vòng đàm phán Uruguay), Singapore đã cố sức bảo trợ cho những nước thế giới thứ ba nào bị buộc phải nhượng bộ để rồi cuối cùng phải tán thành việc thành lập một ủy

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

ban quốc tế đặc biệt về việc soạn thảo một hệ thống đa phương gồm nhiều chuẩn mực và nguyên tắc điều chỉnh dịch vụ thương mại. Khi giải thích lập trường của Singapore tại cuộc đàm phán Punta del Este, Lý Hiển Long tuyên bố rằng việc từ khước không đáp ứng những yêu sách của các nước công nghiệp phát triển trong vấn đề dịch vụ thương mại sẽ khiến họ đưa ra những biện pháp trong lĩnh vực thương mại đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, mong đợi của Singapore rằng các nước tư bản phát triển sẽ thông hiểu lập trường của Singapore hóa ra không thành hiện thực, vì theo nghị quyết mà chính phủ Hoa Kỳ đưa ra tháng 1- 1998, Singapore cùng với Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông bị tước mất quy chế nước đang phát triển và do đó không được nhận chế độ ưu đãi tương ứng khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ từ ngày 01-01-1989.

Theo đánh giá sơ bộ, việc Hoa Kỳ hủy bỏ chế độ ưu đãi thuế quan cho Singapore có thể ảnh hưởng tiêu cực đến gần 700 mặt hàng mà Singapore xuất khẩu sang Hoa Kỳ, trong đó có những mặt hàng như máy điện thoại, mạch kín, đồ gỗ, dụng cụ y khoa. Chúng chiếm gần 15% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu từ Singapore sang Hoa Kỳ.

78

Hơn nữa, tiếp nối những biện pháp bảo vệ, các thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ kiên trì đòi đánh giá lại đồng đô la Singapore. Họ cáo buộc Singapore cố tình hạ giá đồng tiền của mình trong mưu toan bán phá giá (dumping) hàng hóa của mình ở nước ngoài. Họ trưng dẫn bằng chứng rằng Singapore đã hưởng lợi từ việc thay đổi hối suất đô la Mỹ và yen Nhật vào cuối thập niên 80. Chẳng hạn, nếu năm 1986 xuất khẩu của Singapore sang Nhật giảm 11%, thì trong năm 1987 nó tăng lên 30%. Còn về xuất khẩu của Singapore sang Hoa Kỳ, thì quy mô của nó tăng 29% năm 1987, so với mức tăng 16% của năm 1986((cid:31)). Cố ngăn ngừa mâu thuẫn ngày càng trở nên gay gắt trong quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ, bạn hàng lớn nhất của mình, chính quyền Singapore thấy cần đưa ra những lời giải thích chi tiết quanh chính sách thương mại và tiền tệ của mình. Chẳng hạn, cuối năm 1987, Bộ trưởng Tài chính Singapore Richard Hu tuyên bố rằng những lời cáo buộc Singapore cố tình phá giá đồng bạc của mình là hoàn toàn không có cơ sở, rằng Singapore thường xuyên có số dư trong cán cân mậu dịch với nước ngoài. Nhờ đó, số dự trữ ngoại tệ của Singapore đã tăng lên rất nhiều. Bộ trưởng Tài chính còn nhấn mạnh rằng Singapore trong thực tế không hề giới hạn hoạt động nhập khẩu của mình, và do đó là một trong những nước có chế độ mậu dịch tự do nhất trên thế giới ((cid:31)). Những lời giải thích trên tiếc rằng không ảnh hưởng nhiều đến suy nghĩ của những nhà lập pháp Hoa Kỳ. Chính trong bối cảnh này, Lý Quang Diệu đã cáo buộc một cách bực dọc rằng Quốc hội Hoa Kỳ đã nhượng bộ "các ngành kinh tế yếu đuối của nước mình đang ra sức đòi ban hành các đạo luật bảo hộ". Nhưng vấn đề ở đây không đơn giản chỉ là sự cố sức của các nghị sĩ Mỹ nhằm bảo vệ quyền lợi của ngành dệt, giày dép và một số ngành sản xuất lâu đời ở trong nước. Quan hệ của Singapore cũng như của những " nước công nghiệp mới" (NIC) khác, mà hoạt động ngoại thương dựa vào các ngành sản xuất cần nhiều lao động, đã bị đe dọa nghiêm trọng do chỗ từ nửa sau thập niên 80, quan hệ mâu dịch quốc tế đã chịu tác động mạnh mẽ của những nhân tố như: những ngành sản xuất cần nhiều nguyên liệu và nhiên liệu không còn đóng vai trò quan trọng nữa, trong lúc những nghành cần trình độ khoa học và kỹ thuật cao (và cũng đồng nghĩa với tiêu hao nguyên và nhiên liệu ít hơn) lại phát triển rất nhanh, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, Nhật và nhiều nước tư bản công nghiệp phát triển khác. Hậu quả là Singapore đứng trước một nhiệm vụ lớn lao là thay đổi triệt để mô thức kinh tế từng mang lại những thành tựu rực rỡ trong suốt khoảng thời gian kéo dài hai thập niên.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

79

"Singapore đang đứng ở ngã tư đường, đó là nơi nó buộc phải chuyển từ giai đoạn phát triển xuất khẩu tương dối dễ dàng sang định hướng xuất khẩu chặt chẽ hơn và có chất lượng hơn", Bản báo cáo năm 1987 của Học viện Đông Nam Á đã đánh giá như thế tính chất của thời kỳ mới trong nền kinh tế Singapore ((cid:31)). Lối thoát cho tình hình kinh tế đất nước được các tác giả báo cáo gắn liền với việc đẩy nhanh việc phát triển các ngành sản xuất đòi hỏi trình độ khoa học cao, tich cực ứng dụng tự động hóa và robot hóa, và tăng cường đáng kể vai trò của lĩnh vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Các tác giả của một bản báo cáo khác có nhan đề "Xem xét lại nền kinh tế Singapore" đề cập đến hiện trạng và viễn ảnh của nền kinh tế đất nước được công bố năm 1987 cũng đi đến kết luận tương tự. Dù các tác giả của bản báo cáo, vốn là những giảng viên của Đại học Tổng hợp quốc gia Singapore, cùng với chuyên gia nổi tiếng của Hoa Kỳ về các vấn đề quan hệ kinh tế thế giới là Lawrence Krause có rào trước đón sau rằng họ " không thấy có sự cần thiết phải thay đổi trong đường hướng chiến lược cơ bản phát triển kinh tế đất nước" ((cid:31)), kết luận quan trọng nhất của họ là khuyến cáo ưu tiên phát triển khu vực dịch vụ ((cid:31)). Việc chuyển những khuyến cáo này sang ngôn ngữ hành động thực tiễn đã tiến hành một cách thật mau lẹ và sôi nổi ở Singapore. Trong chuyện này, chính phủ giữ một vai trò thật quan trọng. Chừng nào việc phát triển ngành dịch vụ các loại (ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, soạn thảo dự án, du lịch...) do tính chất của nó còn nhằm vào các mục tiêu kinh tế đối ngoại, thì lúc đó việc tạo thuận lợi cho tiến trình này còn là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hoạt động đối ngoại của chính phủ Singapore. Có thể lấy làm ví dụ cho nỗ lực đẩy nhanh hoạt động trên là những bài phát biểu trên các diễn đàn trong và ngoài nước của những thành viên trong chính phủ Lý Quang Diệu. Họ đã tuyên truyền rộng rãi cho khả năng hiện có và trong tương lai của đất nước trong lĩnh vực dịch vụ và kêu gọi những chính phủ khác đừng cản trở Singapore phát triển lĩnh vực này. Trong số những bài phát biểu loại trên có bài nói đã được đề cập đến của Bộ trưởng Tài chính Richard Hu. Ông này kêu gọi Nhật không cản trở ý muốn của Singapore là trở thành trung tâm tài chính của vùng. "Sự phát triển của Singapore, Hồng Kông và Tokyo thành ba trung tâm tài chính trong vùng - Richard Hu nói - không mang tính chất loại trừ lẫn nhau. Trong quá khứ, chúng đã từng bổ sung cho nhau và không có nguyên nhân nào khiến chúng lại không thể tiếp tục cùng tồn tại và cùng phát triển, giống như, chẳng hạn, London, Zurich và Frankfurt ở châu Âu" ((cid:31)). Việc sử dụng các phương tiện chính trị để đạt đến các mục tiêu kinh tế luôn là, như chúng tôi đã có lần nhấn mạnh, một bộ phận hữu cơ trong hoạt động đối ngoại của Singapore. Điều này hoàn toàn là tự nhiên, bởi vì trong hoàn cảnh kinh tế phức tạp, vấn đề kinh tế tất chiếm vị trí hàng đầu trong những bài phát biểu của các quan chức chính phủ. Minh chứng cho chuyện này là bài phát biểu của Lý Quang Diệu tại phiên khai mạc kỳ họp thượng đỉnh thứ ba của các nước thành viên ASEAN tháng 12-1987 ở Manila, hoặc là bài diễn văn của ông tại Hội nghị quốc tế nhân kỷ niệm 100 năm ngày ra mắt số đầu tiên của tờ International Herald Tribune được tổ chức trong tháng 11-1987 ở Singapore.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

KẾT LUẬN

80

Từ những gì đã được trình bày ở trên, người ta thấy rõ quan điểm đối ngoại của chính phủ Lý Quang Diệu trong khoảng thời gian cầm quyền kéo dài suốt 1/4 thế kỷ luôn lệ thuộc nghiêm ngặt vào những đòi hỏi cụ thể của tình thế trong từng giai đoạn phát triển. Do đó, việc hoạch định đường lối đối ngoại của Singapore (bao gồm cả phương hướng lẫn mục tiêu) được tiến hành một cách rất linh hoạt. Mỗi khi tình thế trên trường quốc tế và trong khu vực trải qua những thay đổi lớn lao, có tính chất bước ngoặt, chính sách đối ngoại của Cộng hòa Singapore cũng theo đó mà thay đổi. Việc hoạch định những đường hướng chính trong chính sách đối ngoại của Singapore khi bước vào ngưỡng cửa của thập niên 90 cũng phát xuất từ thực tế của tình hình thế giới đương thời, tất nhiên là theo cách nhận thức của những người lãnh đạo nước này. Trong chuyện này, đáng chú ý là bài diễn văn của Thủ tướng Lý Quang Diệu đọc vào giữa tháng 6-1987 tại Hội nghị lần thứ 20 của các bộ trưởng ngoại giao ASEAN diễn ra ở Singapore. Lý Quang Diệu đã trình bày quan điểm của ông về tính chất của các xu hướng chính trong sinh hoạt quốc tế trong nửa sau thập niên 80 và viễn ảnh phát triển của tình hình quốc tế trong những năm 90. Thời gian và địa điểm được chọn để đọc bài phát biểu này tất không phải là chuyện ngẫu nhiên. Bằng việc chọn Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao các nước thành viên ASEAN làm diễn đàn cho bài phát biểu của mình, Lý Quang Diệu đã làm rõ tầm quan trọng mà chính phủ ông đã và đang có ý muốn giành cho tổ chức khu vực này trong số các ưu tiên đối ngoại của Singapore. Khi kêu gọi những thành viên ASEAN khác tăng cường và phát triển quan hệ hợp tác chính trị và kinh tế, Lý Quang Diệu đã nhấn mạnh rằng nhiệm vụ này mang tính thời sự đặc biệt, trong hoàn cảnh các nhà lãnh đạo ASEAN vào cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90 chuẩn bị nhường chỗ cho đại diện thế hệ trẻ, những người có nhiệm vụ duy trì và phát triển những mối quan hệ tin cậy lẫn nhau, vốn đã hình thành trong nhiều năm qua. Một nhiệm vụ lớn khác mang tính chất đối ngoại, mà Singapore và những nước thành viên ASEAN khác cần giải quyết là, theo Lý Quang Diệu, phát triển quan hệ với những bạn đồng hành thương mại, kinh tế và chính trị - Hoa Kỳ và Nhật. Theo đánh giá của Lý Quang Diệu, trong những năm 90, vai trò kinh tế và chính trị của Nhật trên toàn thế giới cũng như trong vùng Đông Nam Á không ngừng tăng lên. Mặc dù quan hệ với Hoa Kỳ và ý nghĩa của thị trường Hoa Kỳ vẫn sẽ giữ một vị thế quan trọng nhất trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của các nước thành viên ASEAN, những nước này trong hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại của mình ngày càng để tâm hơn đến những hiện tượng khủng hoảng ngày càng nhiều hơn trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Tình hình này một mặt sẽ khiến vị thế thống soái của Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới bị yếu dần đi, mặt khác lại khiến xu hướng bảo hộ lớn dần trên thị trường Mỹ. Trong khi đánh giá tình hình chính trị trong vùng Đông Nam Á, đặc biệt là vấn đề Campuchia, Lý Quang Diệu đã dùng những lời lẽ khá cẩn trọng để bày tỏ ý kiến rằng " những cơ hội cho việc giải quyết vấn đề này bằng con đường chính trị đang tăng lên". Khi đề cập đến Việt Nam, Lý Quang Diệu kêu gọi nước này "không nên phó mặc việc giải quyết vấn nạn Campuchia hoàn toàn vào tay Liên Xô và Trung Quốc" và nên đẩy mạnh việc đối thoại với ASEAN. Vì theo ông, có làm như vậy mới đưa đến một sự thỏa thuận "đáp ứng một cách tốt nhất cho quyền lợi của Việt Nam, cũng như của cả vùng". Nói một cách khác, Lý Quang Diệu cho là cần công khai ủng

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

81

hộ lập trường của ASEAN về vấn đề trung lập hóa Đông Nam Á và về chủ trương tự giải quyết những bất đồng và xung đột phát sinh trong vùng, không có sự can thiệp của những nước "ngoài vùng". Nhưng ông lại không nói chút gì về một ý tưởng khác của khối ASEAN: đó là biến Đông Nam Á thành vùng phi hạt nhân. Rõ ràng trong chuyện này, Lý Quang Diệu không muốn làm phật lòng Hoa Kỳ. Cuối cùng là một chủ đề quan trọng khác mà lần đầu tiên Lý Quang Diệu đề cập đến, đó là viễn ảnh phát triển quan hệ thương mại - kinh tế với Liên Xô và Trung Quốc. Sau khi ghi nhận những thay đổi trong nền kinh tế của những nước này, Thủ tướng Lý Quang Diệu bày tỏ hy vọng rằng đến trước cuối thế kỷ này, vị thế của Liên Xô và Trung Quốc trong nền thương mại thế giới sẽ tăng lên. Rõ ràng là trong những lời lẽ này, ông lộ rõ sự quan tâm ngày càng tăng của giới doanh gia Singapore đến việc thành lập và phát triển quan hệ thương mại - kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa và sử dụng những cơ hội phát sinh từ đó để cân bằng quan hệ kinh tế đối ngoại của Singapore, cũng như để có chỗ dựa trong trường hợp xuất hiện những khó khăn trong quan hệ mậu dịch với những bạn làm ăn ở các nước tư bản. Chính sách đối ngoại của Singapore trong thời kỳ hậu Lý Quang Diệu đã có nhiều sự thay đổi cơ bản. Bên cạnh việc củng cố mối quan hệ với các nước đồng minh và mở rộng quan hệ với các nước mà Singapore thực hiện chính sách đối đầu trước đây. Sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Singapore trong thời kỳ này bắt nguồn từ những yếu tố sau: ( Những thay đổi to lớn của tình hình thế giới cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, đặc biệt xu thế hòa hoãn giũa hai siêu cường Hoa Kỳ - Liên Xô và tiếp đến là sự kết thúc của trật tự thế giới hai cực đã tác động rất lớn đến Singapore. Là một nước được tận hưởng nhiều ưu đãi do sự đối đầu Xô - Mỹ thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Singapore sẽ mất đi những lợi thế đó một khi trật tự này bị sụp đổ. Không phải ngẫu nhiên quy chế tối huệ quốc mà Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ dành cho Singapore trong suốt một thời gian dài đã chấm dứt vào năm 1989. ( Những thay đổi ở khu vực Đông Nam Á cuối thập kỷ 80 đã tác động không nhỏ đến chính sách đối ngoại của Singapore. Sự kiện Việt Nam rút quân khỏi Campuchia đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương. Hơn nữa, trật tự thế giới hai cực sụp đổ đã giúp cho các nước Đông Nam Á thoát khỏi sự chi phối của sự đối đầu Xô - Mỹ, có điều kiện để nhìn nhận nhau một cách khách quan và thân thiện trên cơ sở lợi ích chung của khu vực và của mỗi nước. Cùng với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, các nước Đông Nam Á, trong đó có Singapore, có điều kiện xóa bỏ mọi nghi kỵ để cùng nhau xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. ( Những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Singapore bắt nguồn từ nhu cầu phát triển của đảo quốc này. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chính sách đối ngoại hỗ trợ cho sự phát triển của Singapore bằng cách thu hút viện trợ và đầu tư của các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là sự đầu tư của các công ty đa quốc gia. Điều này giúp cho kinh tế Singapore phát triển liên tục với tốc độ cao trong hơn hai thập kỷ. Tuy nhiên, nó cũng làm cho Singapore lệ thuộc rất lớn vào các nước công nghiệp phát triển cả về vốn, công nghệ và thị trường (trên 85% tổng số vốn đầu tư ở Singapore là của nước ngoài, chủ yếu là Mỹ, Nhật và Tây Âu). Chỉ riêng 4 nước Mỹ, Nhật, CHLB Đức, Anh đã chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Singapore năm 1989. Thị trường nội địa nhỏ hẹp, thị trường của các nước công nghiệp phát triển bị thu hẹp, việc mất quy chế tối huệ quốc và chế độ bảo hộ mậu dịch do quá trình liên kết khu vực, đặt nền kinh tế Singapore trước nhiều khó khăn. Để khai thông bế tắc này, bên cạnh việc duy trì quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với thị trường truyền thống, Singapore cần phải thâm nhập vào thị trường mới. Trên cơ sở hoàn cảnh chính trị thay đổi, chính sách đối ngoại của Singapore

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

cũng thay đổi theo hướng: Thứ nhất, tiếp tục duy trì và củng cố mối quan hệ hợp tác toàn diện với các nước đồng minh và bạn hàng truyền thống như Mỹ, Nhật, EU, Australia và các thành viên ASEAN (không kể Việt Nam). Mặc dù các nước đồng minh và các bạn hàng truyền thống trước đây đã cắt những khoản ưu đãi vốn dành cho Singapore và Singapore đã thực hiện chính sách đa dạng hóa trong quan hệ kinh tế - thương mại, song những đối tác đó vẫn chiếm một vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Singapore. Một quan chức cao cấp của Singapore cho rằng "tăng cường quan hệ kinh tế với các bạn truyền thống, đặc biệt là Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu được xác định như một chiếc cánh của nền kinh tế Singapore". Hướng ưu tiên này được thể hiện qua chính sách đối ngoại của Singapore đối với từng nước cụ thể như sau: + Đối với Mỹ: Mỹ ngày nay vẫn là một trong những nước đồng minh kinh tế, chính trị, quân sự hàng đầu của Singapore. Tuy Singapore hiện nay thực hiện một chính sách đối ngoại độc lập và có thái độ cứng rắn hơn trước mọi sự can thiệp của Mỹ và phương Tây vào công việc nội bộ của Singapore, đặc biệt là vấn đề nhân quyền, song điều đó không làm giảm đi mối quan hệ của Singapore và Mỹ. Tổng kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Singapore và Mỹ ngày nay vẫn ở mức rất cao. Năm 1995, đạt khoảng 25 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu - nhập khẩu của Singapore. Thặng dư mậu dịch của Singapore trong trao đổi thương mại với Mỹ luôn đạt trên 2 tỷ USD/năm. Tuy đầu tư của Mỹ vào Singapore những năm 90 có giảm, song Mỹ vẫn dẫn đầu danh sách các nước đầu tư vào Singapore. Tổng số vốn của Mỹ đầu tư vào Singapore vẫn tăng đều theo các năm:

1994 : 10.130 triệu USD; 1995 : 12.570 triệu USD.

82

Hiện tại, Singapore vẫn giữ vị trí bạn hàng số một của Mỹ tại Đông Nam Á. Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, Singapore ngày nay vẫn chú trọng đến quan hệ hợp tác với Mỹ. Trong bối cảnh Đông Nam Á thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, bên cạnh xu thế chủ đạo là hòa bình, hợp tác và phát triển, vẫn còn tồn tại những nhân tố có thể gây mất ổn định, Singapore cho rằng sự có mặt quân sự của Mỹ ở khu vực vẫn là cần thiết và đi đầu trong việc hoan nghênh Mỹ tiếp tục duy trì lực lượng quân sự của mình ở Đông Nam Á. Tháng 11-1990, Singapore cũng là nước đầu tiên tuyên bố sẵn sàng để Mỹ tiếp tục sử dụng căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình và phục vụ hậu cần cho hải quân Mỹ. Singapore cũng là nơi các tàu chiến Mỹ ra vào thường xuyên. Hiện nay, Mỹ vẫn là nước chủ yếu cung cấp vũ khí và các trang thiết bị quân sự hiện đại cho Singapore. Ngoài ra, quân đội hai nước vẫn thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận chung. + Đối với Nhật Bản: Nhật Bản hiện nay vẫn là đối tác kinh tế thứ hai của Singapore (sau Mỹ). Mặc dù Singapore và Nhật Bản đang chạy đua giành giật thị trường tại các nước đang phát triển ở Đông Nam Á, song quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước vẫn không hề giảm sút. Đầu tư của Nhật Bản vào Singapore từ năm 1991 đến nay vẫn đạt khoảng 400 triệu USD/năm. Lượng hàng hóa Singapore nhập khẩu của các nước này. Năm 1993, Singapore và Nhật Bản đã ký thỏa thuận, theo đó hai nước sẽ hợp tác đầu tư một số dự án lớn ở Singapore và nước ngoài, trong đó có việc phối hợp xây dựng thành phố công nghiệp Tô Châu ở Trung Quốc. + Đối với Tây Âu: Bên cạnh việc duy trì và củng cố mối quan hệ hợp tác giữa Mỹ và Nhật Bản, những năm gần đây, Singapore tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong Cộng đồng châu Âu (EU), đặc biệt là với Anh và CHLB Đức. Sau chuyến viếng thăm một số nước EU của Thủ tướng Singapore Go Chok Tong (1994), quan hệ kinh tế - thương mại giữa Singapore và EU tiếp tục được tăng cường. EU là bạn hàng lớn thứ ba của Singapore. Đầu tư của EU vào Singapore đã

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Thứ hai, cải thiện, mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác

83

tăng lên đáng kể, đạt 900 triệu USD năm 1994 và 1 tỷ USD năm 1995. Hiện nay, các công ty của EU chiếm tới 30% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Singapore. Ngoài ra, các tổ hợp công nghiệp quân sự của Anh và Đức còn cung cấp một lượng không nhỏ vũ khí hiện đại cho Singapore. + Đối với Australia: Xác định Australia là một nước láng giềng, Singapore tiếp tục thực hiện chính sách hợp tác và hữu nghị với nước này. Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, quan hệ hợp tác giữa hai nước tiếp tục phát triển. Nếu năm 1985, tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước chỉ đạt 1,44 tỷ USD thì năm 1992 đã tăng lên 2,1 tỷ USD, trong đó xuất siêu của Singapore đạt gần 500 triệu USD. Để thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng giữa Singapore và Australia, hai bên đã đi đến thỏa thuận thành lập Ủy ban Liên chính phủ trực thuộc thủ tướng của mỗi nước (3-1993) nhằm soạn thảo kế hoạch hành động quan hệ hợp tác. Ngoài ra, Singapore còn mở rộng quan hệ hợp tác về chính trị - quân sự với Australia, trong đó có các cuộc tập trận chung hàng năm giữa quân đội của hai nước. + Đối với các nước ASEAN: Cũng như trước đây, từ 1991 đến nay, Singapore tiếp tục đẩy mạnh các quan hệ song phương với các nước thành viên trong khối ASEAN. Ngoài các hoạt động phối hợp trong khuôn khổ ASEAN, Singapore tiếp tục đẩy mạnh các quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng. Nét nổi bật trong chính sách đối ngoại của Singapore hiện nay là tăng cường hợp tác kinh tế với Malaysia, Indonesia, Thái Lan, xem đây là những đối tác kinh tế quan trọng đối với sự phát triển của Singapore. Nguồn đầu tư của Singapore vào các nước này nước càng tăng. Một trong những biểu hiện rõ nét là Singapore đang triển khai năm dự án lớn, trong đó có việc liên doanh với Malaysia và Indonesia xây dựng khu tam giác tăng trưởng Johore - Singapore - Bantam. Theo kế hoạch, nơi đây sẽ mọc lên 5 khu công nghiệp : khu nhà ở, trung tâm buôn bán, hồ trữ nước, sân gôn và khu giải trí. Dự tính, đến năm 2006, vùng rậm rạp và làng chài ven biển này sẽ trở thành trung tâm công nghiệp - thương mại - tài chính - du lịch của khu vực và thế giới. mới ở Đông Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam. Ngay từ đầu những năm 90, Singapore đã bắt đầu soạn thảo một chiến lược nhằm tăng cường quan hệ kinh tế với các nước Đông Dương, Trung Quốc, Ấn Độ... coi đây là chiếc cánh thứ hai của nền kinh tế Singapore. Từ cuối năm 1992 đến nay, Singapore thực hiện tích cực các hoạt động buôn bán và đầu tư với các nước này với những bước đi cụ thể như sau: + Đối với Trung Quốc: Là một nước nhỏ ở Đông Nam Á, Singapore rất chú trọng đến mối quan hệ với các nước lớn, trong đó có Trung Quốc. Kể từ tháng 10- 1990, sau khi Singapore và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, trong thập kỷ 90 quan hệ hợp tác giữa hai nước đã có bước phát triển vượt bậc. Trung Quốc được coi là một trọng điểm trong chính sách đầu tư của Singapore. Hiện nay, Singapore đứng thứ năm trong số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Trung Quốc. Hầu hết các tập đoàn lớn của Singapore như KEPPEL, FRASER, NEAVE, Ngân hàng DBS... đã đầu tư mạnh vào Trung Quốc. Một trong những dự án đầu tư lớn của Singapore tại Trung Quốc là xây dựng các thành phố công nghiệp Tô Châu, Sơn Đông, Tứ Xuyên. Theo kế hoạch, trong vòng 10 -15 năm kể từ 1992, riêng thành phố công nghiệp Tô Châu sẽ có diện tích 80km2 với số vốn đầu tư là 20 tỷ USD. Ngoài ra, Singapore còn tham gia một dự án lớn khác trên diện tích 53km2 ở thành

phố cảng phía Nam Trung Quốc, bao gồm 2 khu vực dân cư, khu công nghiệp và thương mại với số vốn đầu tư gần 3 tỷ USD. Quan hệ buôn bán giữa Singapore và Trung Quốc cũng phát triển nhanh chóng. Trước năm 1990, buôn bán giữa hai nước là không đáng kể và chỉ hạn chế bằng con đường phi chính phủ hoặc qua một số nước trung gian của người Hoa hoặc Hongkong. Đến năm 1992, kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã đạt 3,4 tỷ USD; 1993: 3,6 tỷ và tiếp tục tăng trong những năm gần đây. Thứ ba, Singapore ngày càng tham gia tích cực trong các tổ chức kinh tế - chính trị của khu vực và thế giới, từng bước nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của mình. Tự coi mình là một con cá nhỏ giữa đại dương, Singapore luôn chú trọng đến chính sách ngoại giao "cân bằng lực lượng" giữa các nước lớn trong sự đan xen các tầng liên minh trong khu vực để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và đưa đất nước tiếp tục phát triển. Trong điều kiện thế giới đang độ hình thành trật tự thế giới mới, ngoài việc tăng cường các quan hệ song phương, đặc biệt là với các nước lớn, Singapore ngày nay còn tạo dựng vị thế mới của mình trong các tổ chức kinh tế - chính trị đa phương. + Singapore là một trong những thành viên hoạt động tích cực của ASEAN; là nước đi tiên phong trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại trong ASEAN nhằm tạo ra thế mạnh của khối nước này trong thương lượng về buôn bán trên trường quốc tế. Hội nghị nguyên thủ các nước ASEAN lần thứ tư tổ chức tại Singapore đầu năm 1992 đã thông qua nội dung và biện pháp quan trọng nhằm làm thay đổi căn bản nhịp đi của ASEAN, trong đó có ý tưởng xây dựng ASEAN bao gồm 10 nước Đông Nam Á và một thị trường thống nhất có sự đóng góp to lớn của Singapore. Theo Thủ tướng Singapore, ông Go Chok Tong, có được ASEAN với toàn thể 10 nước thành viên khu vực Đông Nam Á là điều hãnh diện, ASEAN phải vươn tới đội hình lớn để giành lấy sự kính trọng của thế giới. Ngoài ra, Singapore cũng là nước đóng góp tích cực trong diễn đàn ARF nhằm giải quyết những bất đồng giữa các nước trong khu vực và các nước có liên quan, trên cơ sở đó xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, ổn định và phát triển. + Không chỉ dừng lại ở đó, Singapore còn là thành viên tích cực của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tại Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Osaka (1995) và Manila (1996), Singapore là nước duy nhất ở Đông Nam Á ủng hộ quan điểm của Mỹ và Nhật Bản nhằm thực hiện tư do hóa thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên APEC. Thái độ này của Singapore bắt nguồn từ điều kiện kinh tế của Singapore và xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa kinh tế thế giới hiện nay. Trước hết, điều đó sẽ giúp cho Singapore hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, nó còn giúp hàng hóa của Singapore tiếp tục thâm nhập vào thị trường Mỹ, Nhật Bản; vừa có điều kiện mở rộng đầu tư ra các nước thành viên đang phát triển của APEC, tạo cho Singapore trở thành một mắt khâu quan trọng trong APEC. + Singapore ngày nay đang tìm cách thoát khỏi sự lệ thuộc kinh tế từ bên ngoài, đặc biệt là từ Mỹ và Nhật Bản. Để thực hiện chính sách này, Singapore ngày càng mở rộng quan hệ với EU, tìm cách làm chiếc cầu nối trong hợp tác kinh tế Âu -Á. Singapore là nước đi đầu trong nỗ lực mở rộng buôn bán Âu -Á. Hội nghị ASEM lần thứ nhất nhóm họp vào đầu năm 1996 là theo sáng kiến của Singapore với sự tham gia của 10 nước Đông Nam Á và các quốc gia EU nhằm mục tiêu tăng cường hợp tác Âu-Á trong lĩnh vực kinh tế - thương mại - đầu tư. Thủ tướng Go Chok Tong nói, Singapore mong muốn có mặt và đầu tư mạnh hơn nữa vào châu Âu. + Ngoài ra, Singapore đang triển khai chiến lược đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là các nước Đông Nam Á. Chiến lược này được thông qua đầu thập kỷ 90. Để hiện thực hóa, ngay từ tháng 11-1993, Thủ tướng Singapore đã đến hàng loạt nước

84

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia... nhằm tìm kiếm sự ủng hộ trong việc xây dựng tổ chức Hợp tác kinh tế các nước Đông Á (EAEC). Tuy ý tưởng này chưa được thực hiện do áp lực của Mỹ, song kế hoạch đầu tư của Singapore vẫn không thay đổi. Theo Chính phủ Singapore, kể từ năm 1994, nước này sẽ trích từ 1-2% dự trữ ngoại tệ và trong vòng 20 - 30 năm sẽ rút ra từ 30 - 35% dự trữ vốn để đầu tư ở các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. Singapore và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao tương đối sớm (1973), song do chịu sự chi phối của tình trạng đối đầu giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương thời kỳ Chiến tranh Lạnh, nên quan hệ giữa hai nước ít được cải thiện và đôi khi khá căng thẳng. Sau khi hai nhóm nước tìm được tiếng nói chung trong vấn đề hòa bình ở Campuchia vào cuối thập kỷ 80 và cùng với nó là những biến đổi của tình hình thế giới sau Chiến tranh Lạnh, quan hệ Singapore - Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Chuyến viếng thăm Singapore của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (10-1991) đãm ở ra một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Đánh giá chuyếân viếng thăm này, Bộ trưởng Ngoại giao Singapore Dankhansen tuyên bố : Singapore mong muốn Việt Nam phát triển và thịnh vượng. Quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa hai nước là rộng lớn. Singapore sẽ bằng mọi cách hợp tác, giúp đỡ và chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam. Singapore ủng hộ Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali. Còn Thủ tướng Singapore Go Chok Tong phát biểu tại Hà Nội sau khi kết thúc chuyến thăm Việt Nam vào tháng 3-1994 đã khẳng định : thông qua ASEAN và ARF, mối quan hệ của hai nước sẽ không chỉ được mở rộng mà còn trở nên sâu sắc hơn. Hai nước có thể cùng nhau hợp tác để bảo vệ nền an ninh ở Đông Nam Á. Sau khi bình thường hóa quan hệ (10-1991), Singapore nhanh chóng đầu tư và mở rộng quan hệ buôn bán với Việt Nam. Để hỗ trợ các nhà đầu tư Singapore làm ăn tại Việt Nam, tháng 12-1991, Cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore (MAS) tuyên bố bãi bỏ việc ngăn cấm các cơ quan tài chính của Singapore cho các công ty của Việt Nam hoặc của Singapore làm ăn tại Việt Nam vay vốn, cho phép các công ty tài chính Singapore nối lại hoạt động tài chính bình thường ở Việt Nam. Nhờ đó, đầu tư của Singapore không ngừng tăng lên. Năm 1993, Singapore đã đầu tư 50 dự án vào Việt Nam với số vốn là 431 triệu USD, dẫn đầu các nước ASEAN và thứ sáu trong số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Năm 1994, Singapore đã vươn lên từ vị trí thứ ba trong số các nước đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn là 1,24 tỷ. Tính đến tháng 7-1997, Singapore đã vượt lên đứng hàng thứ nhất trong số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 156 dự án, tổng số vốn lên tới 5 tỷ 130 triệu USD (hơn cả Hàn Quốc và Nhật Bản), trong đó dự án lớn nhất của Singapore tại Việt Nam là xây dựng khu Nam -Thăng long Hà Nội, rộng 392 ha với tổng số vốn là 2 tỷ USD, sẽ là nơi sống và làm việc cho hơn 200.000 dân. Quan hệ buôn bán giữa Singapore và Việt Nam không ngừng tăng lên. Nếu năm 1989, mới chỉ đạt 110 triệu USD thì năm 1993 tăng lên 1,4 tỷ USD, năm 1994 - 1,9 tỷ USD và 1995 - 2,28 tỷ USD.

85

Ngoài hợp tác kinh tế - thương mại, quan hệ Việt Nam - Singapore còn được mở rộng trong các lĩnh vực khác. Với tư cách là thành viên ASEAN, Singapore là một trong số những nước ủng hộ tích cực Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali và gia nhập ASEAN (1995). Singapore cũng là một trong những nước đang tích cực ủng hộ Việt Nam gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) sau Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhìn chung, quan hệ Singapore - Việt Nam từ năm 1991 đến nay phát triển nhanh chóng và luôn được củng cố, tăng cường, đáp ứng lợi ích của mỗi nước và của toàn khu vực Đông Nam Á. Phát biểu nhân chuyến viếng thăm Singapore (10- 1993), Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định : Việt Nam và Singapore có những cơ sở vững chắc cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ song phương. Nhân dân Việt

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

86

Nam và Singapore đều có ý thức độc lập, dân tộc, cùng mong muốn thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và thế giới./.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. SÁCH TIẾNG VIỆT.

1. Thái Thị Ngọc Dư, Địa lý các nước Đông Nam Á, Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh,

1993.

2. Lê Phụng Hoàng, Một số vấn đề về quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á (1975 - 1989) - Đại

học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh - 1994.

3. Lê Phụng Hoàng - Trần Phi Phượng, Lịch sử Đông Nam Á cận hiện đại - Đại học Sư

phạm TP. Hồ Chí Minh - 1998.

4. Đào Duy Huân, Kinh tế các nước ASEAN, Hà Nội, 1997.

5. Grantơ Ivanxơ - Kenvin Râulây. Chân lý thuộc về ai ? - Nxb QĐND, Hà Nội, 1984.

6. Trần Khánh, "Cộng hòa Singapore". Đông Nam Á. Lịch sử và hiện đại - Nxb Sự Thật, Hà

Nội, 1990.

7. Thái Nguyễn Bạch Liên, Lý Quang Diệu, ông là ai ? - Nxb Mũi Cà Mau, 1997.

8. Nguyễn Quốc Lộc, Đông Nam Á ngày nay số 2, Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh,

1993.

9. Nguyễn Quốc Lộc, Đông Nam Á ngày nay số 3, Đại học Mở bán công TP. Hồ Chí Minh,

1995.

10. Vũ Kim Toàn, Mã Lai Á và vấn đề trung lập hóa Đông Nam Á, Nxb Khởi Hành, Sài Gòn,

1971.

11. Nguyễn Khánh Toàn, Về lịch sử Đông Nam Á hiện đại, Viện Đông Nam Á - Hà Nội, 1983.

12. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Malaysia, Singapore và Brunei, Đại học Mở bán công

TP.HCM, 1993.

13. Huỳnh Văn Tòng - Đinh Kim Phúc, Lịch sử các nước Đông Nam Á (T.2), Đại học Mở bán

công TP. Hồ Chí Minh, 1994.

14. Kinh tế các nước trong tổ chức ASEAN - Nxb Khoa học Xã hội 1983.

15. Văn minh tinh thần Singapore - Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội, 1997.

II. SÁCH TIẾNG NƯỚC NGOÀI.

1. Muthiah Alagappra. US - ASEAN Security. Cooperation : Limits and Possibilities. Kuala Lumpur, 1986.

2.Chan Heng Chee. The Politics of Suviral 1965 - 1967. Singapore, 1971.

3. Carobin Choo. Singapore. The PAP and The Problem of Political Succession. Singapore. 1986.

4. Georges T.Y.S., Lee Kuan Yew. Singapore., L., 1975.

5. Obaid Ul Haq, Foreign Policy, Singapore, 1986.

6.Indochina and Problems of Security in Southeast Aisa, 1984.

7. Alex Josey. Lee Kuan Yew. Singapore. 1968.

8.Mak J.N. Direction for Greater Defence Cooperation. Kuala Lumpur, 1986

9. Kawin Wilairat. Singapore's Foreign Policy. Singapore. 1975.

10.The Singapore Economy Reconsidered. Singapore, 1987.

11.Socialism that Works. Singapore. 1976.

12.Towards Tomorrow. Singapore. 1973.

III. BÁO - TẠP CHÍ TIẾNG VIỆT.

1. Sài Gòn Giải Phóng.

87

2. Lao Động.

3. Người Lao Động.

4. Nghiên cứu Quốc tế.

5. Tuần báo Quốc tế.

6. Tuổi Trẻ TP. Hồ Chí Minh.

7. Tuổi Trẻ Chủ Nhật.

8. Thanh Niên.

9. Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay.

10. Bản tin Thông Tấn xã Việt Nam.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

IV. BÁO - TẠP CHÍ NƯỚC NGOÀI.

1. Asia Week.

2. Far Eastern Economic Review (FEER).

88

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

BÀI III VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ Ở CỘNG HÒA INDONESIA DƯỚI THỜI SUKARNO (1945 - 1967) MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ

Vì sao ở các nước Đông Nam Á, quân đội lại đóng một vai trò cực kỳ quan

Chuyên đề này sẽ góp phần trả lời câu hỏi trên qua việc tìm hiểu vai trò của Sau chiến tranh Thế giới thứ Hai, quân đội đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong nhiều mặt sinh hoạt ở các nước Đông Nam Á, không chỉ ở các nước đã trải qua nhiều năm tháng chiến tranh (các nước Đông Dương), mà ở cả các nước liên tục sống trong thời bình. Ở Thái Lan, quân đội hầu như liên tục cầm quyền từ năm 1932 đến 1992 sau vô số cuộc đảo chính. Ở Myanmar, quân đội có ảnh hưởng áp đảo trong mọi mặt cuộc sống từ 1962 đến nay. Ở Philippines, quân đội là chỗ dựa không thể thiếu được của các tổng thống đương quyền, đặc biệt dưới thời Marcos (1965 - 1986). Ở Campuchia, quân đội từng cầm quyền trong những năm 1970 - 1975. Ở Lào, từ năm 1954 đến năm 1975 không một biến cố chính trị lớn nào không có vai trò của quân đội. Riêng ở miền Nam Việt Nam dưới thời chính phủ Sài Gòn, quân đội là lực lượng chi phối mọi sinh hoạt, đặc biệt từ sau biến cố tháng 11-1963 cho đến khi chế độ Sài Gòn bị sụp đổ vào cuối tháng 4-1975. trọng và nhiều khi là quyết định như vậy ? quân đội ở Indonesia dưới thời Tổng thống Sukarno (1945 - 1967).

89

I. GIAI ĐOẠN ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP (1945 - 1949). Ngày ra đời của quân đội nước Cộng hòa Indonesia được coi là ngày 5-10- 1945, khi Tổng thống Sukarno ra sắc lệnh thành lập Quân đội An ninh Nhân dân (Tentara Keamanan Rakjat - TKR). Nền tảng của nó là những đơn vị của Lực lượng Tình nguyện Bảo vệ Tổ quốc (Sukarela Pembela Tanah Air - PETA) đã được quân chiếm đóng Nhật thành lập, các tiểu đoàn lao dịch bán quân sự (Heiho), những chi đội nhân dân tự vệ (Laskar) và những phân đội Hồi giáo (Hizbullah). Ít lâu sau Quân đội An ninh Nhân dân chuyển thành Quân đội Quốc gia Indonesia (Tentara Nasional Indonesia - TRI) cho đến ngày nay. Trong những năm đầu quân đội Indonesia được trang bị tồi, không được huấn luyện đầy đủ và thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Thoát thai từ quân đội của chế độ thực dân cũ, quân đội bị chỉ huy bởi các sĩ quan trong quân đội Hoàng gia Ấn Độ thuộc Hà Lan cũ (KNIL) hoặc những người đã tốt nghiệp các trường quân sự của Nhật. Chỗ yếu rõ rệt nhất của TRI là bộ máy chỉ huy của nó. Các sĩ quan cấp dưới không sẵn sàng phục tùng cấp trên và hợp tác với các chỉ huy đồng cấp. Họ xử sự như "các quân phiệt". Đây là nguồn gốc của chế độ "gia trưởng" (bapakism), theo đó các sĩ quan chỉ huy địa phương tự coi mình là bapak (cha) trong quan hệ với cấp dưới và đến lượt mình, cấp dưới chỉ phục tùng cấp trên trực tiếp. Bapakapism đã khiến các chỉ huy địa phương ít nhiều độc lập trong quan hệ với cấp trên. Cạnh đó, còn tồn tại

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

không ít tổ chức bán quân sự không phục tùng TRI, như Pemuda Sosialis Indonesia (Pesindo). Các sĩ quan PETA không tin cậy các sĩ quan của KNIL, dù họ được đào tạo chính quy. Giữa hai giới này đã diễn ra một cuộc cạnh tranh quyết liệt giành chức tư lệnh TRI. Kết quả là Sudirman, cựu tư lệnh các tiểu đoàn PETA đóng ở Banjumas, được bầu làm tư lệnh ngày 12-11-1945, dù xét về trình độ chuyên nghiệp và thâm niên, ông này kém xa Urip Sumohardjo, cựu sĩ quan KNIL. Nổi tiếng là người phân phối một cách công bằng các vũ khí tịch thu được của quân đội chiếm đóng Nhật, Sudirman còn được biết đến với chủ trương rằng quân đội phải đóng một vai trò chính trị nhất định trong sự nghiệp bảo vệ nền độc lập của đất nước và quyền lợi dân tộc. Những điểm yếu kể trên đã hạn chế nhiều vai trò của quân đội trong sự nghiệp đấu tranh chống cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Hà Lan. Tuy nhiên, nhờ lòng dũng cảm và tinh thần yêu nước cao độ của các binh sĩ và được nhân dân ủng hộ hết lòng, quân đội đã lập được nhiều thành tích vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của Hà Lan và qua đó đã khẳng định được một chỗ đứng nhất định trong bộ máy công quyền của Nhà nước Indonesia độc lập.

90

Năm 1947, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Hà Lan còn đang diễn ra, trong hàng ngũ quân đội đã bùng ra một cuộc tranh luận chung quanh phương hướng xây dựng quân đội thành một quân đội nhà nghề, hay một quân đội nhân dân. Được sự ủng hộ của Thủ tướng Mohammed Hatta, kế hoạch xây dựng Quân đội Quốc gia Indonesia thành một quân đội nhà nghề có kỷ luật cao, hoặc huấn luyện kỹ, rành rẽ trong việc nắm vững khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự do các đại tá Abdul Haris Nasution và T.B. Simatupang, vốn là những sĩ quan chuyên nghiệp được người Hà Lan đào tạo, đề xuất đã thắng thế. Theo kế hoạch này, quân số sẽ được giảm từ 40 vạn xuống còn 15 vạn được huấn luyện tốt, trang bị hiện đại, có sức cơ động cao và chiến đấu có hiệu quả. Bộ Tham mưu do Nasution lãnh đạo đã cho giải trừ những đơn vị mà sĩ quan của chúng xét ra là những phần tử có xu hướng tả khuynh, không ăn cánh với phe Nasution. Cần chú ý một điều là thắng lợi của Nasution diễn ra đồng thời với những nỗ lực của các đảng phái tư sản nhằm loại khỏi chính phủ những thành viên cộng sản trong khoảng thời gian thương thuyết Hiệp ước Renville (17-1-1948). Những nỗ lực này đã kết thúc bằng việc thay nội các của chính phủ Sjarifuddin bằng chính phủ Hatta (29-1-1948). Âm mưu trên của lực lượng tư sản dân tộc đã gặp phải sự chống cự quyết liệt từ các lực lượng cánh tả, nhất là từ phía đảng Cộng sản. Nhiều sĩ quan cộng sản đã bị bắt cóc và giết hại. Những hoạt động khiêu khích của chính phủ Hatta và Tham mưu trưởng Nasution đã làm bùng lên những cuộc đụng độ vũ trang giữa các lực lượng trung thành với chính phủ và sư đoàn 4 Senopati đang đóng tại Solo (Surakarta) trên đảo Java - một trong những cơ sở quyền lực của Mặt trận Dân chủ Nhân dân và đảng Cộng sản Indonesia. Khi sư đoàn này bị đánh bại, ban lãnh đạo Pesindo đã quyết định ra mặt chống chính phủ và đêm 28-9 đã dựa vào các đơn vị trung thành với mình chiếm thành phố Madiun. Dù hoàn toàn bất ngờ, một số nhà lãnh đạo đảng Cộng sản do Musso cầm đầu, đã liên minh với những người khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa đã bị chính phủ Hatta dùng các đơn vị thuộc sư đoàn Siliwangi trấn áp thẳng tay. Sau cuộc khởi nghĩa vũ trang trên, tư tưởng chống Cộng đã ngự trị trong quân đội: chủ nghĩa chống Cộng đã trở thành biểu trưng cho lòng trung thành và cách hành xử của mỗi người lính nếu muốn ở lại trong hàng ngũ quân đội. Nhưng quan hệ cộng tác trên giữa các chính khách phái hữu và quân đội không dẫn đến việc quân đội tự trở thành vật lệ thuộc vào chính phủ, vì một lẽ là khả năng của chính phủ lúc bấy giờ không thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về các phương tiện vật chất và khí tài quân sự. Điều này buộc quân đội phải sống dựa vào

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

địa phương nơi họ đóng quân. Một nhân tố khác không kém phần quan trọng cũng khiến cho quân đội trở thành một lực lượng độc lập đến mức nhiều khi trở thành đối lập với chính phủ dân sự là chủ trương đàm phán và nhiều lần nhượng bộ thực dân Hà Lan. Tư tưởng chống Cộng của giới sĩ quan cao cấp không hề làm cho họ trở nên xa lạ với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, hoặc đẩy họ về phía các lực lượng đế quốc. Nhận thức được rằng quân đội, với tư cách là một thiết chế quân sự, là một cơ chế có tổ chức nhất và mạnh nhất, giới sĩ quan cao cấp mong muốn tiến hành những hành động quân sự quyết liệt, giáng trả và làm thất bại những mưu toan áp đặt trở lại ách thống trị của thực dân Hà Lan. Giới sĩ quan cao cấp muốn duy trì trong nhân dân hình ảnh của quân đội như là một lực lượng bảo tồn sự toàn vẹn về cơ chế và lãnh thổ của cộng đồng Indonesia chống lại những thế lực công phá từ bên ngoài và bên trong. Quan điểm này đã khiến giới sĩ quan cao cấp không đồng tình với đường lối nhượng bộ Hà Lan của chính phủ dân sự. Năm 1949, Nasution có nói: “Quân đội tự thành lập bằng chính sức mạnh của mình, tự vũ trang và trong suốt thời kỳ gay go nhất của cuộc đâú tranh giành độc lập, quân đội đã tự mình duy trì sức mạnh bằng cách tổ chức chính quyền và nền kinh tế trong những khu vực riêng của mình”. “Chúng tôi tự bầu lấy tổng tư lệnh từ cơ sở lên và các vị chỉ huy của chúng ta là do được bầu mà ra”. “Thật vậy, quân đội chúng tôi ra đời trước các chính đảng. Thật vậy, các tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn của quân đội chúng tôi và Bộ Tham mưu đã có mặt trước cả Bộ Quốc phòng. Thật vậy, chính các đơn vị quân đội đã đi tiên phong trong việc giành chính quyền, cả chính quyền dân sự và quân sự, trong thời gian đầu của cách mạng”. Còn bộ quân sử xuất bản nhiều năm sau vụ Madiun có ghi rõ ràng: “Quân đội Indonesia được thành lập từ dưới lên và hoàn toàn không phải là một cơ chế của chính phủ”.

Tóm lại, những năm 1945-49 là thời kỳ chứng kiến sự ra đời của quân đội Indonesia và sự chuyển biến của nó từ chỗ là người đóng vai trò bảo vệ cộng đồng Indonesia đã trở thành lực lượng chống lại mọi loại quan hệ từ bên ngoài xâm nhập vào trong nước và làm biến chất xã hội này. Chính đây là một trong nhiều lý do khiến quân đội trở thành một lực lượng tồn tại tách rời với chính phủ dân sự và môi trường nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa chống Cộng và bài ngoại trong giai đoạn sau.

II. GIAI ĐOẠN DÂN CHỦ ĐẠI NGHỊ (1950 - 1959).

Từ tháng 8-1950 đến tháng 2-1959, Indonesia sống dưới chế độ dân chủ đại nghị. Theo hiến pháp, quyền hạn của Tổng thống Sukarno bị hạn chế. Chính phủ do thủ tướng lãnh đạo nắm toàn bộ quyền hành và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội, chứ không phải tổng thống. Mọi sắc lệnh của tổng thống, kể cả những mệnh lệnh mà ông tự ban hành trong tư cách là tổng chỉ huy quân đội, phải được phó thự bởi một bộ trưởng có thẩm quyền. Hai chính đảng lớn nhất là Masjumi (Hội đồng Hồi giáo Indonesia) và PNI (Đảng Dân tộc Indonesia ) thay nhau lên nắm quyền.

Những nhiệm vụ hàng đầu mà các chính phủ của chế độ dân chủ đại nghị phải giải quyết là: xóa bỏ các tàn dư của chế độ thực dân Hà Lan, thống nhất các miền của đất nước Indonesia trên cơ sở xóa bỏ các xu hướng ly khai, phát triển đất nước và cải thiện cuộc sống nhân dân. Không tìm ra giải pháp có hiệu quả cho những vấn đề vừa kể là nguyên nhân chính khiến các chính phủ không tồn tại lâu (trung bình chỉ hơn một năm).

Nét nổi bật thứ hai trong sinh hoạt chính trị là cuộc đấu tranh giữa hai phái "hành chính" và "lý tưởng".

91

Hai đặc điểm nói trên của chế độ dân chủ đại nghị đã tác động rõ rệt đến quân

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

đội trong vai trò là lực lượng bảo vệ Tổ quốc.

Vấn đề đầu tiên mà giới chỉ huy quân sự phải đối mặt liên quan đến quân số. Với đội ngũ trên 20 vạn người, quân đội rõ ràng đã trở thành gánh nặng tài chính đè lên một đất nước vừa thoát khỏi chế độ thực dân. Được đề ra từ năm 1947 nhưng chưa có điều kiện thuận tiện để thực hiện, kế hoạch "hợp lý hóa" nhằm biến một quân đội đông đảo thành một lực lượng nhỏ hơn, nhưng được trang bị tốt hơn, có sức cơ động cao hơn và với khả năng chiến đấu hiệu quả hơn được làm sống lại ngay trong năm 1950. Kế hoạch này được dự tính thực hiện dựa vào sự giúp đỡ của Hà Lan.

92

Tháng 4-1952, kế hoạch tổ chức lại quân đội được chính thức giao cho Bộ trưởng Quốc phòng Hamengkubuwono IX. Dự kiến trong năm 1953 chính phủ sẽ thải hồi 6 vạn quân nhân và 3 vạn cảnh sát. Nội dung thứ hai của kế hoạch hợp lý hóa là giảm quyền lực của các cấp chỉ huy cơ sở. Nguyên là trước đây lực lượng PETA được tổ chức trên cơ sở lòng trung thành của quân lính với cấp chỉ huy trực tiếp. Với phương cách tổ chức này, người chỉ huy thực sự trở thành một thứ đốc quân phong kiến, còn đơn vị ông ta giống như một lực lượng gia binh. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Hà Lan (1945 - 1949), TRI vẫn được tổ chức như mô hình PETA, vì lúc bấy giờ do trang bị và huấn luyện kém, quân đội Indonesia chỉ có thể sử dụng chiến thuật du kích. Tuy được sự ủng hộ của hai chỉ huy cao cấp nhất trong quân đội - Thiếu tướng Simatupang, Tham mưu trưởng quân đội và Đại tá Nasution, Tham mưu trưởng lục quân, kế hoạch cải tổ của Hamengkubuwono IX lại vấp phải sự chống đối của các đảng PNI, đảng Cộng sản Indonesia (PKI). Các chính đảng này tự coi mình là người bảo vệ lý tưởng cách mạng và xem Nhà nước "chỉ như là một phương tiện", còn quân đội nhân dân với số quân đông đảo được trang bị một lý tưởng đúng đắn là sự đảm bảo tốt nhất cho sự nghiệp đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Họ đả kích Hamengkubuwono IX vì những quan hệ giữa ông này với phái bộ quân sự Hà Lan và cáo buộc Masjumi thông đồng với lực lượng Dar-ul-Islam. Đáng nói hơn cả là kế hoạch cải tổ quân đội không nhận được sự đồng tình của Tổng thống Sukarno. Trong tư cách là tổng chỉ huy quân đội, Sukarno muốn xây dựng một quân đội "nhân dân", chứ không phải một quân đội "cán bộ", vì ông muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Hà Lan. Mâu thuẫn giữa Tổng thống một bên, Bộ trưởng Quốc phòng và các tham mưu trưởng quân đội và lục quân một bên lớn dần. Trong bối cảnh trên, đầu tháng 6-1952 Nasution ký lệnh thuyên chuyển Đại tá Simbolon, vốn là người miền Bắc Sumatra, tư lệnh quân khu Bắc Sumatra sang Bộ tư lệnh Đông Java, thay đại tá Bambang Sugeng. Nhưng Sukarno từ chối duyệt y quyết định này. Cho rằng đây là cơ hội thuận lợi, một đại tá tên là Bambang Supeno, bà con xa của Sukarno, vốn không tán đồng kế hoạch cải tổ quân đội, đã, với sự hậu thuẫn của các đảng đối lập, giục Tổng thống cách chức Nasution. Supeno còn đi vận động thu thập chữ ký của các sĩ quan quân đội để làm kiến nghị đòi bãi chức Nasution. Ngày 12-7, Simatupang đòi Bambang Supeno tường trình hoạt động này của mình. Supeno từ chối và ngay ngày hôm sau viết thư cho Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và Ủy ban Quốc phòng tuyên bố không còn tin cấp trên nữa. Bốn ngày sau, Nasution ký lệnh bãi chức Supeno. Vụ việc trên đã thu hút sự chú ý của Quốc hội. Từ cuối tháng 7-1952, Quốc hội đã bỏ nhiều thời gian thảo luận cuộc xung đột trên trong hàng ngũ quân đội. Cuộc thảo luận này đạt đến cao điểm của nó vào ngày 16-10, khi Quốc hội tố cáo rằng giới chóp bu quân đội muốn xây dựng một quân đội kiểu phương Tây, do phái bộ quân sự Hà Lan huấn luyện. Một nghị quyết đã được thông qua với 91 thuận, 54 chống về việc thành lập một ủy ban của Quốc hội nhằm tiến hành một cuộc điều tra

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

93

về quân đội và các chỉ huy của nó và giải tán phái bộ quân sự của Hà Lan. Tức giận trước điều mà họ xem là sự can thiệp của Quốc hội vào công việc nội bộ của quân đội và chua cay trước sự việc lâu nay các thành viên Quốc hội lao vào những cuộc tranh cải không dứt về những vấn đề nhỏ nhặt, trong lúc giờ lại sẵn sàng đồng tâm nhất trí trong quyết tâm triệt hạ ảnh hưởng của quân đội, ngày 17-10, một nhóm sĩ quan, trong đó có Simatupang, Nasution, Simbolon, Đại tá Kawilarang ((cid:31)), Tư lệnh quân khu Tây Java (trong đó có cả thủ đô Jakarta) và Đại tá G.P.H. Djatikismumo, đã cho xe tăng đến đậu trước dinh Tổng thống và kéo vào gặp ông này với lời yêu cầu chấm dứt sự can thiệp của cơ quan lập pháp vào công việc của quân đội, giải tán Quốc hội, mà 2/3 số đại biểu theo ý kiến họ, là đại diện của những người theo chủ nghĩa liên bang và giao toàn bộ chính quyền cho nhị đầu chính thể (duumvirat), gồm Sukarno và phó Tổng thống Hatta, nhưng Sukarno vẫn từ chối ủng hộ họ. Sau vụ này, Nasution và hàng loạt tư lệnh quân khu bị bãi chức. Thế chỗ Nasution là Đại tá Bambang Sugeng, đối thủ của Nasution. Simatupang bị buộc phải về hưu ở tuổi 34 với lý do là chức tổng tham mưu trưởng quân đội đã bị bãi bỏ. Uy tín và ảnh hưởng của Sukarno và các lực lượng cánh tả ủng hộ ông lên cao. Nội các Wilopo không còn phản ánh đúng tình hình so sánh lực lượng sau vụ 17-10. Từ ngày 12-7-1953 là thời kỳ cầm quyền của chính phủ Ali Sastroamijojo, lãnh tụ PNI. Chính phủ này đã thi hành một đường lối đối ngoại tích cực, giải tán phái bộ quân sự Hà Lan, lập quan hệ lãnh sự với Liên Xô, triệu tập Hội nghị Bangdung... Về đối nội, thẳng tay trấn áp các phong trào dấy loạn ở Tây bộ Java, Nam bộ Sulawesi và ở Acheh, tăng cường khu vực kinh tế Nhà nước, bỏ lệnh trục xuất nông dân khỏi những mảnh đất của đồn điền nước ngoài mà họ đã chiếm giữ... Những thắng lợi trên của lực lượng cánh tả chưa thể tác động trực tiếp đến xu thế phát triển của quân đội. Lý do là trong những năm cầm quyền của chính phủ Ali Sastroamijojo, ngân sách quân sự bị cắt giảm nghiêm trọng. Năm 1952 là 3 tỷ rupi, trong đó 1 tỷ để trả lương, 2 tỷ dùng để mua trang thiết bị. Năm 1954, cũng vẫn 3 tỷ nhưng do lạm phát nên chỉ còn 2,2 tỷ trong đó lương chiếm 1,9 tỷ, nghĩa là chi phí cho trang thiết bị chỉ còn 0,3 tỷ, chỉ đủ chi cho việc bảo trì những đồ đã có. Tài khóa 1951-52 dành ra nửa tỷ để mua vũ khí của nước ngoài, nhưng đến tài khóa 1954-55 thì chỉ còn 5 triệu. Con số này chỉ có nghĩa là không mua thêm được gì mới. Tình hình trang bị thiếu thốn bộc lộ rất rõ rệt trong các cuộc hành quân trấn áp lực lượng du kích của Darul Islam. Trong tình hình trên, dù ảnh hưởng của cánh Nasution, tức cánh chủ trương dựa vào Hà Lan để hiện đại hóa quân đội - đã bị giảm sút, nhưng quân đội muốn tồn tại như là một cơ chế độc lập với chính quyền dân sự và muốn nhìn thấy vai trò của nó trong xã hội Indonesia được tăng lên thì không thể không thừa nhận quan điểm của Nasution, nhất là trong bối cảnh ngân sách quân sự ngày càng bị thu hẹp như trên. Và Mỹ được coi là một trong những nguồn hiếm hoi có thể cung cấp vũ khí và trang thiết bị hiện đại cho Indonesia. Ngày 2-1-1953, tờ New York Times đưa tin: “Hôm nay, các nguồn tin quân sự cao cấp Indonesia tuyên bố rằng quân đội Indonesia thiếu đạn dược và vũ khí một cách nghiêm trọng và rất sẵn sàng đón nhận viện trợ quân sự Mỹ trên cơ sở có hoàn trả”. Tư trào này được sự ủng hộ của một nhân vật quan trọng trong quân đội là Đại tá Zulkifli Lubis, nguyên phụ tá TMT dưới thời Nasution. Theo Sjahrir thì chính “Lubis đã cứu Sukarno trong vụ 17-10”. Thất vọng vì không được chỉ định là Tham mưu Trưởng (TMT) Lục quân thay Nasution, Lubis đã tìm cách phá TMT mới là Đại tá Bambang Sugeng. Kết quả là tháng 5-1955, ông ta được bổ nhiệm là TMT. Nhưng chỉ một tháng sau, Sukarno chỉ định một TMT mới là Đại tá Utojo. Lubis và nhiều tư lệnh quân khu đã tẩy chay lễ bổ nhiệm. Lợi dụng cơ hội, các đảng bảo thủ Masjumi

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

và đảng XHCN Indonesia gây sức ép đòi gạt bỏ chính phủ Ali Sastroamijojo. Bị sức từ hai phía, ngày 12-8-1955, Ali Sastroamijojo phải nhường chỗ cho ép Burnhanuddin Harahap, người của Masjumi. Ông này đã thành lập một nội các mới trên cơ sở liên minh giữa đảng PSI với tất cả đảng Hồi giáo mà đứng đầu là Masjumi. Sự biến kể trên cho thấy ảnh hưởng của chính phủ đối với quân đội tưởng chừng được tăng cường sau biến cố 17-10 này rõ ra là rất suy yếu. Một diễn biến khác liên quan đến quân đội cũng rất đáng chú ý là tệ buôn lậu diễn ra trong nửa đầu thập niên 50, lúc đầu còn lén lút, sau công khai với sự hỗ trợ của quân đội. Hàng hóa trao đổi là cùi dừa khô lấy xe tải, xe jeep, máy móc. Khởi đầu từ các cảng thuộc đảo Sulawesi, tệ buôn lậu mau chóng lan đến Bắc Sumatra, nơi các đơn vị quân đội dưới quyền của Đại tá Simbolon đã bán lậu cà phê và cao su để đáp ứng các nhu cầu của quân đội. Bị cáo giác, Simbolon phải về Jakarta giải trình và cam kết chấm dứt. Có lẽ chính vì sự việc này mà Simbolon dù là ứng cử viên sáng giá nhất cho chức TMT Lục quân, sau khi Bambang Utojo bị chính phủ Burhanuddin giải nhiệm tháng 10-1955, vẫn không được đề cử. Hai ứng viên khác là Zulkifli Lubis và Gatot Suproto. Không thể quyết định chọn ai, chính phủ cuối cùng đành bổ nhiệm Nasution kèm với quân hàm thiếu tướng, khi ông này tuyên bố sẵn sàng quay trở lại nhiệm sở cũ.

94

Việc chính phủ dân sự trở lại tin dùng Nasution đã đưa đến hai hậu quả. Thứ nhất, con đường dựa vào sự trợ giúp từ bên ngoài để hiện đại hóa quân đội đã được chấp thuận. Và Mỹ đã mau lẹ đáp ứng yêu cầu này vì Indonesia là nước lớn nhất trong vùng ĐNA, chiếm một vị trí có ý nghĩa chiến lược và là túi dầu lửa lớn duy nhất nằm giữa vịnh Persique và California. Tuy nhiên, đường lối đối ngoại tích cực mang xu hướng chống đế quốc ngày càng đậm nét của Sukarno từ giữa những năm 1950 đã không cho phép Mỹ có thể viện trợ trực tiếp cho quân đội Indonesia vũ khí và các loại trang thiết bị quân sự khác được. Mỹ chỉ có thể tăng cường cộng tác với quân đội nước này chủ yếu qua chương trình huấn luyện sĩ quan Indonesia ở Mỹ. Mỹ tuyển chọn rất kỹ số sĩ quan theo học và đào tạo họ rất chu đáo. Những sĩ quan này được theo học cùng một chương trình như những sĩ quan Mỹ. Nhiều người còn được thu nhận vào học những trường Tham mưu và chỉ huy ở Fort Leavenworth, nơi họ được dạy nghệ thuật chỉ huy, vào những trường quân sự chuyên môn, nơi họ được dạy cách sử dụng những loại vũ khí và kỹ thuật quân sự hiện đại nhất mà quân đội Mỹ cũng đang dùng. Ý đồ của Mỹ là muốn biến những sĩ quan Indonesia được chọn sang học ở Mỹ thành những huấn luyện viên, nghĩa là những hạt nhân tương lai, của chính quân đội Indonesia. Do đó, tuy số sĩ quan theo học ở Mỹ không nhiều, nhưng ảnh hưởng của Mỹ trong quân đội Indonesia không phải là nhỏ, và thực tế là đã tăng lên không ngừng, cho dù quan hệ giữa hai nước chưa lấy gì làm thân thiện cho lắm. Dần dần việc cần phải trải qua khóa huấn luyện ở Fort Leavenworth được xem là điều kiện không thể thiếu đối với sĩ quan tham mưu cao cấp nếu anh ta muốn tiến thân. Và đó cũng là lý do mà vào cuối thập niên 1950, số vài trăm sĩ quan được đào tạo ở Mỹ đã lần lần chiếm lĩnh những vị trí rất có ảnh hưởng trong bộ máy đào tạo và chỉ huy trong quân đội Indonesia. Có thể minh họa ảnh hưởng này qua Ahmad Jani, một sĩ quan được đào tạo ở Mỹ trong năm 1956. Ngay sau khi trở về, ông được cử về làm trợ lý thứ hai của TMTLục quân, Tướng Nasution. Ba tháng sau ông ta kiêm nhiệm Phó chủ tịch thứ hai trong Bộ Tham mưu. Với hai chức vụ này, Jano trở thành sĩ quan quan trọng nhất trong lĩnh vực đào tạo và tác chiến. Và tác động của nó cũng hiện ra ngay: trong khoảng thời gian 1951 - 1956 số sĩ quan theo học hàng năm ở Mỹ là 50, 1957 là 150 và 1958 là 200. Năm 1958, sổ nhật ký của trường Tham mưu và Chỉ huy của quân đội Indonesia (SESKOARD) ở Bangdung ghi: “Lúc đầu, quân đội khi chưa có

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

95

một binh thuyết rõ ràng và đã được khẳng định của mình, mọi tư liệu giảng dạy ở đây đều là của trường Tham mưu và Chỉ huy ở Fort Leavenworth. Chúng đã được dịch...., và cả sách giáo khoa tác chiến, đề cương bài học...” Trong ngành cảnh sát Indonesia, ảnh hưởng của Mỹ càng đậm nét hơn, đặc biệt là đối với đơn vị tinh nhuệ nhất - Lữ đoàn cơ động, đơn vị đóng vai trò nổi bật trong vụ Madiun. Từ năm 1956 đến 1959 có khoảng 527 sĩ quan đã được đưa sang học ở Mỹ. Ngoài ra Mỹ không bỏ qua những đơn vị ưu tú nhất của hải quân Indonesia - những đơn vị commando. Sĩ quan chỉ huy những đơn vị này thường chiếm những vị trí chóp bu trong hải quân. Cho đến năm 1958, 12 trong số 15 sĩ quan cao cấp nhất của những đơn vị commando đã theo học ở Mỹ. Dù ảnh hưởng của Mỹ trong quân đội Indonesia cho đến cuối thập niên 1950 đã tăng lên nhiều so với trước, nhưng điều này không có nghĩa là số sĩ quan đã theo học ở Mỹ đã bị Mỹ hóa hoàn toàn. Vả chăng, do chính sách viện trợ của Mỹ, ảnh hưởng đó mới chỉ phát triển một cách ngấm ngầm: đó chỉ mới là những ảnh hưởng về nghiệp vụ, về chuyên môn và chúng sẽ tác động đến đường lối chuyên môn của quân đội, chứ chưa thể là những ảnh hưởng về chính trị. Chính do giới hạn của những ảnh hưởng này trong những năm 1956-1958, khi xảy ra vụ phiến loạn ở Sumatra đòi ly khai khỏi Indonesia được Mỹ hỗ trợ, quan hệ giữa Mỹ và Indonesia hầu như bị tan vỡ và ảnh hưởng của Mỹ bị sút giảm nghiêm trọng. Hậu quả thứ hai là hàng ngũ cấp chỉ huy quân đội bị phân rã thành hai phe đối nghịch nhau: phe thân chính phủ tập hợp quanh Nasution và Gatot Subroto, phe chống đối quy tụ quanh Simbolon và Zulkifli Lubis. Phe chống đối trong quân đội đã gây ra cuộc bạo loạn ly khai ở Sumatra. Cuộc bạo động phát sinh từ hai nguyên nhân chính. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 29-9-1955 là một thắng lợi lớn của các lực lượng cánh tả: số ghế của đảng PNI tăng từ 52 lên 57 tức bằng số ghế của Masjumi, vốn là đảng mạnh nhất trong Quốc hội trước với 44 ghế, còn trong Quốc hội mới là 57. Như vậy, Masjumi không còn là đảng lớn nữa. Số ghế của đảng Cộng sản từ 17 lên 39, trong khi đó đảng PSI bị mất nửa số ghế : từ 14 còn 5. Đáng kể nhất là Nahtadul từ 8 tăng vọt lên 45. Thắng lợi này đã cho phép Ali Sastroamijojo trở lại làm Thủ tướng vào ngày 26-3-1956. Bị thất bại, lực lượng cánh hữu đã tìm cách phản công. Chỗ dựa của họ lần này chính là các tư lệnh quân đội địa phương ở Sumatra, Java và Sulawesi. Để có tiền trang trải chi phí cho đơn vị của mình và cũng với ý đồ củng cố, tăng cường quyền lực cá nhân đối với các đơn vị dưới quyền, các chỉ huy này đã tìm cách bán các sản phẩm của địa phương mình trực tiếp cho Singapore, Penang và những trung tâm thương mại ngoại quốc khác, mà không thông qua các cơ quan ngoại thương trung ương. Giữa năm 1956, Chủ tịch Ủy ban QP của Quốc hội đã nói rằng tư lệnh Bắc Sulawesi đã dùng tiền bán các sản phẩm để nhập 5.000 tấn gạo, 69 ôtô, 400 súc vải trắng phân phát cho binh lính, còn viên chưởng lý Suprato cho biết hàng năm có 1/3 sản phẩm cao cấp của Indonesia bị xuất lậu ra ngoài trị giá tới 125 triệu đô la. Sukarno đã tìm cách loại bỏ những tư lệnh vùng nào dính líu vào các vụ mua bán bất hợp pháp này. Đại tá F. Warouw, tư lệnh Đông Indonesia bị bổ làm tùy viên quân sự ở Bắc Kinh, Đại tá Alex Kawilarang, Tư lệnh Tây Java bị bổ làm tùy viên quân sự ở Washington. Đây là vây cánh của Đại tá Lubis, phụ tá TMT. Tức giận, trong hai tháng 10 và 11-1956, Lubis đã hai lần tìm cách lật đổ chính phủ Ali nhưng đều bị thất bại. Không thành công ở trung tâm, Lubis chuyển sang khích động các tư lệnh địa phương nổi loạn ngay tại khu vực của họ. Lợi dụng nỗi bất mãn đã có từ lâu của nhân dân trước việc chính phủ cấp tiền không đủ cho nhu cầu của những vùng ngoại vi, tình trạng đi lại tồi tệ, lực lượng phản động

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

đã lên tiếng trách chính phủ và Bộ Tham mưu (BTM) theo chủ nghĩa trung tâm Java, coi thường quyền lợi của các dân tộc thiểu số. Việc Hatta, người mà tầng lớp tư sản - địa chủ các tỉnh bên ngoài (đặc biệt là Sumatra) coi là đại diện của họ trong chính phủ trung ương, rời khỏi ghế Phó tổng thống ngày 1-12-1956 càng làm cho mâu thuẫn thêm nghiêm trọng. Từ tháng 12-1956 đến tháng 3-1957, giới chỉ huy quân sự các vùng Bắc, Tây và Nam Sumatra và cả Đông Indonesia (gồm các đảo Kalimantan, Sulawesi, Maluku) đã thiết lập trong vùng của họ cả một chế độ khủng bố - quân sự, bộc lộ sự thù địch công khai đối với “trung ương” và thực tế là đã cắt đứt quan hệ kinh tế với chính phủ. Về sau, người ta đã phát hiện thấy họ đã được các cường quốc đế quốc, đặc biệt là Mỹ, ủng hộ một cách hào phóng. Thực chất của cuộc đấu tranh là nhằm kiểm soát chính phủ trung ương, tuy bề ngoài có vẻ như là một phong trào ly khai. Đòi hỏi chính của các phe quân sự dấy loạn là tăng tiền chi tiêu cho vùng, vùng được tự trị, thiết lập một chính phủ chống Cộng độc lập với Quốc hội do Hatta cầm đầu, thải hồi Nasution và bộ tham mưu của ông. Lãnh tụ Masjumi là Natsir cũng đưa ra những yêu sách tương tự. Ông rút các bộ trưởng Masjumi khỏi chính phủ với mưu toan làm chính phủ bị đổ. Nhưng lực lượng chính của quân đội vẫn trung thành với chính phủ. Đảng Cộng sản, PNI, Nahdatul Ulama, Tổng thống và dư luận trong nước đã lên án hoạt động của những kẻ phiến loạn. Nhờ đó, chính phủ đã lần hồi dẹp yên các vụ nổi loạn. Sau biến cố này, vai trò của quân đội (nhất là của BTM) trong mọi mặt của đời sống đất nước tăng lên rõ rệt. Trong năm 1957, quân đội đã ủng hộ việc chính phủ đẩy mạnh các hoạt động nhằm loại trừ ảnh hưởng còn lại của Hà Lan: đòi lại miền Tây Irian, tịch thu tài sản của Hà Lan. Ngày 13-12-1957, Nasution đã ban hành sắc lệnh thiết lập quyền kiểm soát của quân đội đối với tài sản của Hà Lan ở Indonesia. Số này trị giá tới 1,5 tỉ rupi. Việc này đã làm cho quân đội trở thành một lực lượng kinh tế đáng kể trong nước. Với những hoạt động trên trong năm 1957-58, quân đội đã trở thành một lực lượng không thể thiếu được trong đời sống Indonesia, đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho đường lối đối ngoại của chính phủ Sukarno trước bối cảnh Chiến tranh lạnh và chính sách “trung lập là vô luân” của F.Dulles.

96

III. GIAI ĐOẠN "DÂN CHỦ CÓ LÃNH ĐẠO" (1959 - 1965). Giữa lúc uy tín và ảnh hưởng của quân đội gia tăng nhanh chóng như vậy thì song song đó sinh hoạt chính trị cũng đang trải qua một biến cố quan trọng. Đó là ngày 21-7-1957, Sukarno đề xuất tư tưởng thiết lập chế độ “dân chủ có lãnh đạo”. Chế độ này được đảng Cộng sản, đảng Dân tộc và đông đảo quần chúng ủng hộ. Nhưng Masjumi kiên quyết chống lại vì họ coi nó như là biểu hiện độc tài cá nhân của Sukarno. PSI, NU và đảng Thiên Chúa giáo vốn dĩ không muốn đảng Cộng sản có mặt trong chính phủ cũng lên tiếng phản đối. Trong tình hình trên lập trường của quân đội có ý nghĩa quyết định, và ban lãnh đạo nó đã ủng hộ Sukarno. Đây không phải là điều khó hiểu vì từ ngày Quốc hội can thiệp sâu vào tổ chức quân đội, giới chỉ huy chóp bu có xu hướng ủng hộ một chính phủ mạnh do Tổng thống lãnh đạo, nhất là trong tư tưởng của Sukarno có ý tưởng thành lập một chính phủ gồm các nhóm chức năng và quân đội được tính là một thành phần trong đó và là thành phần mạnh nhất. Ngoài ra, với việc thành lập Hội đồng dân tộc, quân đội được hưởng quy chế của một lực lượng chính trị độc lập. Về phần mình, Nasution đề nghị quay về Hiến pháp 1955. Điều này đã dứt quân đội ra khỏi cái thế phục tùng các chính khách dân sự trong Quốc hội và chính phủ, và chỉ còn tuân phục Tổng tư lệnh tối cao, tức Tổng thống. Việc nắm giữ nhiều chức vụ đa dạng trong tư cách là người cầm đầu Nhà nước..., sẽ khiến sự kiểm soát của

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

97

Tổng thống đối với quân đội chỉ còn là mang tính hình thức. Sukarno chấp thuận đề nghị này vì nó hứa hẹn cho phép ông trở thành vị tổng thống có toàn quyền. Do đó, từ 1957, Sukarno và Nasution hoạt động như là hai người bạn song hành đồng lý tưởng trong sự nghiệp kiến tạo chế độ “dân chủ có lãnh đạo”. Đó cũng là một trong những lý do giải thích vì sao TMT đã tích cực hỗ trợ Tổng thống Sukarno và Thủ tướng Djuanda dập tắt cuộc nổi loạn ở Sumatra đầu năm 1958. Tuy nhiên, không khó khăn gì để hiểu rằng Sukarno và Nasution là hai kẻ "đồng sàng dị mộng". Sukarno nhìn quân đội trước hết như là công cụ cho phép ông xác lập được quyền lực cá nhân. Còn Nasution cố sức biến quân đội thành lực lượng chính trị hàng đầu trên cơ sở của những lập luận đại loại như người lính không thể bị tách khỏi sinh hoạt chính trị và phải tích cực tham gia mọi lĩnh vực sinh hoạt công cộng. Hơn nữa, Nasution cho rằng chính quân đội mới có quyền xác định xem điều gì có lợi, điều gì có hại cho cách mạng, tự cho mình quyền đánh giá các chủ trương đường lối của Tổng thống. Tất nhiên, quan hệ giữa hai bên sẽ vẫn còn êm đẹp, chừng nào những phê phán của quân đội chưa gây ảnh hưởng bất lợi đến quyền lực cá nhân của Tổng thống, chừng nào chưa phát sinh một cuộc khủng hoảng buộc Tổng thống phải đi tìm một chỗ dựa khác. Trong lúc chờ đợi viễn ảnh trên trở thành hiện thực, những biến cố lớn diễn ra trong năm 1957 và đầu năm 1958 đã góp phần tăng cường đáng kể quyền lực của quân đội, tình trạng chia rẽ trong giới lãnh đạo chóp bu của quân đội không còn nữa. Tình trạng khẩn cấp mà chính phủ ban bố trong thời gian trấn áp cuộc nổi loạn đã cho phép giới sĩ quan lục quân hầu như kiểm soát toàn bộ công việc của bộ máy dân sự địa phương, không chỉ ở các tỉnh ngoại vi, mà còn ngay trên đảo Java. Quân đội kiểm duyệt báo chí, giới hạn hoạt động của các đảng, tùy tiện giới hạn hoạt động của các cơ quan thông tấn của các đảng. Một nguồn quyền lực khác của quân đội nằm chính ngay trong lĩnh vực kinh tế: vị trí của các viên chức quản lý quân sự trong các cơ sở kinh doanh cũ của người Hà Lan. Tình trạng hoạt động hầu như không bị kiểm soát của các cơ sở này đã mở ra trước các sĩ quan lục quân được bổ nhiệm làm giám đốc những khả năng hầu như vô hạn để ăn hối lộ, tham nhũng, làm giàu cho cá nhân. Một tầng lớp kabir (tư sản quan liêu) quân sự ra đời ngay trong bộ máy hành chính dân sự. Có thể nói năm 1959 ở Indonesia đã hình thành một tình thế đại loại như hai chính quyền nảy sinh từ quan hệ cộng tác giữa Sukarno và quân đội trong việc lãnh đạo đất nước cho đến năm 1965. Nhưng nếu vị trí của quân đội tăng nhanh, thì ảnh hưởng của đảng Cộng sản cũng bành trướng mau lẹ không kém. Ngay cuối năm 1957 trong cuộc bầu cử vào các cơ quan chính quyền địa phương, đảng Cộng sản đã chiếm được vị trí hàng đầu với 27,4% tổng số phiếu. Trong lúc đó, để không bị lấn áp bởi quân đội trong hoàn cảnh không có một “đội quân chính trị” đáng tin cậy và vững chắc của riêng mình, Sukarno đã tìm đến liên kết với đảng Cộng sản thành một khối, nhưng ở vị trí người đồng hành cánh hữu. Khối liên kết này đã làm cho khối chóp bu quân đội lo sợ, và họ đã tìm cách ngăn chặn. Cả Phó Thủ tướng Djuanda ((cid:31)) và TMT Nasution đều muốn dựa vào Mỹ để thực hiện ý đồ này. Và Mỹ đã sớm phát hiện thấy tình trạng chia rẽ giữa ba lực lượng chính trong nước: quân đội, cộng sản và tổng thống. Ngay từ ngày 15-1-1958, đại sứ Mỹ tại Indonesia, Howard P. Jones đã báo cáo: “Quân đội không xem cuộc chiến đấu chống quân phiến loạn như là một trận chiến giữa những người cộng sản và những người chống Cộng bởi vì giới lãnh đạo quân đội ở Jakarta cũng chống Cộng như là những người cầm đầu phe phiến loạn”, “Điều gì sẽ xảy ra ở trong quân

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

98

đội? Đó là ban lãnh đạo chống Cộng của quân đội đã bị chia rẽ. Những người chống Cộng đã chiến đấu chống những người chống cộng. Chủ nghĩa Cộng sản không phải là vấn đề chính của cuộc tranh chấp này”, do đó chính sách Mỹ phải nhằm xây dựng khối đoàn kết giữa những người chống Cộng để đánh bại đảng Cộng sản Indonesia đang trong thời kỳ phát triển. Từ tháng 5 năm 1958 đến đầu năm 1959 đã diễn ra nhiều cuộc tiếp xúc giữa các tướng lãnh cao cấp Indonesia và Mỹ. Ngày 13-8, Ngoại trưởng Subandrio và đại sứ Mỹ Jones đã ký hiệp ước, theo đó, Mỹ sẽ bán cho Indonesia một số trang thiết bị quân sự để trang bị cho 20 tiểu đoàn tức 1/10 quân số và đồng thời hứa trang bị tiếp cho 40 tiểu đoàn khác. Như vậy, bên cạnh những ảnh hưởng nghiệp vụ mà Mỹ đã giành được trong nửa sau những năm 1950, giờ đây với chương trình viện trợ vũ khí như trên, Mỹ đã len được cả vào lĩnh vực quan điểm chiến lược và chiến thuật tức cũng là lần sát đến quan điểm chính trị của quân đội. Các đơn vị tinh nhuệ của quân đội Indonesia: lữ đoàn cảnh sát cơ động, thủy quân lục chiến của Hải quân, đội không vận và lực lượng xung kích cơ động được Mỹ huấn luyện và trang bị theo chương trình của Mỹ. Như vậy, trong nửa đầu năm 1959 trong nước đã xuất hiện tình trạng phân cực rõ ràng giữa lực lượng tiến bộ và lực lượng bảo thủ, nhưng không phải chỉ mỗi lực lượng tiến bộ mới lớn mạnh, còn lực lượng bảo thủ đang xuống dốc, như nhận định của Đại hội VI đảng Cộng sản Indonesia (3-1959). Kết quả là trò đi dây giữa quân đội và cộng sản thể hiện rất rõ trong nội các công nhân được thành lập vào ngày 10-7-1959 do chính Tổng thống đích thân lãnh đạo: giới quân nhân chiếm 12 trong tổng số 43 ghế, tức trên 25%, trong khi trước đó không hề có một ghế nào, còn đại diện đảng Cộng sản một lần nữa không có mặt trong chính phủ do sự chống đối của quân đội và các chính đảng tư sản. Nasution với quân hàm trung tướng chiếm được ghế Bộ trưởng An ninh và Quốc phòng, trong khi vẫn tiếp tục là TMT. Và cũng từ năm này, việc bổ nhiệm và thăng cấp trong quân đội đều do quân đội tự đảm nhiệm lấy, không có sự can thiệp của chính phủ. Ngoài ra, việc quân đội kiểm soát những tài sản tịch thu của Hà Lan cho phép quân đội tự bổ nhiệm lấy các giám đốc một số nhà máy, công ty, đồn điền lớn trong nước. Chính từ đó, mà đã hình thành mối quan hệ giữa các sĩ quan cao cấp và giai cấp tư sản. Với những quyền hành và chỗ đứng trong nội các như vậy, ảnh hưởng của quân đội bắt đầu tác động mạnh đến mọi lĩnh vực trong đời sống của đất nước, kể cả những địa hạt mà chưa bao giờ có thể được xem là gần gũi với quân đội: giáo dục, y phục, ca múa... Như vậy, ngay trong năm 1959 quân đội đã thực sự đóng một vai trò then chốt trong xã hội. Và kèm theo đó là ý thức chống Cộng cũng tăng dần lên: quân đội đang mau chóng chuyển thành một lực lượng đối đầu với đảng Cộng sản. Tất nhiên là Sukarno không thích thú gì trước hiện tượng này vì nó đi ngược lại đường lối NASAKOM của ông, vốn đang được ông toan tính sử dụng vừa như là công cụ thống nhất dân tộc, vừa như là vật đối chống lại ảnh hưởng của giới sĩ quan bảo thủ, phản động. Lịch sử quan hệ giữa Sukarno và quân đội là cả một chuỗi không dứt các cuộc đụng độ và thỏa hiệp theo hướng chung là tăng cường quyền lực của cả hai bên. Chẳng hạn ngày 8-7-1960, khi BCT BCHTƯ đảng Cộng sản đưa ra lời chỉ trích công khai đối với một loạt những thiếu sót trong công tác của nội các, lên án tình trạng rệu rã của nền kinh tế vì bị các kabir thao túng, có ba chỉ huy quân sự vùng (Nam Sumatra, Nam Kalimantan và Nam Sulawesi) đã cấm đảng Cộng sản không được hoạt động trong khu vực của họ. Ở thủ đô một vài thành viên BCT của đảng bị bắt. Liên minh Dân chủ được thành lập nhằm mục đích chống lại chế độ dân chủ có lãnh đạo bởi thành viên của các đảng bị cấm hoạt động như Masjumi và đảng Dân

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

99

tộc, Nahdatul Islam, cả hai đảng Thiên Chúa giáo... đã ủng hộ những biện pháp chuyên quyền này như là “đòn giáng trả hành động xâm phạm sự thống nhất giữa tổng thống và quân đội”. Sukarno đã đứng ra giải quyết bằng cách giải tán Liên minh Dân chủ và thả các đảng viên Cộng sản bị bắt. Nhưng đồng thời ông cũng lên tiếng cảnh cáo rằng trong tương lai không được chỉ trích chính phủ ông nữa, vì làm như vậy là trái với nguyên tắc của chế độ “dân chủ có lãnh đạo”. Còn giới chức chỉ huy quân sự đã phạm những hành động chuyên quyền thì không hề bị trách phạt gì. Thái độ có thể được gọi là “ve vuốt” này của Sukarno trong quan hệ với quân đội còn có thể được giải thích bởi chiều hướng bá quyền trong chính sách đối ngoại của ông. Tháng 9-1960, trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội, Sukarno thông báo ý định giải phóng Tây Irian khỏi ách thống trị của Hà Lan, đồng thời ông cũng đưa ra quan điểm cho rằng thế giới chia làm ba khối: xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa và Á Phi. Tại Hội nghị cấp cao các nước không liên kết ở Belgrade (9-1961), Sukarno nói rằng mâu thuẫn về tư tưởng chính hiện nay trên thế giới không phải là giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản mà là giữa “Lực lượng mới trỗi dậy - NEFO” (New Emerging Forces) với “Lực lượng đang suy tàn - OLDEFO” (Old Declining Forces). Và kiểu mẫu của cuộc đối chọi giữa NEFO và OLDEFO là cuộc đấu tranh của Indonesia đòi Hà Lan giao trả Tây Irian. Một đường lối đối ngoại mang ít nhiều tham vọng như vậy tất nhiên không thể thực hiện được nếu không có một lực lượng vũ trang vững chắc như quân đội ủng hộ. Nhưng cánh Nasution chống lại chủ trương ngoại giao trên vì cho rằng quân đội Indonesia còn yếu, và cuộc đụng độ với Hà Lan sẽ làm đảo lộn trật tự và chính trị, và do đó sẽ gây phương hại đến quyền lợi của quân đội và đồng thời tạo thêm sức mạnh của kẻ thù của nó tức đảng Cộng sản. Nhưng phe Nasution chỉ là một thiểu số so với đa số những chỉ huy quân đội khác đang háo hức muốn kiểm nghiệm kết quả của quá trình xây dựng quân đội theo chiều hướng chú trọng đến những lực lượng xung kích và cơ động trong nhiều năm qua. Về phần mình, Sukarno muốn thoát khỏi ảnh hưởng ngày càng lớn của Nasution và cũng không thích viên tướng này can dự vào lĩnh vực chính trị, vốn được ông xem là độc quyền của mình. Sukarno đòi hỏi quân đội phải phục tùng và ủng hộ vô điều kiện chính sách của ông, trong lúc Nasution muốn giành cho quân đội vai trò tự chủ hơn và xem Sukarno như là nhà tư tưởng và biểu tượng của chế độ mới, hơn là một nhà lãnh đạo có quyền lực thực sự. Nasution cố áp đặt sự kiểm soát của quân đội lên guồng máy hành chính dân sự, còn Sukarno tìm cách giảm ảnh hưởng của quân đội và cá nhân Nasution trong các mặt sinh hoạt phi quân sư. Việc Nasution luôn giữ thái độ hồ nghi đối với PKI bị Sukarno đánh giá là có hại cho chủ thuyết NASAKOM. Tự xem mình là Tôn Dật Tiên của Indonesia, Sukarno không hề có ý định dung chấp một Tưởng Giới Thạch ở bên cạnh. Và gần đây nhất, Sukarno còn rất không hài lòng về việc Nasution tự tiện ân xá cho những kẻ tham gia cuộc nổi loạn ở Sumatra, trong lúc không hề bãi chức ba vị tư lệnh vùng từng cấm PKI hoạt động trong khu vực thuộc quyền của họ. Ngày 23-6-1962, khi tiến hành việc cải tổ thường lệ nội các của ông, Sukarno đã thuyên chuyển Tướng Nasution từ ghế TMT Lục quân sang ghế TMT quân đội, vốn đã bị bỏ trống từ khi Thiếu tướng Simaputang bị buộc phải về hưu. Mục đích của quyết định này thật rõ ràng: tách Nasution khỏi cơ sở quyền lực của ông. Người thay Nasution là Thiếu tướng Ahmad Yani, chỉ huy các cuộc hành quân trấn áp cuộc nổi loạn ở Sumatra. Và sau đó, không có vẻ gì là muốn theo đuổi một đường lối độc lập trong chính trị. Phương châm công tác của ông đã được chính ông diễn đạt bằng tiếng Anh: "Tại sao" không có lý do để tồn tại ; anh hoặc phải thực hiện, hoặc phải chết". Yani được xem là người ủng hộ trung thành quan điểm của Sukarno, và hành

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

động đầu tiên của ông sau khi nhậm chức là cách chức các viên tư lệnh vùng đã tự tiện có hành động chống PKI. Một hậu quả khác có liên quan đến lĩnh vực đối ngoại. Tướng Ahmad Yani nguyên là Tư lệnh lực lượng xung kích cơ động và đã tốt nghiệp trường Chỉ huy và Tham mưu của quân đội Mỹ ở Fort Leavenworth. Lực lượng xung kích hoàn toàn được Mỹ huấn luyện và trang bị. Như vậy, việc đề cử Jani là cơ hội tốt để Mỹ tăng thêm ảnh hưởng trong quân đội Indonesia. Và cũng chỉ những đơn vị tinh nhuệ nhất của quân đội Indonesia đã được nêu trên mới có thể được xem là chỗ dựa cho chương trình đối ngoại của Sukarno. Nếu trong những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, vai trò của quân đội trong đời sống chính trị đã gia tăng nhiều thì ảnh hưởng của đảng Cộng sản cũng bắt đầu lan rộng. Số lượng đảng viên từ 7910 (1951) tăng lên 1,5 triệu (1958). Tháng 12-1960, Mặt trận Dân tộc Indonesia được thành lập trên cơ sở nguyên tắc NASAKOM bao gồm ba lực lượng chính trong nước: Dân tộc, Tôn giáo và Cộng sản, do Sukarno làm Chủ tịch. Tình hình này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đảng Cộng sản và các đoàn thể cách mạng. Về phần ông, uy tín của Sukarno cũng lên rất cao, nhất là sau kế hoạch giành lại được Tây Irian. Đại hội Tư vấn Nhân dân Lâm thời đã bầu ông làm tổng thống suốt đời (1963) và trao tặng ông danh hiệu “Nhà lãnh đạo cách mạng vĩ đại”. Về hình thức, trong tay Sukarno tập trung hầu như toàn bộ quyền hành tối thượng. Nhưng với một bộ máy dân sự bị tệ tham nhũng hoành hành, với một lực lượng chính trị mang tính độc lập rõ rệt như quân đội, với một mặt trận dân tộc chưa định hình, các quyết định và chỉ thị của Tổng thống thường bị hiểu khác đi và ngay cả những chỉ thị đơn giản cũng không được hoàn thành, nhất là ở những vùng ngoại vi. Chỗ dựa của Tổng thống chỉ còn là ban lãnh đạo đảng Cộng sản, cánh tả đảng Dân tộc Indonesia và một bộ phận sĩ quan hải quân, không quân và cảnh sát.

Sau khi Tây Irian được giải phóng, không còn vấn đề toàn dân tộc nào để gắn bó lực lượng chính trị hàng đầu trong nước - quân đội, cộng sản và Sukarno - lại với nhau, trong lúc những bất đồng giữa họ vẫn tiếp tục tồn tại.

100

Tháng 5-1963, Tổng thống bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Nhưng các chỉ huy quân đội địa phương vẫn không chịu giao quyền lại cho giới dân sự. Việc bình thường hóa tình hình báo trước việc quân đội bị tách khỏi tay đòn quyền lực, bị giảm quân số, phải nề nếp hóa các xí nghiệp Hà Lan đã bị quốc hữu hóa, dân chủ hóa đời sống chính trị và xã hội. Đối với tư sản nông thôn thì điều này có nguy cơ dẫn đến phục hồi việc cải cách ruộng đất. Nhưng đến lượt mình, Sukarno hiểu rằng việc bãi bỏ tình trạng căng thẳng trong nước gắn với việc xóa tan những mối đe dọa từ bên ngoài sẽ đặt ra trong chương trình nghị sự yêu cầu tiếân hành những biếân đổi xã hội sâu sắc, và tất nhiên điều này sẽ làm cho “hòa bình giai cấp” là không thể có được. Do đó một lần nữa, ông lại muốn cùng quân đội tìm kiếm một nguồn đe dọa mới từ bên ngoài có thể thu hút sự chú ý của quần chúng khỏi những bất hòa nội bộ. Từ năm 1963, Malaysia là nguồn như vậy. Nhưng mưu đồ này của Sukarno và quân đội không xoa dịu nỗi những mâu thuẫn trong nước. Các cuộc đấu tranh gia tăng của quần chúng, nhất là những hành động đơn phương của nông dân được đảng Cộng sản ủng hộ đã thúc đẩy sự ra đời của khối chống Cộng, gồm những kẻ bóc lột ở nông thôn và kabir thuộc giới sĩ quan lục quân. Khối này gồm Nahdatul Ulama, Murba, các đảng Thiên Chúa giáo và cánh hữu đảng Dân tộc và Liên minh những người bảo vệ tự do Indonesia, đại diện quyền lợi của quân đội. Ngày 21-9-1964, khối này mang tên “Hội ủng hộ chủ nghĩa Sukarno” (BPS). Khối này đã tiến công đảng Cộng sản, lên án đảng có ý đồ thay chủ nghĩa Sukarno bằng chủ nghĩa Marx. Họ đã ngụy tạo ra một văn kiện và khoác cho nó tên gọi “Cương lĩnh đấu tranh của đảng Cộng sản”, trong đó chứa đựng kế hoạch chiếm đoạt chính quyền. Quân đội đã phụ họa cho những lời lên án này.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

101

Trong số những chính đảng ra đời trong lịch sử cận và hiện đại Indonesia, đảng Cộng sản (PKI) có số phận gian truân nhất. Cho đến đầu thập niên 60, đảng đã hai lần gần như bị tiêu diệt: 1927 và 1948. Phải đợi đến khi chế độ " dân chủ có lãnh đạo" ra đời, đảng mới có điều kiện hoạt động thuận lợi. Thực ra lúc đầu, PKI có vẻ như một lần nữa trở thành nạn nhân chính của chế độ: bị giới quân sự truy bức bằng các biện pháp kiểm duyệt và đảm bảo an ninh quốc gia. Tháng 7-1960, hầu hết thành viên Bộ Chính trị bị bắt sau khi PKI tung ra bản tổng kết tiêu cực đối với 12 tháng hoạt động của chế độ "dân chủ có lãnh đạo" và chê trách một số bộ trưởng. Một tháng sau đó, một số tư lệnh vùng đã cấm PKI hoạt động trong vùng của họ và không chịu bãi bỏ lệnh này, bất chấp sự can thiệp của Sukarno. Phải đến tháng 12- 1960, khi Mặt trận Dân tộc Indonesia được thành lập, điều kiện hoạt động của PKI mới thực sự trở nên rộng rãi và cũng từ đó đường vươn lên của PKI ngày càng gắn chặt vào cá nhân Sukarno, nhất là khi lập trường, quan điểm chính trị của ban lãnh đạo PKI mà đứng đầu là Tổng bí thư D.N. Aidit, ngày càng gần hơn với các ý tưởng của Tổng thống. Trong Quốc hội, Ủy ban Kế hoạch, Đại hội Nhân dân, Mặt trận Thống Nhất, PKI có một số đáng kể đại biểu và luôn có người trong Chủ tịch đoàn. Tháng 3-1962, Aidit và người phó của ông là Lukman được bổ nhiệm làm bộ trưởng không bộ. Sự lớn mạnh của PKI đã tạo ra ở ban lãnh đạo ảo tưởng rằng đảng đang tiến gần sát đến mục tiêu mong ước từ lâu: trực tiếp cầm quyền, nhất là khi những đối thủ của đảng - các lãnh tụ Masjunmi và PSI - đã bị bắt năm 1962, còn phong trào khủng bố Darul Islam cuối cùng đã bị dẹp yên. Tuy nhiên, mọi sự không phải đều đã tốt đẹp. Việc hai lãnh tụ Cộng sản tham gia chính phủ nhưng không có thực quyền đã làm cho họ và đảng của họ phải gánh trách nhiệm chung về tình trạng nhũng lạm và những thiếu sót khác của chế độ. Đại hội VII được triệu tập vào tháng 4-1962 đã, dưới sức ép của Sukarno, thừa nhận Pantja Sila và Manipol như là một phần cương lĩnh của mình. Điều này đã gắn liền đảng với chế độ dưới mắt quần chúng. Và nó cũng khiến Sukarno thêm quyết tâm bảo vệ người bạn đồng minh trung thành này . Sukarno một lần nữa đã đứng ra hòa giải hai lực lượng chính trị lớn nhất trong nước này theo cách thức quen thuộc của ông: thỏa hiệp. Tại cuộc họp ban lãnh đạo của các đảng ở Bogor (12-1964), những người tham dự đã tuyên bố ngừng việc chỉ trích hệ tư tưởng của nhau. Về việc giải quyết các cuộc xung đột ruộng đất hai bên chỉ đạt được phương pháp tham khảo ý kiến lẫn nhau và thương lượng trong tinh thần “chế độ dân chủ có lãnh đạo”. Đối với nông dân, điều này có nghĩa là đầu hàng bọn giàu có ở nông thôn. Thỏa ước Bogor là đòn quyết định làm sụt giảm uy tín của đảng Cộng sản trong các tầng lớp bên dưới ở nông thôn, trong hoàn cảnh thế lực của quân đội mỗi lúc một tăng. Việc Tổng thống cấm BPS và Murba hoạt động chỉ là đền bù thiệt thòi cho mất mát này của đảng Cộng sản, dù lúc này PKI đã trở thành lực lượng rất mạnh: 2 triệu đảng viên (1963), với một cơ sở quần chúng rất đông đảo: SOBSI có 3,8 triệu đoàn viên, Nông hội BTI có 5 triệu, Đoàn Thanh niên Pemuda Rakjat 1,5 triệu và Hội Phụ Nữ 0,75 triệu. Trong những năm 1964-65, Đảng đã tìm cách phản công bằng cách mở cả một chiến dịch tiến công giới kabir và đẩy mạnh các hoạt động thâm nhập vào giới sĩ quan trẻ tuổi. Những công đoàn gần gũi với Đảng đã đòi hủy bỏ quyết định tư hữu hóa các xí nghiệp thuộc khu vực Nhà nước, diệt trừ tệ tham nhũng và công khai trừng phạt những kẻ biển thủ của cải của nhân dân. Tuy nhiên, sự việc cũng không tiến được bao nhiêu. Bị buộc phải ủng hộ chiến dịch “đánh tan Malaysia” do Tổng thống phát động, những người lãnh đạo Đảng đã tìm cách lái nó theo hướng có lợi cho mình. Họ đã chỉ trích gay gắt quân đội đã không tích cực hoạt động chống lại “con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới Malaysia”. Trong những cuộc tiếp xúc với Tổng thống trong nửa đầu tháng 1-1965, Aidit đã đề nghị chính phủ vũ trang tới 10 vạn

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

102

người tình nguyện lấy từ nông dân và công nhân để xây dựng thành “quân chủng thứ năm” - dân quân bên cạnh 4 lực lượng vũ trang sẵn có : hải, lục, không quân và cảnh sát. Đây không phải là một đề nghị không có suy tính kỹ. Ngày 25-1, khi tiếp Ngoại trưởng Indonesia Subandrio, Thủ tướng CHND Trung Hoa Chu Ân Lai đã hứa sẽ cung cấp cho Indonesia 10 vạn vũ khí nhẹ. Dĩ nhiên là giới tướng lĩnh đã kịch liệt chống lại mưu toan xâm phạm độc quyền sử dụng vũ khí của quân đội. Tổng thống, người thích duy trì sự thống nhất quốc gia trên tất cả mọi thứ, đã bác bỏ kiến nghị trên. Giới tướng lĩnh càng có dịp tức tối hơn nữa trước lời đề nghị của Aidit về “Nasakom hóa quân đội”, nghĩa là kế hoạch xây dựng bên cạnh mỗi chỉ huy ủy ban đại diện ba tư trào chính trị trong nước. Giới chóp bu quân đội đánh giá dự án này như là mưu đồ thiết lập cơ chế chính ủy. Họ không chút nào nghi ngờ rằng thành phần hoạt động tích cực nhất trong các uỷ ban này sẽ chẳng ai khác ngoài các đảng viên Cộng sản. Tuy đã có chiều hướng ủng hộ đề nghị này của Aidit, Sukarno đã phải tháo lui trước sức ép của quân đội. Sức ép kể trên của quân đội càng đẩy Sukarno đến chỗ gắn bó hơn với PKI. Tại một trong các buổi lễ được tổ chức rầm rộ kỷ niệm 45 năm thành lập PKI, Sukarno lên tiếng tán dương rằng PKI là "người anh em cùng dòng máu của ông" và là "lực lượng hùng hậu nhất trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng" và công nhận rằng "đảng luôn luôn tiến về phía trước". Ông khẳng định rằng liên minh với PKI là con đường đúng đắn để giải quyết những vấn đề ruộng đất , đối nội và đối ngoại. Mối quan hệ ngày càng được thắt chặt giữa PKI và Sukarno và nhất là nỗ lực mở rộng ảnh hưởng vào trong hàng ngũ quân đội đã khiến giới chỉ huy quân sự lo lắng. PKI dưới mắt họ trở thành nguy cơ số một. Họ tìm cách phản công. Trong quá trình thực hiện chiến dịch “Đánh tan Malaysia”, các tướng lĩnh đã viện lý do phòng thủ Java để tăng cường Bộ tư lệnh lực lượng dự trữ chiến lược (KOSTRAD) bằng cách bắt đầu tập trung vào đảo này những đơn vị ưu tú nhất và cơ động nhất. Họ tuyên bố rằng ngày 5-10-1965, ngày kỷ niệm 20 năm thành lập quân đội quốc gia, ở Djakarta sẽ có một cuộc diễn binh và cuộc thực tập đổ bộ quân dù. Ở thủ đô đã loan truyền tin đồn rằng lực lượng phản động trong quân đội đã sẵn sàng trấn áp những người cộng sản và mưu tính lật đổ Tổng thống. Ngay từ mùa hè 1965, những nhà lãnh đạo hàng đầu của" chế độ dân chủ có lãnh đạo", Ban lãnh đạo PKI và PNI đã được Bộ trưởng Ngoại giao Subandrio cho biết giới tướng lãnh lục quân đang xúc tiến kế hoạch tiến hành một cuộc đảo chính từ phía hữu. Mục tiêu của dự tính này là đặt đảng Cộng sản vào thế đối đầu giả tạo với Tổng thống, đập tan đảng và hàng ngũ những người dân tộc cánh tả, sau đó loại Sukarno ra khỏi chính trường và thiết lập nền độc tài quân sự. Cuối tháng 7, Sukarno bị lâm bệnh nặng. Một toán bác sĩ từ Trung Quốc sang chữa trị cho ông. Đầu tháng 8, khi đang ở thăm Trung Quốc, Tổng bí thư PKI D.N. Aidit đã được những người lãnh đạo Trung Quốc báo cho biết Sukarno có thể chết hoặc bị liệt. Tin này đã khiến giới lãnh đạo PKI lo lắng. Ngày 15-8, một số sĩ quan trẻ tiến bộ thuộc lực lượng hậu bị chiến lược, không quân và lực lượng bảo vệ dinh Tổng thống, trong đó có Trung tá Untung, Chỉ huy trung đoàn Tjakrabiwara phòng vệ Phủ tổng thống đã họp với các nhà lãnh đạo PKI là Sjam (tức Kamaruzanam), Supono và Walujo. Họ đã bàn về bệnh tình của Tổng thống và khả năng của một cuộc đảo chính phát xuất từ một tổ chức mang tên " Hội đồng các tướng lãnh". Sau cuộc họp, các "sĩ quan trẻ tiến bộ" đã quyết định lập kế hoạch hành động ngăn chặn âm mưu đảo chính, nhất là khi Untung được chính Tổng thống chỉ thị phải có những biện pháp tăng cường bảo vệ ông.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

Kế hoạch xác định rõ mục tiêu là bắt giam một số tướng lĩnh chóp bu, trong

Giữa lúc đó, sức khỏe của Tổng thống trở nên tốt hơn. Ngày 17-8, ông đã đọc bài diễân văn hàng năm nhân ngày độc lập của đất nước. Sukarno đã diễn tả nỗi ngờ vực của ông đối với giới quân sự bằng những lời lẽ mạnh bạo: ông than phiền rằng trong xã hội có những nhóm muốn chơi trò ông chủ, tự coi mình là "chủ nhân của chế độ Cộng hòa" và không thèm tiếp nhận mệnh lệnh của ông. Sukarno nói tiếp : "Cho dù năm 1945 đó là một tướng lãnh gan dạ, nhưng nếu giờ đây người đó lại bắt đầu phá hoại sự đoàn kết cách mạng dân tộc, gây xáo trộn trong mặt trận NASAKOM và chống lại những nguyên tắc của cách mạng, thì người đó chỉ là kẻ phản động". Đề cập đến vấn đề vũ trang cho công nhân và nông dân, "vốn được bàn rất nhiều trong thời gian gần đây", Sukarno nói rằng theo hiến pháp, mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ góp phần bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, ông đã lên tiếng cảnh báo quân đội " phải sống giữa nhân dân như cá trong nước" và quân đội còn phải nhớ rằng cá không thể không cần nước, nhưng nước thì lại không cần đến cá. Bảo vệ Nhà nước là bảo vệ quyền lợi của nhân dân, do vậy ông không ngần ngại vũ trang cho công nhân và nông dân nếu cần phải làm như vậy. Cho đến nay, người ta vẫn chưa xác lập rõ ràng mức độ dính líu của ban lãnh đạo PKI vào quá trình chuẩn bị kế hoạch "làm trong sạch hàng ngũ quân đội" của nhóm "sĩ quan trẻ tiến bộ". Nhưng có điều rõ ràng là chỉ một số lãnh tụ hàng đầu PKI, như D.N. Aidit, Lukman và Njoto biết rất rõ kế hoạch và ủng hộ nó. Còn những ủy viên khác trong BCT BCHTƯ và các cấp bộ đảng khác thì hoàn toàn không biết gì. đó có TMT quân đội Nasution và TMT lục quân Yani. Ngày 29-9, TMT không quân Omar Ghani đã đến báo cho Tổng thống biết rằng Supardjo, tư lệnh Bắc Kalimantan, người rất có cảm tình với PKI đã đến Jakarta. Đó là bước chuẩn bị cuối cùng. Trong hai ngày 29 và 30-9, những chi tiết cuối cùng của kế hoạch đã được bàn thảo xong. Untung được giao trách nhiệm tiến hành kế hoạch. Cũng trong ngày 29-9, tại một cuộc mitting của sinh viên, Sukarno ra lời kêu gọi "đập tan những tướng lĩnh nào đã trở thành những kẻ bảo vệ các phần từ phản cách mạng".

Đêm 30 rạng ngày 1-10, dinh thự của các tướng lãnh cao cấp của lục quân đã bị phân đội “các sĩ quan tiến bộ” tiến công. Nasution trốn thoát được, nhưng 6 tướng lãnh khác, kể cả TMT lục quân, Tướng Yani, không chỉ bị bắt mà còn bị giết. Đồng thời lính của Untung, mà hạt nhân của nó là 2 tiểu đoàn dự bị chiến lược của lục quân (KOSTRAD) đã chiếm trung tâm liên lạc của thủ đô. Đài phát thanh đã truyền đi thông báo nói rằng âm mưu chống Tổng thống của Hội đồng tướng lãnh và CIA đã bị Phong trào yêu nước 30-9 vô hiệu hóa, rằng chính phủ đã bị giải tán và mọi quyền lực tập trung vào tay Hội đồng cách mạng. Nhưng Phong trào này không ra được một chương trình xã hội nào và cũng không đề ra được một lời kêu gọi nào với quần chúng. Còn cá nhân Sukarno thì ngần ngừ. Dĩ nhiên là ông muốn cách chức các viên tướng đã coi thường quyền lực của ông và đưa họ ra tòa. Nhưng khi biết rằng một số đã bị giết, còn Nasution đã trốn thoát, thì ông lại tỏ ra lo sợ trước phản ứng dữ dội của quân đội, và ông đã chọn lối đối phó quen thuộc của mình: trung lập. Quá hy vọng vào quyết tâm hành động của Tổng thống, Phong trào 30-9 bị hẩng chân và lúng túng. Quân của phong trào án binh bất động.

103

Tình thế trên đã cho phép đám tướng lãnh thuộc cấp các tướng tham gia âm mưu đã bị giết phản công trở lại Phong trào và đảng Cộng sản “gắn bó” với Phong trào. Tư lệnh lực lượng dự bị chiến lược, Thiếu tướng Suharto, đã rút một trong hai tiểu đoàn dù ra khỏi phong trào, kéo các đơn vị cơ động khỏi Bandung và với sự ủng

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

hộ hăng hái của Bộ tư lệnh quân khu thủ đô ngay đêm 1-10 đã đánh tan phân đội ít ỏi của đám “sĩ quan trẻ tiến bộ”. Số phận tương tự cũng đến với các lực lượng của Phong trào ở Solo, Semarang và Bắc Sumatra. Đồng thời các lực lượng xung kích của bộ binh và của các tiểu đoàn Hồi giáo đã phát động cả một chiến dịch khủng bố ồ ạt chống lại đảng Cộng sản và những người dân tộc cánh tả vốn không phòng bị gì cả, bằng buộc họ tội âm mưu chống chính phủ, "là lực lượng phản dân tộc”.

Trong năm 1965-66, có từ 0,5 triệu đến 1 triệu thành viên các tổ chức tiến bộ bị giết, không dưới 60 vạn người bị bắt giam. Vai trò của Suharto trong chính biến ngày 30-9 đã mang lại cho ông chức tư lệnh lục quân, bất chấp ý muốn của Sukarno. Viên tướng này còn nắm cả cơ quan an ninh đặc biệt Kopkamtib (Bộ Tư lịnh hành quân phục hồi an ninh và trật tự) và có toàn quyền hành động.

Những toan tính của Tổng thống nhằm nắm lại tình hình đã tỏ ra uổng công. Tuy tuyên bố trung thành với Tổng thống, ban lãnh đạo mới của quân đội lại phá hoại lệnh ngừng truy đuổi những người cộng sản, Partindo và cánh tả đảng Dân tộc, lệnh chấm dứt khủng bố và tàn sát. Họ đã làm tê liệt hoạt động của đảng này và đã nắm được quyền lãnh đạo cánh hữu của nó. Không dám liều lĩnh hành động trực tiếp chống lại Sukarno, họ đã biến Mặt trận Hành động hữu khuynh của sinh viên, học sinh thành lực lượng chống Sukarno và chống Cộng. Trong khi đó, Tổng thống lại không chịu đi tìm sự ủng hộ của quần chúng. Nhưng cũng đồng thời những cuộc biểu tình đông đảo của Mặt trận Hành động và sức ép của cánh phản động vẫn không buộc được ông từ bỏ quan điểm của mình, và cấm đảng Cộng sản. Tháng 2- 1966, thậm chí ông đã tìm cách phản công, đòi giải tán Mặt trận, thay đổi Nội các và đào thải khỏi nội các Tướng Nasution.

Giới chóp bu quân đội thấy rõ rằng Sukarno có ý tận dụng mọi khả năng để phục hồi toàn bộ quyền hành của ông. Tháng 3-1966, một số binh lính không rõ thuộc những đơn vị nào đã bao vây cung điện, nơi Sukarno lãnh đạo các cuộc họp của chính phủ. Tình thế này buộc ông phải vội vã chuyển sang ở dinh thự ngoài ngoại thành. Tại đây bị sức ép của giới quân nhân, ngày 11-3, ông ký sắc lệnh cho phép Trung tướng Suharto được “tiến hành mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo an ninh và ổn định”, hành động này có nghĩa là sự chuyển giao quyền hành pháp.

Ngay ngày hôm sau đảng Cộng sản bị cấm hoạt động, sau đó 16 bộ trưởng bị bắt, những phần tử cánh tả lần lượt bị thanh lọc khỏi bộ máy Nhà nước. Còn số phận của Sukarno?

Nếu những phần tử cực hữu trong lục quân ngay từ tháng 2-1966 đã đòi gạt ông khỏi chức tổng thống và từ tháng 10 đòi truy tố ông, thì giới sĩ quan hải quân và cảnh sát, dù đã được chỉnh đốn nhiều sau cuộc đảo chính, vẫn không đồng tình với những biện pháp chống Sukarno và đề nghị cho ông giữ những trách vụ của một tổng thống nghi lễ.

Trong bối cảnh trên loại trừ ngay Sukarno là một việc làm thiếu khôn ngoan, và chính Suharto sau khi xem xét uy tín to lớn của Tổng thống ở Java trong các tầng lớp nửa vô sản và tiểu tư sản ở thành phố và nông thôn, cũng đã thấy rằng tốt hơn hết là nên tranh thủ thời gian để tăng cường vị thế của ông trong quân đội và trong nước nói chung.

104

Trong tháng 6 đến tháng 7-1966, Đại hội Tư vấn Nhân dân Lâm thời đã xóa bỏ tước hiệu tổng thống suốt đời của Sukarno và đòi ông phải có trách nhiệm báo cáo trước Đại hội. Đại hội đã nâng Sắc lệnh ngày 11-3 của Sukarno lên thành quyết định của chính cơ quan này. Đứng về mặt pháp luật mà nói, điều này cho phép Suharto không phải lệ thuộc vào Tổng thống và điều này cũng có nghĩa là sự khẳng định toàn quyền hành động của ông này. Trong chính phủ mới của Sukarno do quân

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

đội áp đặt, các tướng lãnh chiếm 12 ghế bao gồm hầu như toàn bộ những chức vụ then chốt, trong tổng số 24. Từ nay về sau các nghị quyết chính đều do Đoàn chủ tịch nội các dưới quyền lãnh đạo của Suharto thông qua.

Tiếp theo việc các nhà quân sự tiến lên những vị trí then chốt trong chính phủ là tiến trình mau chóng đặt giới sĩ quan vào phần lớn các chức vụ chính quyền ở trung ương và địa phương. Chính sách này được lý giải bằng quan điểm “hai chức năng của quân đội”: quân đội không chỉ được xem như là người bảo vệ Indonesia khỏi các kẻ thù trong và ngoài nước, mà còn là lực lượng chính trị - xã hội độc lập, có quyền lãnh đạo đất nước, khi “điều này không vừa với sức lực của các đảng phái”. Việc bổ nhiệm đông đảo sĩ quan vào các cột trụ của chính quyền cho phép Suharto thống nhất được nội bộ quân đội, điều hòa được các mâu thuẫn. Một trong những mâu thuẫn này là số phận của Sukarno, như có nói ở trên. Do khối chống Sukarno ngày càng mạnh mà ngày 20-2-1967, Tổng thống phải chuyển giao toàn bộ quyền hành cho Suharto. Phiên họp bất thường của Đại hội Tư vấn Nhân dân Lâm thời được triệu tập vào tháng 3 đã chính thức hóa hành động này của Suharto. Cuộc đảo chánh của các tướng lĩnh bộ binh, kéo dài suốt một năm rưỡi, đã kết thúc bằng thắng lợi trọn vẹn của quân đội.

105

Kỳ họp thứ V vào tháng 3-1968 của Đại hội Tư vấn Nhân dân lâm thời đã bầu Suharto làm Tổng thống và cho phép ông này tiếp tục giữ những quyền hành đặc biệt. Còn Sukarno trên thực tế đã trở thành tù binh của quân đội và bị quản thúc tại dinh thự ở ngoại thành. Tháng 6-1970, ông qua đời tại nhà riêng./.

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2. TARZIE VITACHIE, La Chute de Suharto, Ed. Gallimard, Paris, 1967.

3. Đ.N. AIĐÍCH, Xã hội Indonesia và cách mạng Indonesia, NXB Sự thật, Hà Nội, 1959.

4. LOUIS FISCHER, The Story of Indonesia, N.Y. Harper Brothers, 1959.

5. RUDOLF MZAREK, The U.S. and The Indonesia Military (1945-65), Vol.I-II, Praha, 1978.

6. M. BARAN, Les Militaires et le Pouvoir dans le Sud-Est Asiatique-

“Le Monde Diplomatique”, P. Fev. 1975. 7. L. HAMON, Le Rôle extra-militaire de l’Armée dans le Tiers -Monde, Paris, 1966. 8. BERNHARD DAHM. History of Indonesia in the Twentieth Century, N.Y. : Praeger

Publishers, 1971.

106

1. JOHN HUGHES, Indonesia Upheaval, N.Y. Fawcett Publication, 1967.

107

Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á