1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
KHOA CHĂN NUÔI THÚ Y
TS. PHAN VĂN CHINH
BÀI GIẢNG
MÔN HỌC BỆNH TRUYỀNNHIỄM
(Dành cho sinh viên ngành chăn nuôi Thú y)
Qũy thời gian 4 học trình
Huế, 2006
BĂI MỞ ĐẦU
1. Vị trí và nhiệm vụ môn học
1.1 Vị trí môn học
Đây là môn học chính của ngành Thú y. Trong thực tiễn dù ít hay nhiều, dù một lần hay nhiều lần, tất cả chúng ta ngồi đây, cũng đã từng được chứng kiến hoặc đã nghe, biết về một bệnh truyền nhiễm nào đó đối với gia súc hoặc gia cầm, người. Nếu ai đã từng được chứng kiến theo dõi một ổ dịch khi xáøy ra, thì chắc chắn rằng sẽ hiểu được sâu sắc tác hại của dịch bệnh. Cho nên trong quá trình phấn đấu đưa chăn nuôi nước ta trở thành ngành chính. Chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, khó khăn của chúng ta không những về mặt kỹ thuật, chăn nuôi phát triển theo lối công nghiệp xí nghiệp. Những kinh nghiệm đó đối với nước ta đã có phần tích lũy bước đầu.
2
Thức ăn là một vấn đề phải giải quyết lớn trong chăn nuôi. Nhưng đến nay hầu như chúng ta đã giải quyết tốt, các cơ sở sản xuất các håüp tác xã cũng đã tự túc được thức ăn tinh, xanh trên đất 5% giành cho chăn nuôi. Nhà nước cũng đã có những nhà máy chế biến thức ăn hỗn hợp. Do vậy cái lo ngại nhất trong chăn nuôi là tình hình dịch bệnh xáøy ra. Vô luận sau này chúng ta ra công tác ở nông trường, hợp tác xã, trên địa bàn cấp huyện hay giáo viên ở một trường cao đẳng hoặc đại học, dù ở đâu chúng ta cũng có thể gặp và đều phải giải quyết, mặc dù đồng chí là kỹ sư chăn nuôi. Do vậy mà muốn phòng trừ dịch bệnh không xáøy ra trong một trại chăn nuôi. Chúng ta phải nắm được những kiến thức của môn học này. Tại sao? Chúng ta lại cho là môn học chính không phải là ý muốn thế nào được thế nấy, mà đây là vị trí của nó đóng một vai trò lớn trong sản xuất, vãö lý luận nó là môn tổng hợp có liên quan đến nhiều môn học khác.
Làm thế nào để dịch bệnh không thể xáøy ra? Phương châm cơ bản của công tác phòng chống là; Phòng bệnh hơn chữa bệnh; hơn ở chỗ nào? Khi dịch bệnh xáøy ra bước đầu ta phải giải quyết hàng loạt vấn đề. Để thực hiện bao vây vùng dịch (vấn đề liên quan đến đời sống nhân dân). Ngoài ra đầu tư vật lực. Tiêm phòng. Kiểm soát sát sinh. Xử lý, điều trị. Gia súc chết hàng loạt phải khôi phục lại. Một số bệnh lây sang người như bệnh Nhiệt thán, Lao, Burcenllosis, Leptospirosis.
Công tác đối ngoại, đối nội là không cho dịch bệnh lây lan, chúng ta cần thấy rằng, những tác hại lớn của dịch khi xáøy ra, để biết được sự quyết định của nó trong sự thành công, hay thất bại trong chăn nuôi, cũng từ đó mà xác định nhiệm vụ môn học:
1.2 NHIỆM VỤ MÔN HỌC
Học là để phục vụ, không phải học để đối phó, muốn phục vụ được tốt phải nắm được quy luật dịch bệnh.
1.2.1.Nghiên cứu quy luật khách quan chung của bệnh truyền nhiễm, từ đó rút ra biện pháp chung phòng chống bệnh truyền nhiễm.
1.2.2 Nghiên cứu qui luật riêng của bệnh truyền nhiễm, mà rút ra biện pháp riêng phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Xuất phát từ hai nhiệm vụ trên mà chúng ta đi sâu vào hai phần chính của môn học:
1.2.2.1. Dịch tể học
Nhằm giải quyết những cơ sở lý luận về dịch tế học, quy luật phát triển, lây lan, ngừng, tắt, giải quyết học thuyết về truyền nhiễm (Mét nhi cốp). Sau khi nghiên cứu quy luật phát triển của bệnh, đòi hỏi phải đề ra phương pháp giải quyết bệnh, có tính chất bao trùm nguyên tắc phòng ngừa và tiêu diệt bệnh truyền nhiễm.
1.2.2.2. Phân chuyên khoa
Nhằm giải quyết từng bệnh cụ thể ở các loại gia súc. Mặc dù trong trường hợp nào phần lý luận (dịch tể học). Và phần chuyên khoa, thực tiễn của môn học không thể tách rời nhau mà nó bổ sung, hỗ trợ cho nhau để nó phát triển không ngừng. Nó là một thể hoàn chỉnh thống nhất trong toàn bộ môn học.
1.3. Liên quan tới các môn học khác
Là một môn chuyên khoa nên nó liên quan rất lớn tới các môn học khác, cụ thể là:
1.3.1. Vi sinh vật (vi trùng)
Môn vi sinh vật nghiên cứu chủ yếu về nguyên nhân gây bệnh, mối liên quan giữa mầm bệnh và cơ thể. Nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh về các mặt hình thái, nuôi cây, nhuộm màu, sức đề kháng, phân lập và những đặc tính khác. Còn bệnh truyền nhiễm dựa trên những cơ sở, tài liệu thu được của môn vi sinh vật mà phát triển, cho nên muốn học tốt môn bệnh truyền nhiễm, phải học tốt môn vi sinh vật. Nói như vậy không phải là môn bệnh truyền nhiễm là một bộ phận của vi sinh vật, mà thực tiễn về lịch sử môn bệnh truyền nhiễm có từ lâu, sớm hơn môn vi sinh vật rất nhiều. Cho đến bây giờ, giải quyết về mặt lây lan và quy luật phát triển của nó, một số bệnh cũng còn chưa rõ nguyên nhân. Nhưng bệnh truyền nhiễm đã giải quyết được về mặt lây lan và quy luật phát triển của nó. Phương pháp nghiên cứu của môn vi sinh vật, cũng khác môn bệnh truyền nhiễm và dịch tể học. Nội dung công tác và những tài liệu thu được cũng phong phú hơn nhiều, nó có tính chất toàn diện.
1.3.2 Môn chẩn đoán lâm sàng và điều trị học
Hai môn này cũng giúp cho việc tìm hiểu, tổng hợp, phân tích, các tình trạng rất phức tạp, có ý nghĩa rất lớn về mặt chẩn đoán.
3
Ví dụ: Suyễn lợn có triệu chứng đặc thù là ho, thở, căn cứ vào đó mà định bệnh chính xác. Mỗi bệnh truyền nhiễm ngoài những đặc tính chung (sốt, bỏ ăn,…) còn biểu hiện những triệu chứng riêng. Dịch tả lợn, điểm xuất huyết ở ngoài da, ở những nơi ít lông. Đóng dấu lợn da có những đám xuất huyết đỏ, có hình thù rõ ràng, mắt âoí, Phó thương hàn ỉa chảy, phân vàng. Căn cứ vào đặc thù đó giúp ta định bệnh rõ ràng.
1.3.3. Môn sinh lý bệnh và giải phẫu bệnh
Hai môn này nghiên cứu quá trình phát sinh bệnh lý, những biến đổi bên trong của tổ chức. Ví dụ thể Negri ở bệnh chó Dại, nốt loét ở ruột bệnh Dịch tả lợn, hạt lao trong bệnh Lao, van tim sần sùi ở bệnh Đóng dấu lợn mãn tính. Nắm được kiến thức của hai môn học này giúp ta làm sáng tỏ, giải thích cơ chế phát sinh một cách tường tận. Sự biến đổi tổ chức giúp cho ta rất lớn trong xác định bệnh.
1.3.4. Môn vệ sinh gia súc
Giải quyết nhân tố truyền lây, tăng sức đề kháng không đặc hiệu cho cơ thể con vật.
1.3.5. Môn thống kê
Môn thống kê, giúp ta tính toán những số liệu để nhận định tác hại và diễn biến của bệnh.
1.4. Yêu cầu của môn học này
Phải ôn lại kiến thức môn vi sinh vật và các môn liên quan; về lý luận nắm được quy luật căn bản về dịch bệnh một cách hệ thống, chắc chắn cụ thể là quy luật phát triển của bệnh truyền nhiễm và lý luận về phòng trừ bệnh truyền nhiễm. Nắm được tình hình dịch bệnh, biết điều tra tính nguy hiểm và quy luật dịch tể học. Biết chẩn đoán và phân biệt cách phòng trừ thích hợp cho từng ca bệnh. Về thực tiễn; có khả năng độc lập điều tra dịch bệnh, biết tổng hợp phân tích nhận định về bệnh, xây dựng quy trình Thú y cho một trại chăn nuôi, có khả năng chẩn đoán và sơ bộ kết luận bệnh. Biết cách giải quyết khi bệnh xáøy ra, xử lý thích đáng khi bệnh lây lan, cho nhiều loại gia súc và người.
1.5. Phương pháp học
So sánh, đối chiếu với mô hình, liên hệ với thực tiễn, giải quyết trong thực tiễn, phát huy nỗ lực bản thân, đào sâu suy nghĩ, phương pháp kiểm tra qua tiêu bản.
Chæång 2 NHIỄM TRÙNG
2.1 Khái niệm về nhiễm trùng
Nhiễm trùng là một hiện tượng vi sinh vật phức tạp, xáøy ra khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể gia súc, trong những điều kiện nhất định của ngoại cảnh. Sau khi xâm nhập vào cơ thể gia súc, mầm bệnh có tác động nhiều mặt vào cơ thể. Để phản ứng lại, cơ thể đã chiến đấu với mầm bệnh trong quá trình bệnh tiến triển. Kết quả của nhiễm trùng có thể gây thành bệnh, có những biểu hiện đặc trưng cho bệnh. Trong thời kỳ mà khoa học phát hiện được nhiều loại mầm bệnh, đặc biệt là thời kỳ Pasteur. Khi nói đến nhiễm trùng người ta chỉ chú trọng đến vai trò của mầm bệnh.
Costeur coi cơ thể gia súc như một môi trường dinh dưỡng, mà mầm bệnh có thể tự do sinh sôi nảy nở. Cock, nhà bác học Đức nổi tiếng, người đặt nền móng cho học thuyết về vai trò chủ đạo của vi khuẩn, trong các bệnh truyền nhiễm cho rằng, vấn đề đầu tiên của quá trình bệnh truyền nhiễm là vi khuẩn độc gây ra, những bệnh nhất định, trong mọi điều kiện của ngoại cảnh và coï thể súc vật. Dựa vào học thuyết trên, nhiều nhà bác học ở thời kỳ trước, khi xác định bệnh truyền nhiễm chỉ coi trọng vai trò vi khuẩn, mà không đánh giá đúng vai trò của cơ thể và ngoại cảnh, có ảnh hưởng đến cơ thể và vi khuẩn. Vì vậy họ đã ra những biện pháp phiến diện để phòng chống bệnh truyền nhiễm, nhưng chỉ chú ý đến biện pháp tiêm phòng và tiêm phòng trong ổ dịch, để tạo miễn dịch cho gia súc. Nhận thức trên do đã tách hẳn vai trò của cơ thể đối với mầm bệnh, cho nên không giải thích được hiện tượng trong thực tế là:
Trong một ổ dịch có con mắc bệnh, con không mắc bệnh, con mắc bệnh nặng, con mắc bệnh nhẹ, con lành bệnh, con chết. Nhận thức trên cũng không dựa vào đặc tính cơ bản của sinh vật, là tính phản ứng đối với mọi kích thích. Nhận thức đó dẫn đến những biện pháp phiến diện trong việc phòng chống dịch bệnh. Vai trò to lớn là sức đề kháng của cơ thể. Nhiều nhà bác học đã chứng minh, vai trò chủ động của cơ thể trong quá trình nhiễm trùng và đã tìm ra mọi biện pháp, để tăng sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật. Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ thể và bất lợi đối với mầm bệnh, là biện pháp ngăn chặn nhiễm trùng hoặc giảm nhẹ sự tiến triển của quá trình nhiễm trùng đó.
MétnhiCốp, lần đầu tiên đã đưa ra một khái niệm đúng đắn về nhiễm trùng. (Nhiễm trùng là cuộc đấu tranh giữa hai sinh thể hữu cơ). Nhiễm trùng là trạng thái đặc biệt của cơ thể, là kết quả xáøy ra khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, gặp những điều kiện thuáûn lợi để phát triển, sinh säi náøy nåí và phát huy tác hại của nó. Đồng thời kích thích
4
cơ thể, làm cơ thể thông qua hệ thống thần kinh trung ương điều tiết, huy động mọi khả năng bảo vệ của cơ thể, để chống đỡ và điều tiết mầm bệnh. Hiện tượng đấu tranh giữa cơ thể và mầm bệnh xáøy ra trong điều kiện nhất định của ngoại cảnh, nên nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố ngoại cảnh. Sự thống nhất của các mâu thuẫn đó, sự ảnh hưởng qua lại của các nhân tố, dẫn đến kết quả là hiện tượng nhiễm trùng.
Sau Métnhicốp, Paplop cuîng xem sự nhiễm trùng là một hiện tượng sinh vật học phức tạp, bắt đầu bằng cuộc đấu tranh giữa cơ thể bị xâm nhiễm và mầm bệnh. Paplop cho rằng (nếu bị một kích thích cơ giới vượt quá cường độ bình thường, thì dù nóng lạnh, hoặc sự xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh, thì tự nhiên về bề mặt cơ thể bắt đầu một cuộc đấu tranh hết sức mãnh liệt, giữa tác nhân kích thích cơ thể)
2.2. Điều kiện gây nhiễm trùng
Muốn gây ra hiện tượng nhiễm trùng, mầm bệnh cần có những điều kiện sau:
2.2.1. Tính gây bệnh
Tính gây bệnh phụ thuộc về bản chất của quá trình tự nhiên thu được. Độc lực phụ thuộc vào tyïpe, cơ thể động vật, ngoại cảnh, ứng dụng để chế Vaccine. Cũng không nên lẫn lộn giữa tính gây bệnh và độc lực. Độc lực không phải là đặc trưng chung và sẵn có của vi sinh vật, mà nó chỉ là tính chất riêng của từng tyïpe, và có thể thay đổi, về nội dung tính chất đó. Đồng thời căn cứ vào độc lực khác nhau để chế Vaccine, ví dụ: Newcastle hệ 1,2, lợn Đóng dấu VR, VR2. Vì vậy độc lực cũng nói lên mức độ cụ thể và khả năng gây bệnh. Một vi trùng nếu có tính gây bệnh, nhưng độc lực yếu thì cũng không gây bệnh được. Cho nên độc lực không những phụ thuộc vào bản chất của mầm bệnh, mà còn phụ thuộc vào cơ thể và nhiều nhân tố khác, ví dụ: có thể có miễn dịch cao khi vi trùng có độc lực mạnh xâm nhập cũng không gây được bệnh.
2.2.2. Số lượng
Số lượng ít bệnh Dịch tả lợn, Tụ huyết trùng; số lượng nhiều: bệnh Loét da quăn tai.
2.2.3. Đường xâm nhiễm
Đường xâm nhiễm phụ thuộc vào loại vi trùng. Bệnh Suyễn lợn đường xâm nhập chủ yếu là đường hô hấp. Nhiệt thán nhiều đường xâm nhập chủ yếu là da, hô hấp, tiêu hóa. Nếu bắt mầm bệnh đi con đường khác hoàn toàn mới lạ đối với nó thì ngược lại có thể gây nên miễn dịch. Phản ứng cơ thể - dị ứng quá mẫn. Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên xã hội. Vị trí xâm nhiễm khác nhau cũng biểu hiện mức độ bệnh khác nhau, ví dụ: bệnh Dại.
2.2.4. Khả năng xâm nhiễm
Biểu hiện các mặt sau:
- Sức chống chọi với ngoại cảnh tốt.
- Tốc độ sinh sản trong cơ thể nhanh.
- Số lượng xâm nhập vào cơ thể.
-có một hay nhiều đường xâm nhập.
- Ý nghĩa xác định phạm vi, vị trí tiêu độc.
2.3. Đặc tính bệnh truyền nhiễm
2.3.1. Khái niệm về bệnh truyền nhiễm
Vi sinh vật gây bệnh sau khi xâm nhập vào cơ thể, không nhất thiết biểu hiện hình thức bệnh truyền nhiễm. Nhưng ngược lại khi đã nói tới bệnh truyền nhiễm thì tất yếu phải có hiện tượng nhiễm trùng. Do vậy bệnh truyền nhiễm có bốn đặc tính chính.
1. Tất cả những bệnh do vi sinh vật gây nên.
2. Có thời kỳ nung bệnh, có triệu chứng lâm sàng.
3. Có tính chất lây lan.
4. Đại đa số sau khi khỏi bệnh có tính chất miễn dịch.
Bốn đặc điểm trên có liên quan mật thiết với nhau, đặc biệt nhấn mạnh hai đặc điểm 1 và 3.
5
2.3.2. Đặc điểm của bệnh truyền nhiễm
Bệnh truyền nhiễm tuy biểu hiệ muôn hình muôn vẻ khác nhau. Nhưng có cùng chung một đặc điểm, căn cứ vào đặc điểm đó, cho phép chúng ta phân biệt được với các bệnh truyền nhiễm khác.
2.3.2.1. Đặc điểm cơ bản có 4 đặc điểm
1, Mầm bệnh: Vi trùng, Virus, Xoắn trùng.
2, Rickettsia, trung gian giữa Vi khuẩn và Virus. Mycoplasma (PPLO) vi trùng nhóm gây bệnh phổi gia súc.
3, Nấm.
4, Nguyên trùng; Lê dạng trùng; Tiên mao trùng; Biên trùng.
2.3.2.2 Đặc điểm diễn biến của một ổ dịch
Trong thời gian xảy ra dịch, nếu không có sự can thiệp của con người gia súc chết nhiều, nên có sự can thiệp để giảm tỷ lệ chết.
2.3.2.3 Đại đa số bệnh truyền nhiễm đều có tính miễn dëch
Khả năng miễn nhiễm có thể kéo dài một năm hoặc suốt đời.
2.3.2.4. Đặc điểm bệnh trong ổ dịch
Các đặc điểm triệu chứng bệnh của động vật đều giống nhau. Qua những đặc điểm trên chúng ta cần nhận thức rằng. Không phải bất cứ lúc nào, bệnh nào cũng có những đặc điểm đó.
* Cần nắm vững 4 đặc điểm trên để làm tốt công tác phòng, chống các bệnh truyền nhiễm. Chủ yếu dựa vào điều tra, phạm vi điều tra rộng hẹp, thời điểm điều tra. Điều tra sớm hay muộn là do người điều tra quyết định. Phương pháp điều tra, là phương pháp đúng đắn nhất, vì có những bệnh có khả năng làm ở phòng thí nghiệm. Nhưng không có phương pháp điều tra quan sát thì chưa chắc đã đúng, ví dụ như Dịch tả lợn ở Cao Bằng chẳng hạn.
2.3.3. Bệnh tiến triển theo bốn thời kỳ
1. Thời kỳ nung bệnh.
2. Tời kỳ tiền phát.
3. Thời kỳ toan phát.
4. Thời kỳ cuối bệnh.
Chú ý khi mua con vật về phải cách ly, nếu không khó chẩn đoán. (Thải trùng – cách ly - chẩn đoán tốt). Con mang trùng cần cách ly một thời gian để giải phóng dịch. Con bệnh ở 4 thời kỳ trên đều là nguồn bệnh do vậy cần phải cách ly triệt để.
* Tiêu chuẩn lành bệnh để nhập đàn là: khỏi triệu chứng, hết bệnh tích, không mang trùng, hết thời gian cách ly cần thiết, không tái phát bệnh.
Chæång 3 QUÁ TRÌNH SINH DỊCH
3.1. Nguồn bệnh
3.1.1 Khái niệm
Muốn biết thế nào là nguồn bệnh ta đi sâu nghiên cứu hai quan điểm sau:
Gramasipxki cho rằng: nguồn bệnh là nới cư trú và sinh sản thuận lợi mà từ đó trong những điều kiện nhất định, sẽ xâm nhập vào cơ thể bằng cách này, hay cách khác để gây bệnh. Nguồn bệnh phải là nơi tạo điều kiện cho mầm bệnh tồn tại mãi mãi, tồn tại khá lâu, nhưng không có điều kiện thuận lợi để nó tồn tại lâu dài. Nước, đất không thể coi là nguồn bệnh, mà chỉ là môi trường chứa mầm bệnh tạm thời.
Nhiều loài mầm bệnh tồn tại trong nước, đất lâu (Nhiệt thán sống ở trong đất rất lâu với hình thức nha bào). Nhưng nguồn bệnh chính vẫn là súc vật mắc bệnh, vì có chúng thì đất, nước mới có nguồn bệnh và nguồn bệnh mới tồn tại mãi mãi trong thiên nhiên. Có nhận thức đúng đắn về nguồn bệnh mới tác động đúng vào khâu chủ yếu, vào quá trình sinh dịch để dập tắt nhanh chóng. Theo quan điểm trên đây, thì nguồn bệnh phải là con vật đang mắc bệnh, hoặc đang mang
6
mầm bệnh. Cơ thể bị bệnh là điều kiện duy nhất cho mầm bệnh sinh sống và phát triển, vì ở đây có nhiều điều kiện thuận lợi.
3.1.2. Phân loại nguồn bệnh (nguồn dịch)
Có thể phân chia nguồn dịch thành hai loại:
3.1.2.1 Con vật đang mắc bệnh
Gia súc, gia cầm, dã thú mắc bệnh ở các thể khác nhau. Người mắc bệnh cũng là nguồn bệnh. Gia súc gia cầm là nguồn bệnh nguy hiểm, vì trong khi mắc bệnh cơ thể chứa một lượng mầm bệnh và độc tố cao nhất có thể bài ra ngoài bằng nhiều đường. Một số triệu chứng như đi tháo, ho rất thuận lợi cho gieo rắc nguồn bệnh ra ngoài môi trường, trong nhiều bệnh con ốm ở thời kỳ nung bệnh là nguy hiểm nhất. Lỡ mồm long móng, Dịch tả lợn, Viêm phổi truyền nhiễm, Dại. Con ốm mang mầm bệnh và bài xuất ra ngoài một thời gian trước khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng. Thế nhưng dã thú, gậm nhấm là nguồn bệnh rất nguy hiểm đối với gia súc.
Về dịch tể học, những con mắc bệnh nhẹ nguy hiểm hơn con mắc bệnh nặng, vì chúng thường khó được phát hiện dễ bị bỏ qua, coi thường vì vậy nó có khả năng tiếp xúc với con khỏe nên bệnh dễ lây hơn.
3.1.2.2 Con vật mang trùng
Gia súc, gia cầm, dã thú và ngay cả người đang mang trùng. Hiện tượng mang trùng bao gồm: Gia súc, gia cầm, dã thú, con người sau khi mắc bệnh khỏi có miễn dịch, hoặc không có miễn dịch, nhưng có mang trùng (Lepto) gọi là con lành bệnh mang trùng, cũng có thể con vật đang lành bệnh nhưng mang trùng và bài xuất ra ngoài trong một thời gian (Dịch tả lợn). Hoặc có thể chưa mắc bệnh nhưng mang mầm bệnh trong cơ thể, trường hợp này gọi là con khỏe mang trùng (Đóng dấu lợn, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn), côn trùng được coi là nguồn bệnh, khi chúng có khả năng truyền bệnh từ đời này qua đời khác. Hiện tượng mang trùng rất nguy hiểm về mặt dịch tể học, động vật mang trùng (Âoïng dấu lợn, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn), côn trùng được coi là nguồn bệnh, khi chúng có khả năng truyền bệnh từ đời này qua đời khác. Hiện tượng mang trùng rất nguy hiểm về mặt dịch tể học, động vật mang trùng thường làm lây lan bệnh lớn hơn cả bản thân con vật, trong một số bệnh truyền nhiễm. Động vật mang trùng có khả năng quyết định trong việc làm mầm bệnh phát sinh.
3.2. Nhân tố truyền lây
3.2.1 Các nhân tố trung gian truyền lây
Chúng ta đã biết rằng bệnh truyền nhiễm có thể lây trực tiếp từ con ốm sang con khỏe, như khi cọ xát, khi giao phối, khi bú, khi bị cắn, nhưng cũng có những bệnh lây gián tiếp, không qua nhân tố trung gian truyền bệnh như: không khí, thức ăn, nước uống, đất…Nhân tố trung gian. Là khâu thứ hai của quá trình sinh dịch, nó đóng vai trò chuyển mầm bệnh từ nguồn bệnh tới gia súc cảm thụ. Muốn lan truyền từ cơ thể ốm sang cơ thể khỏe, mầm bệnh thường phải sống một thời gian. Thời gian đó dài hay ngắn phụ thuộc vào mầm bệnh, loại nhân tố trung gian truyền lây. Điều kiện khí hậu, thời tiết, nói chung mầm bệnh sẽ không sinh sản ở đó và sau một thời gian nhất định sẽ bị tiêu diệt.
Các nhân tố trung gian truyền bệnh. Cơ học, bao gồm thức ăn nước uống, vì nó là nhân tố phổ biến nhất và đại đa số các bệnh truyền nhiễm đều lây bằng đường tiêu hóa, thông qua thức ăn, nước uống. Thức ăn, nước uống bị ô nhiễm là do chất bài tiết của con vật có bệnh thải ra (phân, nước tiểu, đờm…). Do đất bị ô nhiễm, do dụng cụ chế biến thức ăn, do gia súc gia cầm khác mang tới. Nước uống; nước tắm rửa rất cần thiết cho đời sống hàng ngày của gia súc. Nhưng nước bị ô nhiễm là nguyên nhân phát sinh ồ ạt các bệnh truyền nhiễm, ví dụ: Dịch tả trâu, bò, Dịch tả lợn, Lở mồm long móng.
Tóm lại: mức độ ô nhiễm của nước phụ thuộc vào thành phần và điều kiện vệ sinh của đất ở nơi đó. Nước tự làm sạch do tác dụng ánh sáng mặt trời, do sự chuyển động và các chất hữu cơ được pha loãng. Do đó Vi khuẩn trong nước bị tiêu diệt. Ngoài ra nước còn có loại nguyên sinh động vật thực bào làm cho nước sạch.
3.2.2. Đất
Đất đóng vai trò quan trọng trong việc làm lây lan bệnh, có những vùng đất thường xuyên chứa mầm bệnh. Đất bị ô nhiễm là do chất bài tiết của con bệnh, chất thải của cống rãnh, chất thải của các nhà máy chế biến thú sản, lò sát sinh, vật chết chôn trên đất, từ đất mầm bệnh qua vết thương hoặc qua thức ăn nước uống ngay trong đất. Nha bào nhiều loại vi khuẩn như Nhiệt thán, Ung khí thán, Uốn ván tồn tại khá lâu trong đất. Có thể coi đất là môi trường sống tự nhiên của các loài đó và thường gây ra bệnh thổ nhưỡng.
3.2.3 Không khí
7
Mầm bệnh có thể tồn tại trong không khí, mầm bệnh dính vào bụi khi quét dọn chuồng trại, cọ chải cho gia súc hay dính vào bọt nước hoặc khi gia súc kêu ho, hắt hơi. Giọt nước thường chứa nhiều mầm bệnh nhưng không tồn tại được lâu và không đi được xa, nhưng nó vào khí quản thì nó tồn tại trong phế quản. Phương thức truyền bệnh qua bụi dài hơn, nguy hiểm hơn trong các loài mầm bệnh sống lâu trong ngoại cảnh, trực khuẩn Lao. Nó là nhân tố duy nhất truyền bệnh bằng đường hô hấp.
3.2.4 Côn trùng
Côn trùng bao gồm nhiều loại cụ thể là ruồi, muỗi, rận, ve,… là hãút sức nguy hiểm trong việc truyền bệnh, khác với những nhân tố trên, chúng là những nhân tố truyền bệnh sống, nên chúng chủ động mang mầm bệnh đi khắp nơi. Chúng truyền bằng hai phương thức: cơ học và sinh học.
3.2.5 Cơ học
Những sinh vật trên chỉ vận chuyển mầm bệnh một cách máy móc từ chỗ này sang chỗ khác, ruồi mang mầm bệnh chân voi.
3.2.6 Sinh học
Mầm tồn tại sinh sản trong sinh vật nung bệnh, khi đã mang mầm bệnh đó từ cơ thể truyền bệnh suốt cả đời nó: chấy, rận chứa mầm bệnh sốt phát ban. Cũng có loài phải trải qua nhiều giai đoạn trong cơ thể sinh vật mang bệnh rồi mới truyền bệnh (muỗi Anophen).
Lớp nhện và lớp tiết túc bao gồm rất nhiều loài, trong đó ruồi nhà có thể mang vi khuẩn Nhiệt thán, Lao, Xoắn khuẩn, Dịch tả lợn, Lở mồm long móng và những mầm bệnh này, cũng có thể sống được ở trong cơ thể người 16 ngày. Ruồi trâu hút máu gia súc truyền bệnh Nhiệt thán, Tiên mao trùng, Lepto. Muỗi truyền sốt rét cho người, bệnh bầm huyết cho ngựa. Muỗi, ruồi trâu, ruồi nhà chứa vi khuẩn Brucella và có thể truyền bệnh cho đời sau.
3.2.7 Các loại động vật khác
Tất cả các loại động vật khác không cảm thụ, hoặc ít cảm thụ đều là những nhân tố trung gian truyền bệnh, gia cầm, chim, truyền bệnh Nhiệt thán, Âoïng dấu lợn, Dịch tả lợn. Các loại thú chó, cáo truyền bệnh Dại, Lở mồm long móng, Sẩy thai truyền nhiễm, loại gậm nhấm không những là nguồn dịch thiên nhiên, đồng thời nó cũng là nguồn bệnh. Trong các loại động vật chú ý loài chim, bởi vì chúng có đôi cánh nên bay xa và truyền lây xa. Người cũng mang nhiều loại bệnh, nhất là người trực tiếp với gia súc, công nhân, cán bộ Thú y.
3.2.8 Dụng cụ và đồ vật
Tất cả các dụng cụ và đồ vật cho gia súc trong chăn nuôi đều có thể truyền bệnh. Sản phẩm gia súc. Sản phẩm gia súc có thể trở thành nguy hiểm cho người và gia súc. Thịt gia súc ốm là nguyên nhân gây bệnh, sữa, da, xương, lông, sừng, móng cũng là nguyên nhân gây bệnh.
Tóm lại, nhân tố trung gian truyền bệnh có rất nhiều loại bệnh truyền từ con ốm sang con khỏe, bằng nhiều đường thông qua nhân tố trung gian; có khi phải qua một chuỗi nhân tố trung gian. Vậy nhân tố này hết sức quan trọng, chúng ta phải tìm cách phòng, chống và phá hủy nhân tố đó.
3.2.9 Động vật cảm thụ
Động vật cảm thụ là khâu thứ ba không thể thiếu được của quá trình sinh dịch, có nguồn bệnh và có nhân tố trung gian truyền bệnh thuận lợi, nhưng cơ thể động vật không cảm thụ với bệnh (do miễn dịch), thì bệnh không thể phát sinh. Vậy sức cảm thụ của súc vật đối với bệnh sẽ là điều kiện bắt buộc, để dịch phát sinh và phát triển. Sức cảm thụ phụ thuộc vào sức đề kháng (miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu) của chúng. Vì vậy làm tăng sức đề kháng không đặc hiệu, vệ sinh, nuôi dưỡng, chăm sóc, phòng bệnh và sức đề kháng đặc hiệu là tiêm phòng. Đó là những biện pháp chủ động, tích cực nhằm xóa bỏ khâu thứ ba của quá trình sinh dịch, làm cho dịch không phát sinh.
3.3 Cơ chế và phương thức truyền bệnh
3.3.1 Cơ chế truyền bệnh
Có nguồn bệnh, nhưng không có những điều kiện thuận lợi, để mầm bệnh lây từ nguồn bệnh sang động vật cảm thụ, thì dịch chưa thể phát sinh. Mầm bệnh lan truyền từ cơ thể ốm sang cơ thể khỏe. Không những là điều kiện cần thiết của quá trình sinh dịch, mà còn cần thiết cho sự tồn tại của mầm bệnh trong thiên nhiên. Mầm bệnh lây từ cơ thể ốm sang cơ thể khỏe do những quy luật nhất định chi phối. Gramasepxki gọi đó là quy luật truyền bệnh, hay cơ chế truyền bệnh.
8
Cơ chế truyền bệnh của Gramasepxki gồm:
* Nơi cư trú đầu tiên của mầm bệnh.
Nơi cư trú đầu tiên ảnh hưởng đến việc bài xuất của mầm bệnh ra ngoài. Nếu nơi cư trú đầu tiên là phổi, thì mầm bệnh bài xuất ra ngoài bằng đường hô hấp: bệnh Lao. Nếu nơi cư trú là đường tiêu hóa thì bài tiết qua phân, nước tiểu, nước bọt: Virus Dại.
Vậy tóm lại nơi cư trú đầu tiên có tính chất chuyển biến đối với từng loại mầm bệnh.
* Nơi cư trú đầu tiên của mầm bệnh ảnh hưởng đến cách bài mầm bệnh ra ngoài cơ thể. Nếu đường bài xuất là đường tiêu hóa, thì nơi mầm bệnh tồn tại sẽ là thức ăn, nước uống. Bệnh ở phôi nơi bài xuất mũi gồm: đờm, dịch mũi. Bệnh ở ruột bài xuất ra ngoài , phân, nước tiểu. Nếu là ở máu do côn trùng hút.
* Cách bài mầm bệnh ra ngoài cơ thể, quyết định sự tồn tại của mầm bệnh ở ngoại cảnh. Nếu đờm, nước dải, nước bọt mầm lưu lại ở không khí, nếu theo phân thì lưu lại ở đất, nước, vỏ cây. Nơi cư trú đầu tiên của mầm bệnh quyết định phương thức bệnh xâm nhập vào cơ thể con vật khỏe, bệnh Lao khi ho vào không khí thì mầm sẽ trở về phổi.
3.3.2 Phương thức truyền lây
3.3.2.1 Phương thức trực tiếp
Mầm bệnh truyền từ con ốm sang con khỏe, không qua nhân tố trung gian như: cắn liếm, giao cấu, bú thấy rõ ở Lỡ mồm long móng. Nếu sức đề kháng yếu, thấy rõ tính chất lây lan dây chuyền của con vật.
3.3.2.2 Phương thức gián tiếp
Thông qua nhân tố trung gian truyền lây, loại vật mang ký sinh trùng đường máu, mầm bệnh có sức đề kháng tương đối cao ở ngoại cảnh dịch càng kéo dài, ồ ạt, ác liệt, ầm ỉ, dịch có tính địa phương. Sức đề kháng yếu thời gian sống ngoại cảnh ngắn, dịch phát triển ồ ạt và lan rộng biểu hiện rõ ràng.
Cơ chế truyền lây của Gramasepxki có bốn phương thức:
+ Truyền theo đường hô hấp: Nơi cư trú đầu tiên là phổi. Đường truyền lây là không khí – thông qua mũi miệng.
+ Truyền theo đường tiêu hóa:
Nơi cư trú đầu tiên là ruột - mầm bài ra ngoài theo phân, thức ăn nước uống, đất. Đường này là từ phân vào miệng.
+ Truyền theo đường máu:
Nơi cư trú đầu tiên là máu, mầm bệnh từ máu súc vật ốm ra ngoài nhờ côn trùng trung gian hút máu – vi trùng sống trong côn trùng, rồi từ côn trùng đi vào gia súc khỏe, khi côn trùng đốt.
Đường truyền: Máu Côn trùng hút máu Máu.
Truyền qua da niêm mạc:
Do có nhiều nơi cư trú đầu tiên, nên có nhiều đường truyền bệnh và nhiều loại nhân tố trung gian truyền bệnh. Dựa vào các phương thức truyền bệnh trên, người ta có thể phân loại bệnh truyền nhiễm theo các nhóm bệnh nhất định, và có các biện pháp phòng trừ hữu hiệu.
3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh dịch
Quá trình sinh dịch chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, các yếu tố đó tác động rất nhiều khâu của quá trình sinh dịch, ảnh hưởng đến quá trình đó làm gia súc có nhiều tính chất khác nhau.
3.4.1 Các nhân tố thiên nhiên
Các nhân tố thiên nhiên bao gồm, đất đai, khí hậu thời tiết, ánh sáng và cả những nhân tố vũ trụ mà ta chưa nghiên cứu đến. Các yếu tố không những ảnh hưởng đến sự sống, sự hình thành và phát triển của các loài gia súc, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, sức sản xuất cũng như sự phát triển của các loài bệnh tật. về mặt bệnh tật, các nhân tố thiên nhiên có lợi hoặc không có lợi đến ảnh hưởng các khâu của quá trình sinh dịch như sau:
3.4.1.1 Ảnh hưởng đến nguồn bệnh
9
Quá trình làm tăng hoặc giảm nguồn bệnh, tăng hoặc giảm sức đề kháng của cơ thể. Nếu là gia súc, gia cầm thiên nhiên ảnh hưởng đến thức ăn, nước uống, phương thức chăn nuôi ảnh hưởng sức đề kháng, làm dịch dễ hoặc khó phát sinh. Do đó làm tăng hoặc giảm nguồn bệnh. Nếu là côn trùng, dã thú chịu ảnh hưởng của thiên nhiên càng rõ, vì thiên nhiên quyết định vùng cư trú, sự phát triển về loài, về số lượng, về sự hoạt động của chúng. Điều kiện thiên nhiên còn thông qua nguồn bệnh, mà ảnh hưởng đến mầm bệnh, càng rõ khi nó bài xuất mầm bệnh ra ngoài (tăng giảm số lượng, phân tán rộng hay hẹp).
3.4.1.2 Ảnh hưởng đến nhân tố trung gian truyền bệnh
Đối với nhân tố trung gian không phải là sinh vật: đất, nước, dụng cụ đồ vật, thì ảnh hưởng đến đièu kiện thiên nhiên, đến vùng cư trú, đến sinh sản và phát triển về loài, về số lượng, về sự hoạt động của chúng và đến sự tăng giảm của bệnh.
3.4.1.3 Ảnh hưởng đến gia súc cảm thụ
Yếu tố thiên nhiên như: khí hậu, ánh sáng, ẩm độ thường xuyên tác động đến cơ thể súc vật, làm tăng hoặc giảm sức đề kháng, mức sinh sản thấp, cao, mức tập trung, hoặc sơ tán đối với mức cảm thụ trong đàn thay đổi. Điều kiện và mức độ lây lan thay đổi.
Tóm lại: Thiên nhiên nhiệt đới ở nước ta tạo nên đặc điểm riêng biệt về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, không khí, đất và nước. Đã ảnh hưởng đến từng mùa, từng vùng đối với sức khỏe, sức sinh sản, đối với sự lây lan và phát sinh bệnh truyền nhiễm ở nước ta. Chú ý cần hiểu biết sâu sắc những ảnh hưởng của các yếu tố thiên nhiên, khắc phục những yếu tố có hại, phát huy những yếu tố có lợi, nhằm đảm bảo cho công tác phòng trừ bệnh được tốt.
3.4.2 Nhân tố xã hội
Bệnh Truyền nhiễm là một hiện tượng sinh vật xâm nhập vào cơ thể. Nhưng dịch bệnh lại xáøy ra trong một xã hội nhất định, nên đó là một hiện tượng xã hội và chịu ảnh hưởng quyết định của các nhân tố xã hội. Điều kiện ăn ở, đời sống vật chất, trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, tập quán xã hội, hoạt động kinh tế, các tai biến xã hội. Như chiến tranh, nạn đói, nạn dịch bệnh của người, đều ảnh hưởng đến một cách trực tiếp tới gia súc. Mọi điều kiện sinh hoạt đều phụ thuộc vào chế độ xã hội. Chừng nào con người bị áp bức, bóc lột, trình độ văn hóa, kinh tế còn thấp kém, đời sống vật chất của nhân dân lao động còn hạn chế, thì tình hình dịch bệnh còn phát triển nhiều.
Lịch sử thế giới cũng như nước ta đã chứng minh điều đó ví dụ: Nước Nga ở chế độ Sa hoàng dịch bệnh nặng nhất là bệnh dịch trâu, bò, bệnh này chỉ mới thanh toán được khi nước Nga xô viết được thành lập. Thời Pháp thuộc ở Đông Dương Dịch tả trâu, bò (1932) 140000 con chiếm 5%. Năm 1960 miền Nam hiện vẫn còn bệnh dịch tả, sau ngày giải phóng bệnh này vẫn còn lưu lại ở một số vùng. Vậy, muốn thanh toán dịch tận gốc, phải giải quyết vấn đề xã hộI, từ chỗ khống chế bắt buộc, đến tiêu diệt hoàn toàn.
3.5 Tính quy luật của dịch
Như trên chúng ta đã biết, các nhân tố thiên nhiên, và xã hội kết hợp với đặc tính của mầm bệnh chi phối quá trình sinh dịch, làm cho dịch biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
3.5.1 Dịch lẻ tẻ
Số con phát bệnh lẻ tẻ trông thời gian dài. Một vài con mắc bệnh từ chuồng này rồi lây lan sang chuồng khác: Tụ huyết trùng, Uốn ván, gây thủy thuîng ác tính.
3.5.2 Dịch địa phương
Dịch phát ra giới hạn trong một địa phương, một vùng không lan rộng, ví dụ: bệnh Nhiệt thán.
3.5.3 Dịch
Bệnh phát ra và lây lan rộng ở một số nơi trong một thời gian ngắn, phạm vi ngắn có thể là một huyện, có khi là một tỉnh và khi có nhiều tỉnh: Dịch tả lợn.
3.5.4 Dịch lớn
Bệnh phát ra ồ ạt, lan tràn nhanh rộng trong thời gian ngắn, lan trong tỉnh hoặc có khi lan ra cả nước, có khi lan ra nhiều nước như: bệnh Dịch tả trâu, bò, bệnh Lỡ mồm long móng.
Tóm lại, cách phân ra các loại dịch trên chỉ là tương đối. Nhưng các yếu tố thiên nhiên, xã hội cũng tạo cho dịch có những tính chất sau:
10
3.6 Tính chất vùng
Do điều kiện thức ăn, nước uống, chăn nuôi, yếu tố thiên nhiên: do tập quán, do loại nhân tố trung gian, ở trong vùng nhất định, nên dịch bệnh có tính chất vùng. Liên hệ nước ta thấy có ba vùng rõ rệt.
3.6.1 Vùng núi
Khí hậu tốt, nhiều cỏ thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gia súc lớn, nhưng cũng là vùng thuận lợi cho côn trùng phát triển, ruồi trâu, ruồi vàng, bò chét…Nhiều bệnh ký sinh trùng đường máu xảy ra như: Tiên mao trùng, Lê dạng trùng. Có nhiều dã thú nên nó là nguồn dự trữ dịch bệnh: bệnh Dịch tả trâu, bò, bệnh Dịch tả lợn.
3.6.2 Vùng trung du
Là vùng thường xáøy ra bệnh ký sinh trùng đường máu như: Lê dạng trùng, Huyết bào tử trùng.
3.6.3 Vùng đồng bằng
Là vùng phát triển gia súc, gia cầm nhiều, nhưng cũng là nơi thường xuyên xảy ra các bệnh như: Newcastle, Nhiết thán, Tụ huyết trùng, Lợn đóng dấu. Bởi vì ở đó là những vùng ẩm thấp, lầy lội, nhiều phù sa ven sông.
3.7. Tính chất mùa
Mùa ảnh hưởng đến chất lượng cây cỏ, số lượng và chất lượng thức ăn, các nhân tố trung gian truyền bệnh. Tùy theo mùa mà thay đổi, về loài, về số lượng về sự hoạt động. Mùa ảnh hưởng đến chức năng sinh lý, sức đề kháng của cơ thể gia súc, ảnh hưởng đến sự tồn tại của mầm bệnh trong gia súc, ngoại cảnh. Hoạt động xã hội, lễ tiết có tính chất mùa cũng làm cho dịch bệnh có tính chất mùa. Ở nước ta cũng nhìn thấy rõ bệnh phát ra hai mùa rõ rệt.
3.7.1 Mùa mưa
Từ tháng sáu đến tháng mười âm lịch, khí hậu ấm áp, mưa nhiều thuận lợi cho cây trồng, rau cỏ phát triển, gia súc được ăn no đủ, nhưng cũng là mùa thuận lợi cho một số bệnh phát triển. Ví dụ bệnh Tụ huyết trùng phát triển nhanh chóng trong đièu kiện ẩm ướt, nha bào Nhiệt thán do mưa đã đưa từ trong lòng đất lên trên mặt đất. Các côn trùng cũng từ đó mà phát triển nhanh, tạo điều kiện xúc tác cho mầm bệnh sinh sản. Tiên mao trùng và nhiều bệnh không truyền nhiễm khác như: Lợn con đi phân trắng, chướng hơi, nghẽn dạ lá sách, say nắng, cảm nóng.
3.7.2 Mùa khô
Từ tháng mười đến tháng hai năm sau, thường về mùa này cây cối cằn cỗi gia súc thiếu ăn. Mầm bệnh giữ được độc lực ngoài thiên nhiên, đồng thời cũng là mùa gia súc làm việc nhiều, trong điều kiện mưa phùn gió bấc, nên đó là điều kiện cho các loài Virus phát triển. Ví dụ bệnh Dịch tả trâu, bò, Dịch tả lợn, Newcastle, Tụ huyết trùng gà, Nhiệt thán, do thiếu cỏ phải gặm sát miệng, vì vậy miệng bị xây xát bệnh dễ nhiễm. Mưa phùn ẩm ướt, độ ẩm cao làm giảm sức đề kháng của cơ thể, bệnh dễ trỗi dậy, Lợn đóng dấu, vi khuẩn tăng độc lực, đồng thời sinh sản nhanh.
3.8 Tính chu kỳ
Một số bệnh truyền nhiễm sau một thời gian lại xáøy ra gọi là tính chu kỳ của dịch, thời gian đó thường 3-5 năm. Sau một trận dịch số gia súc còn sống sót được miễn dịch, tính cảm thụ giảm tới mức thấp nháút, nhưng sau do mua thêm, sinh sản thêm, do đàn gia súc hết miễn dịch, đến một thời gian nào đó tính cảm thụ tăng đến mức cao nhất dịch phát ra.
3.9 Nguồn dịch thiên nhiên
Theo Paplopxki (1938): nguồn dịch ở trong thiên nhiên, ở những vùng nhất định là những vùng chưa có dấu chân của người và gia súc, rừng núi âm u, mầm bệnh tồn tại nhiều nhất là ở loài gậm nhấm; thường thấy ở trong đàn thú rừng chết nhiều; thường là khi vật đói ăn, thời tiết thay đổi nó biểu hiện ở thể ẩn hoặc thể mang trùng theo dây chuyền:
Dã thú – côn trùng – môi giới hút máu thú rừng.
Mầm có thể truyền ra ngoài theo ngoại cảnh:
Thú rừng - ngoại cảnh – thú rừng.
Chæång 4. PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
4.1 Nguyên lý phòng chống
Bệnh truyền nhiễm xáøy ra được là do 3 khâu của quá trình sinh dịch:
11
- Nguồn bệnh
- Các nhân tố trung gian truyền lây
- Động vật cảm thụ.
Ba khâu này liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ chặt chẽ giữa hai trong ba khâu, thì dịch không thể xảy ra được. Nguồn dịch là khâu đầu tiên và chủ yếu và là xuất phát điểm của quá trình sinh dịch. Nhân tố trung gian truyền lây, nối nguồn bệnh tới cơ thể cảm thụ làm cho quá trình sinh dịch được thuận lợi. Trên cơ sở đó công tác phòng chống là nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa các khâu với nhau, chỉ cần 1 hoăc 2 khâu làm cho quá trình sinh dịch không thể thực hiện được. Đó là nguyên lý cơ bản của phòng chống bệnh truyền nhiễm.
4.2 Phòng bệnh truyền nhiễm
Ý nghĩa: Các biện pháp phòng dịch nhằm chủ động tấn công mầm bệnh khi dịch chưa xảy ra. Các biện pháp bao gồm nhiều mặt, nhiều khâu cùng một lúc.
4.2.1 Biện pháp đối với nguồn bệnh
Phát hiện sớm, chủ động tấn công tích cực, phát hiện bằng vi trùng học bằng cách xét nghiệm các chất thải, các chất bài tiết. Nhưng không chắc chắn vì vật bài tiết định kỳ cho nên phải tiêm qua động vật khỏe, có thể dùng phương pháp huyết thanh học, nhưng phương pháp thường không ổn định, chắc chắn nhất là chẩn đoán bằng phương pháp chẩn đoán dị ứng, đối với các bệnh có phản ứng dị ứng như: bệnh Lao, Tỵ thư, Sẩy thai truyền nhiễm, Bạch lỵ gà, Mycoplasma.
Phải áp dụng biện pháp: cách ly triệt để những con vật ốm, những con vật mang trùng, những con vật mới mua về. Điều trị dự phòng những con vật mang trùng, nhất là những gia súc quý, đắt tiền. Song cũng có một số con tæû nhiên lành bệnh, ví dụ như ở bệnh sẩy thai truyền nhiễm, một số con mang trùng nhưng chưa có biện pháp tốt để phát hiện, như bệnh Dịch tả trâu, bò, lợn. Cần có biện pháp giải quyết ngay khi con vật ốm. Đối với dã thú, côn trùng phải tìm cách tiêu diệt tận gốc.
4.2.2 Biện pháp đối với nhân tố trung gian
Đối với nhân tố trung gian, phải làm cho nhân tố trung gian không còn mang mầm bệnh, hoặc tiêu diệt mầm bệnh đối với nhân tố đó bằng các đường. Bệnh lây qua dường tiêu hóa: giữ vệ sinh ăn uống, cấm chăn thả ở những nơi thường xuyên có nhiều mầm bệnh, bãi chăn có nhiều vũng nước, cấm chăn thả xung quanh nhà máy thuộc da, loì sát sinh, nhà máy chế biến thú sản phẩm. Thực hiện tốt các biện pháp tiêu độc, tiêu diệt côn trùng. Bệnh lây qua đường hô hấp: phải giữ chuồng trại thoáng mát, sạch sẽ tiêu độc khi chưa có dịch, khi đã hết dịch, đó là biện pháp cần thực hiện thường xuyên. Đối với bệnh lây qua đường máu: nhân tố thức ăn, côn trùng nên tiêu diệt, ngăn cản tiếp xúc với gia súc. Đối với bệnh lây qua da, niêm mạc: giữ vệ sinh thân thể gia súc, tắm chải thường xuyên, tiêu độc, tiêu diệt côn trùng, gậm nhấm.
Tiêu độc là biện pháp mầm bệnh tồn tại ở ngoại cảnh, tiêu diệt mầm bệnh ngay trên cơ thể gia súc. Có thể tiêu độc trước khi có dịch. Đó là biện pháp thường xuyên, ngay cả trong khi có dịch cũng như sau khi hết dịch. Đối tượng tiêu độc chuồng trại, sân chơi, bãi chăn, dụng cụ chăn nuôi, dụng cụ cày kéo, yên cương, dụng cụ vận chuyển nói chung, là những dụng cụ thường xuyên tiếp xúc với con vật. Những nơi thường tập trung gia súc, những nơi tập trung nguyên liệu của gia súc, các xí nghiệp chế biến, những nơi lưu giữ, những dụng cụ thường dùng hàng ngày.
4.3 Các phương pháp tiêu độc
4.3.1 Tiêu độc bằng vật lý
Vật lý, hóa học, cơ giới, nhiệt sinh vật, số lượng bệnh ở ngoại cảnh, những chất thích hợp cho sự tồn tại của mầm bệnh, bao gồm việc quét dọn hàng ngày, nạo vét cống rãnh. Thực hiện trước các biện pháp tiêu độc khác, luôn luôn mở rộng chuồng trại lấy ánh sáng mặt trời: biện pháp dùng lửa đốt, dùng lửa ngọn đèn xì, dùng nước sôi đều có thể tiêu diệt các loại vi trùng không nha bào. Nếu vi trùng có nha bào thì phải đun sôi trong vòng 30 phút trở lên mới tiêu diệt được, 1- 2% xút đun sôi trong vòng 1-2 giờ, tiêu diệt hết tất cả các loại mầm bệnh. Ngoài ra còn dùng hơi nước dưới áp lực cao, dùng không khí sấy khô trong các lò sấy, hay đun cách quãng để tiêu diệt mầm bệnh.
4.3.2 Tiêu độc bằng các chất hóa học
4.3.2.1 Tác dụng của hóa chất
Hóa chất có tác dụng làm cho sự kết tủa, phân ly hoặc phá hủy Protein, hay biến chất của các chất độc, đối với mầm bệnh. Thường dùng các chất đảm bảo các yêu cầu: có khả năng diệt nhiều loài mầm bệnh, ít độc đối với người và gia
12
súc, dễ hòa tan trong nước, không làm hỏng dụng cụ, dễ sử dụng, rẻ tiền. Thường ở 3 dạng: dung dịch, bột, khí. Dạng dung dịch là dạng để lâu bằng cách chùi, rửa, ngâm, tắm, thường là muối kim loại nặng, kiềm, toan, vô cơ hoặc hữu cơ. Các hợp chất clo dùng để xông chuồng, phòng thí nghiệm, các hợp chất lưu huỳnh, vôi bột, xút ăn da dùng tiêu độc các bệnh do Virus. Xút có tác dụng thủy phân Protide, Gluxit, phá hủy Lipit. Dung dịch 2-4% để tiêu độc chuồng trại. Dung dịch 1% tắm cho gia súc. Khi mắc bệnh Lở mồm lông móng cho thêm 5-10% NaCl diệt nha bào. Chú ý khi dùng tích tụ nhiều Amoniac, cho nên phải để chuồng thoáng trước khi cho gia súc vào.
4.3.2.2 Tác dụng của vôi
Vôi là loại dụng rộng rãi, nó phân hủy được Protein, tế bào vi khuẩn, diệt được trứng ruồi nhặng, nhưng không diệt nha bào, dùng dạng sữa 10-20% dùng để quét trần hoặc quét các chuồng trại 3 lần cách nhau 3 giờ. Sữa vôi thêm NaOH 1% hoặc Formol 3% hoặc Clorua vôi 0.5% đến 2% tăng cường diệt trùng. Sữa vôi để ngoài tác dụng với CO2 biến thành Cacbonat Ca2CO3 mất tác dụng.
4.3.2.3 Tác dụng của nước tro
Nước tro chủ yếu là Cacbonat kali K2CO3 trong nước sẽ cho KOH.
K2CO3 + H2O 2KOH + CO2↑
KOH có tác dụng tiêu độc như các chất khác, nên thường dùng nước tro nóng 10% cho 0,5% NaOH có tác dụng mạnh, nhưng để lâu thì mất tác dụng.
4.3.2.4 Tác dụng của Acide sulfuric
Acide sulfuric H2SO4 nó có khả năng cướp nước của nguyên sinh chất tế bào, hão tan và phân giải Protide thành Anbumol pepton, Acide amin. Acide sulfuric tác dụng diệt trùng mạnh 2-3% tiêu độc đất, phân, nền chuồng nhất là các vùng thường có nha bào Nhiệt thán.
4.3.2.5 Tác dụng của Acide fenic
Acide fenic C6H5OH có khả năng tan trong protide ít, nên thấm sâu vào tế bào, không nên dùng trong chuồng nuôi bò sữa, vì nó dễ hấp thụ vào sữa.
4.3.2.6 Tác dụng của Acide clo
Acide Clo Cl2 trong dạng khí dễ tiêu độc chuồng, có thể đóng kín được, cũng có thể dùng trong dạng nước:
Cl2 + H2O HCl + HClO
HClO HCl + O2
Trong nước HClO và HCl sẽ tác dụng thải Clo, khi Clo tác dụng với Protein tạo nên Protide.
4.3.2.7 Tác dụng của Formol
Formol HCHO: trong nước khí Formol dễ hút tác dụng diệt trùng mạnh, thấm sâu làm biến đổi cấu trúc phân tử tế bào. Thường dùng dung dịch 1% dùng 2-5% rửa chuồng, ở dạng khí 25ml/m3. Ngoài ra còn Iode, Crezol, Crezil, Lygol.
4.3.3 Phương pháp tiêu độc
4.3.3.1 Tiêu độc chuồng trại
Đối với tiêu độc cơ giới trước khi tiêu độc hóa học, thường dùng sữa vôi 10-20%, Clorua vôi 4-20%, Formol 2-5%, NaOH 4-5%, Crezol 0.5-3%, Crezin 3-5%, Acide fenic 2-5%, cũng có thể dùng nước sôi dội rữa, sau đó quét hoặc rắc vôi.
4.3.3.2 Tiêu độc phương tiện vận chuyển
Phương tiện vận chuyển như ô tô, tàu xe, thuyền quét dọn phân tập trung lại, rữa phương tiện, nguyên liệu nghi hoặc mắc bệnh, dùng nhiệt sinh vật để tiêu độc. Nếu có nha bào thì phải đốt hoặc dùng chất sát trùng mạnh.
4.3.3.3 Tiêu độc nước
Nước: có biện pháp tiêu độc nghiêm khắc bằng Clo hoặc Clorua vôi, trước khi dùng thì phải khử chất hữu cơ trong nước.
4.3.3.4 Tiêu độc đất
13
Đất: dùng Clorua vôi dung dịch nóng 10%, Acide sulfuric, Xút 10% để tiêu độc, chuồng gà vịt, tiêu độc thường xuyên bằng Clorua vôi 10%, sữa vôi 2%, KOH 1%.
4.3.3.5 Tiêu độc lò ấp
Tiêu độc lò ấp: dung dịch 1% KOH hoặc Formol. Nếu là dụng cụ rẽ tiền thì có thể hủy, đốt. Nếu là dụng cụ kim khí, thì khi dùng phải đun sôi 100oC trong 30 phút mới dùng.
4.3.3.6 Tiêu độc nhiệt sinh vật
Tiêu độc diệt sinh vật: phương pháp này dùng chủ yếu là tiêu độc phân bằng cách làm lên men 70-75oC kéo dài 10-15 ngày, nó có tác dụng diệt phần lớn nha bào, ấu trùng và trứng giun sán. Ngoài ra còn một số côn trùng, đồng thời cũng là nguồn bệnh, khoảng hơn 50 loài. Dựa vào đặc điểm sinh lý, sinh thái, tìm cách hạn chế sự sinh sản của nó và tìm cách tiêu diệt.
Nói tóm lại giữ vệ sinh thức ăn, nước uống, phát quang bụi rậm, tiêu diệt côn trùng, gậm nhấm là biện pháp dùng thường xuyên để tiêu diệt mầm bệnh.
4.3.3 Biện pháp đối với gia súc cảm thụ
Các biện pháp đối với gia súc cảm thụ, đã được vạch ra trong các đường lối và nghị quyết, trong các điều lệ Thú y và đã được cụ thể hóa nhanh chóng trong công tác phòng chống bao gồm:
4.3.4.1 Vệ sinh phòng bệnh
Gồm vệ sinh ăn uống, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh chăn thả, vệ sinh thân thể, vệ sinh dụng cụ, vệ sinh khi thai thác và vệ sinh khi sinh sản, vệ sinh phòng bệnh có tác dụng tấn công bệnh, ở ngoại cảnh và trên thân thể gia súc, làm tăng sức khỏe, chống bệnh tật.
4.3.4.2 Cải tiến kỹ thuật chăn nuôi
Bên cạnh ăn uống, phối hợp khẩu phần xây dựng chuồng trại hợp lý, chọn lọc cải tạo giống, cơ giới hóa chăn nuôi.
4.3.4.3 Tiêm phòng
Tiêm phòng là biện pháp tích cực vì làm cho cơ thể tự sản sinh, hay tiếp nhận những chất kháng trùng, giúp cho cơ thể chống đỡ có kết quả, phòng các bệnh trong thời gian nhất định, tiêm phòng có ý nghĩa rất lớn đối với những bệnh, mà mầm bệnh tồn tại trong thiên nhiên lâu dài như: bệnh Nhiệt thán. Hay trong cơ thể gia súc khỏe, bệnh Âoïng dấu lợn, bệnh Tụ huyết trùng, có rất nhiều con mang trùng, có nhiều nhân tố trung gian truyền bệnh. Trong nghị quyết của Đảng cũng đã đề cập đến vấn đề này. “Gây phong trào vệ sinh phòng bệnh cho gia súc ở nông thôn, kết hợp với việc phòng bệnh cho gia súc rộng rãi, chữa bệnh kịp thời”
Vậy tiêm phòng là một biện pháp kỹ thuật không thể thiếu được, trong lúc tình hình nước ta, bệnh dịch còn nghiêm trọng, công tác vệ sinh phòng bệnh chưa thực hiện tốt. Vì vậy việc tiêm phòng phải thưc hiện khi chưa có dịch, bằng các loại Vaccine. Phương pháp đưa Vaccine vào cơ thể nhằm tạo miễn dịch chủ động cho gia súc.
Các đợt tiêm chính vào tháng 8. 9. 10, riêng Khu 4 và các tỉnh miền Nam tùy theo tình hình mưa lũ, mà lùi lại hoặc tiêm trước. Đồng bằng thường tiêm từ tháng 2. 3. 4. Miền núi thường tiêm từ tháng 8. 9. 10. Đặc biệt cần tiêm nhiều lần trong năm, tiêm nhắc lại hoặc tiêm vét. Kế hoạch tiêm phòng. Căn cứ vào số đợt tiêm, số lượng gia súc, loại bệnh, mà dự trữ Vaccine và các loại thuốc khác. Kế hoạch cán bộ. Phải có kế hoạch số người phục vụ pha chế, vận chuyển thuốc, theo dõi gia súc, tổ chức một đợt tiêm, nhanh gọn trong một thời gian nhất định.
4.4 Các biện pháp phòng, trị bệnh truyền nhiễm
4.4.1 Các biện pháp phòng
Các biện pháp phòng chống bệnh truyền nhiễm được thực hiện tại ổ dịch, thường nhằm mục đích tiêu diệt bệnh. Đồng thời không cho ổ dịch lan rộng thành nhiều ổ dịch khác, biện pháp bao gồm:
Phát hiện bệnh – Tiêu diệt nguồn bệnh – Tiêu diệt nhân tố trung gian.
Làm tăng sức đề kháng cơ thể. Các biện pháp phải làm khẩn trương thì mới dập tắt được ổ dịch.
4.4.2 Khái niệm về ổ dịch
14
Trong ổ dịch là phạm vi nguồn bệnh đang phát triển và khu vực xung quanh mầm bệnh có thể lan tới. Các yếu tố của quá trình sinh dịch.
Nguồn bệnh. Nhân tố trung gian. Gia súc cảm thụ.
Vậy định nghĩa ổ dịch Gramasepxki nói: (Phàm nới nào có nguồn bệnh. Trong tình hình cụ thể bệnh truyền nhiễm phát sinh, reo rắc mầm bệnh ra ngoại cảnh và sinh vật xung quang, thì đó gọi là ổ dịch). Ổ dịch cũ là nơi trước mắt không có súc vật mắc bệnh, nhưng mầm bệnh có thể tồn tại ở ngoại cảnh và trong súc vật mang trùng. Nên mầm bệnh có điều kiện phát sinh. Đối tượng con vật ốm, có ổ dịch tiềm tàng là hiển nhiên. Con vật nghi lây, vật có tiếp xúc con ốm, do chăm sóc chung, nhốt chung. Vậy con vật nghi lây phải coi như con ốm.
Tóm lại: tiêu diệt một ổ dịch bao gồm: biện pháp đối với nguồn bệnh (ốm, nghi lây) và biện pháp đối với nhân tố trung gian.
4.4.3 Biện pháp đối với nguồn bệnh
Con ốm: phải phát hiện sớm, nhanh chóng chính xác, dùng mọi biện pháp chẩn đoán, con nghi cũng phải có kết luận sơ bộ, tiến hành phòng dịch lây lan.
Nguyên tắc: một con vật sốt, chưa rõ nguyên nhân phải nghi là mắc bệnh truyền nhiễm phải cách ly. Thà chẩn đoán nhầm một bệnh không truyền nhiễm, thành một bệnh truyền nhiễm, con hơn là nhầm một bệnh truyền nhiễm thành một bệnh không truyền nhiễm. Điều trị triệt để để vật chóng lành, tránh hiện tượng mang trùng, tránh biến chứng, lây lan. Nếu thấy không chữa khỏi phải xử lý, giết, luộc, chôn tùy theo loại bệnh. Đối với con nghi lây phải điều tra con tiếp xúc, cách ly điều trị dự phòng con nghi.
4.4.4. Các biện pháp chẩn đoán
- Chẩn đoán lâm sàng, dựa vào triệu chứng để định bệnh. Chẩn đoán dịch tể, tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện phát sinh. Chẩn đoán giải phẩu bệnh lý (đại thể và vi thể). Chẩn đoán xét nghiệm (Vi khuẩn học, Huyết thanh học, Sinh vật học).
- Chẩn đoán dị ứng, bệnh Brucenlle, Lao, Tỵ thư, Bạch lỵ gà. Đối với nhân tố trung gian thì phải tiêu độc, tiêu diệt. Cắm biển có dịch, không mua bán, không đưa động vật ra vào ổ dịch. Khi người ra vào vùng dịch phải sát trùng cẩn thận. Cấm mổ thịt bừa bãi. Mà phải xử lý đúng luật lệ Thú y hiện hành.
Tóm lại: Tiêu độc trong toàn bộ ổ dịch, gia súc cảm thụ phải tiêm phòng, tiêm bao vây, chống dịch xung quanh và vùng bị uy hiếp. Ngoài ra, là vùng an toàn đều phải tiêm phòng Vaccine đồng thời kiểm kê phân loại gia súc. 4.4.5. Một số quy định của luật Thú y Tuyệt đối phải thi hành luật lệ Thú y, do Chính phủ ban hành 1993, 2000 bao gồm 5 phần với 23 điều. Phần 1.3 điều gồm nguyên tắc chung, mục đích nội dung. Phần 2.10 điều phòng dịch ở các cơ sở tập trung và gia đình, lò mổ cơ sở chế biến. Quy định việc xuất nhập vận chuyển, mua bán trâu, bò. Phần 3.4 điều chống bệnh truyền nhiễm cần phải công bố dịch quy định chế độ báo cáo quyền hạn. Phần 4.2 điều, quy định việc xử lý các trường hợp vi phạm. Phần 5.4 điều, quy định trách nhiệm ngành bộ liên quan. 4.4.6. Khi có dịch Phải khai báo dịch là nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi người công dân, bằng mọi phương tiện với chính quyền và chuyên môn gần nhất. Uỷ ban nhân dân xã nhận được tin phải báo lên Uỷ ban nhân dân huyện, huyện cử cán bộ chuyên môn trực tiếp xuống cơ sở phòng chống, đồng thời cử người báo lên tỉnh và Sở Nông nghiệp vaì Phaït triãøn Näng thän, sau khi đã xác định và công bố dịch, đồng thời Uỷ ban nhân dân tỉnh phải kịp thời báo cáo lên Bộ Nông nghiệp vaì Phaït triãøn Näng thän. 4.4.7 Việc công bố dịch Tên dịch, vùng có dịch. Thành lập ban chống dịch bao gồm. Chính quyền địa phương. Công an. Đại diện phòng chăn nuôi Thú y. Đại diện tổ chức đoàn thể. Đại diện cơ sở có dịch, xã, huyện, tỉnh. Khi đã công bố dịch phải kèm theo biện pháp cụ thể. 4.4.8 Công bố hết dịch Ban chống dịch đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh công bố, khi đã có đủ 3 điều kiện sau. Sau khi con chết hoặc con lành bệnh cuối cùng 15 ngày đến 1 tháng, mà không có con nào mắc bệnh hoặc chết. Khi đàn gia súc trong ổ dịch đã được tiêm phòng, có miễn dịch. Đã tiến hành tổng tiêu độc trong ổ dịch, điều trị triệt để. 4.5. Chữa bệnh Truyền nhiễm 4.5.1. Ý nghĩa
15
Tiêu diệt nguồn bệnh làm cho con vật chóng lành, không biến thành con vật mang trùng, hạn chế lây lan, làm giảm thiệt hại về kinh tế, có tác dụng chống và phòng triệt để. Nguyên tắc: chữa kịp thời và đúng bệnh. Chữa toàn diện kết hợp nhiều biện pháp, dùng thuốc kết hợp chăm sóc nuôi dưỡng, Đông Tây y trị căn nguyên cùng với trị triệu chứng. Kết hợp nâng cao sức đề kháng của con vật. Những bệnh của động vật lây sang người không có thuốc đặc hiệu, không nên chữa như: bệnh Tỵ thư. Phải có quan điểm kinh tế trong khi chữa bệnh. 4.5.2. Các phương pháp 4.5.2.1. Hộ lý Theo dõi con vật về mạch, tim, tần số hô hấp và những chuyển biến thất thường. Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, khi cần bổ sung nước sinh lý. Dùng kháng huyết thanh tiêu diệt mầm bệnh hoặc trung hoà độc tố. Ngoài ra, có hợp chất muối khoáng, protide có tác dụng kích thích nâng cao sức đề kháng không đặc hiệu của cơ thể. Cũng có thế dùng kháng huyết
thành hay γ- Globulin hoặc máu con ốm khỏi bệnh tiêm cho con lành. 4.5.2.2. Cách dùng Tiêm dưới da, khi cần tiêm tĩnh mạch, nhưng phải là huyết thanh cùng loài, liều chữa gấp 2 liều phòng. Nguyên tắc: dùng sớm, dùng đúng bệnh, chữa bệnh cấp tính dùng liều cao ngay từ đầu. Nếu bệnh chưa chuyển, dùng lần 2, nhưng phải đề phòng tai biến. 4.5.2.3. Huyết thanh khác loài Huyết thanh chứa nhiều Albumin dị loài, tai biến sớm, choáng, hay xảy ra sau khi tiêm huyết thanh lần 2, hay tiêm tĩnh mạch, vật thường biểu hiện khó thở, huyết áp giảm, nhiệt độ giảm, vật run sùi bọt mép, cơ co giật, thở nhanh thậm chí có khi chết. Tai biến muộn: ít nguy hiểm, xáøy ra chậm, thường từ 6-12 giờ, chỗ tiêm ngứa, nóng, sốt mình nổi ban, kéo dài vài giờ, có khi một vài tuần vật có thể khỏi. Nếu không khỏi thường xáøy ra biến chứng. 4.5.2.4. Đề phòng tai biến Trước khi tiêm lần 2 phải giải mẫn, theo phương pháp Bret liều nhỏ 0,5-1ml tiêm dưới da 1-2 giờ sau đó mới tiêm thử lượng huyết thanh còn lại. Tốt nhất lần 2 cách lần 1 không quá 3-4 ngày. Nếu quá phải giải mẫn. Chú ý: sản xuất huyết thanh phải tinh khiết, hâm nóng 58oC trước khi dùng. 4.5.2.5. Cấp cứu khi choáng Dùng Adrenalin 1% tiêm bắp; Ephedrin 5%, dung dịch Cloruacanxi 10% tiêm tĩnh mạch. Ngoài ra, thêm Cafein, dầu long não, Vitamin các loại, để vật nơi thoáng, yên tĩnh, tránh nóng cho vật. Cấp cứu: dùng Coctizon Pritinison, Ephedrin, Cafein benzoat. 4.5.3. Dùng kháng sinh Việc dùng kháng sinh hầu hết phổ biến và rỗng rãi trong bệnh truyền nhiễm, nó có tác dụng hãm trùng và diệt trùng, nhưng tuìy theo các mầm bệnh khác nhau, có cơ chế khác nhau. Kháng sinh có tác dụng chọn lọc đến quá trình trao đổi chất của Vi trùng. Ngoài ra, kháng sinh còn kích thích sinh trưởng, kích thích thực bào, tăng tiết mạnh đường tiêu hoá, vật ăn ngon dễ tiêu, ức chế được Vi trùng gây bệnh, làm tăng Vi trùng có lợi cho cơ thể. 4.5.3.1. Penicilline Penicilline: Liều thấp có tác dụng hãm trùng. Liều cao có tác dụng diệt trùng, có nhiều loại nhưng chủ yếu là G, P, X. Tốt nhất loại G nó còn gây rối loạn Acide amin trong tế bào vi khuẩn, khi tiêm bắp nó vào máu rồi vào các tổ chức và hầu hết được bài qua thận. Chú ý: thuốc dễ bị dị ứng và dễ bị vi trùng quen thuốc. Thuốc có tác dụng tốt với vi trùng Gram dương như: Liên cầu trùng, Tụ cầu trùng, bệnh Nhiệt thán, Ung khí thán, Uốn ván,... Tác dụng âm đối với: Nấm, vi trùng Lao. 4.5.3.2. Streptomycine Streptomycine có tác dụng tốt với vi trùng Gram âm như: bệnh Tụ huyết trùng, Phó thương hàn, E-coli, Brucella. Đối với vi trùng Gram dương như: bệnh Âoïng dấu lợn. Đối với xạ khuẩn, Vi trùng kháng quang như: bệnh Lao khi, tiêm bắp nó vào máu, nhanh chóng vào tổ chức thấm vào cả bào thai, nó ra ngoài chậm hơn, chủ yếu vẫn qua thận. Chú ý: thuốc có dị ứng. Vi trùng kháng thuốc làm tổn thương thần kinh trung ương, dễ gây ngộ độc và làm chết. 4.5.3.3. Nhóm Tetracillin, Clotetracilline, Biomycine, Auremycine, Oxytetracilline Các thuốc này có tác dụng dược lý giống nhau, kích thích sinh trưởng, kháng trùng mạnh, uống vào không bị phá huỷ, dễ hấp thụ và phân phối đều. Nếu liều cao gây rối loạn tiêu hoá. Tetracillin: Hấp thụ nhanh, tác dụng nhanh, Nguyên tắc: Do độc tính kháng sinh, một lúc tiêu diệt nhiều Vi trùng, giải phóng nhiều độc tố, làm giảm số lượng kháng nguyên, giảm phản ứng miễn dịch cơ thể. Tiêu diệt vi khuẩn có lợi trong cơ thể thường gây nên dị ứng. Nên phải dùng đúng bệnh, đúng liều, đúng lứa tuổi. Có thể dùng lần 2 nhưng liều giảm dần. Có thể kết hợp nhiều loại kháng sinh, nhưng phải nuôi dưỡng tốt và dùng thêm các thuốc trợ sức. 4.5.3.4. Sunfamit
16
Sunfamit làm rối loạn quá trình chuyển hoïa, có tác dụng hãm trùng. Đa số hấp thụ qua đường tiêu hoïa, có tác dụng tốt đối với các loại Vi trùng Gram dương, Gram âm, Virus, Vi khuẩn đường ruột. Nếu dùng liều cao từ đầu, cho uống nhiều nước, uống kèm Natribicabonat. 4.5.3.5. Proteine Khi đưa Proteine vào cơ thể nó kích thích không đặc hiệu, làm cho con vật khó chịu, thân nhiệt tăng, hồng cầu bạch cầu tăng, hoạt động màng lưới nội mô tăng thúc đẩy quá trình trao đổi chất, quá trình lên men tăng, hình thành viêm cục bộ, giúp cơ thể thanh toán viêm. Bệnh lý, máu đi qua nơi viêm do khả năng hấp thu máu tăng cường, nên nó mang theo phần lớn mầm bệnh và độc tố, vì thế bị tiêu diệt nhanh hơn. Gồm: Máu, huyết thanh, lòng trắng trứng và các tổ chức khác. 4.5.3.6. Dùng hoá dược Hoïa dược chủ yếu là dùng để chữa triệu chứng, có một số dùng để chữa nguyên nhân như: bệnh ký sinh trùng đường máu. Có một số miễn dịch hoïa học trong thời gian nhất định. Vì vậy, phải tiêm khi chưa có bệnh. Âiãöu trị tác dụng mạnh hơn. Tiêm nhiều đường cần tránh khi tiêm qua mạch máu. Nâng cao sức đề kháng cho con vật theo dõi chăm sóc. Dùng Vacccine chủ yếu là để phòng, ngoài ra còn dùng để chữa. Cùng với hoïa dược, còn dùng một số biện pháp như sau: 4.5.3.7 Kiểm dịch Đối với gia súc, gia cầm, súc sản và nhiều loại động vật khác, khi chúng xuất nhập cần được kiểm dịch. 4.5.3.8. Kiểm dịch đối ngoại
Được thực hiện ở các hải cảng, sân bay, cửa khẩu. Đối tượng da, lông, sừng, móng chỉ được phép xuất khi đã có phiếu kiểm dịch của cơ quan sở tại. Cơ quan của ta kiểm tra xác minh tại chỗ. Bao vây, cách ly nghiêm ngặt, kiểm tra các giấy tờ cần thiết và kiểm tra gia súc khi chưa có miễn dịch, hoặc chưa đủ thời gian miễn dịch, hoặc đã quá thời gian miễn dịch.
4.5.3.9. Kiểm dịch nội địa
Chủ yếu ở các trạm đặt trên các đường chính. Tiêm phòng theo tuyến, số gia súc phải đảm bảo theo điều lệ Thú y. Khi phát hiện có dịch không được váûn chuyển mà phải dừng lại. Không được tiếp xúc với vật ở khu vực đi qua, không mua thêm bán bớt. Không được mổ thịt. Vận chuyển phải được vệ sinh, cần thiết phải được tiêu độc các nơi tập trung. Phải kiểm tra giấy tờ và tiêm phòng triệt để, kiểm tra các loại sản phẩm, khám sống trước và sau khi giết mỗ. Quản lý tình hình dịch. Phải nắm vững có dịch gì, xáøy ra vào mùa nào, thiệt hại ra sao, các biện pháp tiêm phòng thực hiện thế nào? Vệ sinh phòng bệnh, điều tra dịch tể, nắm quy luật dịch ngăn chặn lây lan.
+ Xây dựng khu an toàn dịch
Là khu vực rộng hẹp, ở đó kông xảy ra một hoặc nhiều bệnh truyền nhiễm, làm cơ sở để xây dựng khu an toàn dịch trong cả nước. Biện pháp kỹ thuật chăn nuôi Thú y phải đạt kết quả cao, phải xây dựng thành quy trình, tiêu chuẩn có tổ chức. Kiểm tra đôn đốc thực hiện. Xây dựng quy hoạch thông qua lãnh đạo.
Xây dựng mạng lưới Thú y từ thôn xã, từ trung ương đến địa phương. Trạm Thú y tỉnh. Chữa tại chỗ và lưu động, chẩn đoán xét nghiệm, đào tạo cán bộ kiểm dịch, kiểm soát sát sinh.
Trạm huyện: Chữa bệnh tại chỗ hoặc lưu động, chẩn đoán xét nghiệm sơ bộ, quản lý dịch, tổ chức tiêm phòng, kiểm dịch, huấn luyện cán bộ cho xã. Ban chăn nuôi Thú y xã, xây dựng tủ thuốc Thú y xã, chỉ đạo thực hiện công tác ở xã. Ban chăn nuôi Thú y hợp tác xã. Thực hiện các công tác Thú y ở xã, hợp tác xã. Cán bộ Thú ý xã và vệ sinh viên các đội sản xuất phải có tủ thuốc Thú y riêng của xã, hợp tác xã.
Tóm lại: Những biện pháp trên nhằm phòng và chống dịch triệt để, nhằm tăng số lượng và chất lượng đàn gia súc. Chæång 5. MIỄN DỊCH HỌC CÁC HỆ THỐNG MIỄN DỊCH CỦA CƠ THỂ GIA SÚC
5.1. Miễn dịch hoüc là gì?
Miễn dịch tiếng Latinh là Immunitas có nghĩa là không phải nạp thuế hoặc được giải phóng khỏi một nhiệm vụ nào đấy, là khả năng của cơ thể không cảm thụ đến với một tác nhân có hại nào đó cho cơ thể, (trong đó có vi sinh vật gây bệnh) ở một mức độ nhất định, tính miễn dịch là do toàn bộ cơ thể, sự thích ứng của cơ thể, tạo thành dưới sự điều khiển của thần kinh trung ương.
17
Nói về miễn dịch, trước đây người ta chỉ nhìn về mặt kháng thể và thực bào. Ngày nay, người ta nhìn rộng hơn. Miễn dịch bao gồm cả cơ thể đối với Vi sinh vật gây bệnh, chứ không phải chỉ riêng kháng thể với bạch cầu, bao gồm cả tác động của hệ thống thần kinh trung ương. Phản ứng bảo vệ của hệ thống nội bì màng lưới, sự che chở của da niêm mạc, hệ thống lâm ba. Những chất thiên nhiên tiêu diệt khuẩn, kiềm chế Vi khuẩn như Enzym trong nước mũi, nước bọt, nước mắt, vị toan của máu, tác động của Vi sinh vật đường ruột, niêm mạc của da, đối kháng chống lại Vi khuẩn.
Học thuyết phản xạ của Páp lốp không những có thể ứng dụng đối với các hiện tượng sinh lý của toàn bộ cơ thể. Mà đối với sự miễn dịch của cơ thể, cũng có một ý nghĩa trọng đại. Nói như thế có nghĩa là: sự hình thành miễn dịch cũng chịu sự chi phối của quy luật cơ bản của hệ thống thần kinh. Vì vậy, vị trí của miễn dịch học là rất quan trọng đối với động vật.
5.2. Các trung tâm miễn dịch và các tế bào có thẩm quyền miễn dịch
5.2.1. Đặc tính miễn dịch
Theo học thuyết của Páp lốp, thì tính miễn dịch của cơ thể động vật phát sinh như sau: Sau khi Vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào cơ thể, sẽ làm biến đổi hoàn toàn cảnh nội bộ cơ thể. Thậm chí còn phá hoại trạng thái thăng bằng. Để khôi phục lại trạng thái cân bằng đã bị phá huíy và để tiêu diệt Vi khuẩn xâm nhập cơ thể. Để đạt được mục đích gây bệnh, Vi khuẩn trong cơ thể bắt đầu hoặc động bài tiết những sản vật chuyển hoá. Các khí quan nội tạng cũng tiết ra những chất để hỗ trợ cơ thể tiếnh hành đấu tranh, đồng thời còn sản sinh ra kháng thể, để phát huy tác dụng tiêu diệt và trung hoìa Vi khuẩn gây bệnh.
5.2.2. Thần kinh
Thần kinh trung ương làm nhiệm vụ điều tiết và huy động tất cả các lực lượng có thể điều tiết được như: da, niêm mạc, máu hạch lâm ba, phủ tạng. Bạch cầu đơn nhân to (Limphoxit) tế bào nội mô của các xoang, đại thực bào và tế bào Platmoxit, Platmoxit sản sinh kháng thể, tiêu thực bào bạch cầu đa nhân trung tính, tế bào sơn, tổ chức (Histiôsit) các tế bào Kupfeur.
5.2.3. Da
Da có nhiều chức năng quan trọng, đảm bảo sự liên hệ qua lại của cơ thể với bên ngoài, giữ cho các bộ phận bên tỏng khỏi bị tác động bởi bên ngoài, da còn tham gia vào điều hoìa thân nhiệt, làm nhiệm vụ hô hấp và ngăn chặn sự xâm nhập của Vi khuẩn. Nó không những là bức thành đối với Vi khuẩn mà cong có tác dụng diệt nhiều loại Vi khuẩn. Da lành ngăn chặn đại đa số vi khuẩn gây bệnh trừ một số ít có thể xuyên qua như: Lepto, Brucenlla, Nấm lông, Nấm da. Thí nghiệm Bacterium prodigiosus lên da người khoíe mạnh vi khuẩn bị tiêu diệt nhanh (sau 20 phút chỉ có 1% so với ban đầu) da có tác dụng diệt khuẩn nhờ các chất tiết của da. Như mồ hôi, chất nhờn, lớp sừng của da có phản ứng toan, làm trở ngại sự sinh sản, cũng như loại mầm bệnh từ Nấm Trycophyton, Microsporum tế bào chất ở thượng bì luôn luôn cuốn theo nhiều mầm bệnh. Da lành, sạch có chức năng bảo vệ nhiều hơn da bẩn. Trong quá trình nhiễm trùng da nhạy cảm với mầm bệnh và độc tố, với những giai đoạn nhất định, dễ dẫn đến các phản ứng dị ứng trong một số bệnh truyền nhiễm. Như vậy, da đóng một vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của cơ thể và ảnh hưởng rõ rệt đến toàn bộ trạng thái cơ thể. Khi chức năng của da bị rối loạn, thì ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Vì thế, cần phải bảo vệ da để tăng sức đề kháng.
5.2.4. Niêm mạc
So với da, thì niêm mạc mắt, mồm, mũi, đường sinh dục dễ thích ứng với mầm bệnh hơn. Nhiều mầm bệnh dễ phát hiện trên niêm mạc và xuyên vào cơ thể là do khả năng thấm hút của niêm mạc cao, do các nếp nhăn, do ẩm, bóng tối, độ nhiệt của niêm mạc thích ứng với Vi trùng. Niêm mạc đường hô hấp có lông, di động nó cùng với chất nhầy giữ bụi và tống ra ngoài bằng sự hắt hơi, bằng nhu động co thắt của phế quản. Niêm mạc tiết ra niêm dịch làm rữa trôi và tiêu diệt mầm bệnh. Dịch mũi có khả năng diệt Vi khuẩn làm tan Virus. Nước mắt, nước bọt, đờm, sữa, máu có chất Lizozym làm tan nhiều loại mầm bệnh. Nhất là các loại Cầu khuẩn, đơn cầu, Liên cầu khuẩn, dung huyết màng não. Cũng như da khả năng tự vệ của niêm mạc phụ thuộc vào tuổi, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc, thời tiết và các chế độ khác...
5.2.5. Dịch tiết của các tuyến
Khi qua đường tiêu hoá, mầm bệnh do các chất ở đường tiêu hoá tiêu diệt. Dịch vị dạ dày diệt nhiều loại Vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Tuy nhiên, trong dịch vị dạ dày, trực khuẩn Lao và nhiều loại Vi khuẩn có nha bào có thể sông được. Nước mật có khả năng kìm hãm Vi khuẩn đường ruột. Cấy chuyền liên tục nhiều lần vào môi trường có dịch mật, sẽ làm giảm sức đề kháng của Vi khuẩn Lao. Làm giảm độc lực Vi khuẩn lợn Âoïng dấu, diệt Virus Dịch tả trâu,
18
bò, Viêm não tuíy truyền nhiễm ngựa. Ngoài ra, dịch tá tràng, chất bại tiết đường sinh dục, chất Lactinin trong sữa cũng có tác dụng diệt trùng. Nước bót có chất Parotin làm tăng sinh niêm mạc, tăng cường sức bảo vệ niêm mạc.
5.2.6. Gan - Lách - Thận
Gan: đảm bảo nhiều chức năng sinh lý quan trọng của cơ thể, là một khí quan đắc lực chống mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. Paplốp đã xem gan như một vệ sỹ đáng tin cậy. Gan có chức năng giải độc và ngăn chặn mầm bệnh. Tế bào Kupfơ của gan có khả năng thực bào.
Lách: là khí quan quan trọng nhất của hệ thống nội bì màng lưới. Nó cũng là một bộ phận ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh. Thí nghiệm cho biết: Nếu cắt bỏ lách chó thì khả năng âãö kháng đối với Vi khuẩn Nhiệt thán giảm đi rất nhiều. Hơn 80% Vi khuẩn gây bệnh được giữ lại ở gan, lách. Theo Kuzunốc, khi chống lại căn bệnh, lượng máu ở lách tăng cao, vô số bạch cầu đa nhân thẩm xuất. Tế bào màng lưới nội bì tăng sinh hoạt động thực bào tăng.
Thận: cũng là tổ chức bảo vệ cơ thể. Nhiều mầm bệnh hoặc chất thải của chúng có thể được đưa về thận để giải độc, sau đó được bài xuất ra ngoài.
5.2.7. Hệ lâm ba
Mầm bệnh khi xuyên qua da và các niêm mạc thì gặp hệ lâm ba, một hàng rào phòng ngự nữa của cơ thể. Hạch lâm ba vừa là hàng rào bảo vệ chống nhiễm trùng nói chung (chức năng miễn dịch không đặc hiệu). Vừa tham gia vào sản xuất kháng thể (chức năng miễn dịch đặc hiệu). Trong nhiều bệnh truyền nhiễm, các hạch lâm ba dưới hàm và vùng hầu sưng to như: bệnh Tỵ thư, Tụ huyết trùng, Ung khí thán, Nhiệt thán ở lợn. Chính là do khả năng bảo vệ của hạch lâm ba. Mầm bệnh đi qua bị giữ lại ở các xoang, rồi từ đó bị các tế bào màng lưới nội bào thực bào và bị chất Lizozym của hạch tiêu diệt. Trong bệnh Tỵ thư của ngựa không thấy Vi khuẩn trong máu là do hạch tiêu diệt. Tuy nhiên, nó ít có tác dụng với Virus. Có ý kiến cho rằng: Virus có thể sinh sản ngay trong hạch lâm ba.
5.2.7.1. Viêm
Khi bị một kích thích, cơ thể thường phát sinh phản ứng viêm trong một mức độ nhất định, phản ứng này có tác dụng bảo vệ cơ thể. Quá trình viêm giữ mầm bệnh trong khu vực bị viêm, không cho chúng lan rộng vào máu và các bộ phận khác trong cơ thể. Tế bào ở chỗ viêm tăng sinh, làm thành một hàng rào ngăn cản không cho mầm bệnh và độc tố lan rộng. Tổ chức viêm bài tiết chất có Cotacine làm giãn nở và làm tăng tính thẫm lậu của mao quản, làm cho bạch cầu đa nhân dễ xuyên mạch, để làm nhiệm vụ thực bào. Kháng thể ở chỗ viêm có khả năng làm ngưng kết Vi khuẩn. Chỗ viêm có thể lôi cuốn mầm bệnh làm suy yếu và tiêu diệt. Tuy nhiên, ở các ổ viêm cũng có tác dụng có hại như, các dịch viêm có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con vật.
5.2.7.2. Thực bào
Thực bào cũng là một phản ứng tự vệ của cơ thể. Mét Nhi Cốp người đầu tiên nghiên cứu hệ thống thực bào và đề xướng học thuyết miễn dịch thực bào đã xác định rằng: Khi Vi khuẩn gây bệnh cũng như các vật lạ khác xâm nhập vào cơ thể đều bị bạch cầu chiếm đoạt, tiêu diệt và làm tiêu tan. Mét Nhi Cốp phân biệt hai loại: đại thực bào, tiểu thực bào. Thực bào là một hiện tượng đề kháng tự nhiên, chống nhiễm trùng có tính chất hoàn toàn của tế bào và là yếu tố đề kháng không đặc hiệu của cơ thể. Thực bào cũng là giai đoạn đầu tiên của phản ứng miễn dịch và sự hình thành kháng thể đặc hiệu. Vì sự vây bắt Vi khuẩn là tiền đề cho sự hình thành phản ứng tế bào đặc hiệu của các tế bào nhân và truyền thông tin đến các tế bào có nhiệm vụ tổng hợp kháng thể.
5.2.8. Miễn dịch dịch thể
Miễn dịch dịch thể là phản ứng do các yếu tố dịch thể. Trước hết là các kháng thể hay Gamaglobulin của huyết thanh gây nên. Các kháng thể này phản ứng trực tiếp với chúng có biểu hiện của phản ứng kết tủa. Trong trường hợp khác kháng nguyên có ở bề mặt tế bào, ví dụ: tế bào hồng cầu hay Vi khuẩn thì các tế bào này sẽ bị ngưng kết với huyết thanh mang kháng thể tương ứng.
Sau lần tiếp xúc đầu tiên với kháng nguyên, cơ thể đã có thể phản ứng bằng sự hình thành kháng thể. Nếu cơ thể có dịp tiếp xúc lần hai với kháng nguyên đó, thì đáp ứng lần này sẽ mạnh hơn và lâu hơn lần trước nhiều. Kháng thể sẽ hình thành nhiều và liên tục trong thời gian dài, trong nhiều tháng, nhiều năm. Ở đây, có sự tham gia của trí nhớ miễn dịch, mà chủ yếu là các tế bào Lym phô nhỏ. Trong đó, kháng thể là yếu tố miễn dịch đặc hiệu của dịch thể. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều yếu tố kháng khuẩn không đặc hiệu của dịch thể, trong đó quan trọng là bổ thể và Propecdin. Nó có nhiều trong huyết thanh tươi của máu người và nhiều loài động vật, nhưng có nhiều nhất là chuột lang.
5.2.9. Bổ thể
19
Bổ thể là một phức hợp bao gồm 4 thành phần, C1, C2, C3, C4. Hoạt tính của bổ thể xuất hiện khi kết hợp với kháng thể đặc hiệu, cùng với sự có mặt của các ion Mg++ và Ca++. Do khả năng làm tan một số loài Vi khuẩn và các tế bào nên người ta còn gọi nó là Anfalizyn. Bổ thể có cấu tạo Glubulin và Muxin là một chất không bền bị phá huíy ở 560C trong vòng 30 phút. Ngoài ra còn bị phá huíy dưới ánh sáng tia cực tím, dung dịch Acide và kiềm. Năm 1954, nhà sinh hóa học Mỹ Phicome phát hiện huyết thanh người và động vật có chất diệt khuẩn mới, có bản chất Protein gọi là Propecdin. Bằng con đường nhân tạo, người có thể nâng sức đề kháng này ở động vật, bằng cách đưa vào cơ thể huyết thanh chæïa nhiãöu Propecdin của một con vật khác. Táút caí các chất laìm giaím Propecdin trong maïu nhæ chaíy maïu, choaïng, ung thæ, chiãúu tia phoïng xaû. Âäöng thåìi cuîng laìm giaím sæïc âãö kháng tæû nhiãn của cơ thể đối với bãûnh truyền nhiãùm .
5.3. KHÁNG NGUYÊN VÀ KHÁNG THỂ
5.3.1. Kháng nguyên
Khái niệm chung: Kháng nguyên Angtigen là do viết tắt từ chữ Anticomatogen. Tức là sinh ra kháng thể từ chữ Hy Lạp Anti là kháng lại, coma là cơ thể, genan là sinh ra, là các chất khi đưa vào cơ thể sản sinh kháng thể. Kháng thể kết hợp với kháng nguyên, sinh ra phản ứng miễn dịch đặc hiệu. Trong miễn dịch học, chất được gọi là kháng nguyên, trước hết là các chất lạ (chất khác loài) đối với cơ thể. Khäng phải bất kỳ chất lạ nào cũng là kháng nguyên. Tất cả các Protein của động vật, thực vật, vi sinh vật ở trạng thái keo đều có tính chất khác nhau. Các chất độc thực vật (Abin, Robin, Crotin, Rixin, Curxin). Các chất độc động vật (nọc rắn, nọc ong, nọc nhện), các men, các phân tử và các cơ quan tæì tế bào (nhiễm sắc thể, Riboxom) đều mang tính chất kháng nguyên khá mạnh.
Một số Polisacarit vi sinh vật, các phức hợp Protein với Lipit, Protein với Polisacarit cũng có khả năng kích thích cơ thể để tạo ra kháng thể. Đồng thời các chất trên đây, khi xâm nhập vào cơ thể tự nó cũng đủ gây ra các kháng thể và tạo ra phản ứng miễn dịch, được gọi là kháng nguyên hoàn toàn hay kháng nguyên thực. Một số chất khi đưa vào cơ thể nó không gây kháng thể, nhưng nó có bề mặt đặc biệt, nên có thể kết hợp với kháng thể có sẵn thì được gọi là kháng nguyên không hoàn toàn hay Hapten. Khi Hapten kết hợp với Protein sẽ trở thành kháng nguyên hoàn toàn.
5.3.2. Khả năng sinh miễn dịch của kháng nguyên
5.3.2.1. Vật lý (phân tử lượng)
Nói chung các phân tử lượng có khối lượng thấp (Acide amin, các đường), thường không có khả năng sinh miễn dịch. Trường hợp của đường với phân tử lượng 100.000 không sinh được miễn dịch. Nhưng với phân tử lượng cao hơn 600.000 có khả năng sinh miễn dịch, một số trường hợp của Amin cũng thế. Tuy vậy có ngoại lệ. Glucagon hormol tuíy, phân tử lượng chỉ 3.800.
5.3.2.2. Hóa học
Cấu trúc hóa học không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối, về khả năng sinh miễn dịch của kháng nguyên. Nhưng trong thực tế có các chất hoá học này, có nhiều tính kháng nguyên hơn các chất hoá học kia. Qua thí nghiệm cho thấy: Các Protein hầu hết đều sinh ra miễn dịch, trừ một số ít ví dụ như: Zelatin rất dễ bị phá huíy bởi phân hóa tố. Vì vậy, nếu đưa vào bằng đường tiêu hoïa thì rất dễ mất tác dụng.
Các Lipit nói chung không có tính kháng nguyên. Các Polisacarit tính kháng nguyên không đồng đều mà phụ thuộc vào từng cá thể, ví dụ: Polisacarit của bệnh viêm phổi (Diplococcus pneumoniae) có tính kháng nguyên với người, nhưng không có tính kháng nguyên với thỏ thí nghiệm. Những Polisacarit tự nhiên có tính kháng nguyên như: Dextran (Poliglucoza), các Levan (Pructoza), các Polisacarit của Vi khuẩn, các chất đặc hiệu của nhóm máu. Các Acide nucleic ở dạng nguyên không có tính kháng nguyên. Bằng cách đó người ta có thể chế tạo được một số kháng thể kháng ADN, kháng ARN. Người có thể phát hiện kháng thể, kháng ADN ở người trong một số trường hợp bệnh lý.
Tóm lại, cấu trúc hóa học không quyết định khả năng miễn dịch, nhưng tính cứng rắn và cấu tạo không gian bền vững của phân tử, có ảnh hưởng đến khả năng sinh miễn dịch, bằng cách tăng tính cứng rắn, có nghĩa là tăng tính kháng nguyên.
5.3.2.3. Khả năng ngoại lai
Muốn có được tư cách kháng nguyên trên một cơ thể nhất định, một phân tử phải là ngoại lai đối với cơ thể đó, tức là không được giống với bất cứ một phân tử nào của cơ thể đó. Điều kiện này là hết sức cần thiết cho kháng nguyên. Cũng do định luật này, một cơ thể không bao giờ tổng hợp kháng thể chống lại những thành phần của bản thân nó, trường hợp tự miễn dịch là quá trình không bình thường, do cơ thể có những rối loạn về bệnh lý. Vậy, mỗi cơ thể được đặc trưng
20
bởi những kháng nguyên riêng của mình. Nhưng nếu cùng một loại thì có thể có một số phần tử kháng nguyên giống nhau. Đó là các đồng kháng nguyên. Ngược lại các loài, giống nhau thì rất hiếm, khi có những kháng nguyên giống nhau (dị kháng nguyên).
5.3.2.4. Khả năng về cơ thể
Một kháng nguyên thường không kích thích được mọi cơ thể, với một mức độ đồng đều hệt như nhau, mặc dù chúng thuộc cùng một loài, trong một nhóm người, nhóm gia súc. Thế nào cũng có một số không hình thành kháng thể. Mặc dù kháng nguyên có đầy đủ tư cách sinh miễn dịch. Sự trả lời miễn dịch của từng cơ thể, đối với kích thích của kháng nguyên, phụ thuộc vào sự có mặt trong cơ thể. Một gen đặc biệt gọi là gen phát hiện, có khả năng phát hiện được các kháng nguyên đó. Như vậy, một chất bất luận chất hóa học thế nào. Muốn gây được miễn dịch cho một cơ thể thì phải ngoại lai đối với cơ thể đó. Phân tử của nó phải lớn và đủ cứng rắn, phải có được gen phát hiện ra những đặc điểm của nó.
5.3.3. Tính đặc hiệu của kháng nguyên
Tính đặc hiệu của kháng nguyên là khả năng thúc đẩy cơ thể tổng hợp kháng thể tương ứng, kháng thể tương ứng này chỉ kết hợp với bất cứ kháng nguyên nào khác. Kết quả thực nghiệm cho thấy, bản chất phân tử kháng nguyên không phụ thuộc vào một, hay nhiều điểm nào nhất định ở bề mặt. Mặt chính là vì một vị trí hoặc nhiều vị trí kháng nguyên. Còn gọi cách khác là kiểu cách giống nhau hoặc khác nhau, người ta dùng danh từ đơn giá hoặc đa giá. Klan xtainơ (Karlland steiner) đã tiến hành thí nghiệm nổi tiếng, gắn các hóa chất khác nhau vào một phân tử Protein nhất định vào cho thấy các Acide amin hay nhóm chức phân phối trên bề mặt kháng nguyên. Đã tạo nên nhóm quyết định, cũng chính nhóm này đảm bảo sự liên kết đặc hiệu, giữa kháng nguyên và kháng thể. Như vậy, mỗi kháng nguyên bao gồm một số thành phần.
Chất cao phân tử cơ bản mang tính kháng nguyên. Một hay nhiều nhóm phân tử nhỏ xác định tính đặc hiệu mà chúng gọi là nhóm quyết định. Nếu kháng nguyên chỉ có một nhóm quyết định thì trong cơ thể chỉ xuất hiện một dòng kháng thể, liên kết đặc hiệu về mặt hóa học với nhóm đó. Nhưng nếu kháng nguyên mang nhiều nhóm quyết định khác nhau, thì nói chung có thể sẽ tạo thành các kháng thể khác nhau, tương ứng với từng nhóm quyết định, có bao nhiêu nhóm quyết định, thì có bấy nhiêu loài kháng thể. Một phân tử kháng nguyên, thậm chí không lớn lắm cũng có thể kết hợp với vài phân tử kháng thể. Hóa trị kháng nguyên tương ứng với kháng thể mà kháng nguyên có khả năng kết hợp (Số lượng này là tối đa trong vùng thừa kháng thể và có thể xác định được trong chất kết tủa). Hoïa trị kháng nguyên phụ thuộc vào phân tử lượng của chúng. Chẳng hạn, Ovanbunin với phân tử lượng 40.000 có hóa trị là 5. Tyroglobulin với phân tử lượng 650.000 có hóa trị là 40, Hêmoxiamin với phân tử lượng là 6.500.000 có hóa trị là 75. Tuy nhiên, đối với các Protein có kích thước trung bình thì có hóa trị từ 5 đến 15.
5.3.4. Phân loại kháng nguyên
Căn cứ vào đặc tính vật lý hóa học có thể phân biệt hai loại kháng nguyên:
- Kháng nguyên hoàn toàn hay kháng nguyên thực.
- Kháng nguyên không hoàn toàn hay Hapten.
5.3.4.1. Kháng nguyên hoàn toàn
Kháng nguyên hoàn toàn, đưa đến sự xuất hiện kháng thể trong cơ thể, gây miễn dịch cho con vật. Trong ống nghiệm cùng với kháng thể tương ứng gây ra phản ứng đặc hiệu như: ngưng kết, kết tủa. Kháng nguyên hoàn toàn cấu tạo bằng chất Protit như: Nucleoproteit trong thân Vi khuẩn Nhiệt thán, hợp chất Gluxit, Lipit, Polypeptit kháng nguyên Samonella.
5.3.4.2. Kháng nguyên không hoàn toàn
Kháng nguyên không hoàn toàn, bán kháng nguyên, tự thân không đưa đến sản sinh kháng thể trong cơ thể. Nhưng cũng có thể cùng kháng thể, chỉ bằng cách tiêm toàn bộ vi khuẩn cho con vật, sinh ra phản ứng trong ống nghiệm. Ví dụ: Kháng nguyên thân O của Vi khuẩn Gram + Pneumococcus là chất đa đường. Pholysacarit một mình nó không sản sinh ra kháng thể. Trong thân Vi khuẩn bán kháng nguyên. Trong đó, phân tử đa đường sinh ra phản ứng đặc hiệu, còn phân tử Protein sinh ra kháng thể. Nếu tiêm bán kháng nguyên với chất lòng trắng trứng, thêm chất bổ trợ Protein thì có thể làm cho cơ thể sinh kháng thể. Bây giờ kháng nguyên mới có đặc tính của một kháng nguyên hoàn toàn.
Căn cứ vào sự phân phối kháng nguyên trên thân thể thì thấy tế bào Vi khuẩn có chưa rất nhiều kháng nguyên khác nhau. Trong thân Vi khuẩn có rất nhiều Protein có kháng nguyên, có thể hình thành kháng thể. Nhưng không quan
21
VK
VK
trọng, về phương diện miễn dịch học. Vì kháng thể sản sinh ra không gây miễn dịch trên cơ thể Vi khuẩn. Chỉ có một số kháng nguyên có khả năng gây miễn dịch. Như kháng nguyên bao học bề mặt Vi khuẩn thành một lớp đệm. Đó là kháng nguyên thân hay kháng nguyên O và kháng nguyên bao bọc bề mặt của lông Vi khuẩn di động. Đó là kháng nguyên lông hay kháng nguyên H. Kháng nguyên H
Người ta bắt đầu dùng hai từ O và H để chỉ hai loại kháng nguyên này. Từ thí nghiệm Vay (Weil), Felix (1917) từ canh trùng già có thể phân biệt hai loại khuẩn lạc trên mặt thạch. Một loại thuộc chủng Vi khuẩn di động, có tính di động mạnh, nhanh chóng lan tràn trên mặt thạch, thành màng thành fím liên tục gọi là kháng nguyên H (Hauch). Loại không lan tràn dài, không hình thành màng fím liên tục, khuẩn lạc đứng rieng lẻ cách nhau xa gọi là O (Ohne), có nghĩa là không có fím. Kháng nguyên H không chịu được nóng, bị nhiệt độ 700C và cồn phá hoại, nhưng nó lại đề kháng với Formol. Kháng nguyên O không chịu được nóng, bị diệt ở nhiệt độ 1000C nhưng bị Formol tiêu diệt, nhưng lại có sức đề kháng với cồn. Hai loại kháng nguyên này sinh ra hai loại kháng thể khác nhau. Phải dùng những phương pháp đặc biệt, mới chế riêng từng loài được. Đun nóng 1000C diệt H lấy O. Ngoài ra, còn có kháng nguyên vi, không chịu được nóng bị diệt ở 600C trong 30 phút, hay Acide fenic phá huíy. Muốn có kháng nguyên vi thì cấy vi khuẩn trên thạch, với huyết thanh kháng H để tiêu diệt kháng nguyên H. Kháng nguyên vi là một hợp chất Gluxit, Lipit, Polypeptit có đặc tính kiềm chế sự ngưng kết O. Kháng nguyên Forman (Forman) là kháng nguyên tạp loài, cho nhiều loài vật khác nhau. Ở trong hồng cầu cừu, trong gan chuột lang, trong thận, óc ngựa, chó, dê, gà, mèo, hổ, có đặc tính khi đem tiêm cho thỏ thì hình thành kháng thể dung hồng cầu cừu, Vi khuẩn bệnh kiết lỵ, bệnh Phó thương hàn cũng có. Những loại không có Forman như: người, thỏ, bò mới có thể sản sinh kháng thể tương ứng, sau khi tiêm kháng nguyên này. 5.3.5. Kháng thể 5.3.5.1. Khái niệm chung Kháng thể là những Globulin xuất hiện trong máu động vật. Khi đưa kháng nguyên vào cơ thể. Nó có khả năng liên kết đặc hiệu với các kháng nguyên đã kích thích sinh ra nó. Từ khoảng thế kỷ 19, người ta đã bắt đầu biết rằng, trong huyết thanh của các động vật được miễn dịch, có kháng thể và đã chứng minh được sự xuất hiện các phản ứng kết tủa, ngưng kết, kết hợp bổ thể. Từ 1935, Tiselius đã phân loại Globulin huyết thanh ra ba nhóm: Anpha, Beta và Gamaglobulin và thấy đa số là Gamaglobulin, ông đã tìm thấy ở người có năm loại Globulin miễn dịch: Ig, IgG, IgM, IgA, IgI và IgE. Ig do viết tắt từ chữ (Immunglobulin). Theo quyết định của tổ chức y tế thế giới (OMS) họp ở Pra Ha 1964. Nó khác nhau về hàm lượng trong huyết thanh, về hoạt tính miễn dịch, trọng lượng và cấu trúc phân tử. 5.3.5.2 Caïc Globulin miãøn dëch (IgG) Nếu dùng Pagain cho tác dụng IgG thì có thể làm cho kháng thể mất đi 40% khối lượng phân tử. Tuy nhiên, vẫn không làm cản trở gì tới chức năng kết hợp với kháng nguyên tương ứng. Như vậy, Pagain làm tách rời một mảnh Protein ra khỏi phân tử kháng thể, mảnh này chính là những đoạn Cacboxit cuối của hai chuổi nặng dính liền với nhau bởi một hoặc nhiều cầu Disunfit. Mảnh này được gọi là F (Fragment Cristallisable), có thể kết tinh mảnh F không mang tính chất kháng thể. Phần còn lại có chức năng kháng thể thực sự, tức là chức năng kết hợp với kháng nguyên tương ứng. Phần còn lại những đoạn Amin cuối của hai chuổi nặng cộng với hai chuổi nhẹ, được đặt tên là F(ab)2 (Fragmentantibody) bằng mảnh kháng thể. F(ab)2 có thể tách ra hai mảnh nhỏ: F(ab) giống nhau. Mỗi F(ab) gồm đoạn Amin cuối của chuổi nặng, (còn gọi là fd) cọng với chuổi nhẹ.
Về chức năng kháng thể F(ab)2 là kháng thể nhị giá, tức là còn có khả năng kết tủa kháng nguyên tương ứng. Nhưng F(ab) chỉ còn tính chất một kháng thể đơn giá, tức là kết hợp với kháng nguyên tương ứng. Nhưng không kết tủa được kháng nguyên tương ứng đó. Nếu dùng Pepsin cho tác dụng trên IgG thì có thể làm cho kháng thể mất đi 30% khối lượng phân tử. Các chuỗi nặng bị phá từ đoạn Cácboxin cuối, trở thành nhiều Peptít nhỏ, chỉ còn lại phân tử IgG là mảnh F(ab)2 có chức năng một kháng thể nhị giá F(ab)2 lớn hơn (ab)2 một chút, có thể tách F(ab)2 thành ra hai mảnh nhỏ F(ab)2 giống nhau.
Mỗi mảnh có chức năng kháng thể đơn giá. Hai vị trí kháng thể có cùng một tính đặc hiệu, các cầu di Sunfit nối liền các chuổi nặng và các chuổi nhẹ, không phải là cầu nối duy nhất, giữa các thành phần khác nhau của phân tử. Mà thật ra còn cầu nối Hydro nữa, vì tác nhân khử không bao giờ làm cho phân tử hoàn toàn tan rã. Chuổi nhẹ cấu tạo bởi 214 Acide amin, chuổi nặng 450 Acide amin. Mỗi chuổi có một phần không ổn định.
22
Các Globulin miễn dịch A(IgA) cũng tương tự như trong IgG, ngoài trường hợp có trong huyết thanh, còn có cả trong dịch ngoại tiết, sữa non, nước giãi, dịch tiết đường hầu, dịch tiết đường ruột, nước mắt.
Ngoài ra, IgA còn có một kiểu cách kháng nguyên. Đặc biệt một mảnh phụ gọi là T (Transport) bằng mảnh vận chuyển, bản chất hóa học của nó là Glucopeptit, giúp vận chuyển IgA từ huyết thanh tới dịch ngoại tiết hoặc ngược lại. Nó được tiết ra từ tương bào vào thẳng các dịch ngoại tiết. Tương bào nằm trong các lớp sâu của niêm mạc.
Các Globulin miễn dịch M(IgM) có năm vị trí kháng thể có tính chất đặc hiệu. Mỗi vị trí được sắp xếp trên một cánh của hình sao năm cánh (nhìn qua kính). Các cầu Âisunfit giữ vai trò chủ yếu trong việc nối liền các vị trí kháng thể đó. Vì phân tử IgM rẫt dễ bị tan rã, sau khi cho tác dụng bởi các tác nhân khử. Các Globulin miễn dịch D và E (IgD và IgE) là các kháng thể phản vệ (Reagin).
5.3.5.3. Giả thuyết hình thành kháng thể Có nhiều giả thuyết muốn giải thích cơ chế tổng hợp các Gamaglobulin có thể chia ra: Thuyết thông tin và thuyết chọn lọc. 5.3.5.4. Các giả thuyết thông tin Thuyết khuôn mẫu trực tiếp Haurovit - Paoling (Haurowitz Pauling) kháng nguyên là mô hình (khuôn) cần thiết cho sự tổng hợp Globulin kháng thể tương ứng. Kháng nguyên có tác dụng hướng dẫn quá trình tổng hợp Gamaglobulin rập khuôn theo kiểu cách kháng nguyên (Pauling). Như vậy, trong suốt quá trình tổng hợp kháng thể, bao giờ kháng nguyên cũng phải có thường trực trong tế bào thẩm quyền miễn dịch. Ưu điểm của thuyết khuôn trực tiếp, là giải thích được tính đặc hiệu, tính đa dạng của kháng thể. Nhưng nó vấp phải khó khăn là không giải thích được các hiện tượng dung nạp miễn dịch, không sinh kháng thể chống lại kháng nguyên bản thân. Trí nhớ miễn dịch, tạo nhiều kháng thể khi đưa kháng nguyên lần thứ hai. Tại sao kháng thể vẫn tiếp tục tạo thành khi kháng nguyên đã mất đi. 5.3.5.5. Thuyết mô hình gián tiếp Bơcnet và Fennơ (Burnet - Fenner). Trên cơ sở sữa đổi thuyết trực tiếp của Paoling. Năm 1949 Bơcnét và Fenner đã đưa ra ý kiến. Kháng nguyên là mô hình khuôn, khi vào nhân tế bào có thẩm quyền miễn dịch, sẽ gây nên những biến đổi có tính chất di truyền. Những biến đổi này động chạm đến ADN và gắn chặt với cơ chế di truyền của tế bào. Do đó, quyết định sự hình thành kháng thể mang thông tin và tính chất kháng nguyên. Vì vậy, kháng nguyên không nhất thiết phải luôn luôn có mặt trong các tế bào có thẩm quyền miễn dịch. Đặc tính của sự tào thành Anfaglobulin miễn dịch sẽ truyền lại cho thế hệ con cháu. Điều làm cho người ta băn khoăn là kháng nguyên phải gây nên những biến đổi mức độ ADN, nghĩa là gây đột biến tế bào. Điều này chưa ai nhìn thấy. Hơn nữa, một Protein kháng nguyên, cũng không gây nên những biến đổi trên cấu trúc bền vững của phân tử ADN đến như vậy. 5.3.5.6. Các thuyết chọn lọc Thuyết chọn lọc tự nhiên của Jecnơ. Kháng nguyên không còn là mô hình (khuôn) cần thiết cho sự hình thành kháng thể mà chỉ coi như là một tác nhân kích thích các tế bào có thẩm quyền miễn dịch, nói cho đúng là những Clon của tế bào có thẩm quyền miễn dịch, các Clon này đã được quy định sẵn. Mỗi Clon chỉ có khả năng tiếp nhận sự kích thích của một kháng nguyên (nói cho đúng của một kiểu cách kháng nguyên). Khi kháng nguyên kích thích các Clon đó sẽ được nhân lên gấp bội và tổng hợp ra kháng thể. Những sự kích thích này xáøy ra ở thời kỳ tiền sinh (Thời kỳ phôi thai) thì Clon bị kích thích, sẽ không tiếp tục tồn tại nữa. Do đó, hình thành miễn dịch dung nạp suốt đời đối với kháng nguyên đó.
6. ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH VÀ BIỆN PHÁP GÂY MIỄN DỊCH
6.1. Đáp ứng miễn dịch
Tổ chức khoa học của hạch bạch tuyết có thể thay đổi trong quá trình đáp ứng miễn dịch. Nội dung thay đổi tuỳ cách đáp ứng miễn dịch. Đáp ứng dịch thể, hình thành kháng thể hoàn toàn, đáp ứng tế bào sản xuất các Lympho bao mẫn cảm, giữ vai trò chủ chốt trong các hiện tượng quá mẫn, kiểu chân hoặc bằng cả hai cách. Trước lúc đáp ứng miễn dịch. Hạch bạch huyết gồm một thảm dày đắc các Lympho bào nhỏ ở trạng thái nghỉ. Trong đáp ứng dịch thể: ở chu vi là những cơ cấu hình tròn, tức là các nang Lympho: bao gồm các Lympho bào nhỏ ở giữa màu sáng, các Lympho bào non và các nguyên bào (Blast).
Miễn dịch từ các tế bào này sẽ hình thành các tương bào, các tương bào có chức năng tiết ra kháng thể, nằm rãi rác trong vùng tủy của hạch bạch huyết. Trong đáp ứng tế bào, ở vùng chu vi (vùng cận voí) có một loại Limpho bào nhỏ, đặc biệt trong đáp ứng bằng cả hai cách cùng xáøy ra một lúc. Đại thực bào tham gia vào đáp ứng miễn dịch, bằng cách bắt kháng nguyên từ bên ngoài và truyền thông tin kháng nguyên cho các tế bào Lympho có thẩm quyền miễn dịch.
23
6.2. Hiện tượng tăng mẫn cảm
6.2.1. Tăng mẫn cảm tức thì
Trạng thái mẫn cảm (hoặc phó mẫn cảm) có sẵn trước khi bị nhiễm trùng, do cơ thể trước kia đã tiếp xúc với mầm bệnh này (mẫn cảm) hoặc với một mầm bệnh khác (phó mẫn cảm), triệu chứng xẩy ra ở thời kỳ khởi phát của bệnh thì thường xẩy ra ác tính (tức thì).
6.2.2. Tăng mẫn cảm muộn
6.3. Gây miễn dịch chủ động tiếp thu được
6.3.1. Miễn dịch chủ động tự nhiên
Sau khi cơ thể chiến thắng bệnh tật, bằng sức lực của chính bản thân mình, miễn dịch chủ động tự nhiên, xuất hiện khi cơ thể đã bị nhiều tác nhân gây bệnh. Loại miễn dịch này có thể kéo dài rất lâu, có khi suốt đời. Chẳng hạn, có ai đã từng mắc bệnh đậu mùa, hay sởi thì sẽ không bao giờ lo mắc lại nữa. Ngoài ra, do quá trình tiếp xúc, cơ thể có thể nhiều lần bị nhiễm một lượng nhỏ các tác nhân gây bệnh như: Bạch hầu, ho gà, vv... Nên dần dần cũng được miễn dịch với các bệnh đó, mặc dù chưa bao giờ thấy các triệu chứng của bệnh.
6.3.2. Miễn dịch chủ động nhân tạo
Sau khi đưa Vaccine vào cơ thể, trong huyết thanh sẽ xuất hiện kháng thể đặc hiệu chống lại Vi khuẩn gây bệnh ấy. Đấy là một hình thức tập duyệt, để nếu có thể lại một lần nào đó bị nhiễm chính Vi khuẩn gây bệnh đó thì nó sẽ (nhớ lại), cơ chế miễn dịch. Hiện tượng đó gọi là trí nhớ miễn dịch và nhanh chóng tạo ra một lượng kháng thể khá lớn để tiêu diệt. Mặc dù lần sau Vi khuẩn gây bệnh có sức độc mạnh hơn thế nữa, thì cơ thể cũng sẽ tự tránh được cho mình khỏi bị mắc bệnh, bằng những cơ chế quen thuộc như: chủng Âậu, tiêm phòng Lao, Thương hàn, Bại liệt.
6.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch
Tính miễn dịch thiên nhiên tiếp thu được của cơ thể bị nhiều yếu tố chi phối. Các yếu tố đó có thể là yếu tố bên trong, cũng có thể là yếu tố bên ngoài.
6.3.4. Yếu tố bên trong
Thể chất và loại hình thần kinh. Thể chất là một tổng hợp, các đặc điểm và hình thái sinh lý trong hoạt động sống của cơ thể, làm cho tính phản ứng của cơ thể đối với nhiễm trùng mạnh hay yếu. Loại hình thần kinh quyết định thể chất, con trạng thái mẫn cảm hoặc phó mẫn cảm được hình thành trong quá trình nhiễm trùng, do chính mầm bệnh gây ra (mẫn cảm) hoặc do Vi khuẩn bội nhiễm. Hoặc Vi khuẩn thứ xuất gây ra (phó mẫn cảm). Triệu chứng thường xuất hiện trong quá trình tiến triển của bệnh (mẫn cảm muộn). Kháng nguyên vào lần thứ hai sẽ tác động đến kháng thể cố định bên trong. Hoặc trên mặt của tổ chức mẫn cảm, quá trình này kích thích các tế bào gây rối loạn chức năng, làm tổn thương thực thể ở các tế bào, phá hủy những tế bào này, làm cho nó tiết ra các chất trung gian như: Histamin, Acetylcholine. Những chất này kích thích cơ trơn làm giảm hoặc tăng tính thẩm lậu mao quản, tăng bại tiết dịch thể các tuyến. Những Vi khuẩn này tuy bản thân độc lực yếu, nhưng có thể gây những tổn thương rất nặng trên một cơ thể mẫn cảm. Loại hình thần kinh khác nhau, mạnh hay yếu, thăng bằng hay không thăng bằng, linh hoạt hay lầm lỳ, tạo sức đề kháng cho cơ thể, như khả năng sản xuất kháng thể, khả năng thực bào đều khác nhau. Trên thực nghiệm người ta thấy rằng. Loại có loại hình thần kinh mạnh và thăng bằng, huyết thanh có hiệu giá ngưng kết cao đối với trực trùng lỵ, hơn loại có loại hình thần kinh yếu.
6.3.4.1. Tuổi
Tuổi cũng là một yếu tố quyết định sức đề kháng với bệnh tật. Gia súc non nói chung, sức đề kháng yếu hơn gia súc trưởng thành. Vì ở con non, cơ thể chưa phát triển đầy đủ, loại hình thần kinh chưa hoàn thiện, cơ năng bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng chưa kiện toàn. Các phản ứng ngăn chặn, chống nhiễm trùng con non còn quá yếu. Hoạt động sinh lý có những đặc điểm riêng, làm cho mầm bệnh dễ xâm nhập hơn gia súc trưởng thành.
Qua thí nghiệm, người ta thấy: thỏ non, chó, chuột non cảm thụ với Vi khuẩn bệnh Nhiệt thán, hơn loại trưởng thành. Bệnh Phó thương hàn, bệnh Iả phân trắng thường mắc ở gia súc non. Song, cũng có những bệnh con non được thừa hưởng sự miễn dịch từ mẹ truyền sang hoặc qua sữa đầu, qua bào thai trong thời gian 6 đến 8 tuần sau khi đẻ. Vì vậy, tiêm phòng tốt nhất cho con mẹ, đã giúp cho con non khi ra đời có sức đề kháng tốt. Thông thường, ở con trưởng thành hệ thần kinh và các cơ năng tự vệ đã được phát triển, được kiện toàn. Nên tính phản ứng được tăng cường, sức đề kháng mạnh, ở gia súc già, mọi cơ năng đều hoạt động kém, tính phản ứng, sức đề kháng giảm, bệnh xẩy ra không điển hình nhưng rất trầm trọng.
24
6.3.4.2. Giống
Người ta theo dõi và thấy rằng: tính cảm thụ đối với bệnh của giống cái, kém hơn giống đực. Tuy nhiên, đặc điểm cấu tạo của giống cái và cách sử dụng gia súc cái không hợp lý, là nguyên nhân làm chúng mắc một số bệnh.
6.3.5. Yếu tố bên ngoài
6.3.5.1. Dinh dưỡng
Sức đề kháng phụ thuộc vàp chế độ dinh dưỡng. Râyxle, nhà chuyên môn nổi tiếng về chữa bệnh dinh dưỡng, ông cho rằng: Mức độ cảm thụ của cơ thể đối với nhiều bệnh truyền nhiễm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện dinh dưỡng. Trong khẩu phần thức ăn, nếu thiếu Protide, Lipide, Gluxide, muối khoáng và Vitamin. Thì sẽ làm cho sức đề kháng của cơ thể, tính miễn dịch bị giảm đi rõ rệt. Dinh dưỡng không những về mặt chất, mà về mặt lượng cũng đều rất quan trọng. Ngay cả phương pháp cho ăn đối với gia súc non, việc sæí duûng thức ăn hợp với lứa tuổi cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trường, phát triển bình thường của chúng. Cho ăn thiếu thốn, làm giảm sức đề kháng, nếu gia súc bị đói thì kháng thể hình thành kém.
6.3.5.2. Protide là yếu tố quan trọng
Dự trữ Protide là hàng rào tự vệ của cơ thể, chống nhiễm trùng, vì Globulin là tiền thân của kháng thể, được tổng hợp từ Acide amin. Sự hình thành kháng thể và phản ứng Platmoxit đối với kích thích của kháng nguyên, phụ thuộc vào chất Protide đưa vào cơ thể. Khi đói Protide, cường độ tạo kháng thể giảm, gia súc dễ mắc bệnh viêm phổi, bệnh Phó thương hàn, Sẩy thai truyền nhiễm. Vậy, lượng Protide đầy đủ trong khẩu phần thức ăn thì gia súc có sức đề kháng tốt. Nhưng nếu nhiều quá sẽ làm tăng lượng vi khuẩn đường ruột, làm giảm khả năng tự vệ của đường ruột và sẽ bị phân huíy thành Acide sunfuaric. Sunfuaric trạng thái Acide hoá sẽ làm giảm tính diệt trùng. Đồng thời, Acide thừa kết hợp với Canxi, Photpho làm xương bị hao mòn, dẫn đến còi xương, làm giảm sức đề kháng của cơ thể.
6.3.5.3. Vitamin
Vitamin là những hợp chất hữu cơ. Khi vào cơ thể, chủ yếu theo đường thức ăn. Vitamin không có giá trị nhiệt lượng và xây dựng tế bào tổ chức. Nhưng với một lượng rất nhỏ, nó đóng vai trò kích thích sinh vật trong trao đổi chất, trong tất cả quá trình sống của cơ thể. Nó có tác dụng trong đề phòng bệnh lý (thiếu B1). Tham gia vào quá trình trao đổi chất. Đảm bảo sự hoạt động điều hòa của cơ quan nội tạng, làm cho cơ thể phát triển bình thường, chóng hồi phục sức khoẻ sau khi khỏi bệnh. Thức ăn có đủ Vitamin làm tăng sức đề kháng cho cơ thể đối với nhiễm trùng. Vì vậy, các loại Vitamin A, B, C, D là rất cần thiết cho cơ thể.
- VitaminA
Thiếu VitaminA, cơ thể mệt mỏi, kém ăn, sức bảo vệ niêm mạc bị giảm sút, chất nhầy mất tác dụng diệt trùng. Gia súc non yếu ớt, da khô, lông xù, khả năng động hớn, khả năng rụng trứng, khả năng sản sinh tinh trùng giảm.
- Vitamin B
Vitamin B, làm tăng cường sức chịu đựng của cơ thể đối với nhiễm trùng. Vì nó đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa tế bào, quá trình oxy hóa của cơ thể ảnh hưởng đến chức năng tiết dịch của dạ dày, chức năng tạo máu, hô hấp và trong hoạt động thần kinh.
- Vitamin C
Vitamin C, làm tăng khả năng làm việc, làm hồi phục tế bào nhanh chóng, tăng cường hoạt động thực bào, tăng cường khả năng sản xuất kháng thể và trung hòa độc. Thiếu C, con vật kém sữa, thiếu máu, kém ăn...
- Vitamin D
Vitamin D tham gia vào quá trình trao đổi khoáng, điều chỉnh hấp thu Canxi, Photpho của cơ thể để tạo xương.
- Muối khoáng
Muối khoáng cũng đóng vai trò quan trọng, đối với sức đề kháng và chống đỡ bệnh tật. Thiếu khoáng làm rối loạn quá trình khử độc, rối loạn trao đổi nước, giảm tác dụng bảo vệ áp suất thẩm thấu của tế bào, gây nhiều biến đổi khác, làm giảm sức đề kháng. Muối Canxi, Photpho tham gia vào việc hình thành và phát triển mô xương. Muối Natri và Kali bảo đảm áp suất thẩm thấu trong tế bào và trao đổi nước, vệ sinh gia súc, vệ sinh chuồng trại, thức ăn nước uống, đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm. Ánh sáng mặt trời, tiêu diệt được nhiều loại Vi sinh vật gây bệnh.
6.3.6. Vaccine: (Jenner - 1896)
25
Ông đã chũng đậu một đứa trẻ, bằng mụn đạu của người vắt sữa bị đậu bò và sau đó đưa trẻ không mắc bệnh đậu nữa. Như vậy là ông đã đưa vào cơ thể một loại kháng nguyên, lấy từ Vi sinh vật gây bệnh, đã được bào chế đến mức không còn khả năng gây bệnh hay chỉ gây bệnh nhẹ, không ảnh hưởng đến sức khoẻ, làm cho người, vật được tiêm chủng tự tạo ra miễn dịch và không mắc bệnh khi tái phát.
6.3.6.1. Nguyên tắc sử dụng Vaccine
Vaccine phải được tiêm phòng rộng rãi. Thời gian cần tiêm chủng, tiêm khi dịch chưa xáøy ra. Phải tiêm liên tục và đúng kỳ hạn. Tiêm chủng đúng đối tượng. Các đường đưa Vaccine vào cơ thể: Tiêm dưới da, tiêm trong da, châm nhiều mũi, rạch ngoài da, phương pháp khê dung, nhỏ mắt, mũi, cho uống, trộn vào thức ăn khi dùng.
6.3.6.2. Bảo quản Vaccine
Vacccine là một sinh vật phẩm, dễ bị hỏng và nhiễm khuẩn. Vì vậy, phải bảo quản ở nhiệt độ râm mát (từ 0-100C), không có ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp.
6.3.6.3. Các phản ứng do Vacccine gây ra
Đa số Vaccine được dùng không gây ra tai biến gì nguy hiểm, nhưng cũng có một số Vaccine khi đưa vào cơ thể, gây nên phản ứng một số cơ quan nhất định. B, C, G gây loét nơi tiêm, chủng đậu muộn gây viêm não. Vì vậy, sau khi tiêm cần theo dõi con vật, nếu có tai biến xử lý được kịp thời.
6.3.6.4. Tiêu chuẩn Vaccine
Vaccine phải được an toàn (vô khuẩn: nghĩa là không lẫn tạp khuẩn).
Vaccine phải được thuần khiết (không có lẫn kháng nguyên khác loài)
Vaccine phải không độc.
6.3.6.5. Hiệu lực Vaccine
Thời gian miễn dịch, mức độ miễn dịch tuỳ thuộc từng loài kháng nguyên. Nhưng khi gây bệnh bằng tiêm Vaccine mới sản xuất cho con vật. Sau đó, gây bệnh thực nghiệm, con vật không mắc bệnh là Vaccine đạt tiêu chuẩn. Hoặc lấy huyết thanh của vật đã miễn dịch bằng Vaccine đem tiêm cho con vật khác, rồi gây bệnh thực nghiệm, vật không mắc bệnh là Vaccine miễn dịch tốt.
6.3.7. Các hình thức Vaccine
6.3.7.1. Vaccine chết (vô hoạt)
Vaccine chết, các Vi sinh vật dùng làm Vaccine được nuôi cấy trong môi trường thích hợp, để làm tăng độc lực của các nhân tố lý, hóa học để tiêu diệt vi sinh vật, các vi sinh vật bị chết nhưng vẫn giữ được tính kháng nguyên (Formol - Fenon), nhiệt độ, tia tử ngoại, siêu âm)... bệnh Tu huyết trùng trâu, bò, lợn, bệnh Ung khí thán.
6.3.7.2. Vaccine sống (Vaccine nhược độc)
Vaccine sống, dùng Vi Khuẩn hoặc Virus đã được làm yếu đi đến mức không gây nguy hiểm cho cơ thể, nhưng vẫn miễn dịch tốt, nuôi cấy trong điều kiện bất lợi, Nhiệt thán ở 420C hoặc trong môi trường có thêm CO2, nuôi Vi khuẩn Lao trong môi trường có mặt bò, Vaccine Dịch tả trâu, bò qua thỏ, Dịch tả lợn qua bê. Tiếp đời qua trứng như: Newcastle, Dịch tả vịt, Âáûu gà.
6.3.7.3. Giải độc tố (Anatocine)
Giải độc tố: Dùng độc tố của Vi khuẩn đã được giải độc như: giải độc tố Uốn ván dùng Formol giải độc, trực khuẩn bạch hầu, giải độc tố mất độc tính, nhưng còn tính gây miễn dịch.
6.3.7.4. Vaccine hấp phụ hay Vaccine kháng nguyên
Vaccine hấp phụ hay Vaccine kháng nguyên, dùng kháng nguyên chiết xuất từ Vi khuẩn, đã loại hết tạp chất và hấp phụ trên hoá chất như Anbumin phốt phát. Canxi phốtphat. Loại này gây nhiều bệnh trong cùng một thời gian nhất định.
6.3.7.5. Vaccine đơn giá và Vaccine đa giá
- Vaccine đơn giá: Vaccine là một Vi sinh vật. Do đó, chỉ kích thích cơ thể sinh ra kháng thể chống lại một bệnh.
26
- Vaccine đa giá: Vaccine đa giá là người ta hỗn hợp nhiều loại kháng nguyên khác nhau thành một thứ Vaccine, với điều kiện là các loại kháng nguyên này không ức chế lẫn nhau: Uốn ván, Ho gà, Bạch hầu, Sởi với Ho gà.
- Vaccine chủ yếu là phòng. Nhưng cũng có loại dùng điều trị như Vaccine Dại.
Vaccine Tụ cầu: gồm hai loại tự liệu và trị liệu. Tự liệu là lấy chính Tụ cầu gây bệnh cho người đó để sản xuất Vaccine điều trị cho người đó, Vaccine trị liệu có thể dùng nhiều giống khác nhau.
6.3.7.6. Cách dùng Vaccine
Tất cả Vaccine đều phải qua kiểm dịch, có số kiểm dịch ghi trên nhãn.
Chai có nhãn rõ ràng, ghi rõ cơ quan sản xuất, nơi sản xuất, ngày sản xuất, liều lượng, thời hạn dùng. Thuốc khi dùng không kết tủa, không đóng váng, không hôi thối, khi lắc phải tan đều. Chai dùng phải nguyên vẹn, không có vết rạn nứt, nút chai không hở, không chảy ra ngoài, không dùng thuốc đã mở sẵn, Vaccine phải dùng hết trong ngày, không dùng Vaccine dỡ của ngày hôm trước, khi dùng lắc kỹ cho đều, đặc biệt đối với Vaccine keo phèn và phủ tạng. Khi sử dụng phải sát trùng nút cao su và cổ chai bằng Iode hoặc cồn 700C.
Khi tiêm Vaccine sống, nếu có rơi vãi ra ngoài thì phải sát trùng. Tiêm đúng liều đã ghi trên nhãn, hoặc chỉ dẫn của chuyên môn. Tuyệt đối không dùng liều tuỳ tiện, không tiêm vào mạch máu, kiểm tra gia súc trước khi tiêm, nếu sốt phải điều trị khỏi mới được tiêm. Theo dõi gia súc sau khi tiêm. Có một số Vaccine có phản ứng ví dụ như: Nhiệt thán, khi tiêm xong một lúc vật sốt cao, niêm mạc tụ máu, bỏ ăn không nên điều trị bằng Penicilline, mà dùng các chất trợ tim mạch. Nếu gia súc không bớt thì mới dùng Penicilline.
Sau khi tiêm 10 đến 14 ngày thì có miễn dịch, trừ một vài Vaccine sống nhược độc miễn dịch có sớm hơn. Thời gian miễn dịch dài hay ngắn tuỳ loài Vaccine, tình hình sức khoẻ con vật, vật yếu miễn dịch ngắn.
6.4. Miễn dịch thụ động
Miến dịch thụ động tiếp thu được sau khi cơ thể chiến thắng bệnh tật bằng tác dụng từ bên ngoài đưa vào.
6.4.1. Miễn dịch qua mẹ
Trẻ sơ sinh, gia súc sơ sinh tiếp thu được miễn dịch qua sữa mẹ, thông qua nhau hay sữa đầu, gia súc non nhận được kháng thể từ người mẹ. Do đó, có sức đề kháng với các tác nhân gây bệnh. Miễn dịch này tương đối ngắn, thí dụ trẻ sơ sinh dưới 6 tháng, ít bị Sởi, Âậu mùa hay Bạch hầu. Nhưng sau 6 tháng thì dễ bị nhiễm bệnh, vì tính miễn dịch bị giảm đi, nên dễ bị cảm nhiễm với bệnh.
6.4.2. Huyết thanh miễn dịch
Huyết thanh miễn dịch hay kháng huyết thanh, chứa sẵn kháng thể đặc hiệu, nên khi tiêm vào cơ thể gây miễn dịch thụ động ngay, nhưng không kéo dài 2 đến 3 tuáön. Kháng huyết thanh được bào chế từ những động vật to cùng loài với loại vật cảm thụ bệnh, để tránh phản ứng quá mẫn và để có lượng huyết thanh lớn, người ta thường dùng ngựa để sản xuất. Đưa vào động vật các tác nhân gây bệnh, vi sinh vật hoặc độc tố của nó để gây miễn dịch. Sau khi trong máu động vật, có độ kháng thể cao, người ta lấy máu đó, chắt lấy huyết thanh, loại bỏ Proteine không đặc hiệu.
6.4.3. Đối tượng sử dụng
Huyết thanh chỉ dùng cho những con vật đã nhiễm Vi sinh vật hay nhiễm độc cấp tính, phải đưa ngay kháng thể, để trung hòa tác nhân gây bệnh. Khi dùng huyết thanh thường phối hợp với kháng sinh để tiêu diệt nguồn bệnh. Dùng Vaccine để gây miễn dịch chủ động tiếp theo, nhằm có tác dụng bảo vệ lâu dài và vững chắc.
6.4.4. Liều lượng
Tuỳ theo lứa tuổi, tuỳ theo mức độ của bệnh mà dùng các liều lượng huyết thanh khác nhau. Nhưng tiêm ít lần với liều cao. Huyết thanh được tính bằng đơn vị kháng độc tố UA (Unite antoxique) là lượng kháng độc tố nhỏ nhất, có khả năng trung hòa được một đơn vị độc tố. Phòng ngừa tai biến bằng cách: hỏi xem đã tiêm lần nào chưa. Làm phản ứng thoát mẫn, pha huyết thanh với dung dịch NaCl 0,85%, tiêm 1/10ml vào trong da, chờ 30 phút, không có mẫn đỏ ở chỗ tiêm khi đó mới tiêm cả liều. Nếu có mẫn đỏ mà yêu cầu tiêm thç tiêm dần từ 0,5ml đến 1ml, 2ml cách nhau 2-3 giờ tiêm 1 lần và cứ như thế cho đến hết liều chỉ định. Nhưng phải trợ tim và chống truỵ tim mạch đột ngột.
Bệnh huyết thanh thường xáøy ra khi dùng lần 2, cũng có khi là huyết thanh khác loài. Để tránh được tai biến này, người ta tiêm huyết thanh đã xử lý bằng cách đun nóng ở 560C trong vòng 30 phút. Đồng thời sử dụng huyết thanh đã
27
loại bỏ phần Protide, ổn định bằng các biện pháp trên đây. Có thể làm giảm được độc của huyết thanh, để chữa bệnh huyết thanh có thể dùng Diprazin, Dimedrol và các chất kháng Histamin khác.
6.5. Các phương pháp chẩn đoán miễn dịch
6.5.1. Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học
Phản ứng ngưng kết hoặc phản ứng huyết thanh ngưng kết: phản ứng ngưng kết thường là những bệnh truyền nhiễm cấp tính hoặc mãn tính như bệnh: Brucellosis, bệnh Leptospirosis, bệnh Âóng dấu lợn, thường có nhiều kháng thể trong huyết thanh, bằng cách dùng kháng nguyên tiêu chuẩn đã chế sẵn, cho ngưng kết hồng cầu gà. Trong huyết thanh động vật mắc bệnh truyền nhiễm, đối với kháng thể trong huyết thanh con vật ốm hay dùng máu con vật ốm để làm phản ứng ngăn trở ngưng kết. Lấy huyết thanh bệnh nhân, pha loãng nhiều nồng độ khác nhau, cho mỗi đậm độ một lượng kháng nguyên nhất định (Salmonella) sau đó để tủ ấm 370C trong vòng 18-24 giờ lấy ra đọc kết quả, ghi lại hiệu giá ngưng kết, tức là ghi lại độ pha loãng nhất định của huyết thanh.
6.5.2. Phản ứng kết tủa
Tìm kết tủa tố (Precipitin) trong huyết thanh vật ốm, hoặc thể dính đem tác động đến kháng nguyên, là 1 canh trùng đã lọc trong. Hiện nay, người ta có khuynh hướng làm phản ứng kết tủa khuyếch tán trên thạch để chẩn đoán 1 số bệnh Virus và Vi khuẩn: Âóng dấu lợn, Lao, Dịch tả trâu, bò, lợn. Kháng nguyên có sẵn hoặc là chất lọc cô đặc của canh trùng, dùng kháng nguyên pha loãng thành dung dịch 1% có thêm 9% NaCl. Kháng thể là huyết thanh của con vật ốm cần xét nghiệm, không pha loãng để tủ ấm 370C quan sát hàng ngày, đến ngày 5-8 thì thấy có vòng kết tủa tràõng sáng.
6.5.3. Phản ứng kết hợp bổ thể
6.5.3.1. Chuẩn bị bổ thể
Bordet-Gengou 1961 phản ứng này thường dùng song song với phản ứng ngưng kết gồm 3 bước.
- Bước 1: Chuẩn bị hệ thống dung huyết. Lấy hồng cầu cừu trong bình tam giác có bi, lấy sợi huyết, sau đó chiết ra bình mới, để tủ lạnh 5 ngày. Khi dùng, cho vào ống li tâm, đánh dấu thể tích, li tâm 3 lần. Mỗi lần lấy huyết thanh ra thì cho vào lượng nước sinh lý tương đương. Pha loãng hồng cầu thành dung dịch 5%. Cứ 5ml hồng cầu có nước sinh lý thì thêm vào 95ml nước sinh lý. Dung huyết tố với hiệu giá 1/1500 nghĩa là 1ml dung huyết tố (huyết thanh dung huyết) với 1.500 với dung dịch hồng cầu 5%. Thực tế pha 4 lần, 1ml dung huyết tố pha 375ml (1.500ml/4 dung dịch hồng cầu 5%). Cụ thể là, dung huyết tố 1ml. Hồng cầu 18,75ml, nước muối sinh lý 355,25ml. Trong 375ml dung huyết tố có. Dung huyết tố 1ml, hồng cầu 5% 18,75ml hồng cầu vào trong 355,25 ml nước sinh lý. Lấy 1ml dung huyết tố (đã đun 560C trong 36 phút để diệt bổ thể). Cho vào 100ml nước sinh lý, lấy trong số 355,25 lắc đều, rồi trộn dung dịch hồng cầu để tủ ấm 370C trong 45 phút.
ĐC 9 7 5 6 4 1 8 3 2
0,15 0,10 0,05 0,50 0,40 0,35 0,30 0,25 0,20
0,90 0,95 0,60 0,50 0,65 0,85 0,80 0,70 0,75 Để 370C trong 45 phút 1ml
1ml 1 1 1 1 1 1 1 1 1 - Bước 2: Chuẩn bị bổ thể. Lấy máu chuột lang ở tim, mỗi con lấy 4-5ml để đông trong ống nghiệm, ngoáy xung quanh thành, để huyết thanh tróc ra nhiều, để tủ ấm 370C trong 15 phút, ly tâm lấy huyết thanh trong. Chuẩn độ: Lấy 10 ống nghiệm, 9 ống thi nghiệm và 1 ống đối chứng. Bổ thể pha loãng 1/10 Nước sinh lý Lắc đều Hệ thống dung huyết đà pha 370c trong 45 phút, lắc đều, để tủ ấm 370C trong 15 phút.
Lấy máu chuột lang chế bổ thể, 2 ngày trước khi làm phản ứng nếu muốn để lâu quá một tuần thì cho thêm muối bão hòa vào, cứ 10ml bổ thể cộng 1ml nước muối bão hòa. Bổ thể pha loãng 1/10 (1ml bổ thể + 9 ml nước sinh lý tiến hành theo bảng trên), để tủ ấm 370C trong 45 phút. Cho hệ thống dung huyết đã để tủ ấm 370C trong 45 phút để cảm ứng rồi để 370C trong 15 phút. Đọc kết quả sau 15 phút, thí dụ: nếu từ ống 5 trở đi đều tan hồng cầu, nước có màu đỏ trong, thì lấy lượng bổ thể ở ống có dung huyết cao hơn một bậc (0,30ml bổ thể).
6.5.3.2. Làm phản ứng kết hợp bổ thể
28
Kháng nguyên: Vray pha với nước muối thành dung dịch 1/20 (1 phần kháng nguyên + 19 phần nước muối 8,5%). Kháng thể của súc vật ốm: (không tan trong máu chưa dùng để tủ lạnh, trước khi dùng đun nóng 560C trong 30 phút). Bổ thể pha loãng 1/10 có thể thêm một ống đối chứng kháng nguyên.
6.5.4. Phản ứng trung hòa
Phản ứng tiến hành bằng cách, trộn bệnh phẩm hay Virus cần chẩn đoán với huyết thanh Newcastle để trong tủ ấm vài giờ rồi tiêm cho gà, hay phôi thai trứng gà ấp.
Nếu đúng là Virus Newcastle thì phôi thai gà không mắc bệnh. Như vậy, Virus đã bị huyết thanh tương ứng trung hòa. Miễn dịch một số gà bằng Newcastle rồi tiêm bệnh phẩm cần chẩn đoán cho gà đối chứng. Nếu gà đối chứng mắc bệnh chết, gà thí nghiệm không mắc bệnh, là bệnh phẩm có Virus cùng loài với Virus dùng miễn dịch gà thí nghiệm.
6.5.5. Các phương pháp dị ứng
6.5.5.1. Hiện tượng dị ứng
Hiện tượng dị ứng xuất hiện kháng nguyên dị ứng gọi là dị ứng nguyên (Allergia) xâm nhập vào cơ thể lần thứ hai, làm cho cơ thể phản ứng lại, bằng những triệu chứng cục bộ hay toàn thân, bằng những phản ứng sinh hoá học. Dị ứng nguyên là những chất Abumin lạ của một số Vi khuẩn, gọi là bán kháng nguyên. Một số thuốc và hoá chất như: Penicilline, thực phẩm, trứng, cá, sữa, cua, tôm, bụi, tổ chức cơ thể. Dị ứng đặc hiệu, không đặc hiệu, dị ứng lần đầu khác lần sau gồm: dị ứng cục bộ và dị ứng toàn thân. Phản ứng dị ứng được ứng dụng để chẩn đoán bệnh Lao, bệnh Phó lao, bệnh Tỵ thư, bệnh Sẩy thai truyền nhiễm.
- Chẩn đoán dị ứng: có thể tiêm dưới da, trong da, mi mắt hay nhỏ vào kết mạc mắt.
Đối với bệnh Lao tiếm trong da, đối với bệnh Tỵ thư giỏ mắt.
-Tiêm vào trong da
Kháng nguyên sau 18, 36, 72 giờ có triệu chứng viêm cục bộ, chỗ tiêm sứng, đỏ, có khi ở giữa xuất huyết và hoại tử. Từ khi giỏ mắt 6 đến 12 giờ nước mắt chảy ra, mi mắt đỏ, sưng, thuíy thũng, có mũ bại tiết ra ngoài, viêm kết mạc.
-Tiêm dưới da
Chỗ tiêm sưng và ướt, ngoài ra có phản ứng toàn thân, thân nhiệt lên tới 400C, con vật mệt nhọc. Bệnh giun đũa cũng có thể chẩn đoán dị ứng. Nói chung ở những con vật khoẻ mạnh, không bệnh tật, thì dù tiêm khuẩn tố bao nhiêu cũng không gây phản ứng dị ứng.
Chương 6. BỆNH TRUYỀN NHIỄM CHUNG CHO NHIỀU LOẠI GIA SÚC BỆNH NHIỆT THÁN (Anthrax)
1. Đặc điểm địa dư căn bệnh
Bệnh Nhiệt thán, hay bệnh thán (Febris Carbunculosa) và bệnh truyền nhiễm thường ở thể cấp tính, chung cho nhiều loại gia súc và người. Bệnh do trực khuẩn Bacillus Anthracis gây nên, với đặc điểm sốt cao, tổ chức liên kết thường bị thấm máu và tương dịch, máu đen sẫm, đặc và khó đông, lá lách sưng to mềm nhũn như bùn.
Bệnh có khắp nơi trên thế giới, ở những vùng ẩm, trũng hay bị ngập lũ, bệnh có tính chất địa phương và từng mùa, nóng ẩm mưa nhiều. Nên ở Châu Âu có (vùng Nhiệt thán) và (năm Nhiệt thán).
Châu Á, trước đây bệnh phát ra dữ dội, ở Xibia hàng năm diệt hàng nghìn ngựa, ở Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Úc hàng năm làm chết hơn 300.000 cừu. Ngoài ra, còn Nam Phi, Nam Mỹ.
Trên bán đảo Đông Dương, cả ba nước đều có, riêng ở nước ta thời kỳ Pháp thuộc, bệnh xẩy ra giữ dội. Ở Thái Nguyên 1900, ở Vĩnh Phú, Sơn La, Hải Phòng 1933, Hà Nam Ninh, Hà Bắc, Hải Hưng 1937, Hà Bắc, Quảng Ninh 1951 - 1953, khu tả ngạn Việt Bắc 1954, Hà Sơn Bình 1956 làm chết hàng trăm gia súc và 118 người bị bệnh.
Ngoài ra, ở Huê, Nha Trang, Bạc liêu bệnh xẩy ra vào những năm 1973 - 1974. Ở Tây Bắc, Lạng Sơn, 1978, ở Bắc Cạn, 1983-1984, Châu Quç - Hà Nội 1986, Thái Nguyên 1990, Hà Tĩnh, 1993 bệnh gây chết hàng trăm gia súc và hàng chục người.
2. Mầm bệnh
29
Bệnh Nhiệt thán do Vi khuẩn Bacillus anthracis gây ra còn gọi là trực khuẩn Davaine, 1850 tìm thấy ở trong máu cừu bị bệnh.
2.1. Là trực khuẩn to, có kích thước từ 1-1,5µ x 0,5µ. Là loại hiếm khí, không di động, Gram +, hình thành nha bào và giáp mô. Trong môi trường thạch hay trong cơ thể súc vật ốm, trực khuẩn đứng riêng lẻ, hay tập hợp thành chuổi ngắn, trong môi trường lỏng, tập hợp thành chuổi dài, trực khuẩn hai đầu vuông có giáp mô bao bọc.
2.2. Giáp mô
Giáp mô là lớp vỏ bọc của Vi khuẩn, nó được hình thành trong cơ thể động vật ốm hay trong môi trường huyết thanh đặc. Giáp mô là yếu tố độc lực của Vi khuẩn, nó ngăn trở khả năng thực bào, do chất đa đường Polysacarit luôn toả ra trong môi trường, kết hợp với điều li tố che chở cho Vi khuẩn khỏi bị thực bào. Giáp mô đề kháng với Pepsin và Tripsin. Nhờ vậy mà Vi khuẩn không bị dung giải khi xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá. Giáp mô cũng đề kháng mạnh với sự thối rữa. Điều này quan trọng trong chẩn đoán huyết thanh (Ascoli) kháng nguyên giáp mô tồn tại. Có thể nhuộm giáp mô bằng phương pháp nhuộm Gram hay nhuộm His.
- Phương pháp nhuộm His: gioí lên tiêu bản tìm Giemtian formol 10%. Rửa bằng Sulfate đồng (CuSO4) 10%. Cố định bằng sulfate đồng 20%. kết quả: Giáp mô sẽ bắt màu xanh nhạt, Vi khuẩn bắt màu tím.
2.3. Nha bào
Nha bào do Cok tìm ra năm 1876, nó được hình thành trong cơ thể động vật ốm hay thường thấy trong canh trùng hiếu khí 24 giờ. Điều kiện hình thành nha bào.
Nha bào muốn hình thành được phải có những điều kiện sau.
-Có oxy tự do.
-Có nhiệt độ thích hợp từ 12-420C, thích hợp nhất là 370C.
-Có độ ẩm nhất định, chất dinh dưỡng thiếu, pH trung tính hoặc kiềm nhẹ.
Đó là những điều kiện cần thiết để Vi khuẩn hình thành nha bào.
2.4. Sức đề kháng của Vi khuẩn
Trực khuẩn Nhiệt thán đề kháng yếu với nhiệt. từ 50-550C, bị giết chết sau 15-40 phút. Ở 750C từ 1-2 phút. Dưới ánh sáng mặt trời, Vi khuẩn Nhiệt thán bị diệt từ 10 đến 16 giờ. Các chất sát trùng thông thường giệt Vi khuẩn dễ dàng. Nhưng khi nó đã hình thành nha bào thì nó có sức kháng mạnh và nó bị diệt khi đun sôi ở 1000C trong vòng 10 đến 20 phút. Nếu đem hấp ướt 1200C thì trong vòng 20 phút mới tiêu diệt được nó. Hấp khô 1400C phải mất 3 giờ mới tiêu diệt được nó. Với điều kiện hanh khô, nha bào sống được 28 năm. Hầm sâu nha bào sống được 15 năm, trong nước phân nha bào sống được 15-17 tháng. Nhưng phân ủ nóng sau khi nhiệt độ đã lên tới 72 đến 760C nha bào bị diệt chết trong 4 ngày. Các chất sát trùng pha đặc mới có tác dụng tiêu diệt. Formol 1% phải mất 2 giờ. Biclorua thuỷ ngân 1% mất 2 giờ, Acide fenic 2% mất 2 giờ, väi đặc mất 48 giờ mới tiêu diệt được nha bào.
3. Truyền nhiễm học
3.1. Loài mắc bệnh
Trong tự nhiên, hầu hết các loại động vật đều mắc bệnh kể cả người. Chim hầu như không mắc. Gà mắc bệnh khi ta gây bệnh ngâm chân vào nước lạnh. Tính cảm thụ nhiều ít tuỳ theo loài giống và cá thể vật. Trong thí nghiệm thường gây bệnh cho thỏ, chuột lang, chuột bạch. Sau khi tiêm 12 giờ thì con vật sốt và từ 36 đến 50 giờ con vật chết. Khi mổ xác vật thí nghiệm tháúy chỗ tiêm thuíy thũng, keo nhầy màu hồng, hạch sưng đen mềm nát.
3.2. Chất chứa
Trong cơ thể con vật mang trùng. Con vật ốm do bệnh tìm thấy trong máu và các tổ chức, nhất là: lách, gan, thận, các chất bài tiết qua mũi, mắt, mồm, hậu môn, âm hộ, dịch mật, nước tiểu đều có vi khuẩn, sữa có vi khuẩn trước lúc vật chết. Sau khi chết từ 4 đến 15 ngày còn tìm được mầm bệnh trong tuíy xương. Trong còn bò khỏi bệnh, trong sữa còn mang Vi khuẩn hàng tháng. Trong cơ thể của người bệnh Nhiệt thán, Vi khuẩn nằm sâu trong mụn loét ác tính và các hạch xung quanh mụn.
3.3. Độc lực của Vi khuẩn
Giáp mô, nha bào, độc tố là những yếu tố độc lực của Vi khuẩn:
30
3.3.1. Giáp mô
Giáp mô là yếu tố độc lực của Vi khuẩn. Nếu mất giáp mô thì độc lực của Vi khuẩn giảm. Nhưng ta nuôi Vi khuẩn trong môi trường khí Cacbonic, sẽ làm cho Vi khuẩn mất giáp mô, tạo ra giống Vi khuẩn giảm độc chế Vaccine, ví dụ: Vaccine STI (Sannitary Tunnical Institule).
3.3.2. Nha bào
Nha bào là yếu tố độc lực. Nếu chúng ta làm ngăn trợ sự hình thành nha bào thì độc lực giảm. Với nhiệt độ trên 42,50C, Vi khuẩn không thể hình thành nha bào. Nhưng với nhiệt độ trên 370C, nha bào hình thành rất tốt. Lợi dụng tính chất đó, người ta nuôi cấy nó để chế Vaccine nhược độc nha bào Nhiệt thán.
3.3.3. Độc tố
Độc tố người ta chưa phân ly được, nhưng trong những biến đổi về bệnh lý thì thấy chính là độc tố gây ra.
3.4. Đường xâm nhập của vi khuẩn
Vi khuẩn thường xâm nhập vào cơ thể qua các đường sau:
3.4.1. Đường tiêu hoïa
Sau khi con vật ăn thịt, thức ăn, nước uống, thông qua đường tiêu hoïa
vào cơ thể, nha bào cũng nhân cơ hội đó mà xâm nhập vào cơ thể. Qua hạch hạnh nhân, rồi từ hạch hạnh nhân thông qua niêm mạc, bị tổn thương do ký sinh trùng đường ruột hay do vết thường khi con vật ăn phải những vật nhọn, sắc, cứng làm tổn thương thành ruột, tạo điều kiện cho nha bào dễ dàng xâm nhập vào cơ thể.
3.4.2. Đường da
Vi khuẩn vào cơ thể thông qua da bị tổn thương. Do cơ giới hay côn trùng mang mầm bệnh đốt phải như: ruồi, nhặng hay tiêm phòng không cẩn thận. Trong quá trình thao tác, vô trùng sơ sài, tạo điều kiện cho nha bào xâm nhập vào cơ thể. Năm 1974 ở Sơn Tây, một số người bị bệnh do dùng néo đập lúa bằng da trâu bị bệnh Nhiệt thán mà không biết. năm 1986 ở xã Châu Quì - Huyện Gia Lâm - ngoại thành Hà Nội một số người tắm, rữa, giặt dũ dưới ao ngâm xương động vật bị bệnh Nhiệt thán, tay chân bị xây xát mầm bệnh xâm nhập vào gây bệnh. Trong thí nghiệm, người ta thường gây bệnh dưới da chắc chắn hơn.
3.4.3. Đường hô hấp
Trong quá trình hô hấp, động vật phải bụi chứa nhiều nha bào hay do tiêm vào khí quản chất có lẫn nha bào. Điều này hay xáøy ra đối với người.
3.5. Cách sinh bệnh
Trong tự nhiên, thời kỳ nung bệnh ít ra là ba ngày. Trong thí nghiệm thời kỳ nung bệnh từ 24 đến 42 giờ, nếu tiêm dưới da hoặc tĩnh mạch. Từ 2 đến 3 ngày nếu cho nuốt nhiều nha bào. Sau khi nha bào vào cơ thể. Nó phát triển thành Vi khuẩn. Lúc đầu, Vi khuẩn sinh sản tại chỗ ở lâm ba, gây ổ viêm thuíy thuîng cục bộ. Thuíy thuîng to dần do thẩm xuất Gelatin, xuất huyết gọi là ung sơ phát. Sau đó, Vi khuẩn vào lâm ba sinh sản mạnh. Rồi từ dịch lâm ba vào máu, làm tê liệt khả năng bảo vệ cơ thể, rồi xâm nhập vào các khí quan khác, mà gây bại huyết. Đối với loài vật cảm thụ, Vi khuẩn hình thành giáp mô, tiếp tục sinh sản cho đến khi chết. Về cơ chế tác động của Vi khuẩn đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau.
- Một số tác giả cho rằng, Vi khuẩn vào máu vào các mao quản cùng bạch cầu làm tắc mao quản, gây ra xuất huyết, làm trở ngại cơ năng các cơ quan phủ tạng.
Có các tác giả cho rằng: Vi khuẩn sinh sản nhiều trong cơ thể, chúng dùng hết oxy trong tế bào và máu, gây trạng thái ngạt thở. Có giả thuyết cho rằng, Vi khuẩn gây chết do tác động của độc tố, được người ta chú ý. Vì đã phát hiện ra những chất độc trong canh khuẩn và huyết tương của chuột lang chết vì bệnh Nhiệt thán (Smith, Kppie, Stanley 1955). Độc tố làm tổn thương thành huyết quản. Điều đó giải thích sự thẩm xuất Gelatin ở các tổ chức liên kết và hiện tượng xuất huyết ở các phủ tạng. Acide poligutamic của giáp mô. Mặc dù không độc cũng góp phần vào độc lực của Vi khuẩn vì nó có khả năng chống thực bào.
Hệ thống thần kinh trung ương sơm bị tổn thương, có thể là do độc tố của Vi khuẩn. Vì thế đó cũng là nguyên nhân làm cho con vật bị chết, do bại liệt trung khu hô hấp.
31
3.5. Điều kiện phát sinh
3.5.1. Mùa phát bệnh
Bệnh có thể phát sinh quanh năm. Nhưng thường hay phát vào mùa nóng ẩm, những tháng mưa nhiều (tháng 8, 9, 10) hay cuối xuân, khi có những trận mưa đầu tiên. Những lúc mưa lụt, côn trùng, giun dế từ dưới đất đùn lên mang theo nhiều nha bào. Sau mưa, nha bào đọng lại chỗ trũng, gia súc ăn, uống phải nha bào, vào cơ thể mà phát bệnh. Thêm nữa, đầu hè, khí trời ấm áp, côn trùng, chim muông hoạt động mạnh. Mang mầm bệnh đi, hay đốt vào gia súc. Miền núi, bệnh hay phát vào mùa hanh khô, nhất là ở các vùng thung lũng, các ao tù. Do mùa này hiếm cỏ, gia súc phải gặm sát đất, mang theo cả nha bào vào cơ thể. Hơn nữa, vào mùa khô ở những ao tù, nước cạn thường tập trung nhiều nha bào.
3.5.2. Điều kiện phát sinh và lây lan
Bệnh thường xáøy ra trong những vùng nhất định. Gọi là (vùng Nhiệt thán) do những nguyên nhân sau. Phát hiện và công bố dịch chậm, kiểm soát không nghiêm ngặt, chẩn đoán sai. Nên để mổ thịt, ăn thịt bừa bãi, reo rắc mầm bệnh vào trong tự nhiên. Do xác chết chôn nông, không thiêu xác nên sâu bọ, giun, dế đưa nha bào lên mặt đất. Nước, côn trùng mang mầm bệnh đi. Gia súc mẫn cảm ăn phải nha bào. Do vất bừa bãi các phẩm vật như: da, lông, sừng, móng, xương... chó mèo, chim chóc mang mầm bệnh đi xa. Hoặc ở những vùng Nhiệt thán, không có bãi chôn gia súc Nhiệt thán, lại chôn nông, nên gia súc gặm cỏ vùng đó có thể mắc bệnh. Do không tiêm phòng Vaccine triệt để và đúng phương pháp. Đó là những nguyên nhân làm cho bệnh Nhiệt thán phát sinh nhiều ở miền núi.
4. Triệu chứng
4.1. Trâu, bò
4.1.1. Thể quá cấp hay thể kịch liệt
Bệnh thường xáøy ra đầu ổ dịch. Bệnh xáøy ra bất thình lình, con vật run rẫy, hai bên má hơi sưng, thở hổn hễn, thở gấp, con vật bỏ ăn. Mồ hôi vã ra, các niêm mạc đỏ ửng hoặc tím bầm, vật sốt cao, thân nhiệt từ 40,50C- 42,50C. Nghiến răng, thè lưỡi, đầu gục xuống, mắt đỏ quay cuồng, loạng choạng, đứng không vững, âm hộ, hậu môn chảy máu, con vật chết trong vài giờ. Cũng có trường hợp vật bất thần nhảy xuống ao, đâm vào bụi rậm, đang cày mang cả cày chạy, rống lên một hồi rỗi ngã quỵ xuống, chết rất nhanh.
4.1.2. Thể cấp tính
Vật ủ rũ, dựng lông, tim đập nhanh, tai ve vẩy, mắt nhìn đờ đẫn một chỗ, sốt cao 400C -420C, vật bỏ ăn, giảm hay mất hẵn nhu động ruột, thở nhanh, niêm mạc đỏ thẩm, có thể pha những vết xanh. Phân đen có thể lẫn máu, ở mồm, mũi có lẫn máu, ở hầu, ngực, bụng sưng. Sau khoảng 2 ngày, gia súc chết vì ngạt thở. Có trường hợp vật vất vã, lịm dần bí đái, bí ỉa rồi chết, tỷ lệ chết có thể lên tới 80-90%.
4.1.3. Thể thứ cấp
Bệnh thể này giống thể cấp, nhưng nhẹ hơn. Vật sốt cao, ăn ít hoặc không ăn. Da nóng sưng phát ung trên cơ thể, ung cưng không đau. Sau một thời gian ung vỡ, chảy ra nước màu vàng có lẫn máu, niêm mạc đỏ, thường tạo thành chỗ loét. Con vật nhắm măt buồn bã. Nhu động dạ dày và ruột giảm hoặc mất hẳn, tỷ lệ chết khoảng 50%.
4.1.4. Thể ngoài da
Bệnh thể hiện bằng những ung Nhiệt thán ở cổ, lâm ba cổ, mông, ngực, thậm chí trong trực tràng, trong lưỡi, trong ruột, ở những chỗ đó sưng phù cục bộ. Ban đầu sưng, nóng, đau. Về sau lạnh dần không đau nữa, giữa ung thối, có khi thành mụn loét màu đỏ thẩm, chảy nước vàng. Hạch lâm ba cổ họng sưng to, con vật không kêu được và đưa cổ họng ra đằng trước. Bệnh tiến triển chậm khoảng 5-7 ngày thì khỏi. Cũng có trường hợp ở đầu, cổ, mông nổi ung, ấn vào mềm không có tiếng kêu, chích ra có nước. Thể ngoài Nhiệt thán, thường xáøy ra cuối ổ dịch, ngoài chỗ sưng con vật có vẽ bình thường. Nghĩa là chúng vẫn ăn, nhai lại, lông mượt. Nhưng nếu không can thiệp súc vật có thể chết.
4.2. Bệnh ở ngựa
Bệnh tiến triễn rất nhanh. Ngựa sốt 41-420C đau bụng dữ dội, bí đái, bí ỉa, khó thở, vật đi loạng choạng, mạch nhanh, yếu, máu khó đông, có bọt nhầy. Ngựa toát mồi hôi như tắm, phân, nước đái lẫn máu. Mũi miệng có thể trào máu hay lẫn máu. Ngựa chết rất nhanh, sau khi chết bụng chướng to, lòi rom.
4.3. Bệnh ở lợn
32
Rất ít khi thấy lợn ở thể bại huyết. Đặc điểm rõ nhất là lợn bị sưng hầu, chỗ hầu sưng rất to, có khi lan xuống cả ngực, bụng lên mắt. Lợn khó nuốt, khó thở thậm chí không ăn, không kêu được. Chỗ sưng có thể bùng nhùng, màu đỏ bầm, có khi tím sẫm.
4.4. Bệnh ở người
Người bị bệnh Nhiệt thán, chủ yếu là do ăn phải thịt gia súc bị bệnh Nhiệt thán. Ngoài ra, còn do làm thịt gia súc ốm. Bệnh còn thấy ở công nhân lò mổ, những người bán thịt, cán bộ Thú y... Bệnh tiến triễn theo hai thể:
4.4.1. Thể ngoài da
Sau khi nhiễm trùng từ vài giờ đến 5-6 ngày, chỗ nhiễm trùng đỏ lên, ngứa, khó chịu, phải gãi liên tục. Sau đó, chuyển thành màu đỏ sẫm, rất ngứa, hơi đau, chung quanh phồng lên. Về sau vẩy rụng tạo thành vết loét có bờ, đáy sâu, ướt và đen, xung quanh đỏ sẫm. Sau đó những triệu chứng chung xuất hiện: sốt cao, mệt mỏi, thích nằm, khó thở hay ngạt thở. Hiện tượng thuỷ thũng khá rõ, nhất là ở mặt, nếu không điều trị kịp thời có thể chết.
4.4.2. Thể nội
Thể này ít gặp nhưng rất nguy hiểm, do Vi khuẩn nhiễm vào bộ máy hô hấp, hay tiêu hóa. Người bị bệnh chóng mặt, buồn nôn, tức ngực, ho khan, Trong đờm thường có chứa Vi khuẩn Nhiệt thán. Nếu bị nhiễm theo đường tiêu hóa thì thường buồn nôn, mệt mỏi, kiệt sức, ù tai, đi ỉa chảy, bụng chướng nôn nao, khó thở và chết.
5. Bệnh tích
Bệnh Nhiệt thán sau khi chết, bụng trướng to, xác chóng thối. Do trướng bụng nên xác chết thường bị lòi rom. Hậu môn, phân có lẫn máu, đen, nhớt, khó đông, các niêm mạc đỏ hay tím bầm, mũi có chất lầy nhầy, có máu, vùng hạch hầu thường sưng to. Khi mổ xác, các tổ chức liên kết có vết tụ máu và thấm tương dịch màu vàng. Các băp thịt như chính nhũn, thấm đầy nước vàng, có khi hơi đỏ hoặc hơi đen. Máu đen hơi đặc, sánh có bọt, khó đông hay không đông, có nước hồng. Các hạch lâm ba sưng to, xung huyết nặng thậm chí ứ máu. Phổi tụ máu nặng, nhiều khi có máu hơi đen, lẫn bọt ở khí và phế quản. Tim có hiện tượng tụ máu và xuất huyết rõ ở nội tâm mạc, tim nhảo. Lách sưng to hơn bình thường từ 2 đến 4 lần, màu đen sẩm, mềm nát, nhũn như bùn.
Bóng đái chứa nhiều nước tiểu màu hồng, ruột viêm nặng xuất huyết, có phân nát lẫn máu màu đen. Trong nhiều trường hợp, nhất là thể quá cấp, không thấy bệnh tích điển hình. Chỉ thấy hạch sưng to, còn các tổ chức khác bình thường, người ta gọi là thể kín. Bệnh ở lợn hầu viêm sưng, ở ruột non có những nơi sưng lên thành đám nhỏ hay thành những băng dài.
6. Chẩn đoán bệnh
6.1. Chẩn đoán lâm sàng dịch tể, giải phẩu bệnh
Bệnh Nhiệt thán thường phát ra lể tẻ, có tính chất địa phương, nhất là ở (vùng Nhiệt thán). Bệnh tiến triễn ở trạng thái rất nặng. Chảy máu ở các lỗ tự nhiên hay rớm máu ở lỗ chân lông. Xác chết chóng thối trướng bụng. Lòi rom, máu đen, khó đông, lách sưng to, nát, nhũn như bùn, cần lưu ý những äø dịch cũ. Cần phân biệt với những bệnh sau:
6.2. Chẩn đoán phân biệt
6.2.1. Bệnh Tụ huyết trùng trâu, bò
Bệnh Tụ huyết trùng trâu, bò phát ra lẻ tẻ, sưng hầu, khó thở, máu vẫn đỏ, lách chỉ xung huyết không nát.
6.2.2. Bệnh khí Ung thán
Bệnh Ung khí thán, cũng có ung nhưng ung lành dần, ấn tay có tiếng kêu lạo xạo, có mùi bơ ôi, trâu, bò vẫn ăn đến gần chết mới sốt, ngoài trâu, bò các loại khác ít bị.
6.2.3. Bệnh Lê dạng trùng cấp tính
Bệnh Lê dạng trùng, nước đái màu đỏ như màu cà phê. Niêm mạc vàng, máu loãng và nhợt.
6.2.4. Bệnh rách ruột ở ngựa
Bệnh rách ruột ở ngựa, vật lông lộn, ỉa ra máu, sốt ít, niêm mạc không tím bầm.
6.2.5. Bệnh Tiên mao trùng
Bệnh Tiên mao trùng, vật thiếu máu, đái ra huyết sắc tố, niêm mạc vàng thuíy thũng rõ, bệnh kéo dài.
33
6.2.6 Ngộ độc
Ngộ độc, vật chết nhanh, không sốt, chết lẻ tẻ hay hàng loạt cùng một lúc, bệnh không lây.
Chú ý: Khi cần thiết mới mổ xác,. Vì mổ ra Vi khuẩn dễ hình thành nha bào, làm cho bệnh tồn tại lâu.
6.3. Chẩn đoán Vi khuẩn học
Chẩn đoán Vi khuẩn học, có thể lấy máu hay tổ chức khác để tìm Vi khuẩn: Nếu là máu, tốt nhất là lấy trước lúc vật chết, máu tĩnh mạch tai, tĩnh mạch đuôi, máu chảy ra ở các lỗ tự nhiên. Lấy xương ống nhỏ, máu tai, khúc đuôi, mãnh da. Khi lấy cần đốt kỹ chỗ đã cắt. Bệnh phẩm phải bao gói cẩn thận. Không để dây máu ra ngoài. Lấy một ít phân để tìm nha bào. Khi cần lấy lách, thì sát trùng rồi rạch một đường nhỏ, lấy xong đốt kỹ. Tuyệt đối không được mổ xác.
6.3.1. Kiểm tra kính
Dùng máu, lá lách, thể dịch nhuộm Gram thấy giáp mô (nhưng hay nhầm với trực khuẩn yếm khí).
6.3.2. Bồi dưỡng phân lập trên các môi trường
Nếu bệnh phẩm còn tươi dễ phân lập. Nếu bệnh đã thối, hay chết đã lâu thì khó phân lập, vì Vi khuẩn ít, lẫn nhiều tạp khuẩn. Vì vậy, phải đun 650C trong vòng 30 phút để diệt tạp khuẩn, cấy vào đĩa thạch máu, nước thịt, thạch bán cố thể.
6.3.3. Tiêm truyền động vật thí nghiệm
Nếu bệnh phẩm còn tốt, hoặc canh khuẩn, thì khía da đùi chuột lang, chuột bạch. Nếu bệnh phẩm đã thồi cần khía da lưng dễ bôi. Nếu bệnh phẩm là da lông thì nghiền với nước sinh lý, đun 560C trong vòng 30 phút rồi tiêm dưới da. Chuột lang sẽ chết trong vòng 2 đến 3 ngày, chỗ tiêm sưng, thủy thũng, có chất keo màu hồng giống lòng trắng trứng.
6.4. Chẩn đoán huyết thanh học
Làm phản ứng kết tủa Ascoli. Kháng thể là một huyết thanh chế sẵn (huyết thanh ngựa). Kháng nguyên nước lọc tổ chức cần chẩn đoán (lách, gan, da), chế kháng nguyên. Nghiền nát bệnh phẩm với nước sinh lý, đun cách thủy 45 phút, lọc kỹ. Cho vào ống nghiệm với lượng kháng nguyên và kháng thể bằng nhau. Mỗi thứ từ 0,25 đến 0,5ml. Kháng nguyên trước, kháng thể sau. Nhỏ sát ống nghiệm để kháng nguyên đẩy lên. Đọc kết quả sau 1 đến 15 phút ở nhiệt độ trong phòng. Phản ứng dương tính, khi thấy giữa hai lớp kháng nguyên và kháng thể xuất hiện một vòng kết tủa trắng rõ.
- Chú ý: Da, lông, cỏ khô và thể ngoài da của lợn có khi không cho kết quả, vì kết tủa tố nguyên ít, hay cơ năng bảo vệ cơ thể có sức đề kháng cao.
7. Phòng bệnh
7.1. Vệ sinh phòng bệnh
Nếu Vi khuẩn hình thành nha bào thì sống rất lâu trong tự nhiên. Vì vậy, ngoài nhưng biện pháp phòng bệnh thông thường, cần áp dụng những biện pháp đặc biệt sau đây:
7.1.1. Công bố dịch
Kiểm dịch chặt chẽ, cách ly triệt để, theo dõi những con ốm. Cấm mổ thịt, cấm bán chạy, cấm vận chuyển gia súc qua vùng có dịch.
7.1.2. Tiêu độc
Tiêu độc chuồng trại và xác chết. Đốt hết rơm rạ và các sản vật có liên quan đến con vật ốm. Dùng các chất tiêu độc để tiêu độc và sát trùng. Nước vôi 10-20% Formol 5%; 1-2% NaOH, Crêzon 5%, Amoniac, cồn.
7.1.3. Thực hiện pháp lệnh
Chấp hành triệt để pháp lệnh chống dịch, tuyệt đối không mổ thịt, bán, ăn thịt gia súc có bệnh. Không xuất nhập gia súc.
7.1.4. Phòng cho người
Để phòng bệnh cho người, không có trách nhiệm không vào khu vực có bệnh.
7.1.5. Tiêu độc da
34
Tiêu độc da ngâm 48 giờ trong HCl 2% và NaCl 10%. Lượng dung dịch này gấp 10 lần trọng lượng da, để ở 300C.
7.1.6. Công bố hết dịch
Công bố hết dịch 15 ngày, sau khi con ốm cuối cùng khỏi hoặc chết, vùng có dịch đã được tiêu độc kỹ.
7.2. Phòng bằng Vaccine
Vaccine phòng bệnh Nhiệt thán có rất nhiều loại, nhưng thông dụng là Vaccine nha bào Nhiệt thán hay Vaccine STI (Sanytary Tochnical Institule) tiêm 1ml cho gia súc lớn 0,5ml cho gia súc nhỏ, tiêm dưới da. Trước khi tiêm, kiểm tra nhiệt độ, nếu sốt không tiêm, phải điều trị khỏi rồi mới tiêm. Sau khi tiêm Vaccine, vật sốt nhẹ vài ngày, chỗ tiêm có thể sưng, hiện tượng đó là bình thường. Nhưng nếu sốt nặng thì phải can thiệp bàng kháng sinh hay khánh huyết thanh. Khi dùng Vaccine cần lưu ý: tiêm ở những ổ dịch cũ, những vùng có dịch đe doạ. Sử dụng Vaccine cần phải thận trọng, không rơi vãi, dùng dỡ, thừa phải chôn, không tiêm cho gia súc quá gầy, quá yếu, chưa đầy 1 tháng tuổi, hay cuối kỳ chữa (2 tháng cuối). Lập danh sách tiêm chính xác, theo dõi tai biến, cho gia súc nghỉ 10 ngày sau khi tiêm.
8. Điều trị
Tốt nhất là dùng kháng huyết thanh và Penicillin, ngoài ra có thể dùng các hoá chất khác.
8.1. Kháng huyết thanh
Kháng huyết thanh chế từ ngựa hay bò được tối miễn dịch, kháng huyết thanh phải dùng sớm mới có hiệu lực. Nếu đã phù nã,ö hay chảy máu åí các lỗ tự nhiên thì không nên dùng nữa. Để phòng bệnh, tiêm dưới da 10ml đến 40ml cho gia súc lớn, 10ml đến 20ml cho gia súc nhỏ. Để điều trị, dùng 50ml đến 100ml cho gia súc nhỏ. Gia súc lớn từ 100ml đến 200ml, tiêm chậm và tiêm nhiều chỗ. Trường hợp cấp cứu có thể tiêm tĩnh mạch, nhưng rất ít khi dùng. Sau khi can thiệp 6giờ đến 12giờ chưa có kết quả thì tiêm thêm lần nữa, dùng huyết thanh sớm chữa khỏi 80-90%.
8.2. Penicilline
Nếu bệnh nhẹ có thể tiêm bắp Penicilline, cách nhau 4 đến 6 giờ một lần, ngày 2 đến 3 lần, mỗi lần 1 đến 2 triệu đơn vị, nếu nặng tiêm liều cao hơn. Có thể tiêm thêm Streptomycine để diệt Vi khuẩn kế phát. Kết hợp hộ lý chăm sóc nuôi dưỡng tốt, cần tiêm hỗ trợ các loại thuốc trợ sæïc, trợ lực bằng: Cafeinbenzoat, nước sinh lý, sinh lý ngọt, các loại Vitamin, Novasenonbenzol, Sunfamide, Crezin.
BỆNH UỐN VÁN (Tetanus)
1. Đặc điểm địa dư căn bệnh
Bệnh Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng vết thương, tiến triễn rất nhanh và nguy hiểm gia súc và con người. Đặc điểm bệnh là gia súc bị kích thích phản xạ mạnh, co cứng cơ vân, do ảnh hưởng của ngoại độc tố. Bệnh Uốn ván có từ thời thượng cổ trước công nguyên. Nhưng đến năm 1884, Nicolai mới nghiên cứu kỹ về trực khuẩn Uốn ván.
Nhưng mãi đến năm 1924 Ramon đã tạo ra được giải độc tố, để phòng bệnh Uốn ván. Bằng cách vô hoạt độc tố Uốn ván bằng Formalin. Bệnh Uốn ván có khắp nơi trên thế giới. Nhưng ở nước ta, là vùng nhiệt đới nên bệnh Uốn ván phát triển nhiều hơn. Bệnh thường xẩy ra ở những vùng nhất định, có tính chất lẻ tẻ gọi là (vùng Uốn ván). Trên thế giới, bệnh đã được khống chế nhiều. Nhưng ở nước ta, do khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, điều kiện canh tác còn thô sơ. Vì vậy, bệnh còn gây nhiều thiệt hại cho người, gia súc. Bệnh phát triển nhiều nhất là ở những vùng đồng bằng, vùng trũng, lầy lội.
2. Đặc điểm mầm bệnh
Bệnh Uốn ván do trực khuẩn Closlridimn Tetani gây ra, trong tự nhiên. Trực khuẩn hình thành nha bào, không có giáp mô. Nha bào hình trứng, thường ở một đầu của Vi khuẩn, nên Vi khuẩn có hình dùi trống. Nó là trực khuẩn yếm khí nên dễ nhuộm với các loại thuốc nhuộm thông thường. Trực khuẩn Closlridimn Tetani sinh ra ngoại độc tố rất mạnh gồm. Độc tố dung huyết và độc tố thần kinh. Độc tố được vô hoạt bởi nhiệt độ và hoá chất thành giải độc tố, để phòng Uốn ván.
Trực khuẩn có sức đề kháng yếu ở 1000C sống được 5 phút. Nhưng khi đã hình thành nha bào nó có sức đề kháng mạnh. Nhiệt độ 1500C phải mất 3 giờ mới tiêu diệt được nó. Nha bào sống hơn 10 năm ở chỗ tối. Các chất sát trùng muốn diệt nó phải pha đặc như: Acide phenic 15% phải mất 15 giờ, Formol 3% phải mất 24 giờ mới tiêu diệt được nó. Nhưng khi đã sinh ra ngoại độc tố thì nó có sức đề kháng kém. Dễ bị hoá chất và nhiệt độ tác động, ở 600C độc tố bị phá huíy trong vòng 5-20 phút.
35
3. Truyền nhiễm học
3.1. Loài mắc bệnh
Tất cả các loài vật có vú đều mắc bệnh này, nhưng ở mức độ cảm nhiễm có khác nhau. Mẫn cảm nhất là ngựa, cừu, trâu, bò, lợn. Chó, mèo ít mắc, loài chim hầu như không mắc, trừ khi ta gây bệnh thực nghiệm vào não nó. Trong thí nghiệm người ta dùng chuột lang, chuột bạch, thỏ để gây bệnh thực nghiệm. Trong thực tế, một số điều kiện ngoại cảnh như: khí hậu nóng nực, cảm lạnh, cơ thể yếu, sau ki đẻ, sau khi thiến, sau khi cắt rốn, tiêm, chích, vô trùng không cẩn thận là điều kiện cho mầm bệnh phát triển và gây bệnh.
3.2. Chất chứa Vi khuẩn
Trên con vật bị bệnh, Vi khuẩn được chứa ở vết thương, chất tiết ra ở vết thương và các bộ phận khác như: mũ, nước giải, phân...Trong trường hợp đặc biệt có nhiễm thêm bệnh khác, Vi khuẩn sẽ vào máu và phủ tạng. Vì vậy, trong ruột gia súc có nha bào, được bài ra ngoài theo phân. Cho nên, trong tự nhiên mới có vùng Uốn ván. Ngoài ra, mầm bệnh thường có trong chuồng nuôi gia súc, cống rãnh, vườn, ao, hồ, đầm...
3.3. Đường xâm nhập
Nha bào Uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua vêt thương bị xây xát hoặc qua vết thiến, chỗ phẩu thuật, rốn của gia súc sơ sinh. Cũng có thể qua niêm mạc bị tổn thương, hay bị viêm, bệnh có thể phát ra sau khi đau bụng, chướng håi, viêm ruột, sát nhau, hay tiêm Vaccine thiếu vô trùng thì cũng dễ mang nha bào vào cơ thể.
3.4. Cách sinh bệnh
Nha bào Uốn ván vào cơ thể qua vết thương hoặc qua các đường trên. Từ vết thương vi khuẩn tiết ra độc tố gây bệnh.
Điều kiện hình thành nha bào Uốn ván: Nha bào muốn hình thành được cần 2 điều kiện.
(1) Phải yếm khí.
(2) Không bị thực bào.
Hai điều kiện đó được thực hiện ở vết thương sâu, ở tổ chức dập nát có máu đông, có tạp khuẩn hoặc vết thương hoại tử. Điều đó giúp chúng ta hiểu tại sao ở những vùng nha bào nhiều mà bệnh lại phát ra lẻ tẻ. Việc xử lý vết thương ban đầu, mở rộng, làm hiếu khí vết thương, loại bỏ những tổ chức dập nát, tạo vết thương mới, sát trùng là những việc làm có ý nghĩa phòng bệnh rất lớn. Mầm bệnh tác động bằng độc tố, chủ yếu là độc tố thần kinh. Nhưng tác động ở đầu khi còn nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, tác động vào đầu mút thần kinh bằng cách ngăn cản sự phá huíy Acetincolin.
Lại có ý kiến cho rằng, độc tố tác động, kích thích nơ ron não, tuỷ sống. Các nơron đó bị kích thích, nên có hiện tượng mẫn cảm quá độ, gây co cứng cơ vân. Độc tố tích lũy càng nhiều, sự phá huỷ nơ ron vận động càng tăng. Toàn thân bị co cứng, trung khu hô hấp bị tê liệt. Độc tố theo đường nào đến trung ương thần kinh, trong trường hợp bệnh xuất hiện cục bộ. Người ta cho rằng, độc tố vào đầu dây thần kinh vận động của bắp thịt, rồi theo dây hướng tâm, về thần kinh trung ương.
Một số cho rằng: độc tố theo mạch máu vào lâm ba. Trường hợp bệnh toàn thân xáøy ra ngay từ đầu, có lẽ độc tố theo máu, vào thần kinh trung ương.
Bệnh Uốn ván, Nơron cảm giác không bị phá huíy, vật không rối loạn cảm giác. Cũng không bị rối loạn tâm lý vì não không bị tổn thương. Thời kỳ nung bệnh tuìy theo mức độ mọc mầm của nha bào, thường 1 đến 3 tuần. Trong thí nghiệm gây bệnh ở ngựa từ 5 đến 7 ngày, vài giờ đến 3 ngày tiểu gia súc.
4. Triệu chứng
Bệnh Uốn ván tuy ở cục bộ nhưng triệu chứng thường biểu hiện toàn thân.
4.1. Bệnh ở ngựa
4.1.1. Cơ cứng cơ vân
Bệnh Uốn ván dấu hiệu đầu tiên của việc co cứng cơ vân là mi nháy dãn ra che một phần đồng tử, cổ cứng, hàm cứng, đầu ngữa duỗi ra phía trước, hàm nghiến chặt, tai vễnh, lỗ mũi nở to, khó thở, đuôi cong lên, lưng thẳng, bắp thịt nổi hàòn rõ, bốn chân thẳng cứng ra như khúc gỗ.
36
4.1.2. Phản xạ quá mẫn
Mọi kích thích nhẹ về thính giác, thị giác đều làm cho con vật hốt hoãng, run rẫy, thậm chí co giật ngã ra.
4.1.3. Rối loạn cơ năng
Thời gian đầu vật sốt, khi gần chết nhiệt độ tăng lên 400C -410C, khi chết vài giờ nhiệt độ lên tới 430C -440C, xác nóng, mềm sờ thấy nhũn.
Vậy Marek giải thích: Lúc còn sống, các cơ bị thắt lại, khi gần chết cơ giãn, năng lượng được giải phóng. Mạch nhanh và yếu. Niêm mạc mắt tím bầm, vật khó thở, có triệu chứng khí thũng ở phổi, dần dần vật ăn không được do cứng hàm. Mồ hôi vã ra như tắm, ở con đực thường bị cường dương. Bệnh kéo dài 3-10 ngày, nếu không can thiệp thì chết. Ngựa 80-90% bò có triệu chứng giống ngựa, thường bị chướng hơi.
5. Bệnh tích
Bệnh tích của bệnh uốn ván không có gì đặc biệt, chủ yếu là niêm mạc tím bầm, phổi có bọt, tim có chỗ màu vàng nhạt. Nguyên nhân là do vật bị ngạt thở nằm một chỗ, vật có thể bị ứ huyết não.
6. Chẩn đoán
6.1. Chẩn đoán lâm sàng
Thực tế, khi con vật đã phát bệnh thì chẩn đoán lâm sàng không khó khăn lắm. Chi cần dựa vào 3 đặc điểm: Co cứng cơ vân - Rối loạn cơ năng - Phản xạ quá mẫn. Việc phân lập vết thương có căn bệnh khó khăn. Vì có thể không biết rõ vết thương. Hơn nữa, số lượng không nhiều. Nếu biết chỗ vết thương bệnh xâm nhập (vết thiến, vết phẩu thuật) thì có thể lấy mũ, hay tổ chức hoại tử, nhuộm Gram để tìm Vi khuẩn. Hoặc lấy các tổ chức đó, cấy vào môi trường nước thịt có gan yếm khí hoặc tiêm dưới da lưng, hay đuìi chuột nhắt trắng. Bệnh xuất hiện nhanh, có triệu chứng rõ.
6.2. Chẩn đoán phân biệt
Bệnh Dại: rối loạn về tâm lý, lên cơn điên cuồng, sợ gió, sợ nước, sợ ánh sáng, vật trể hàm nhưng không cứng hàm.
Bệnh Viêm màng não: Con vật biến đổi về cảm giác, tê liệt, vật thường lên cơn co giật chứ không co cứng.
Ngộ độc Stricnin: con vật bị trúng độc, co giật từng cơn, đồng tử mắt bị giãn.
Bệnh Ngộ độc thịt: vật liệt lưỡi, liệt họng, u sầu, nước bọt chảy ra nhiều. Bệnh có thể xáøy ra nhiều con cùng ăn một loại thức ăn.
7. Phòng bệnh
Bệnh Uốn ván có tính chất vùng. Vì vậy, ở vùng có Uốn ván cần đặc biệt chú ý phòng bệnh cho người, gia súc. Hộ lý chu đáo cho gia súc sau khi phẩu thuật. Đối với những con ốm, cần nhốt riêng để theo dõi, cần tiêm 15-30000UI kháng huyết thanh và 1ml giải độc tố sau khi bị thương. Trong vùng có Uốn ván trước khi thiến 1 tháng và sau khi thiến cần tiêm 1ml giải độc tố. Thời gian miễn dịch ở ngựa 3-6 năm, loại khác 1 năm. Làm vệ sinh kyî các ô chuồng, dội nước sôi, hoïa chất NaOH 3% Crezin 4-5%.
Chế giải độc: nuôi cấy vi trùng trong môi trường nước thịt, để thu nhiều độc tố, sau đó diệt vi trùng, lọc trong dung dịch cho 0,2% Formol, để tủ ấm 370C trong 3 tuần.
Cách thử: lấy 10ml tiêm dưới da chuột, sau 3 tuần công cường độc.
8. Điều trị
Mục đích: Ngăn chặn thần kinh không tiếp tục bị trúng độc do ngoại độc tố.
Phá huỷ độc tố đã sản sinh hấp thu vào tế bào. Xử lý vết thương làm hiếu khí bằng cách: làm sạch vết thương sát trùng Iode. Mở rộng vết thương rắc Sulfamit. Tiêm kháng sinh xung quanh vết thương. Dùng cồn 5%, thuốc tím Acide fenic 3-5%, bôi Ichiol, theo dõi và phát hiện lỗ dò.
Phá hủy độc tố, tiêm kháng huyết thanh và giải độc tố Uốn ván, cần can thiệp sơm. Khi tiêm dưới da, một phần ở cạnh vết thương với liều: 80.000UI cho gia súc lớn, 40.000UI cho gia súc bé. Nếu tiêm cấp cứu 15.000 - 20.000UI vào rãnh lưng. Cũng có thể tiêm huyết thanh và giải độc tố nhưng ở hai vị trí khác nhau. Tiêm 1ml giải độc dưới da, 15 phút sau tiêm 80.000ml huyết thanh. Sau đó, tiêm 3 lần giải độc tố nữa, một tuần sau có thể tiêm 80.000UI, 6 tháng sau tiêm lần cuối giải độc tố.
37
Hộ lý: Cho con vật ở nơi yên tĩnh chăm sóc, cho ăn những thức ăn dễ tiêu.
Tiêm Magnesium sulfate 10%, Gluconate magnesium 15% 1 lít vào tĩnh mạch. Sau đó dùng nước đường cho uống. Tiêm 1-1,5 lít nước sinh lý mặn hoặc ngọt vào tĩnh mạch. Ngoài ra, có thể tiêm Acide fenic 3% 50-70ml, Adrenalin hoặc Efedrin làm giãn phế nang cho con vật dễ thở.
B.S Trịnh Ngọc Phan đã chế ra Diazepan viên 5mg - 10mg cho gia súc uống. Nếu dùng tiêm 2ml thì tương đương với 10mg tiêm tĩnh mạch.
BỆNH SẨY THAI TRUYỀN NHIỄM (Brucellosis)
1. Đặc điểm mầm bệnh
Là một bệnh truyền nhiễm mãn tính, của nhiều loại gia súc và người, do Vi khuẩn Brucella gây ra. Mầm bệnh thường gây viêm nhiễm các nội quan, đặc biệt là cơ quan sinh dục. Gây sẫy thai, sát nhau, sỗi bởi vì mầm bệnh gây viêm đường sinh dục. Vi khuẩn Brucella là Vi khuẩn Gram âm, có sức đề kháng cao với kháng sinh gấp mười lần, nó có nhiều tyïpe khác nhau:
Brucella A bortus 9 chủng
Brucella Melitensis 3 chủng
Brucella Suis 4 chủng
Giữa các tyïpe đó giống nhau về hình thái, khác nhau về cấu trúc kháng nguyên. Chủ yếu hiện nay là: các chủng ở trên bò, dê, cừu. Nhiều nhất ở Địa Trung Hải, chủ yếu là ở trên lợn.
Tất cả các chủng nói chung đều đề kháng yếu. Nhưng nó lại tồn tại lâu trong điều kiện lạnh. Mầm tồn tại trên cơ thể gia súc. Đối với con non nó tồn tại không lâu. Ở gia súc trưởng thành cư trú ở tuỷ xương, lách, gan, hạch và không gây triệu chứng gì cả. Đối với những con cái có chửa nó cư trú ở lách, gan, khi có chửa nó ra từ cung và thai. Mầm bệnh luôn luôn được bài xuất ra ngoài nhất là lúc đẻ. Lúc đó trong nước ối, trong bào thai, trong nhau và trong sữa đều có vi khuẩn. 15 ngày sau ki đẻ, hiện tượng bài xuất giảm dần. Vi khuẩn thấm trong đất, trong phân, trong chất độn chuồng. ÅÍ trong tự nhiên người ta phát hiện được 45 loài ve, 42 loài giã thú có xương sống mang mầm bệnh.
1.2. Cách sinh bệnh
Mầm bệnh vào hạch lâm ba rồi vào máu, gây sốt. Đối với những con non không mẫn cảm với bệnh thì bị đẩy ra ngoài theo phân. Con trưởng thành cư trú ở lách, gan, thận. Gia súc có chửa, Vi khuẩn ra ngay tử cung, tấn công vào bào thai. Từ tĩnh mạch rốn đi vào thai làm cho thai bị hoại tử, có trường hợp làm cho thai yếu, bị đẩy ra ngoài. Lúc đó, Vi khuẩn trở lại cư trú ở chỗ cũ chờ cho có thai lần sau tiếp tục phát triển, đồng thời tiếp tục đẩy thai ra ngoài. Liên tục như thế, nhiều lần người ta gọi là Sẩy thai truyền nhiễm. Trong thực tế hiện nay, bệnh này ngày càng giảm dần, do chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trừ tốt, đồng thời con mẹ đã có miễn dịch.
2. Triệu chứng
2.1. Bệnh ở bò cái
Bệnh Sẩy thai truyền nhiễm thể hiện rõ nhất là hiện tượng sẩy thai, mẩy sưng đỏ, chảy nhiều nước nhớt, vú căng, xuất hiện sữa đầu, sụp mông. Thai thường sẩy ra sớm, có khi cả bọc. Nếu sẩy muộn thai vẫn ra, nhưng thường là sát nhau, nước âm hộ đục hơn, có mùi, nhau thai thường khó bóc, nát.
2.2. Bệnh ở bò đực
Bệnh Sẩy thai truyền nhiễm thể hiện ở bò đực: dương vật sưng đỏ, dịch hoàn sưng to, thượng hoàn viêm, con vật sốt, bỏ ăn, thích nằm, sờ vào có phản ứng đau, lúc đầu thì cứng sau teo lại. Tinh dịch giảm, tính đực giảm. Sau đó, xuất hiện triệu chứng viêm khớp, rõ nhất là khớp gối. Cừu cũng vậy, nhưng cừu mệt, uống nước nhiều, không ăn, liệt hai chân, viêm âm hộ.
2.3. Bệnh ở lợn
Sẩy thai truyền nhiễm lợn xuất hiện triệu chứng tả chảy, thủy thũng vú, âm đạo chảy nhiều nước nhớt, con vật kém ăn, bại liệt chân sau, nổi nhọt dưới da. Có trường hợp queì, giai đoạn này con vật thường chết, nếu sẩy muộn có thể sống nhưng yếu ớt.
2.4. Bệnh ở ngựa
38
Sẩy thai truyền nhiễm thường ít khi gặp ở ngựa, con vật không muốn chạy, con vật sốt, viêm túi khớp ở gáy, ở u vai, đầu gối và cổ chân. Có trường hợp to bằng quả bóng, cắt ra có nước, trong đó có nhớt và những hạt như hạt gạo. Nếu để lâu trở thành mũ, vỡ tạo thành lỗ dò, trường hợp này thường xuất hiện ở vai và ở gáy ngựa.
3. Bệnh tích
Sẩy thai truyền nhiễm trên tất cả các con vật đều giống nhau về bệnh tích. Núm nhau hoại từ từng điểm hay toàn phần. Gai thịt dính lại hoặc nát ra, nước ối đục, lẫn mũ, thả vào nước không nổi. Cuống rốn thấm nước nhớt, thai thấm nước nhớt màu hơi vàng. Mổ ra dạ dày và ruột viêm có đám hoại tử nhỏ. Nước dạ dày đục, vàng, lẫn mũ. Gan, lách, hạch bị sưng, có trường hợp hoại tử. Trong tử cung mẹ có nước nhớt lẫn mũ. Vú có hạt hoại tử nhỏ. Con đực có bệnh tích dịch hoàn và tuyến sinh dục phụ, thành ống dày có điểm xuất huyết, có trường hợp thượng hoàn và dịch hoàn có mũ, tổ chức đệm, kẽ tăng sinh, ống sinh tinh bị chèn ép, khi cắt dai. Ngoài ra, còn có bệnh tích ở xương, có nốt hoại tử ở thận, lách của con mẹ.
4. Chẩn đoán
4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Sẩy thai truyền nhiễm trên con vật sống chú ý triệu chứng viêm khớp, sẩy thai nhiều lần, con đẻ ra yếu, viêm dịch hoàn, thượng hoàn, viêm đầu gối.
4.2. Chẩn đoán vi khuẩn học
Bệnh phẩm là bọc thai, phủ tạng (dạ dày, múi khế, phổi), nước âm hộ, sữa, tinh dịch, mũ ở chỗ viêm khớp. Nhuộm bằng phương pháp nhuộm Koster với dung dịch Xaframin dùng ngay khi pha. Dung dịch Xaframin 3% trong nước 3 giọt. KOH 5,6%, 1,5 lít - rửa - tẩy màu 15 giây với dung dịch H2SO4 0,05% trong nước - rửa. Nhuộm 15 giây ở trong xanh Metylen 3% để khô, vi khuẩn bắt màu đỏ trên nền xanh (có khi đa hình thái khó nhận).
4.3. Bồi dương, tiêm truyền động vật thí nghiệm
Lấy bệnh phẩm Sẩy thai truyền nhiễm, cấy vào môi trường nước thịt, gan có 3% Glycerin và 0,5% Gluco hoặc cấy vào thạch đĩa có gan thêm CO2. Cũng có thể cấy lên trứng gà ấp (màng thai hoặc lòng đỏ). Tiêm bệnh phẩm cho chuột lang 6 tuần thì mổ (sau khi tiêm 3-4 tuần, lấy mẫu kiểm tra, hay lấy máu tĩnh mạch cấy vào môi trường thích hợp).
4.4. Chẩn đoán huyết thanh học
Có thể lấy huyết thanh làm các phản ứng sau
4.4.1. Phản ứng ngưng kết nhanh
Ngưng kết nhanh trên phiến kính (kháng nguyên: Huddleson, kháng thể: máu gia súc). Kháng nguyên nhỏ trước lên phiến kính, huyết thanh nhỏ sau tỷ lệ 1/50; 1/100; 1/120; 1/1400 trộn đều, hơ trên ngọn lửa đèn cồn hoặc để tủ ấm 370C. Đọc kết quả sau 2 phút, muộn thì 8 phút, phụ thuộc vào độ mất màu trên phiến kính. Toàn phần (++++),é (+++); d (++). Nồng độ 1/100; 1/120 và mức độ ++ coi là dương tính.
4.4.2. Ngưng kết chậm trong ống nghiệm (Wright)
Sẩy thai truyền nhiễm, huyết thanh lấy dùng ngay, pha hiệu giá 1/25, 1/50/ 1/3200. Kháng nguyên Wright pha 1/10 số lượng huyết thanh và kháng nguyên trong ống nghiệm bằng nhau 0,5ml. Có hai ống đối chứng, để tủ ấm370C trong 24 giờ, để ở độ nhiệt trong phòng độ 1 giờ. Căn cứ vào sự mất màu của phản ứng, mức độ ngưng kết d 2 (++) và độ pha loãng huyết thanh từ 1/200 đến 1/400 thì được coi là dương tính. Nhiều tác giả cho rằng, với bệnh Brucellois nên dùng phản ứng ngưng kết, phản ứng bổ thể kết hợp thường cho kết quả cao. Những bò đã tiêm B19 thì khó kiểm tra.
Người ta không dùng nước sinh lý để pha môi trường mà dùng NaCl 12%. Ngoài ra, còn dùng nước nhờn âm đạo để chẩn đoán, bởi vì dùng huyết thanh không xác nhận được mức độ trầm trọng. Đồng thời, không xác minh được nơi cư trú của mầm bệnh.
Chú ý: khi lấy không để lẫn máu, lấy sau khi sẩy. Cách lấy: dùng ambun đã khử trùng cho vào âm đạo, qua mỏ vịt để 3- 4 phút sau lấy ra làm phản ứng.
4.5. Ngưng kết sữa
Người ta cho 2ml sữa vào ống nghiệm, sữa còn cả bơ, đổ vào 0,1-0,2ml kháng nguyên màu đỏ, lắc lên, để nhiệt độ phòng. Phản ứng dương tính là mở nổi lên màu trắng, rồi chuyển sang đỏ thẩm. Nếu là màu trắng hẳn thì là âm tính.
39
Nguyên lý: trong sữa có kháng thể khi kết hợp với kháng nguyên nó bám vào mở rồi nổi lên trên mặt.
4.6. Chẩn đoán dị ứng
Tiêm cho động vật thí nghiệm 0,2ml kháng nguyên Brucella vào dưới da sau 24 hay 48 giờ kiểm tra kết quả. Kết quả dương tính là chổ tiêm sưng, xung quanh thuỷ thuîng. Nếu là âm tính thì không sưng.
5. Phòng bệnh
Bệnh kín đáo, ít sẩy hoặc khôn sẩy, nếu gia súc đã thu được miễn dịch hoặc mầm bệnh trong tự nhiên, hoang thú, bệnh có tính chất nguồn dịch, thì hiệu quả của thuốc điều trị không đáng kể. Vì vậy, tuỳ theo biện pháp kinh tế mà xử lý. Nhưng nói chung, phòng bệnh là biện pháp quan trọng cho người và gia súc. Vì vậy, phải tự túc giống. Hàng năm kiểm tra bệnh cho người và gia súc, gia súc nhập nội, gia súc nhập ngoại đều phải tiêm phòng. Đối với các sản phẩm như sữa phải tiệt trùng tốt. Phải tiêm phòng Vaccine đối với những cơ sở thường xảy ra bệnh, cách ly những con nghi để chẩn đoán và điều trị.
7. Điều trị
Việc điều trị ít dùng sau khi sẫy mới biết bệnh. Hơn nữa, con lành bệnh còn mang trùng và vi trùng luôn luôn được thải ra ngoài. Nếu đã biết chắc chắn thì nên loại thải. Nêu là điều trị phải tránh tai biến kế phát sau khi sẫy. Tiêm kháng sinh để chống kế phát, thụt rữa âm đạo bằng các loại thuốc sát trùng.
BỆNH XOẮN KHUẨN (Leptospirosis)
1. Đặc điểm mầm bệnh
Bệnh Lepto là một truyền nhiễm chung cho gia súc và người do chủng Leptospirosis gây nên.
Đặc điểm sốt, vàng da, đái ra máu, viêm gan, thận, rối loạn tiêu hoá và sẩy thai. Người ta tính ra sẩy thai vì Lepto cao hơn ở Brucella nhiều. Nhìn trên kính hiển vi nó giống nhau về hình thái, nhưng khác nhau về cấu trúc kháng nguyên. Lepto là những Vi khuẩn có vòng xoắn, có khoảng 20 vòng và 2 đầu có móc, nó bao gồm 12 chủng với 80 Serotype khác nhau. Nhưng nói chung, tất cả đều giống nhau về hình thái, khác nhau về cấu trúc kháng nguyên. Thông thường, một số chủng thích nghi với một loại gia súc nào đó. Vì vậy, nó có sức đề kháng rất mạnh. Khi ở trong tự nhiên có điều kiện thích hợp, nhiều cây cối, thiếu ánh sáng, độ pH thích hợp, trung tính hay kiềm nhẹ, nhiệt độ từ 150C - 370C. Tuy nhiên, cũng có những điều kiện bất lợi như pH chua, mặn, thiếu ánh sáng, đất khô.
Bệnh Lepto có tính chất dịch thiên nhiên, nó có thể sống lâu ngày trong con vật gây bệnh. Nó cư trú trong bể thận của loài chuột 100 ngày, hoặc suốt đời. Ngoài ra, nó có thể tồn tại trong giã thú, trong ve. Nên việc thanh toán Lepto rất khó khăn. Trong nước ta, theo thống kê cho biết, hàng năm bệnh Lepto thường xảy ra vùng phụ cận Hà Nội 40% là Lepto Môma, L.Mitis, L.Cancicona. Đồng bằng Bắc Bộ 27% chủ yếu là loại Lepto Batanie, L.Guyppotyphora. Vùng núi và trung du nhiều nhất là L. Pera. Con đường phổ thông nhất là qua tiêu hoá. Nhưng thông thường nó qua được cả da nguyên lành. Khi Vi khuẩn vào cơ thể nó vào máu gây sốt. Sau đó vào cư trú ở gan, lách hoặc bể thận. Tuy nhiên, trong nước quá bẫn thì hàm lượng Lepto không cao.
2. Triệu chứng
Bệnh ở bò, lợn, dê đều có triệu chứng tương tự. Bệnh Lepto xuất hiện quanh năm, nhưng nhiều nhất là mùa xuân, sau trận lụt, sau đợt vận chuyển hoặc là mùa giáp hạt thiếu thức ăn. Thường xuất hiện nặng ở loại lợn từ 3-6 tháng tuổi. Loại theo mẹ cũng lây, nhưng ít hơn, loại lớn ở dạng mãn tính. Một số bệnh nội khoa, truyền nhiễm khác đều có hiện tượng vàng da hoặc bệnh dinh dưỡng. Bệnh tụ cầu, bệnh E.coli và một số bệnh gây hoàng đản, cũng có chứng vàng da. Vì vậy, cần phải chú ý để phân biệt. Đối với bệnh Lepto thể hiện các triệu chứng sau:
2.1. Thể quá cấp tính
Bệnh Lepto xuất hiện phần nhiều ở gia súc non chết nhanh, máu loãng, da vàng, phù nhẹ. Sự thay đổi về nội quan chưa đáng kể, mầm bệnh thường có nhiều trong máu, thường xảy ra sau đợt vận chuyển hay sau trận lụt.
2.2. Thể cấp tính
Thể này bệnh Lepto xuất hiện rất điển hình vật sốt thất thường (sốt khi Lepto có trong máu). Vật bỏ ăn, phù rõ, bắt không kêu, sờ vào có cảm giác lạnh, phân táo, niêm mạc vàng. Da vàng, có điểm xuất huyết, có nhiều Anbumin, nước
40
tiểu có màu cà phê, sau 3-4 ngày thì con vật chết. Nếu không chết thì chuyển sang thể mãn hay thể ẩn. Bệnh ở bò có trường hợp không biểu hiện gì, nhưng kiểm tra thì thấy dương tính, kiểm tra nước tiểu khi vàng, khi không.
3. Bệnh tích
Bệnh Lepto biểu hiện rất khác nhau, thường là vàng toàn thân, khi lột da tổ chức keo nhầy rõ, thịt khét và hôi, ở xoang bụng chứa nhiều nước vàng, tim phổi nhão, gan vàng, nói chung toàn thân vàng.
4. Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng bệnh tích, mùa phát bệnh mà chẩn đoán Bệnh Lepto. Chẩn đoán Vi khuẩn học chỉ có giá trị lý thuyết, bởi vì khi tìm ra chỉ cho biết Lepto, nhưng không biết loại nào.
Chú ý: khi lấy bệnh phẩm phải cẩn thận không lây sang người. Chẩn đoán huyết thanh học giúp ta chẩn đoán trên con sống, định chủng Lepto, ứng dụng trong việc điều trị và tiêm phòng. Nếu lấy máu thì cần lấy vào buổi sáng. Một số chủng có cấu trúc kháng nguyên gần giống nhau. Vì vậy, cần phải nâng hiệu giá. Nếu chủng nào có hiệu giá cao trên quy định (1/400 của trâu, lợn; 1/800 ở ngựa). Trên một con bệnh có thể 2, 3 chủng Lepto.
Vì vậy, một phản ứng huyết thanh dương tính chưa chắc chắn là con vật bị bệnh.
Hiện nay, có 2 phương pháp vi nguyên kết tan với kháng nguyên sống. Các phương pháp này có ưu điểm là nhanh, chính xác, dể làm, được ứng dụng rộng rãi. Nhược điểm là kháng nguyên bảo quản ở -200C, cứ 15 ngày cấy chuyền 1 lần, 3 tháng cấy chuyền qua thỏ 1 lần. Ngưng kết với kháng nguyên trên phiến kính. Phương pháp này không nhạy và không chính xác. Hiện nay, người ta quy định 1/8 là dương tính.
5. Phòng bệnh
Phòng bệnh Bệnh Lepto tốn kém mà lâu dài. Bởi vì bệnh có tính chất nguồn dịch thiên nhiên. Chuột có vai trò lớn trong nguồn dịch. Vì vậy, cần phải nghiên cứu 3 vấn đề:
(1) Sinh thái loại mang trùng;
(2) Đường truyền lây;
(3) Tính chất loại cảm thụ.
Ngoài ra, còn thêm chất đất, độ pH. Vì vậy, trong công tác giống cần chú ý tự túc giống. Đối với con nghi ngờ, thì phải nuôi riêng, kiểm tra huyết thanh.
Hàng năm, kiểm tra toàn trại 1-2 lần. Tiêm phòng, vệ sinh chuồng trại, kiểm tra Lepto cho công nhân.
6. Điều trị
Nói chung điều trị bệnh Lepto thông thường là tốn kém. Điều trị đi đôi với chăm sóc và nuôi dưỡng. Điều trị bằng kháng huyết thanh đúng chủng gây bệnh thì mới có hiệu quả. Điều trị con mới bị bệnh. Trong điều trị có một tỷ lệ dị ứng, nên cần phải can thiệp bằng Adrenalin với liều 0,5-1ml/kg thể trọng. Dùng kháng sinh: Stretomycine 10.000 - 15.000UI/1kP. Penicillin 20.000UI/1kP, tiêm bắp ngày 3-4 lần, liên tiếp 3-4 ngày. Sau đó, cho nghỉ 3 ngày, nếu không khỏi lại tiếp tục tiêm. Biomycine, Tetracycline 0,01 g/1kgP, Aureomycine cho uống. Ngoài ra, người ta còn dùng Novaciron (914). Ngày thứ nhất dùng 0,9g, ngày thứ 3 dùng 1,8g ngày thứ 5 dùng 2,7g. Cũng có thể dùng Hemosporidin 0,0005g/1kgP, pha thành dung dịch 1% tiêm tĩnh mạch. Dùng các thuốc trợ tim như Caphein benzoat, Gluco, B1, C,...
BỆNH LAO (Tuberculosis)
1. Đặc điểm mầm bệnh
Bệnh Lao là bệnh truyền nhiễm mãn tính của nhiều loại động vật và người, có đặc điểm gây ra trong phủ tạng những hạt viêm đặc biệt gọi là hạt Lao
Do nhiều týpe Vi khuẩn thuộc họ Mycobacterium Tuberculosis gây ra. Các týpe chính là
M.T Humanus ở người
M.T Avium ở chim
41
M.T Muris ở chuột
M.T Piscium ở cá
Tất cả giống nhau về hình thái, còn tính gây bệnh trên các động vật thì khác nhau. Có lẽ là do sự tiến hoá thích nghi lâu đời của nó. Nó có sức đề kháng bởi vì có vỏ bên ngoài chống được cồn và Acide. Dưới ánh sáng mặt trời mất 2 ngày mới chết. Nước sôi 1000C mất 5-10 phút nó mới chết. Trong đờm thiếu ánh sáng nó sống được 6- 7 tháng. Trong phân gà sâu 40cm sau 4 năm vẫn còn độc lực, các hoá chất diệt nó phải pha đặc.
Trên thế giới Lao có nhiều ở gia súc, nhưng ở vùng ôn đối nhiều hơn. Về phương thức chăn thả làm cho bệnh có giảm đi. Trong tự nhiên mẫn cảm nhất là ở người. Sau đó đến bò, gà, lợn. Loại bò mẫn cảm với týpe bò, týpe người, týpe gà. Nếu không được nhiễm tiếp tục thì bệnh đẩy ra. Gà mẫn cảm với týpe gà, týpe bò, týpe người, lợn cả ba týpe nhưng mẫn cảm nhất là týpe người. Bệnh Lao không di truyền, trừ trường hợp lao đường sinh dục.
2. Đường xâm nhập
Thông thường, căn bệnh xâm nhập vào cơ thể theo các con đường sau:
Đường hô hấp, mầm bệnh thường xâm nhập vào đường hô hấp qua mũi do khạc, nhổ hay ở trong bụi, phân bay lơ lững mà gia súc hít phải. Qua đường tiêu hoá, thức ăn, nước uống hoặc bú sữa. Ngoài ra, còn qua núm nhau, qua đường sinh dục.
3. Cách sinh bệnh
Bệnh Lao mới xâm nhập vào gây bệnh tích tại chỗ, các hạch lân cận, sự tác động giữa độc tố với các hạch lân cận. Sự tác động giữa độc tố mầm bệnh vào cơ thể tạo thành các hạt Lao. Thời kỳ phát triển các hạt Lao có khác nhau.
3.2. Thời kỳ hậu nhiễm
Do tái nhiễm hoặc nằm sẵn trong cơ thể mà phát triển lên dẫn đến Lao mãn. Cơ thể nhiễm độc gầy dần và chết.
3.3. Thời kỳ lan rộng
Do cơ thể yếu, mầm bắt đầu lan rộng ra phủ tạng, xuất dính hoặc vỡ các hạt Lao ra, gia súc gầy rõ rệt, mất trạng thái tối cảm.
4. Triệu chứng
Con vật nhiễm bệnh Lao thường là sốt nhẹ, ho kéo dài, sáng giảm, chiều tăng, vật gầy dần, lông dựng, da khô, nhất là những con phải làm việc nhiều, vắt sữa nhiều, biểu hiện các trạng thái sau:
4.1. Lao phổi
Bệnh ở bò thường hay gặp, lúc đầu con vật ho khan, sau ho thành tiếng, ho từng cơn. Khi đuổi chạy hoặc uống nước lạnh vật lại càng ho, con vật gầy sút, lông dựng, da khô, khí ho thường có đờm, mũ. Có khi lẫn máu chảy ra ở mồm và mũi con vật thở khó, dang chân ra thở.
4.2. Lao vuï
Tuìy theo mæïc âäü nhiãùm maì âáöu vuï, nuïm vuï biãún daûng, såì vaìo coï nhæîng haût lao läøm nhäøm, haûch sæng, cæïng, näøi cuûc, sæîa giaím. Nãúu dëch hoaìn bë lao thç sæng cæïng khäng âau.
4.3. Lao hạch
Loại này khá phổ biến nhất là ở hạch phổi. Hạch sưng tạo thành những cục cứng có khi sờ thấy lổm nhổm. Chủ yếu nổi lên dưới hàm, dưới tai, trước vai, hạch vú. Có thể làm con vật què, hoặc rối loạn tiêu hoá nếu là lao ruột.
4.4. Lao đường tiêu hoá
Lao phổ biến là ở ruột có trường hợp ở gan, gia súc ỉa chảy triền miên, gầy dần, chướng håi nhẹ, rối loạn tiêu hoá. Lao ở lợn kín đáo hơn, chủ yếu là lao hạch hàm, con vật khó nuốt, đau, thường là tạo ra lỗ dò. Âối với chó, mèo ít bị hơn, nhưng chủ yếu là lao da, tạo nên các vết loét trên mặt da. Lao phổi chủ yếu là lao xuất hiện ở phổi, vật ho nhiều. Lao gia cầm: con vật gầy, mào tái, kém ăn, gầy dần, cơ ngực bị teo, sản lượng trứng giảm, kiểm tra máu hồng cầu giảm, bạch cầu tăng.
4.5. Lao xæång
42
Lao phổ biến là åí xæång bãûnh têch giäúng nhæ caïc bäü pháûn khác, cuäúi kỳì laìm roì xæång, con vật đau âåïn, chán då lãn haû xuäúng nhæ giaî gaûo.
4.6. Lao âæåìng sinh duûc
Lao phổ biến là åí đường sinh duûc, bãûnh têch cuîng giäúng nhæ caïc bäü pháûn khác, nhưng đối với con âæûc dëch hoàn sæng to, lúc đầu nóng, đau, vãö sau laûnh vaì teo dần.
5. Bệnh tích
Bệnh Lao thường biểu hiện ở 3 loại: hạt Lao, khối tăng sinh, đám viên bã đậu.
5.1. Hạt Lao
Tuỳ theo giai đoạn phát triển mà biểu hiện khác nhau. Các hạt này biểu hiện rõ ở phổi, màng treo ruột và hạch. Lúc đầu nhoí cứng gọi là hạt kê, có giới hạn rõ, khó bóc, màu xám hoặc trắng nhạt, xung quanh hạt tổ chức phổi vẫn hoạt động được. Nếu hạt nhiều, khi ta nắm vào phổi giống như nắm vào bao cát, có tiếng lạo xạo. Các hạt lớn dần bằng hạt đậu, hạt ngô, thoái hoá nhân, biến thành bã đậu. Vàng hay trắng đục gọi là hạt vàng. Có thể bị vỡ ra hay tăng sinh, tổ chức bọc lại gọi là hạt xơ. Hạch bị Lao có thể vỡ hoặc Cazein hoá.
5.2. Khối tăng sinh
Các hạt Lao tăng sinh dần bằng hạt dẻ, lớn dần bằng quả ổi, hạt có chiều hướng bã đậu hoá, canxi hoá.
5.3. Đám viêm bã đậu
Đến giai đoạn sau các hạt vỡ ra, biến tổ chức đó thành bã đậu hay thấm dịch, tuỳ theo mức độ nhiễm, có khi trên một cơ quan nhiễm nhiều loài.
6. Chẩn đoán
Hiệu lực chẩn đoán Lao hiện nay chưa thống nhất, nhưng trong thực tế chẩn đoán dị ứng có giá trị nhất. Bởi vì nó sơ bộ cho kết quả và chỉ có nó mới áp dụng vào sản xuất lớn. Tuy nhiên, chẩn đoán dị ứng thường có sai số. Bởi vậy, sau khi làm chẩn đoán thì phải mổ một số con, nhằm xác định kết quả của phương pháp dị ứng. Sau khi mổ tìm bệnh tích, mầm bệnh. Làm tổ chức học tế bào Lang hay.
Nếu trong ba kết quả dương tính cho phép kết luận. Liều tiêm 0,2ml vào trong da bất kể tuổi. Vị trí cách cổ cánh trước xương bã vai 10cm. Đo độ dày trước khi tiêm tính bằng mm. Sau 72 giờ đọc kết quả. Kết quả dương tính bằng hiệu số tăng độ dày da ở 72 giờ. Nếu lớn hơn hoặc bằng 3,5mm là dương tính. Từ 2,6mm đến 3,4mm nghi ngờ. Nhỏ hơn hoặc bằng 2,5mm là âm tính. Để giảm bớt sai số, người ta dùng tb: ppda tiêm 0,2ml cùng một lúc với p.pdm tăng độ dày 3,5mm và ppdm-ppda lớn hơn hoặc bằng 1mm mới được coi là dương tính.
Giữa Vi khuẩn Lao bò và Vi khuẩn Lao khác, có một số điểm cấu trúc kháng nguyên giống nhau. Bởi vậy, khi tiêm TB mà bò bị bệnh Lao khác vẫn dương tính. Thực tế cho thấy, nếu bò nhiễm Lao khác mà không được bội nhiễm liên tục, thì sau một thời gian vài tháng, Vi khuẩn bị đẩy ra ngoài. Giữa Vi khuẩn Lao gà và Vi khuẩn Lao khác có cấu trúc giống nhau nhiều hơn Lao bò. Bởi vậy người ta dùng Tuberculin gà để phát hiện loại khác. Vì vậy, AM lớn hơn 1mm mới chắc chắn. Nếu nghi ngờ 30 đến 45 ngày sau làm lại.
Chú ý: chẩn đoán TB thường có một tỷ lệ sai số nhất định. Nếu gia súc mất trạng thái thụ cảm, quá gầy yếu thì không có phản ứng. Một số trường hợp giống Lao như: Giun phổi, Sán lá gan cũng có thể cho dương tính. Đối với lợn tiêm vào trong da phía sau cổ tai, nếu sưng phù, giữa cơ vòng thường bị xuất huyết. Đối với gà, tiêm vào tích liều 0,1ml, nếu dương tính chỗ tiêm sưng gấp 2-3 lần tích kia. Ngoài ra, còn chẩn đoán lâm sàng, giải phẩu, Vi khuẩn học và tế bào. Lấy bệnh phẩm cấy môi trường có Venstein và Petraguani, đọc kết quả 7, 14, 30, 45, 60 ngày. Nhuộm Zin - Nen - Xơn. Tiêm chuột lang 21 ngày giết tìm Vi khuẩn. Còn 1 con tiêm PPDM và PPPA theo dõi. Lấy bệnh phẩm bảo quản Formol 10% làm phiến đồ tìm Lang han. Ngoài ra còn nhỏ mắt.
7. Phòng bệnh
Đối với gia súc, việc phòng bệnh và thánh toán bệnh Lao rất công phu, lâu dài. Tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, khả năng kinh tế và chính sách chăn nuôi ở mỗi nước, mỗi vùng, mà mức độ phòng bệnh có khác nhau:
7.1. Phòng bằng vệ sinh và phát hiện bệnh Lao
Trong công tác phòng chống Lao, ở các nông trường, trạm, trại, những nơi nuôi bò nhiều, đối với bò cái, bò đực thường xuyên kiểm tra bệnh mỗi năm hai lần, các loại khác mỗi năm một lần. Tất cả những con dương tính phải loại thải. Nếu
43
phát hiện nhiều thì tiêu diệt cả đàn. Những con nghi ngờ 45 - 60 ngày sau kiểm tra lại. Gia súc mới nhập, nhốt riêng 1 tháng theo dõi kiểm tra bệnh. Nếu mẹ có Lao thì chỉ cho bú sữa đầu 1 ngày, sau đó tách nuôi bộ. Gia súc nhập nội, phải có giấy chứng nhận không có bệnh Lao. Sau khi nhập về phải kiểm tra lại, sữa phải tiệt trùng bằng Pasteur. Kiểm tra để phát hiện Lao ở những động vật khác. Thường xuyên kiểm tra Lao cho công nhân. Tổng tẩy uế vệ sinh chuồng trại như vôi bột 15%, Crêzin 5%, chăm sóc bồi dưỡng gia súc.
7.2. Bằng Vaccine
Dùng Vaccine B C G (Bacterium Calmelte Guerin 1924), chế bằng trực khuẩn Lao bò, trong môi trường khoai tây, thêm Glicerin, cho giảm độc qua mật bò trong 198 đời, Vi khuẩn mất khả năng gây bệnh trở thành Vaccine. Liều dùng 40ml -100ml, tiêm dưới yếm da bê 15 ngày, hiệu lực 1 đến 1,5 năm. Nhưng hiện nay người ta ít dùng, vì nó trở ngại cho công tác chẩn đoán bệnh. 7.3. Điều trị Dùng Streptomycin: Trâu, bò, ngựa 5-10-20mg/kgP/ngày chia 2-3 lần. Chó, mèo 20-40-50mg/kgP/ ngày chia 2-3 lần Gà 30-40mg/kgP chia 2 lần tiêm 4-6 ngày liên tục
BỆNH UNG KHÍ THÁN (Gang eraena Emphy Smatosa)
1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Ung khí thán là một bệnh truyền nhiễm cấp tính của trâu bò. Gây ra do trực khuẩn yếm khí Clostridium chanvoei, thể hiện bằng sưng các bắp thịt có khí, là một bệnh nhiễm khuẩn có độc tố. Bệnh có nhiều nơi trên thế giới, phát ra lẻ tẻ có tính chất địa phương. Song cũng có lưu hành mạnh ở nhiệt đới, chủ yếu vào mùa mưa. Là trực khuẩn yếm khí có nha bào, có hình thẳng to hai đầu tròn, kích thước 0,6 x 2,8µ, Gram dương di động được. Nha bào hình thành ngoài cơ thể và tổ chức của bệnh. Không mọc được trong nước thịt và thạch thường ở điều kiện hiếu khí. Mà nó mọc được trong nước thịt có gan yếm khí. Trâu, bò mắc nhiều, dê cừu mắc ít, gia súc non nhiễm bệnh nhiều hơn gia súc già.
Trong phòng thí nghiệm, người ta dùng chuột lang là loại mẫn cảm. Vi khuẩn có sức kháng cao. Dưới ánh sáng mặt trời nó sống được 24 giờ. Khi đã hình thành nha bào, nó sống được từ 10-18 năm. Trong xác chết Vi khuẩn sống được khoảng 3 tháng.
Nếu đem canh khuẩn đun nóng ở 700C thì phải mất trong vòng 30 phút mới diệt được nó. Nhưng khi đun đến nhiệt độ 1000C thì phải mất 10-15 phút. Khi đã hình thành nha bào thì phải mất 120 phút mới diệt được nó. Các chất sát trùng như Formol 1% thì 15 phút.
2. Truyền nhiễm học
Bệnh không lây trực tiếp từ con ốm sang con khoẻ, mà chủ yếu là nha bào từ xác chết, phân của con vật bị bệnh bài tiết ra ngoài đất, súc vật ăn phải hoặc ăn thịt của con vật bị bệnh. Dã thú, người ăn thịt súc vật ốm là mắc bệnh.
2.1. Cách sinh bệnh
Nha bào vào cơ thể theo thức ăn, nước uống, vào dạ dày hoặc ruột bị tổn thương do ký sinh trùng. Nếu không bị thực bào thì bệnh phát ra. Khi Vi khuẩn vào máu phát triển và sinh bệnh. Vi khuẩn sinh độc tố tác động vào cơ thể, chống lại thực bào. Khi Vi khuẩn vào máu phát triển nhiều, làm cho huyết quản bị tổn thương, rồi từ máu đi vào các bắp thịt, làm sưng lên các khối ung, trong khối ung sản sinh ra nhiều khí. Vì vậy, khi ta ấn vào khối ung có tiếng lạo xạo.
2.2. Điều kiện sinh nha bào
Nha bào hình thành với hai điều kiện.
(1) thiếu không khí (yếm khí),
(2) Được bảo vệ bởi bạch huyết cầu (không bị thực bào).
3. Triệu chứng
Tuỳ theo mức độ nhiễm bệnh mà có các triệu chứng khác nhau, thể hiện qua các thể sau:
3.1. Thể quá cấp
44
Bệnh tiến triển nhanh trong vòng 3-6 giờ, vật chết nhanh, cũng có con sưng mình. Sưng nhiều nơi khác nhau trên cơ thể, khi chúng ta lấy ngón tay ấn vào chỗ sưng thì vết lõm vẫn giữ nguyên trong một thời gian dài và có tiếng kêu lạo xạo. Khi chết bụng chướng to, hậu môn loìi phân ra ngoài.
3.2. Thể cấp tính
Bệnh tiến triển từ 1-3 ngày, có con 24-48 giờ, cũng có trường hợp kéo dài 1 tuần. Thân nhiệt 390C-39,50C, ít khi tăng lên 400C. Thường con vật vẫn ăn uống bình thường cho đến khi chết. Sau một thời gian ngắn, xuất hiện khối ung trên mình. Nhất là ở các bắp thịt, khối ung có thể di chuyển được từ nơi này sang nơi khác, từ trên lưng xuống dưới bụng, từ đùi trước ra đùi sau. Lúc đầu nóng, đau, về sau to dần, bên trong ung sưng nhiều khí. Về sau ít nóng ít đau, sờ vào giữa lạnh, xung quanh da cứng tạo thành vùng thuỷ thũng, bùng nhùng như có nước, màu da thâm tím lại. Có những ung sưng to nứt ra như quả dưa bở, trơng dịch chảy ra thành giọt, thường là trong, nhưng có khi láøn mũ và màu. Sau một thời gian dài thì xẹp xuống, thân nhiệt hạ vật chết sau 2-3 ngày.
4. Bệnh tích
Xác chết chậm thối, mổ xác có mùi bơ ôi. Bệnh tích chủ yếu của bệnh này là khối ung (ở giữa những khối ung thịt thâm tím, đen xám hoặc nâu xám, có khi bị hoại tử như chín, cắt vào sâu sùi bọt và có hơi). Hạch ở những vùng có ung thường sưng to tụ máu, có trường hợp thấm máu và tương dịch. Nếu ở ngực thì thường tim tụ máu, ngoại tâm mạc viêm, có nước màu vàng. Phổi tụ máu và sưng. Nếu ở bụng thì dạ dày và ruột tụ máu. Gan có những vết trắng hoại tử. Mặt sưng, máu màu sẩm nhưng không đen , không có bọt như bệnh Nhiệt thán.
5. Chẩn đoán
5.1. Chẩn đoán lâm sàng
Dựa vào tình hình dịch bệnh, dựa vào triệu chứng, bệnh tích, có ung trên cơ thể, xác có mùi bơ ôi.
5.2. Chẩn đoán phân biệt
5.2.1. Bệnh Tụ huyết trùng
Bệnh Tụ huyết trùng sưng hầu, cổ bị què khó thở, lưỡi thè ra ngoài, ấn tay vào những chỗ sưng trên cơ thể bị lõm xuống, nhưng không có tiếng kêu, thường là thuỷ thũng, cắt ra có nước màu vàng nhạt, lách sưng tụ máu, xuất huyết rõ, viêm ngoại tâm mạc và viêm phúc mạc.
5.2.2. Bệnh Nhiệt thán
Bệnh Nhiệt thán có sưng họng, cổ bụng, chỗ sưng nóng, cứng ấn tay vào không có tiêng kêu lạo xạo, ít thuỷ thũng hơn Tụ huyết trùng, sưng cuống lưỡi. Khi chết các lỗ tự nhiên xuất huyết đen, hậu môn lòi rom, lách sưng nát, phủ tạng tụ máu, lây sang người gây mụn ác tính.
5.3. Chẩn đoán Vi khuẩn
Lấy bệnh phẩm làm tiêu bản bằng cách phét kính nhuộm Gram. Nuôi cấy phân lập trên môi trường nước thịt yếm khí. Thạch VF cấy 24 giờ sinh hơi và nứt thạch. Cấy vào thạch máu có Gluco, Vi khuẩn dung huyết, khuẩn lạc màu trắng tro. Lên men sinh hơi đường Gluco, Saxcaro, Manto, không lên men đường Salicin, sinh H2S.
5.4. Tiêm động vật thí nghiệm
Lấy 0,5 đến 1ml canh khuẩn tiêm vào bắp cho chuột lang, chuột chết sau 24 giờ, chỗ tiêm sưng, ứ máu, thịt thâm đen thuỷ thũng đỏ sẩm lan tràn.
5.5. Chẩn đoán huyết thanh học
Làm phản ứng ngưng kết nhanh trên phiến kính. Kháng thể là huyết thanh chuột lang miễn dịch cao độ, bằng cách tiêm Vi khuẩn chết có 5% Formol 1 đến 2ml. Kháng nguyên là canh khuẩn nước thịt yếm khí 48 đến 72 giờ, hoặc máu súc vật ốm chắt lấy huyết thanh.
6. Phòng trị
6.1. Vệ sinh phòng bệnh
Cách ly gia súc, tiêu độc tiêm phòng Vaccine. Thành lập ban chống dịch, công bố dịch, tìm biện pháp dập tắt dịch, công bố hết dịch sau khi đã làm đầy đủ thủ tục phòng, chống dịch, thì công bố hết dịch sau 14 ngày con vật ốm cuối cùng khỏi, hoặc chết.
45
6.2. Điều trị
Dùng huyết thanh trị bệnh Ung khí thán chế từ bò, hay ngựa, liều dùng: lần đầu n thứ hai (12 giờ sau) 25-50ml và một lần thứ 3 nữa. Cả 3 lần tiêm 150-200ml. Penicilline 400.000 - 500.000UI, cứ 4 đến 6 giờ tiêm 1 lần, ngày tiêm 3 lần, liều trung bình có thể dùng 10.000 UI/1kgP. Huyết thanh kết hợp Penicilline. Tiêm 150-200ml huyết thanh + 1-2 triệu đơn vị Penicilline (mỗi lần 20 đơn vị cách nhau 4-6 giờ một lần). Tiêm tĩnh mạch Oreomycine 10mg/1kgP mỗi ngày. Chữa triệu chứng dùng Urotrofin 40% ngày 4-10gam, 2-3 ngày liền.
Hoá chất sát trùng Acide fenic 5%, thuốc tím 3-5%, Lizon 5%.
BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG (Pasteurellosis).
1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Tụ huyết trùng là một bệnh truyền nhiễm, gây ra do trực khuẩn Pasteurellosis thể hiện triệu chứng tụ huyết, xuất huyết ở những vùng đặc biệt trên cơ thể, sau cùng xâm nhập vào máu, gây bại huyết toàn thân:
1.1. Dịch tể học
Ở trên thế giới, bệnh có từ lâu, khắp nơi. Riêng ở nước ta, bệnh thường phát ra lẻ tẻ, hoặc thành địch địa phương, phát sinh có mùa rõ rệt. Bắt đầu từ mùa mưa đến hết tháng 7, 8, 9. Đặc biệt ở những vùng ẩm thấp, nước đọng lầy lội hay bị ngập lụt, dễ gây thành dịch địa phương. Trâu, bò thường mắc, đặc biệt là bò. Bệnh lây sang lợn, ngựa, người.
1.2. Đường xâm nhập
Mầm bệnh xâm nhập vào đường tiêu hoá là chính, qua thức ăn nước uống. Vi khuẩn vào cơ thể. Sự xâm nhập của Vi khuẩn càng dễ dàng hơn, nếu niêm mạc tiêu hoá có vết thương, viêm ruột có mụn loét của bệnh dịch tả, vết cắn của ký sinh trùng hay thức ăn cứng làm xáy xát niêm mạc. Cũng có thể Vi khuẩn qua đường hô hấp.
1.3. Cách sinh bệnh
Vi khuẩn thông thường sống cộng sinh trên niêm mạc đường hô hấp của động vật, nhưng không gây nên bệnh. Khi sức đề kháng yếu, do cơ thể giảm sút, ăn uống không vệ sinh, vận chuyển, lao động quá sức, hay trực tiếp với thịt, sữa, phân con vật, chết, hay qua chó mèo, gà, chim, loài ăn thịt mang tới. Vi trùng vào lâm ba, rồi từ lâm ba vào máu gây xuất huyết, bại huyết.
2. Triệu chứng
2.1. Thể quá cấp tính
Vật có triệu chứng thần kinh, con vật trở nên dữ tợn, điên cuồng, đập đầu vào tường (có thể chết trong 24 giờ) hoặc co giật, run rẩy của triệu chứng thần kinh, ngã chết, hoặc đang ăn uống bình thường chạy điên cuồng, rồi dừng lại chết.
2.2. Thể cấp tính
Thời kỳ mang bện ngắn từ 1-3 ngày, vật không ăn, mệt lã, không cử động, không đi lại. Thân nhiệt 40-420C, niêm mạc mắt đỏ, chảy nước mắt, nước mũi.
Bệnh cư trú ở vùng ngực: phổi tụ máu, viêm màng phổi. Viêm ngoại tâm, maûc có nước vàng, vật ho khán, ho nhỏ, ho từng cơn, nước mũi chảy ra đặc có khi lẫn mũ.
Bệnh cư trú ở vùng bụng: Thường viêm ruột cấp tính, lúc đầu đi táo, sau đi tháo, có máu. Viêm phúc mạc có nước vàng, bụng chướng to. Bệnh cư trú ở hạch lâm ba. Viêm hạch thuỷ thũng, hạch bị sưng to, chổ sưng nóng đau, ấn tay có vết lõm. Ngoài ra, con vật bị sưng hầu, sưng hàm, nuốt khó. Viêm phổi, dẫn đến ngạt thở. Đặc biệt vùng hầu sưng, cuống lưỡi sưng to, lưỡi thè ra ngoài miệng. Khi vật gần chết, tim ngừng đập, ngạt thở, niêm mạc có chấm xuất huyết. Con vật đi kiết lỵ hoặc đái ra máu. Nếu chuyển sang bại huyết thì chết trong 24 giờ, bò 5-10% trâu, dê 90-95%.
2.3. Thể mãn tính
Bệnh kéo dài, xuất hiện những biểu hiện mãn tính, ở ruột, phổi và cuống phổi, có khi cả ngoại tâm mạc. Thường tiếp theo thể cấp hoặc ghép bệnh dịch tả. Bệnh tiến triễn vài tuần và kết thúc bằng cách con vật khỏi, các triệu chứng nhẹ dần, con vật có thể tự ăn uống bình thường hoặc chết.
3. Bệnh tích
46
3.2. Bệnh tích chung
Bệnh Tụ huyết trùng nói chung có hiện tượng tụ huyết, xuất huyết ở tổ chức liên kết dæåïi da lấm tấm xuất huyết. Bắp thịt và thịt ướt thấm nước. Hạch viêm, lâm ba quản và hạch tiết ra nhiều nước, làm cho thịt ướt và có thủy thũng, thận, gan viêm.
3.2. Bệnh tích đặc biệt
Có thuỷ thũng xung quanh vùng hạch lâm ba rất rõ, có khi 1/2 cơ thể, cắt ra có nhiều nước màu vàng hay xanh nhạt. Thuỷ thũng vùng ngực có nước màu vàng, có khi đông lại ở màng phổi. Phổi lấm tấm xuất huyết có thể dính với sườn hoặc cơ hoàn cách. Phổi viêm nhất là phần trước. Viêm ngoại tâm mạc có nước, viêm tim có xuất huyết ở phủ tạng, hạch ruột.
4. Chẩn đoán
4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Dựa vào triệu chứng, bệnh tích để chẩn đoán, dựa vào tình hình dịch tể.
4.2. Chẩn đoán phân biệt
4.2.1. Bệnh Nhiệt thán
Bệnh chuyển biến nhanh, sưng cổ, ít thuỷ thũng hơn Tụ huyết trùng, sưng hàm, không sưng cuốn lưỡi, thịt đen, xuất huyết các lỗ tự nhiên, máu đen không đông. Lách sưng, nát, nhũn như bùn, bụng chướng to.
4.2.2. Bệnh Dịch tả tráu, boì
Có mụn loét ở mồm, lưỡi, nước mắt chảy nhiều, có mũ, đi tháo vọt cân câu, phân thối khắm, loét dạ múi khế, van hồi manh tràng, trực tràng.
4.2.3. Bệnh Ung khí thán
Sưng trong bắp thịt, chỗ sưng bị hoại tử màu đen nát, ấn vào có tiếng lạo xạo. Tụ huyết trùng không có tiếng kêu lạo xạo.
4.3. Chẩn đoán Vi khuẩn học
4.3.1. Kiểm tra trên kính hiển vi
Lấy phổi, lá lách, gan, phết lên phiến kính, nhuộm Gram, Wright thấy Vi khuẩn hình trứng, bắt màu lưỡng cực. Chất ngoại xuất ở hạch lâm ba, máu ít có Vi khuẩn.
4.3.2. Bồi dưỡng phân lập trong các môi trường
Lấy máu tim, hay phủ tạng cấy trên môi trường thạch đĩa và các môi trường khác để kiểm tra đặc tính sinh hoá (đường Gluco, Saccaro, Manit, Lacto, manto, Indol, H2S âm hoặc dương tính, MR-VP...).
4.3.3. Tiêm động vật thí nghiệm
Tiêm bệnh phẩm dưới da, hay phúc mạc cho thỏ, hoặc chuột bạch trong vòng 12-36 giờ thì thỏ, chuột chết. Kiểm tra bệnh phẩm, nếu bệnh phẩm nhiễm tạp khuẩn thì khía dưới da bôi vào. Sau một thời gian mổ kiểm tra, thấy xuất hiện bệnh tích viêm phổi, xuất huyết dài theo khí quản.
5. Phòng bệnh
Thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng bệnh. Tiêm phòng bằng Vaccine khi chưa có dịch liều lượng 2-3, tiêm dưới da, 7- 15 ngày có miễn dịch, miễn dịch kéo dài 6-7 tháng. Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, tắm rửa sạch sẽ. Không thay đổi thức ăn đột ngột, thức ăn thừa đã lên men không nên cho ăn. Không nhốt quá chặt, sử dụng gia súc phải điều độ, áp dụng tốt các biện pháp chống dịch. Chú ý khâu vận chuyển, tiêm phòng bằng Vaccine và kháng huyết thanh liều 15-30ml liều tối đa 50ml tuỳ theo trọng lượng.
6. Điều trị
Tất cả các loại gia súc và gia cầm khi đã mắc bệnh hoặc phát hiện thấy bệnh thì phải điều trị ngay. Điều trị sớm mới có kết quả, nếu để quá muộn khó cứu. Có thể dùng huyết thanh đơn giá hay đa giá: Đối với bê, nghé liều tiêm 20-40ml. Trâu, bò 60-100ml, liều lượng không quá 100-120ml, dùng Sulfamethazine tiêm tĩnh mạch dung dịch 6% với liều 0,13g/l kg trọng lượng. Cho uống 0,2g/1kg trọng lượng. Liều dùng 3-5 ngày. Streptomycine 40-60mg/1kg trọng lượng.
47
Trường hợp nặng có thể kết hợp Sulfamethazine + Penicilline (100.000UI/1kg trọng lượng, cứ 3 giờ tiêm 1 lần). Suldadimethoicine 30-50mg/I kg trọng lượng. Sulfamethocipirydazol 30-40mg/1kg trọng lượng cho uống 2 ngày liền. Kynamycine 30-50mg/1kg trọng lượng. Tất cả các thuốc trên tuỳ theo trường hợp nặng nhẹ mà dùng chứ không phải dùng một lúc tất cả.
BỆNH ĐÓNG DẤU LỢN (Erysipelas Suum)
1. Đặc điểm căn bệnh
Âóng dấu lợn là một bệnh truyền nhiễm, thường là cấp tính của loài lợn. Gây ra do Vi khuẩn, biểu hiện triệu chứng viêm, tụ máu ở da, niêm mạc, khí quan phủ tạng. Âóng dấu lợn gây ra dịch địa phương, do L.Pasteurr và Pilie người Pháp tìm ra năm 1882. Bệnh có khắp nơi trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, bệnh rãi rác ở nhiều nơi, nhưng nhiều nhất là ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
Căn bệnh Âóng dấu lợn chủ yếu do Erysipelaphiae, là trực khuẩn nhỏ, thẳng có khi hơi cong. Kích thước 1-1,5 x 0,2- 0,4µ, không di động. Không hình thành nha bào, không hình thành Giáp mô, Gram +. Trong môi trường nước thịt, nó làm đục nước thịt, tạo thành cặn nhẹ, nhìn vào có dạng vẩn mây. Trong môi trường có sinh H2S+ tạo Gelatin giải tùng phong. Nó có cấu trúc kháng nguyên ABN và KNB gây nhiễm tốt. Nó làm ngưng kết hồng cầu gà. Lên men sinh hơi đường Gluco, Lacto, Manto, không sinh Indol, không sinh Ure. Không làm đông sữa, không dung huyết. Phản ứng V.P âm tính, phản ứng M.R âm tính. Nó có sức đề kháng cao. Trong xác chết nó sống được 4 tháng. Nếu chôn ở dưới đất có thể sống được 9 tháng, sấy khô 3 tuần mới chết. Để ẩm và tối ở 370C nó sống được một tháng, ánh sáng mặt trời bình thường nó sống được 12 ngày. Trong canh trùng 700C bị diệt trong vòng 5 phút.
2. Truyền nhiễm học
2.1. Loài mắc bệnh
Lợn từ 3-12 tháng tuổi mẫn cảm với bệnh Âoïng dấu lợn, dưới 3 tháng hoặc mới cai sữa ít mắc là do có miễn dịch, qua sữa đáöu của mẹ truyền cho. Ngoài ra, lợn rừng, chim bồ câu, gà tây, gà rừng, dê, cừu, trâu, bò có thể mắc. Người cũng mắc bệnh Âóïng dấu lợn. Trong phòng thí nghiệm, dùng chuột lang, chuột bạch, bồ câu để tiêm truyền.
2.2. Mùa phát bệnh
Bệnh Âóng dấu lợn thường phát ra vào vụ đông xuân. Tháng 10, 11 hoặc tháng giêng, hai, đến tháng tư năm sau. Thời tiết thuận lợi, rét, ít nắng, mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, chuồng trại lầy lội, bẩn thỉu là điều kiện để trực khuẩn phát triển mạnh. Nhưng cũng có thể xảy ra vào mùa hè, khí trời nóng bức, khí hậu thay đổi đột ngột, chuồng nóng, ruồi muỗi, côn trùng phát triển nhiều, Vi khuẩn có điều kiện sinh sôi nẩy nở mà xâm nhập vào cơ thể.
3. Triệu chứng
3.1. Thể quá cấp tính
Thời gian nung bệnh từ 2-24 giờ. Vật sốt 400C-410C, chết nhanh. Mổ ra có trường hợp Âóïng dấu trắng, có hiện tượng xuất huyết trên bề mặt thận.
3.2. Thể cấp tính
Âóng dấu lợn thể này phổ biến, vật ủ rũ mệt nhọc, kém ăn chỉ thích chui đầu vào rơm rạ, góc chuồng, vật sốt 400C-410C, có khi hơn vật đi táo phân rắn kéo dài sinh ra ỉa chảy, vật nôn mửa. Niêm mạc mắt đỏ, sốt, viêm kết mạc, chảy nhiều nước mắt vật khó thở. Dưới da xuất hiện nốt đỏ, hình vuông, hình quả trám, hình tam giác, các loại hình khác. Lưng, vai, cổ, đùi, bụng, có màu đỏ sẩm xung quanh, trong nhạt dần. Khi chết dấu bầm dần do tụ máu, ứ máu, khi ấn tay vào dấu mất đi, bỏ tay ra dấu hiện lại. Kiểm tra máu, bạch cầu đa nhân trung tính phát triển nhiều 2%, 8%, có khi tăng lên đến chín lần, tiến triển 3-5 ngày. Vật khó thở, thân nhiệt hạ vật chết hoặc kéo dài, có thể chuyển sang thể mãn.
3.3. Thể mãn tính
Âóng dấu lợn thể này, con vật biểu hiện gầy còm, thiếu máu kéo dài, chuyển sang đi lỏng. Viêm nội tâm mạc mãn tính, nghe có tiếng tâm suy, có hiện tượng phù, bại liệt hai chân sau, van tim sần sùi như bắp cải, gây tác động mạch chủ. Tuần hoàn trở ngại, gây thuỷ thũng phổi, bại liệt chân.
- Miễn dịch học Hệ thống tế bào dưới nội mô tham gia chống lại, bao vây, tiêu diệt, một số chết, một số mọc lên thành sợi, hình thành thịt thừa ở van tim. Hình thành miễn dịch, nếu vi trùng tồn tại. Nó vào lần hai thì có sự phản ứng. Tim ứ
48
máu có những khối Fibrin ở tim nên hồng huyết cầu có màu xám. Fibrin có màu vàng trông như hoa cải. Viêm khớp xương mãn tính do Vi khuẩn cư trú trong khớp xương, làm cho khớp viêm lên sần sùi, trong chứa Fibrin, chất xơ có màng giả phát triển. Trên lưng, bụng, tai viêm ngày càng tăng, hoại tử phát triển ở trong, đám viêm loét ra chảy nước màu vàng. Da bong lên, lật ngược ra, da cứng gọi là lợn mang tơi. Đi ỉa chảy kéo dài do viêm dạ dày ruột. Âóng dấu lợn mãn tính, kéo dài 3 đến 4 tháng, vật gầy còm chết do kiệt sức và viêm nội tâm mạc.
3.4. Đóng dấu với các loài bệnh khác
Dê, cừu bị bệnh Âóng dấu lợn hay quỳ xuống ăn. Cừu thường bị viêm rốn, bò, trâu, ngựa viêm khớp, viêm nội tâm mạc. Gà, gà tây, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu đi ỉa chảy. Khi chết mäø ra lách sưng.
Đóng dấu lợn ở người, xảy ra khi người thiếu vệ sinh phòng bệnh. Người làm công tác Thú y, người tiếp xúc với vật mắc bệnh. Biểu hiện sốt cao, hai đến bốn ngày xuất hiện sưng tay, đỏ, ở hạch lân cận viêm, viêm khớp xương. Bệnh tiến triễn một đến hai tuần, có trường hợp chết do bại huyết.
4. Bệnh tích
4.1. Thể cấp tính
Âóngdấu lợn thể hiãn bệnh tích bại huyết, xuất huyết, viêm tụ máu, da, niêm mạc, các khí quan phủ tạng xuất hiện các dấu đỏ, hình vuông, hình quả trám, hình chữ nhật...Thận viêm tụ máu, sưng gấp hai, bổ đôi ghép lại không liền, trên mặt có đám tụ máu màu đỏ. Lách tụ máu, có ổ viêm, phúc mạc có màng viêm, có dịch rỉ chảy ra. Trong cùng có lớp màng cơ tim tụ máu, viêm ngoại tâm mạc có điểm xuất huyết. Bao tim viêm chứa nước vàng.
4.2. Thể mãn tính
Âóng dấu lợn thể mãn tính bệnh tích ở ruột viêm mãn, thành cứng dày ra. Viêm nội tâm mạc, van tim có lớp sần sùi nổi lên, viêm khớp xương, tích tụ bên trong chất Pibrin, tương dịch sợi huyết. Da khô hoại tử, lột ra từng lớp, từng mảng như màu gạch cua.
5. Chẩn đoán
5.1. Chẩn đoán lâm sàng
Dựa vào tình hình dịch tẻ, dịch phát ra lẻ tẻ, dịch địa phương, cò mùa có vùng Âóng dấu lợn, nhất là lợn sau cai sữa, lan ra nhiều trâu, bò, dê, cừu, chim, người, rõ nhất ở ngoài da. Cấp tính kéo dà, do tụ máu, ứ máu. Rõ nhất là khi có mãn tính xảy ra. Bệnh tích viêm khớp. Da bong lên thành mai cua.
5.2. Chẩn đoán phân biệt
5.2.1. Bệnh cảm nắng, cảm nóng
Bệnh cảm nắng, cảm nóng trên da sưng do xuất huyết, sau khi vận chuyển trên xe, do viêm ca ta. Không sốt, không ỉa chảy.
5.2.2. Trúng độc
Trúng độc xảy ra nhiều con, không có dấu rõ, không sốt, sùi bọt mép không kêu.
5.2.3. Bệnh Dịch tả lợn
Bệnh Dịch tả lợn xảy ra cho mọi lứa tuổi, ỉa chảy có lẫn máu, sốt cao kéo dài, đi lảo đảo, nửa thân sau bị liệt. Viêm loét dạ dày, thận xuất huyết đinh gim. Rìa lách nhồi huyết, xuất huyết lấm tấm ở chân.
5.2.4. Tụ huyết trùng
Bệnh Tụ huyết trùng xuất huyết từng mảng, hầu thủy thũng. Lách hạch sưng ứ máu, Phổi sưng tụ máu, gan hoá.
5.2.5. Phó thương hàn
Bệnh Phó thương hàn lợn con 3-6 tháng, ỉa chảy phân loãng, vàng, có máu, vật lòi rom, viêm loét từng đám lớn, rộng ở ruột già, lách sưng, dai như cao su.
5.2.6. Nhiệt thán
Bệnh Nhiệt thán sưng hầu, ruột, hạch viêm đỏ sẩm, đen. Lách sưng, nhaío như bùn, chướng bụng.
5.3. Chẩn đoán Vi khuẩn học
49
Soi kính: Lấy máu, phết kính nhuộm Gram không có bào tử. Bạch cầu thành từng đám, phân lập ở nước thịt.
5.4. Chẩn đoán huyết thanh học
Lấy huyết thanh vật nghi mắc bệnh. Làm phản ứng ngưng kết trong ống nghiệm. Phản ứng kết tủa khuếch tán trên thạch. Phản ứng ngưng kết hồng cầu gà.
6. Phòng bệnh Âoïng dấu lợn
6.1. Vệ sinh phòng bệnh
Khi chưa có dịch, mua bán nơi không có dịch, nhốt riêng hai tuần để theo dõi. Không có bệnh gì mới cho nhập đàn, tẩy uế tiêu độc, sát trùng chuồng, quét vôi tiêu diệt rận, muỗi, chăm sóc, nuôi dưỡng, cách ly con ốm. Sử dụng sản phẩm phải luộc chín. Da tiêu độc muối 5%. Xác chết chôn sâu giữa hai lớp vôi.
6.2. Phòng bằng Vaccine
Tiêm phòng năm hai lần, tiêm bổ sung khi có dịch, tiêm phòng triệt để bằng Vaccine keo phèn 2-5ml vào bắp, miễn dịch 6 tháng (tuỳ theo nơi sản xuất mà liều dùng có khác nhau).
7. Điều trị bệnh Âoïng dấu lợn
7.1 Dùng thuốc
Dùng huyết thanh Âoïng dấu lợn 1ml/1kgP, một phần tiêm bắp, một phần tiêm tĩnh mạch. Dùng kháng sinh, Penicilline là loại kháng sinh điều trị bệnh tốt nhất, liều dùng từ 5000 đến 10.000UI/1kgP, mỗi ngày 2-3 lần, liệu trình 3-5 ngày. Có thể kết hợp huyết thanh 20-30ml + 30vạn Penicilline. Hoặc dùng Penicilline bột cùng với Penicilline dầu liều 200.000-300.000UI hoặc 1.000.000UI.
Ngoài ra, còn dùng phương pháp khác như: dung dịch xạ phòng xát đầy mình, để khô rồi xoa tiếp, làm 2-3 lần như vậy, gắn Trioxit asen (AS2O3) vào tai.
7.2. Dùng phương pháp khác
Phương pháp dùng tỏi: lấy 30-40g tỏi, đem giả nhỏ cho vào 100ml nước nóng 450C, nghiền nát rồi lọc qua vải màn. Tiêm vào bắp thịt mông lợn ốm 30-40ml mỗi ngày, trong 2-3 ngày liền. Chữa đông y bằng mật lợn và tỏi. Nước mật lợn 70%, nước cốt tỏi 30%. Sắc đặc lại cho uống mỗi lần 200ml. Kết hợp dùng chất tẩy nhe, sát trùng đường ruột, thuốc cường tim, các chất đạm, chất mát... Điều trị Âoïng dấu lợn ở người, dùng Penicillin, kháng huyết thanh của lợn.
PHÓ THƯƠNG HÀN LỢN (Paratyphus summ)
1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Phó thương hàn là một bệnh truyền nhiễm của lợn, nhất là lợn con.
Gây ra do hai loài Vi khuẩn Salmonella Choloracsus, chủng Knuzendorf (Cấp tính), Samonella Typhisuis chủng Vodagsen (thể mãn tính), tác động chủ yếu bộ máy tiêu hoá, gây viêm dạ dày, ruột, có mụn loét, ỉa chảy. Samon và Smit (1889) tìm ra. Bệnh có khắp nới trên thế giới, gây nên dịch lẻ tẻ địa phương, xảy ra ở lợn con, do chăn nuôi lợn nái nhiều, vệ sinh chăm sóc kém, ở nước ta bệnh phát ra lẻ tẻ.
2. Căn bệnh
Bệnh Phó thương hàn do hai loại Vi khuẩn hình que nhỏ 0,5 x 2,4µ, không hình thành giáp mô. Không hình thành nha bào, có lông nên di động được. khi cấy vào nước thịt có mùi phân thối, trong môi trường thạch khuẩn lạc bóng loáng, có tính chất bám vào không dung huyết.
Làm lên men đường Gluco, không lên men đường Lactozia.
Động vật thí nghiệm thỏ, chuột bạch, chuột lang. Trong môi trường không sinh H2S. Phản ứng MR dương tính, Vi khuẩn bị diệt ở 600C trong một giờ 700 trong 20 phút, dưới ánh sáng mặt trời chiếu thẳng trong 5 giờ, Vi khuẩn tồn tại trong xác chết 100 ngày, trong nước 1-2 tháng, trong thịt ướp muối 29%, ở 60C-120C trong vòng 4-6 tháng, thịt nướng ít có tác dụng diệt nó bên trong.
3. Truyền nhiễm học
50
3.1. Loài mắc bệnh
Bệnh Phó thương hàn lợn con từ cai sữa đến 4 tháng tuổi hay mắc nhất, lợn trưởng thành ít mắc hơn.
Người cũng có thể nhiễm Vi khuẩn này, nếu ăn thịt đun không kỹ hoặc tiếp xúc với vật ốm, khi nhiễm bệnh thể hiện viêm ruột, ỉa chảy. Chó, bò cũng có thể nhiễm bệnh này.
3.2. Chất chứa Vi khuẩn
Máöm bệnh Phó thương hàn trong máu, phủ tạng, phân, nước mũi thể mãn tính chứa vi khuẩn. Ngoài ra, lợn que mang Vi khuẩn 25-30% chủ yếu đường tiêu hoá (hạch, màng ruột, phân, túi mật). Vật khỏi bệnh Phó thương hàn còn mang Vi khuẩn một thời gian, Vi khuẩn luôn bài tiết ra ngoài từ túi mật.
3.3. Đường xâm nhập của Vi khuẩn
Vi khuẩn Phó thương hàn xâm nhập chủ yếu là đường tiêu hoá, có khi qua nhau thai vào bào thai, làm tổ ở đó. Đến khi âeí lợn sơ sinh bị chết. Trong phòng thí nghiệm cho lợn con uống 25ml canh khuẩn trong 24 giờ bệnh phát ra. Thỏ, chuột bạch, chuột lang gây bệnh qua phúc mạc, đường tiêu hoá, bệnh sẽ phát ra, nơi tiêm có mũ, sưng thủy thũng, loét hoặc nhiễm trùng toàn thân.
3.4. Cách sinh bệnh
Cách sinh bệnh Phó thương hàn có khác nhau, Samonella có thể từ ngoài vào, cũng có thể cư trú trong màng ruột, túi mật. Khi cơ thể suy yếu nó mới tác dụng gây bệnh. Vi khuẩn chui qua niêm mạc đường tiêu hoá, gây xuất huyết khí quan phủ tạng, lách, gan... sinh sôi nẩy nở tại chỗ, gây bại huyết, tụ máu, ruột non, ruột già, gan , lách. Sau theo đường lâm ba vào hệ thống lâm ba và tác động gây viêm hạch, sưng hạch, thủy thũng hạch.
Từ hệ lâm ba vào đường tiêu hoá, được đưa đi các khí quan phủ tạng, sinh sôi nẩy nở, gây bại huyết lách, sưng, viêm, tụ máu, tăng sinh, hoại tử gan, hạch.
Nếu độc lực không cao lắm, thì nó chỉ cư trú ở khí quan phủ tạng, không vượt quá ống tiêu hoá, dạ dày, ruột, tạm thời cư trú ở đó. Lách sưng có thể do tác động của nội độc tố. Sau đó trở lại vào máu gây bại huyết hoặc cư trú ở cơ quan khác. Nên từng thời kỳ một người ta không thấy Vi khuẩn Phó thương hàn xuất hiện trong máu.
Samonella sau khi vào các nang lâm ba, tổ chức lâm ba, ruột già, gây viêm hoại tử, tạo thành nốt loét có viên trơn, bờ nông, có tính chất lan tràn không cần có điều kiệm làm gia súc giảm sức đề kháng. Sau đó, chuyển sang nang lâm ba hay ruột vào máu, không gây bại huyết mà gây hoại tử.
3.5. Cách lây lan phát sinh
Trong trường hợp cấp tính, Phó thương hàn có yếu tố làm giảm sức đề kháng, vệ sinh phòng bệnh kém, vật mắc bệnh mềm xương, viêm ruột hay bệnh truyền nhiễm khác, làm giảm sức đề kháng. Lợn mẹ có chữa mang mầm bệnh, mầm bệnh truyền qua nhau thai, đến khi lợn con sơ sinh ra khỏi lòng mẹ thì chết. Đó là do nhập những lợn con. Trường hợp này không cần có yếu tố làm giảm sức đề kháng.
4. Triệu chứng bệnh Phó thương hàn lợn
Bệnh Phó thương hàn, thời kỳ nung bệnh 3 đến 4 ngày, có khi 3 đến 4 tuần, thể hiện các triệu chứng sau
4.1. Thể cấp tính
Thời kỳ này, con vật sốt 40,50C đến 41,50C có khi đến 420C, vật ủ rũ kém ăn. Sau xuất hiện triệu chứng đường tiêu hoá, đi tháo phân rắn, khi nhiệt độ giảm chuyển sang ỉa chảy, phân lỏng lẫn nước, máu, mũ, phân có mùi thối khắm, vật rặn nhiều, kêu la giữ dội, lòi rom. Ngoài ra, con vật thở khó, thở gấp. Tim đập yếu, tim suy, xuất hiện những vết xuất huyết đỏ ở bụng hay trong bụng. Vật chết sau 2 đến 4 ngày, thể mãn kéo dài, con vật thở gấp, chết do suy nhược cơ thể.
4.2. Thể mãn tính
Con vật bị bệnh ăn uống kém, thân nhiệt lên xuống thất thường, vật ỉa chảy phân thối khắm, màu vàng. Vật ngày càng gầy còm, da tái nhåüt do thiếu máu, cũng có khi con vật ho. Đặc biệt vật khó thở, vật mệt đi lại khó khăn, bệnh tiến triễn một đến hai tuần, sức kém dần vật chết 25-70%. Vật thiếu máu, tiêu hóa kém, sinh trưởng phát dục kém. Lợn mẹ sốt, xuất hiện 3 đến 4 ngày, sẩy thai trong các thời kỳ khác nhau. Lợn con đẻ ra chết, nếu sống soït, còi cọc, thiếu máu, sức đề kháng kém. Bệnh xảy ra liên tục trong nhiều năm, vật viêm ruột mãn tính, xuất huyết gan, ruột, bào thai, gây sẩy thai.
51
5. Bệnh tích Phó thương haìn låün
5.1. Thể cấp tính
Bệnh Phó thương hàn thể này lách sưng to do viêm tụ máu, dai, đàn hồi như cao su, màu xanh thẩm, giữa sưng to, nang lâm ba to, hạch lâm ba tụ máu, màu đỏ sẩm, ngoài nhạt dần do hồng huyết cầu và dịch lâm ba, có khi màu đen như Dịch tả lợn. Thận ngoài xuất huyết, trong ứ máu. Gan sưng tụ máu, có nốt hoại tử, hay hạt kê. Dạ dày, ruột có đám viêm tụ máu, có khi có chấm xuất huyết, có mụn loét, ruột non, dạ dày có nốt loét, có cặn biến chất màu vàng như cám. Ruột già có nốt loét ngoài ra có viêm phúc mạc có Fibrin tơ huyết, viêm bao tim có Fibrin tơ huyết.
5.2. Thể mãn tính
Bệnh Phó thương hàn thể này viêm loét ở ruột, dạ dày viêm tụ máu màu đỏ. Ruột già, nang lâm ba viêm sưng, trong hoại tử hình thành màng, niêm mạc có khối hình hạt, bên trong có bả đậu, viêm và hoại tử biểu hiện tràn lan. Niêm mạc bong vết loét có Fibrin phủ thành bựa màu vàng, xanh xám, dưới có vết loét có vành trơn, bờ nông, bờ màu đỏ, loét tràn lan ra thành màng to. Bên ngoài vết loét bằng phẳng. Ruột già có những mảng cứng lại hoặc loét ra trên phủ bựa vàng. Một thời gian, vết loét khô dần, bong vảy thành sẹo, có màu trắng hoặc màu nâu. Đến giai đoạn vật khỏi, bề ngoài có màu sắc khác nhau trắng xám, trắng nhạt. Nếu có Banlantidium coli thì vết loét sâu hơn. Ruột viêm có đám hoại tử bã đậu hóa phát triển. Gan có những ổ viêm hoại tử nổi lên như hạt kê, lớn dần bằng hạt ngô. Sau đó vở ra thành vã đậu hóa, lách không sưng, có nốt hoại tử. Phổi viêm có những đám hoại tử, bã đậu hóa, có trường hợp phổi mềm nát.
6. Chẩn đoán Phó thương haìnlåün
6.1. Chẩn đoán lâm sàng dịch tể
Lợn từ sơ sinh đến 2-3 tháng tuổi, lợn mẹ có chữa thường biểu hiện đường ruột, gây triệu chứng thể cấp tính, một số thể lây sang người và gây trúng độc một số loài khác, do vệ sinh kém, thường thể hiện triệu chứng lòi rom. Bệnh tích ở lách, mụn loét tràn lan, trường hợp này ít thấy ở lợn con. Trừ khi ghép với bệnh Dịch tả lợn, Nhiệt thán, viêm ruột ỉa chảy, máu đen, sưng hầu, bại huyết nặng.
6.2. Chẩn đoán thí nghiệm
6.2.1. Soi kính
Lấy bệnh phẩm là máu, phủ tạng, nhuộm Gram, Giemsa. Vi khuẩn có hình gậy, bắt màu Gram âm, nên dễ nhầm với E.Coli ruột già.
6.2.2. Nuôi cấy phân lập
Trong máu Vi khuẩn ít mà chủ yếu là khí quan phủ tạng. Vì vậy, phải nuối cấy trên môi trường tăng sinh Mule kofman, để tủ ấm 370C trong 18 đến 24 giờ, rồi mới cấy trên môi trường phân lập. Trong môi trường sẽ sinh Indol, MB, LactoZa thêm chỉ thị màu để phân biệt Samonela với các loài khác.
6.2.3. Tiêm động vật thí nghiệm
Tiêm động vật thí nghiệm (thỏ, chuột lang, chuột bạch) Vi khuẩn sẽ làm chết động vật sau 6 đến 7 ngày.
6.3. Chẩn đoán huyết thanh học
Ngưng kết nhanh trên phiến kính với kháng huyết thanh Samonella đa giá A-E. Kháng huyết thanh O và H của nhóm C1. Cuối cùng với kháng huyết thanh Salmonella Choleraesuis. Hiệu giá phải trên 1/100 mới dương tính.
7. Phòng bệnh Phó thương haìn låün
7.1. Vệ sinh phòng bệnh
Gia súc mới mua về nhốt riêng 15 ngày, cho ăn uống điều độ. Không thay đổi khẩu phần đột ngột, có lợn ốm báo ngay để bao vây dập tắt. Không nhốt chung, không bán chạy, không thịt lợn ở ao hồ. Phân, nước rửa phải chôn, sản phẩm phải luộc chín và sử dụng trong hạn hẹp. Không cho gia súc ăn những thức ăn dính đến mầm bệnh, tiêu độc, sát trùng chuồng trại, dọn, ủ, đốt, rắc vôi bột.
Chú ý phòng cho người, cần thường xuyên kiểm tra sức khoẻ cho người chăn nuôi, lợn nái chữa phát hiện có Vi khuẩn thì phải diệt.
7.2. Bằng Vaccine
52
Các loại Vaccine chết để phòng Phó thương hàn lợn. Loại Vaccine Formol kéo phèn tiêm dưới da, hai lần cách nhau một tuần. Sau 10 ngày có miễn dịch, miễn dịch có hiệu lực trong 6 tháng. Liều lượng dùng theo chỉ định trên nhãn thuốc, khi tiêm phải lắc kỹ.
8. Điều trị
Điều trị bệnh Phó thương hàn, dùng kháng huyết thanh chế từ bò thiến tối miễn dịch. Điều trị liều từ 30 đến 80ml, cho lợn từ 15 ngày tuổi đến 1 tháng rưỡi. Có thể dùng kháng sinh chữa bệnh lúc mới phát: Clorocit, Triomicine, Cloromicine, Auremycine 20-40mg/1kgP, Teramicine 40mg/1kgP. Trong 4 ngày liền, Sunfamide, Sunfaguanidine, Sunfathiazon, Sunfamerazin 1-3g mỗi ngày, trong 3-4 ngày (0,10g-0,20g cho mỗi kg trọng lượng mỗi ngày). Bacitracine 10 nghìn UI, dùng 6 ngày liền, canh tùng Suptilit. Kết hợp chữa triệu chứng, chống ỉa chảy, tiêm Vaccine, tiêm sắt bổ sung. BỆNH COLIBACILLOSIS CỦA LỢN
1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Colibacillosis còn gọi là bệnh ỉa phân trắng. Bệnh ỉa chảy của gia súc sơ sinh. Là một bềnh truyền nhiễm cấp tính, làm chết có khi rất nhiều lợn con bú mẹ. Thể hiện bằng triệu chứng ỉa chảy có màu vàng, thường kèm theo bại huyết.
2. Đặc điểm căn bệnh
Mầm bệnh Colibacillosis thường thấy trong phủ tạng, xác chết do bại huyết là Escherichiacoli, trực khuẩn ruột già, có hình gậy nhỏ hoặc hình trứng, Gram âm, mọc tốt trong các môi trường phổ thông. Không hình thành nha bào. Sinh Indol, có phản ánh ửng đỏ. Methyl dương tính, phản ứng Vogiơ - Proskoe và Xitrat âm tính. E.Coli thuộc hệ sinh vật bình thường của ruột. Một số chủng gây bệnh do động vật sức kháng kém, bị cảm lạnh. Lợn mẹ, lợn con bồi dưỡng kém hoặc quá tốt, lợn nuôi trong chuồng quá bẫn hoặc ẩm ướt... Gia súc thiếu Vitamin A, Sắt cũng gây ra ỉa chảy.
E.Coli được tìm thấy ở ruột và hạch lâm ba (W. Witing 1986). Đäc tố E.Coli ở ruột vào hệ thống tuần hoàn, gây viêm dạ dày, ruột nặng. Låün con bú sữa và ỉa chảy, gây trúng độc ruột (Enterotoxaemia), gây phù mặt ở Lợn cái. Theo Uittic bệnh ỉa chảy của lợn con gây ra chủ yếu do 4 tyïpe: O8K87(B), K88(L), O138 K81(B), K88 (L). O147, K89 (B), K88(L), O(1.117), KH, K88(L), tyïpe CS 1522, trong đó tyïpe gặp nhiều nhất là: CS 1522. 11% là E.Coli dung huyết.
E.Coli không phải là căn bệnh độc nhất của bệnh ỉa chảy mà còn tìm thấy Vi khuẩn khác ở ruột như, Vi khuẩn nhóm Klessiella và Aerobacter, Salmonella Cholerae suis.
2. Triệu chứng
Bệnh Colibacillosis trong những ngày đầu, gia súc sơ sinh thường xù lông, ỉa chảy, phân trắng vàng có mùi hôi thối, gầy yếu nhanh chóng, nằm dài khó đứng dậy, đuôi dính phân lỏng hoặc mũ. Con vật chết nhanh chóng, nếu không chữa trị thì tỷ lệ chết rất cao, có thể lên tới 80-90%.
3. Bệnh tích
Bệnh tích bệnh Colibacillosis chủ yếu là viêm ruột cata, nhẹ hoặc sâu, thể hiện bằng triệu chứng dung huyết màng treo ruột. Dạ dày có thể có sữa đông, nhưng không mang bệnh tích. Ruột chứa một số chất lỏng trắng hoặc vàng nhạt. Có thể biến chứng viêm phổi, viêm màng phổi, viêm phúc mạc. Có khi xuất hiện những áp xe khớp do mầm bệnh khu trú thứ phát sau thể cấp.
4. Chẩn đoán bệnh
4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Bệnh Colibacillosis dựa vào triệu chứng ỉa phân trắng vàng nhạt, do không có bệnh tích xuất huyết dạ dày và khuynh hướng lây lan. Nên loại trừ trường hợp viêm dạ dày, ruột truyền nhiễm do Virus.
4.2. Chẩn đoán Vi khuẩn học
Nuôi cấy bệnh phẩm cấy từ những con vật giết khi gần chết hoặc vừa mới chết, để quan sát sự phát triển của E.Coli trong môi trường phân lập Vi khuẩn đường ruột. Giám định bằng ngưng kết trên phiến kính, hoặc trong ống nghiệm. Phản ứng gián tiếp hồng cầu gà, phản ứng khuyếch tán trên thạch.
5. Phòng trị
53
5.1. Vệ sinh phòng bệnh
Bệnh Colibacillosis mầm bệnh truyền từ lợn ốm sang lợn khoẻ. Do ăn phải mầm bệnh nhiễm khuẩn. Khi bệnh lan tràn, mầm bệnh tăng dần độc lực, khả năng gây bệnh hoặc tăng sinh sản, tăng tỷ lệ nhiễm bệnh và tỷ lệ chết. Vì vậy, cần thực hiện tốt chế độ (đông che, hè mở). Tăng không khí thông thoáng cho con vật, nhưng không để gió lùa, hay nắng gắt chiếu thẳng vào, chuồng phải luôn sạch, nuôi dưỡng tốt lợn mẹ. Sát trùng Iode lợn con khi cắt rốn để tránh nhiễm trùng khớp.
5.2. Phòng bằng Vaccine
John, Seler và Smith (1962), W.U ittic (1968) phòng lợn con ỉa phân trắng: bằng Vaccine E.Coli, tiêm dưới da hai lần vào tuần thứ sáu, trước khi đẻ 10 ngày.
6. Điều trị
Có thể điều trị E.colibacillosis bằng Streptomycine 30-50mg/1kg P.
Sunfathalidin 0,25g mỗi ngày cho lợn 10 ngày tuổi; 0,5g cho lợn từ 10 ngày tuổi trở lên. Thuốc Ocitertraciline, Sumadimerazin 1ml dung dịch 12,5%g/kgP cho lợn con. Teramicine 1g cho lợn mẹ tiêm bắp. Tetracilline 2,5g/1kgP, Ocymykin 2ml/10kgP. Ngoài ra, còn dùng Orezon, hạt cau, vỏ lựu, vỏ măng cụt. Bổ sung khoáng, tiêm Dextranfe.
Chæång 7. BỆNH DO VIRUS BỆNH DẠI (Lyssa)
1. Đặc điểm của mầm bệnh
Bệnh Dại là một bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho nhiều loại gia súc và người. Do virus hướng thần kinh gây ra, thường gây tác loạn thần kinh. Bắt nguồn từ não tuỷ và tuỷ sống. Vật bị bệnh thường điên cuồng và bại liệt. Bệnh được biết từ thời thượng cổ. Mãi đến 1804 Zinh truyền bệnh có kết quả và chứng minh được độc lực của nước bọt.
Năm 1880, Pasteur đã chứng minh được độc lực thần kinh và tạo Virus Dại cố định cùng với Sambeclan và Ru tìm ra phương pháp bảo hộ người bị chó cắn. Nguồn bệnh chính là ở chó sói, chó nuôi, cáo, chồn. Vùng Nam Mỹ có loài dơi. Virus thuộc họ Paramixo Virus, có kích thước 100-150nm. Trong tự nhiên có một tyïpe gọi là tyïpe Virus đường phố. Virus có thời gian nung bệnh ở thỏ 17 ngày, ở người 40 ngày. Ngoài ra, ở các nước nhiệt đới hầu như có chủng tăng độc lực, ở thỏ 8-9 ngày, ở người 26 ngày.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, Virus vào thần kinh trung ương. Từ đó theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt. Bởi vậy, nước bọt của chó có độc lực trước khi có triệu chứng 2-14 ngày và 7 ngày sau khi lành bệnh. Trong não Virus vào bán cầu đại não, hành não, các hạch vận động, nhưng nhiều nhất là ở sừng Amon của tam giác não và tạo thành thể Negri. Có thể phát hiện trên kính hiển vi điện tử, sau khi nhuộm Gemsa, Xemle.
Virus mẫn cảm ới sức nóng. Nhiệt độ 500C chết trong 1 giờ, ở 700C chết ngay. Trong não thối Virus sống vài tuần. Có khi 6-7 tháng, não ướp lạnh còn độc lực đến 2 năm.
Tia tử ngoại giệt 5-10 phút. Acide chlohydric 3-5% trong 5 phút, Formol 5%, ánh sáng mặt trời 5-10 giờ.
2. Truyền nhiễm học
2.1. Loài mắc bệnh
Tất cả các loài động vật máu nóng đều mắc bệnh Dại, nhưng mẫn cảm nhất là loài chó, cáo, trâu, bò, ngựa, lợn, lạc đà, khỉ, chuột, gấu, mèo, dơi đều truyền bệnh cho người. Loài chim không mẫn cảm, trừ trường hợp gây bệnh thực nghiệm, nhúng chân vào nước lạnh. Trong phòng thí nghiệm, người ta dùng chuột lang, chuột bạch, thỏ để gây bệnh.
2.2. Chất chứa mầm bệnh
Trong cơ thể con bệnh Virus Dại cư trú ở hệ thần kinh, não, tuỷ sống. Hầu như lúc nào cũng có độc lực, nhiều nhất là sừng Amon, chất xám vỏ não, các dây thần kinh ngoại biên, nhất là dây thần kinh tam thoa (số 5). Một số hạch thần kinh cũng có độc lực. Tuyến nước bọt thường có độc lực sớm, thời kỳ này thường là nguồn bệnh nguy hiểm.
Mắt, giác mạc có Virus. Máu có độc lực nhưng không đều. Ngoài ra còn có ở nước tiểu, tuyến thượng thận, lách, gan, phổi nhưng rất biến động. Chó khỏi bệnh mang mầm bệnh Dại một thời gian dài.
2.3. Đường xâm nhập
54
Virus Dại xâm nhập trực tiếp qua vết cắn, có khi qua nơi bị tổn thương do cơ giới, nhiễm qua nước bọt hay do khâu quần áo, đi ủng, đeo kính bảo hộ, nó qua niêm mạc mắt, qua núm nhau, cũng có thể gián tiếp qua vật bị bệnh. Trong thí nghiệm Virus Dại truyền qua não, mắt, da.
2.4. Cách sinh bệnh
Virus Dại không sinh sản ở vết cắn, mà theo dây thần kinh về hạch, rồi vào trung ương thần kinh. Cũng có khi đi qua đường máu, qua lâm ba, qua núm nhau vào trung ương thần kinh. Virus Dại sinh sản nhanh, rồi theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt. Cơ năng thần kinh chưa tổn thương, vẫn bình thường, về sau Virus phá hoại dần, vật bị kích thích, rối loạn tâm lý, hung dữ, sợ sệt. Cuối thời kỳ chuyển sang bại liệt, cũng có khi Virus Dại nằm tiềm tàng ở vết sẹo. Khi cơ thể yếu mới gây bệnh. Thời kỳ nung bệnh phụ thuộc vào vết cắn. Vết cắn gần thần kinh trung ương bệnh phát nhanh, xa trung ương thần kinh bệnh Dại phát ra chậm.
3. Triệu chứng
3.1. Ở chó có ba thời kỳ
3.1.1. Dại điên cuồng
Bệnh DạI, con vật bắt đầu thay đổi thói quen thường ngày, co cáu, bứt rứt, hung dữ hoặc trở nên hiền lành, vồn vã, cũng có khi trông con vật buồn rầu nhưng vẫn ăn. Con vật hay cường dương, vật bắt đầu sốt, có khi một đến hai giờ. Virus tác động lên thần kinh, lúc đó nước bọt bắt đầu có độc lực.
3.1.1.2. Thời kỳ kích thích
Con vật bắt đầu có những biến loạn về cảm giác, cơ năng, chạy lung tung, hoảng loạn, vồ bóng, vồ hình. Chỗ bị thương ngứa, sưng họng, vật khó nuốt giống như hóc xương. Khi sủa tiếng kêu khản đặc, đôi lúc rú lên. Cõ trường hợp trễ hàm, lưỡi thè ra ngoài, chảy nhiều nước bọt. Mắt đỏ và sâu. Đuôi cụp, bụng thóp, vật sợ gió, sợ nước, sợ ánh sáng. Bỏ chạy, hay rúc đầu vào bóng tối, vật gầy sút nhanh, sau một thời gian thì bại liệt.
3.1.1.3. Thời kỳ bại liệt
Sau cơ hung dữ, chuyển sang thời kỳ bại liệt. Con vật thường nằm vào chỗ tối. Mắt sâu, hàm trễ, mệt vì kiệt sức. Bụng thóp không tiêu hoá, có thể suy yếu trong vòng 4 đến 5 ngày thì chết.
3.1.2. Dại bại liệt
Còn gọi là Dại im lặng, vật buồn rầu thích nằm trong bóng tối, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra, nước dãi chảy tự do, vật không cắn, không sủa gọi là Dại câm. Thường là chó bị liệt toàn thân hay liệt hai chân sau. Sau đó vật suy sụp nhanh chóng nằm xuống lịm dần và chết.
3.2. Bệnh Dại ở mèo
Mèo bị bệnh Dại hơn chó, do lối sống thu mình của nó. Mèo bị bệnh thường buồn bã, tìm chỗ kín đáo nằm. Bại liệt dần hoặc kêu luôn, bứt rứt. Nếu sờ vào thì cắn. Sau đó chuyển sang thể bại liệt. Dại ở mèo thường nguy hiểm, vì mèo thường hay gần gũi với người, khi cắn vết cắn thường sâu.
3.3. Bệnh Dại ở trâu, bò
Trâu, bò bị bệnh Dại thường hung dữ. Sau chuyển nhanh sang bại liệt. thường là ngứa ở chỗ bị cắn. Bụng đầy hơi nhẹ, đứng không yên. Mắt nhìn trừng trừng, luôn giữ tư thế tấn công bất kỳ vật gì hay người lại gần nó. Con vật bí ỉa, bí đái, khó chịu, không ăn. Sau chuyển sang bại liệt, cơ vòng hậu môn liệt, nằm phục xuống rồi chết.
3.4. Bệnh Dại ở ngựa
Ngựa bị bệnh Dại thường ngứa giữ dội ở chỗ cắn. Bốn chân cào xuống đất như đánh nhịp. Nghiến răng, sốt, hung dữ, gặp gì ăn nấy có khi ăn cả phân của nó. Có trường hợp tự cắn vào chỗ da ngứa, bong ra thành từng mảng to. Ngựa tấn công bất kỳ vật gì đến gần nó. Cuối cùng nằm liệt, vật vã rồi chết.
4. Bệnh tích
Về đại thể, bệnh tích trong bệnh Dại không có gì đặc biệt. Xác chết gây do vật không ăn, bại liệt hoặc giai đoạn đầu khi mắc bệnh vật vận động quá nhiều xác bẩn, có thể có vật lạ ở trong. Ruột có thể trống rỗng, trong chứa nước vàng. Phổi tụ máu. thịt, gan, biến chất tái nhạt đi. Bóng đái trống rỗng, cơ vòng bị liệt, nước đái có đường. Não có máu và có thể thuỷ thũng, hạch sưng to. Có thể lấy não nhuộm bằng Seller, Mann, Gemsa để tìm Negri. Negri có hình tròn hoặc hình
55
bầu dục, bắt màu đỏ trên nền tế bào thần kinh xanh. Các mạch máu bị bạch cầu xâm nhập làm cho lòng mạch quản hẹp lại, có khi trong đó chứa đầy bạch cầu. Bạch cầu còn xâm nhiễm xung quanh tế bào thần kinh.
5. Chẩn đoán
5.1. Chẩn đoán phân biệt
Khi bệnh Dại đã toan phát dể chẩn đoán, bệnh chưa phát rõ thì việc thay đổi thói quen là dấu hiệu rất đáng quan tâm. Trong trường hợp đấy phải nhốt riêng để theo dõi, lấy nước bọt tiêm vào não thỏ hoặc chuột để kiểm tra. Cần phân biệt với các bệnh sau.
5.1.1. Bệnh Giả Dại
Bệnh Giả Dại: Vật ngứa dữ dội, chạy lung tung và hay cắn vào chỗ ngứa, không lác mắt, không sợ gió, không sợ nước, không sợ ánh sáng, không trễ hàm, kiểm tra não không có thể Negri.
5.1.2. Bệnh trúng độc Stricnine
Bênh trúng độc Stricnine: bệnh tiến triễn rất nhanh, vật bị co giật mạnh, giãn động tử mắt, vật chết nhanh.
5.1.3. Bệnh Sài sốt chó
Bệnh Sài sốt chó: trong thể bệnh thần kinh có thể co giật. Mụn mọc lên ngoài da, viêm phổi, viêm ruột, kiểm tra có thể Lentz.
5.2. Chẩn đoán Virus học
Tìm thể Negri trong máu chó bằng cách nhuộm Gemsa, Mann, Seller nhưng kết quả không cao. Vì vậy, phải tiêm truyền cho chuột, thỏ. Nếu đúng bệnh Dại, chuột, thỏ sẽ phát cơn điên, giết chúng để tìm thể Negri trong não.
5.3. Chẩn đoán huyết thanh học
Có thể làm phản ứng kết tủa khuếch tán trên thạch, giữa kháng thể chuẩn nhuộm huỳnh quang với kháng nguyên nghi bệnh. Lấy nước bọt cho lên phiến kính cố định 15 giây trên ngọn lửa đèn cồn, nhỏ lên vài giọt Isthoxiamat gama globulin antirabic, giữ trong đĩa petri, nhuộm 1 giờ, rửa hai lần bằng dung dịch đêm phốt phát có pH = 7,2 đến 7,4, tráng bằng nước cất, hong khô, xem dưới kính hiển vi huỳnh quang.
6. Phòng trị
Dùng huyết thanh bệnh Dại thì tốt nhất, nhưng phải tiêm sớm không quá 72 giờ, liều tiêm 0,5 đến 1ml trọng lượng. Vaccine chế qua thai gà 136 đời dùng cho chó 3-5ml tiêm dưới da hay bắp, tốt nhất tiêm hai lần cách nhau 7 ngày. Người bị chó cắn, rửa vết thương bằng xà phòng, rồi rửa lại bằng cồn, rượu, Ete (ete bằng 1/2 rượu). Dùng Vaccine euenzelida chế từ chuột nhắt trắng 4-8 ngày tuổi, cho nhiễm Virus cố định, vô hoạt bằng β-propiolactol, liều tiêm 0,2ml, cách mỗi ngày tiêm 1 mũi, liều tiêm 6 mũi, 2 mũi nhắc lại. Trẻ con dưới 15 tuổi tiêm 0,1ml trong da.
BỆNH GIẢ DẠI (OZETSKI) (MORBUS AUJESZKY)
1. Đặc điểm mầm bệnh
Bệnh Giả Dại còn gọi là bệnh Ozeskimaladie d’ujeszky, Pseudo rage infecieu se Paralysie bulbaire infectieuse (Pháp) là bệnh truyền nhiễm cấp tính do Virus, tiến triễn dưới dạng bệnh chung hoặc viêm não, hoặc màng não ngứa dữ dội. Bệnh phát ra lẻ tẻ có tính chất địa phương, ít lan tràn, bệnh không lây lan truyền nhiễm trừ ở lợn. Năm 1902, Ozetsky phát hiện bệnh ở bò. Sau đó chó, mèo ở Hungari. Sau người ta phát hiện ra ở nhiều nước, Virus có đường kính 90- 100nm, có thể nuôi cấy trên tổ chức và trên phôi thai gà. Virus bị diệt ở 600C trong 50 phút, Formol 0,5% diệt trong 8 phút, NaOH 1% diệt chết ngay. Trong xác thối rửa, Virus sống được 11 ngày, thịt ướp muối sau 20 ngày, 190 ngày trong tuỷ xương thỏ sấy khô trên potat ăn da. Acide phenic 5%, sau 10 đến 20 phút mới diệt được nó. Glyxerin nguyên hoặc 50% bảo tồn nhiều năm trong tủ lạnh.
2. Truyền nhiễm học
2.1. Loại mắc bệnh
Trong thiên nhiên, bệnh ở lợn rất truyền nhiễm nhưng nhẹ ở các loài khác thường hay chết nhưng không lây, bệnh cư trú lẻ tẻ ở những vùng không cảm thụ. Trong phòng thí nghiệm người ta dùng thỏ cảm thụ nhất để gây bệnh.
56
2.2. Chất chứa Virus
Virus xuất hiện trong máu và phủ tạng. Sau đó, vào hệ thần kinh trung ương. Đối với thỏ máu độc đến phút cuối, ở lợn nó chứa trong nước mũi.
2.3 Đường xâm nhập và cách lây lan
Mầm bệnh xâm nhập vào niêm mạc mũi lợn ốm. Sau đó nó lây lan sang lợn khoẻ. Cũng có thể qua đường tiêu hóa. Có trường hợp qua da bị tổn thương.
2.4. Cách sinh bệnh
Virus phát triển ở tổ chức ngoài da, sau đó nó đi sâu vào niêm mạc, từ niêm mạc vào máu, sinh sôi nảy nở ở đó. Đối với lợn Virus từ niêm mạc vào máu, vào thần kinh trung ương, tăng cảm giác ngoài da dẫn đến ngứa ngáy rối loạn. Viêm não tuỷ, tăng hoạt động cơ năng, tăng phản xạ cảm giác, vật thở gấp, sốt cao, dẫn đến bại liệt bộ phận hành tuỷ.
3. Triệu chứng
Bệnh Giả Dại thời kỳ nung bệnh thay đổi từ 12 đến 15 ngày. Trung bình 3-6 ngày. Trong tự nhiên có khi 40-50 giờ.
3.1. Triệu chứng ở lợn
Bệnh Giả Dại có tính chất truyền nhiễm, thường không nặng. Loại 4-5 tuần tuổi bệnh có thể nặng, thân nhiệt 39,50C, biếng ăn, nôn mữa. Lợn nái thường sẩy thai. Thể quá cấp thường thấy ở lợn con ở thể bại huyết. Thể cấp, viêm não vật sốt, xuất hiện triệu chứng ỉa chảy. Bệnh tiến triễn từ 18-36 giờ con vật chết.
3.3. Triệu chứng ở mèo
Mèo mắc bệnh Giả Dại biểu hiện sợ sệt kêu la, động tử mắt giản ra, lông dựng, vật ngứa ở vùng đầu, chảy nhiều nước dãi, bại liệt toàn thân sau 12-24 giờ vật chết.
3.4. Triệu chứng ở bò
Bệnh Giả Dại bò ngứa ngáy dữ dội ở các vùng khác nhau. Vật cào cấu, cà xát, tạo nên nhiều vết thương trên mình, vật rống lên, cử động rối loạn, hai chân sau luôn gõ nhịp. Bệnh tiến triễn trong 48 giờ vật chết.
3.5. Triệu chứng ở ngựa
Ngựa có sức chống đỡ mạnh hơn våïi bệnh Giả Dại. Bệnh không đặc trưng lắm, con vật thể hiện run cơ, co giật, sau một thời gian chuyển sang bại liệt. Bệnh tiến triễn từ 1-4 ngày vật có thể khỏi.
4. Bệnh tích bệnh Giả Dại
4.1. Bệnh tích đại thể:
Những vùng ngứa, viêm, hoại tử hoặc tróc da, phía trên trong có tụ máu. Xuất huyết ở màng não, ở niêm mạc dạ dày, tá tràng, thoái hoá cơ tim. Hệ thần kinh trung ương mềm sớm hơn.
4.2. Bệnh tích vi thể
Trong thể quá cấp tính, có viêm màng não, chấm xuất huyết trong não và tuỷ sống. Trong trường hợp này, bệnh tiến triễn chậm hơn, thoái hóa tế bào ở nhân vận động của hành tuỷ (bại tiết hành tuỷ truyền nhiễm), tiềm ngấm lâm ba cầu quanh mạch quản.
5. Chẩn đoán bệnh Giả Dại
5.1. Chẩn đoán lâm sàng
Trừ trường hợp ở lợn và trường hợp không ngứa, chẩn đoán tương đối dễ dàng trên con vật ốm và sau khi chết. Trên con vật ốm, bệnh bắt đầu đột ngột, chảy nhiều nước dãi. Trí nhận biết còn nguyên vẹn, không có tư thế tấn công. Con vật ngữa dữ dội không thể chịu được. Trên xác chết, con vật chết đột ngột, ở tư thế như còn sống, có bệnh tích do cắn, gãi. Hệ thần kinh trung ương mềm sớm hơn.
5.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Tiêm chất chiết ra từ thần kinh và máu cho động vật cảm thụ (thỏ). Sau đó bổ não kiểm tra tổ chức học, nhuộm xem không có thể Negri.
5.3. Chẩn đoán phân biệt
57
5.3.1. Bệnh Dại
Đối với bệnh Dại, thời kỳ nung bệnh và tiến triễn nhanh hơn. Con vật luôn ở thế tấn công. Kiểm tra não có thể Negri, có độc lực trong nước bọt.
5.3.2. Bệnh Dịch tả lợn
Bệnh Dịch tả lợn triệu chứng thần kinh, bao gồm một sự kích thích, không cử động quá sức bất bình thường, co giật cơ bắp. Tiêm truyền cho thỏ và lợn cùng một lúc, để xác định bệnh vì chỉ có lợn mới cảm thụ Virus Dịch tả lợn.
6. Phòng bệnh và điều trị
6.1. Phòng bệnh bằng vệ sinh
Luôn dọn sạch chuồng trại, phát quang bụi rậm, tiêu diệt chuột và ký sinh trùng ngoài da. Cách ly con ốm, tiêu độc bằng xút ăn da 1%.
6.2. Phòng bệnh bằng thuốc
Chưa có kết quả gây miễn dịch chủ động. Popovisi và cộng tác viên 1955 chế thành công Vaccine, bằng huyễn dịch óc độc của cừu hấp thụ trên keo phèn. Kojnoc dùng kháng huyết thanh lợn tối miễn dịch bằng óc độc.
6.3. Điều trị
Điều trị bệnh Giả Dại ít có kết quả mà chỉ dùng huyết liệu pháp. Tiêm dưới da máu ngựa pha Xitratnatri hoặc máu lợn với liều lượng 10-15ml cho lợn con dưới 15 ngày tuổi, 15 -20ml cho lợn từ 15 - 30 ngày tuổi, 20-25 cho lợn trên 2 tháng tuổi.
BỆNH DỊCH TẢ LỢN (Pestis suum)
1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Dịch tả lợn là một bệnh truyền nhiễm của loài lợn, lây lan rất nhanh giết hại rất nhiều lợn (từ 60-90%), thường ghép với Phó thương hàn, Tụ huyết trùng. Xuất hiện triệu chứng bại huyết, tụ máu, xuất huyết, hoại tử, loét nhiều bộ máy. Căn bệnh là một Virus. Bệnh có từ năm 1833 ở Mỹ, bệnh xuất hiện nhiều trên thế giới. Ở nước ta, bệnh thường phát ra hàng năm, làm chết nhiều lợn, gây thiệt hại kinh tế khá lớn.
2. Căn bệnh
Bệnh Dịch tả lợn có kích thước từ 25 - 30nm (nanomet). Được xếp vào loại Virus qua lọc nhỏ nhất, có hình cầu, là một ADN Virus, có khả năng hấp thụ than bụi và keo phèn. Đến nay, người ta cho thấy rằng nó là loại Virus duy nhất thường xuyên trên cơ thể. Có thể nuôi cấy Virus trên cơ thể sống của lợn như: tuỷ xương, hạch lâm ba, phổi, thận, dịch hoàn, lách, não, thai lợn. Nuôi cấy trên phôi thai gà 12 ngày tuổi ở nhiệt độ 70-800C nó bị diệt ngay. Đông khô nó có thể sống được 3 năm. Lạnh -200C có thể thêm Glyxerin giữ được 1 năm trong tủ lạnh.
3. Truyền nhiễm học
3.1. Loài mắc bệnh
Bệnh Dịch tả lợn có âối với mọi lứa tuổi, loài lợn, nhưng mắc mạnh nhất là lợn con 2-3 tháng tuổi, ở lợn dưới 2 tháng, kháng thể được truyền qua bào thai của mẹ, qua sữa đầu. Vì vậy, thời kỳ này ít bị nhiễm bệnh hơn. Trong phòng thí nghiệm dùng lợn con làm động vật thí nghiệm. Thỏ có thể tiếp thu với Virus nhưng ở thể ác tính, qua tiêm truyền nhiều đời, độc lực bị giảm đi, không độc đối với lợn, có thể dùng chế Vaccine phòng bệnh cho lợn.
3.2. Chất chứa Virus
Các chất bại tiết, dịch tiết, máu, hạch lâm ba, lách. Máu của những con vật nung bệnh, sau 24 giờ có khả năng gây bệnh. Những con khỏi bệnh sau 2 tháng vẫn bài mầm bệnh ra ngoài.
3.3. Đường truyền lây
Mầm bệnh Dịch tả lợn truyền lây chủ yếu qua đường tiêu hóa, vào niêm mạc mắt, mũi, da và cũng có thể qau đường hô hấp. Gây bệnh chủ yếu dưới da, qua đường tiêu hoá không đều. Thường lây trực tiếp từ con ốm sang con khoẻ, qua thức ăn, nước uống, gián tiếp qua các chất bại tiết, vận chuyển hay do các động vật khác mang mầm bệnh truyền lây.
3.4. Cách sinh bệnh
58
Bệnh Dịch tả lợn thời gian nung bệnh từ 2-22 ngày, trung bình 3-8 ngày. Virus theo đường tiêu hóa, niêm mạc vào các hạch, tuyến hạnh nhân ở hầu, hạch màng ruột, hệ thống lâm ba. Từ đó vào máu, sinh sôi nẩy nở ở thành mạch quản, gây xuất huyết, bại huyết, hoại tử, ứ máu ở hạch lâm ba, nhổi huyết lách, sốt và gây rối loạn tuần hoàn trầm trọng. Virus Dịch tả lợn tác động đến ruột non, ruột già, hình thành mụn loét. Sau đó đến nang lâm ba, gây nên nốt loét hình cúc áo. Trong một số trường hợp xảy ra hiện tượng dị ứng, do cơ thể bị nhiễm Virus, có thể sinh sản ra kháng thể. Khi tiêm Vaccine vào thì kháng thể đó trung hoà kháng nguyên của Virus còn lại kháng thể sẽ cư trú trong tế bào. Nên khi kháng nguyên vào, nó sẽ gây ra phản ứng trên đỏ da, gây viêm tế bào. Thường là kết hợp với những Vi khuẩn kế phát như: Phó thương hàn Samonella Choleraesuis, Samonella Typhisuis, Samonella typhimurium, Fasteurella multocida, E.Coli, Staphilococcus và Erysipelothria mumopathiae. Con vật mắc bệnh sau khi khỏi có miễn dịch lâu dài, kháng thể miễn dịch được truyền tæì meû cho lợn con.
4. Triệu chứng
Bệnh Dịch tả lợn có thời kỳ nung bệnh 3-4 ngày, có khi 3-4 tuần, biểu hiện các thể sau:
4.1. Thể quá cấp tính
Con vật nung bệnh 1-3 ngày. Thân nhiệt lên đến 410C-420C, da đỏ chuyển sang tím bầm, con vật chết rất nhanh.
4.2. Thể cấp tính
Lợn con ủ rủ, kém ăn, đứng tụm lại thành từng đám. Vật sốt 410C-420C giữ nguyên 4-5 ngày liền. Nếu sốt từng cơn ngắn hơn là do ghép với Samonella, xuất huyết chân, móng chân, lúc đầu chảy nhiều nước, có khi có mũ. Giác mạc mắt bị viêm, có trường hợp thuỷ thũng, mắt tan ra, sốt cao, đi táo. Khi sốt hạ đi ỉa chảy, phân có lẫn máu, mùi thối khắm, niêm mạc mồm, răng, lợi có nốt loét, giữa có bựa vàng, hạch ruột sưng, viêm phúc mạc.
Hô hấp viêm phế quản phổi, lúc đầu ho khan, sau chuyển sang ho ướt, vật thở khò khè. Xuất hiện triệu chứng thần kinh, do xuất huyết não và màng nao, hai chân sau bại liệt, có khi liệt toàn thân. Kiểm tra máu thấy hồng cầu giảm, bạch cầu tăng. Bệnh kéo dài 1-2 tuần, thân nhiệt hạ xuống 360C con vật chết.
4.3. Thể mãn tính
Lợn bị bệnh Dịch tả lợn ở giai đoạn này thường đi táo. Sau chuyển sang đi tháo, gầy còm, suy kiệt nhanh. Bệnh kéo dài 2 tháng, tuỳ sức đề kháng của cơ thể mà con vật có thể khỏi hoặc chết. Khi khỏi thường ở thể mang trùng, vi trùng luôn thải ra ngoài môi trường.
5. Bệnh tích
Bệnh Dịch tả lợn thường là gây bại huyết, xuất huyết niêm mạc các khí quan phủ tạng. Hầu họng xuất huyết, niêm mạc miệng có nốt loét, ruột non, van hồi manh tràng xuất huyết loét. Ruột già nốt loét bắt đầu từ nang lâm ba, viêm lồi lên tróc ra. Lách có hiện tượng nhồi huyết, ở rìa lách có tổ chức lồi lên giống hình tam giác, lồi lõm không đều, giống hình răng cưa. Hạch lâm ba xuất huyết nặng, ở rìa màu đen, có hình chấm hoặc hình vân. Thận có màu đỏ sẫm, có điểm xuất huyết đầu đinh gim. Bể thận ứ máu. Bàng quang xuất huyết, viêm phế quản phổi, gian chất giữa các tiểu thuỳ thấm Fibrin. Da có xuất huyết ở đầu chân móng.
Bệnh Dịch tả lợn ở thể mãn tính, ruột già dày cứng lên, trong ruột có phủ một lớp màng giả, là do Fibrin kết hợp với chất bại tiết tạo thành. Phổi viêm, màng phổi, phổi dính vào xương sườn, phổi có vùng xơ hóa. Hệ thần kinh trung ương bị viêm, xuất huyết nặng. Nếu ghép với Samonella, thường viêm nặng ở đường tiêu hóa, lách sưng to, nếu ghép với Tụ huyết trùng thì phổi bị xơ hóa.
6. Chẩn đoán
6.1. Chẩn đoán lâm sàng
Bệnh Dịch tả lợn lưu hành rất lớn, nhanh, mạnh, rộng ở tất cả lợn mọi lứa tuổi, mẫn cảm nhất là lợn con sau cai sữa. Có rất nhiều triệu chứng, bệnh tích. Đặc biệt là sốt cao liên tục 3-4 ngày liền vật không ăn, đi táo, ỉa chảy gầy nhanh chết do bại liệt.
6.2. Chẩn đoán do Virus
Tiêm truyền cho lợn con 3-4 tháng tuổi, không có bệnh, lấy máu, bệnh phẩm đã pha, tiêm cho động vật 1-2ml, sau 5-7 ngày thì vật phát bệnh.
6.3. Chẩn đoán huyết thanh học
59
6.3.1. Phản ứng huỳnh quang
Phản ứng huỳnh quang là phản ứng chính xác nhất. Bệnh phẩm là lách, hạch. Kháng nguyên Virus, kháng thể huỳnh quang, nếu có Virus Dịch tả lợn thì có phát quang màu xanh lục.
6.3.2. Phản ứng trung hoà
Chọn hai thỏ khoẻ, tiêm cho nó Virus Dịch tả lợn thiên nhiên cường độc 1ml vào tĩnh mạch tai, để thỏ hình thành miễn dịch trong cơ thể. Sau 5-7 ngày thì miễn dịch bằng cách: tiêm Virus nhược độc với lớn cho thỏ 1ml, đồng thời tiêm cho hai thỏ đối chứng. Hai thỏ thí nghiệm không sốt, tiêm cho hai thỏ mới không sốt, chứng tỏ Virus nhược độc Dịch tả lợn đã bị kháng thể Dịch tả lợn trong máu thỏ trung hoà. Điều đó chứng minh bệnh phẩm chứa Virus Dịch tả lợn. Ngoài ra, còn xử lý trên môi trường tế bào.
6.3.3. Phản ứng kết tủa khuếch tán trên thạch
Dùng 1ml kháng huyết thanh dương tính cho vào giữa kháng nguyên dương tính lấy từ huyễn dịch của lách, hạch lợn. Nếu giữa kháng nguyên và kháng thể có kết tủa rõ, dương tính. Nếu ở giữa kháng nguyên và kháng thể có kết tủa mờ, âm tính (không có bệnh).
6.3.4. Phản ứng gián tiếp ngưng kết hồng cầu gà
Xử lý hồng cầu bằng Tamin bidiazotazala benzidin để làm dính Virus và hồng cầu. Virus là hạch lách nghi có bệnh Dịch tả lợn. Sau đó cho kháng thể vào, nếu có dương tính thì nó tạo thành chuổi ngưng kết.
6.3.5. Phản ứng hoá học màu
Lấy hạch lách nghi mắc bệnh nghiền nát với nước sinh lý, sấy khô, nhỏ Acide nitơric (HNO3) vào đó. Nếu dương tính có màu hồng tím, âm tính có màu vàng.
6.3.6. Phản ứng Sarnowec (1934)
3 là phản ứng dương tính Dùng lợn tới miễn dịch, lấy hạch lách nghiền nát cho nước thầu dầu vào, để vào tủ ấm. Tiêm vào nội bì, sau 24, 48, 72 giờ đo độ cứng của da: Nếu X . X . Y y
X: là chỗ sưng nhiều lần 1, Y là chỗ sưng nhiều lần 2.
6.3.7. Phản ứng tăng cường gây bệnh tế bào Virus Dịch tả lợn
Dùng tế bào dịch hoàn lợn cấy Virus Dịch tả lợn, sau 4-5 ngày cấy Virus. Nếu có Virus Dịch tả lợn sẽ gây bệnh tích tế bào. Nếu kông có Virus không gây bệnh tích tế bào.
6.3.8 Chẩn đoán trị liệu
Dùng kháng huyết thanh Dịch tả lợn để điều trị. Nếu thân nhiệt không hạ, bệnh không khỏi thì đúng là Dịch tả lợn. Dùng Penicilline hoặc Streptomycine, tiêm vào, thân nhiệt không hạ, thì đó chính là Dịch tả lợn, nếu thân nhiệt hạ thì là bệnh khác.
7. Phòng bệnh
7.1. Vệ sinh phòng bệnh
Khi không có dịch, kiểm dịch chặt chẽ không để dịch lan tràn. Khi có dịch thì phải phát hiện, chẩn đoán nhanh. Khi mua lợn về phải nhốt riêng 3-4 tuần để theo dõi. Không có bệnh mới được nhập đàn. Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, hạn chế tham quan. Khi có dịch phải chẩn đoán nhanh, cách ly kịp thời, tiêu diệt con ốm, tiêu độc, sát trùng bằng NaOH 2%, vôi bột, hạn chế mổ giết trong ổ dịch, không nhập, xuất. Công bố hết dịch 30 ngày con ốm cuối cùng khỏi bệnh hoặc chết.
7.2 Dùng Vaccine
Tiêm phòng Vaccine thường xuyên, nếu có dịch phải tiêm bổ sung, tiêm bao vây xung quanh ổ dịch, đưa thẳng Vaccine vào ổ dịch, con ốm phát bệnh, con khỏe có miễn dịch. Vaccine tiêm với kháng huyết thanh để điều trị 2-4ml/1kg trọng lượng. Nhưng chỉ dùng cho gia súc quá quý hiếm mới điều trị, bởi vì bệnh Dịch tả lợn điều trị khỏi nó vẫn còn mang mầm bệnh và mầm bệnh đó luôn thải vào môi trường gây nên sự lây lan truyền nhiễm. BỆNH LỠ MỒM LONG MÓNG
60
(Aphtae epizootica).
Bệnh Lỡ mồm long móng (foot and mouth disease), là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây lan rất nhanh, rất mạnh và rất rộng của nhiều loài vật, nhưng chủ yếu là loài nhai lại, vật nuôi ở nhà và vật ở rừng. Bệnh có thể lây cho lợn và người. Virus có hướng thượng bì, thuỷ hóa các tế bào thượng bì, làm hình thành những mụn nước ở miệng, da, móng, gây tổn thất khá lớn về kinh tế. Bệnh có từ lâu trên thế giới, ở Việt Nam phát hiện năm 1898 ở Nha Trang và sau đó xuất hiện ở các tỉnh khác trong cả nước. Virus có kích thước từ 10-20mer. Có 7 type Virus lỡ mồm long móng: O, A, C, S, A, T-1, S, A, T-2, S,A, T-3 Và Á Đông 1. Gây những triệu chứng lâm sàng giống nhau, nhưng không gây miễn dịch cho nhau. Có thể nuôi cấy Virus Lỡ mồm long móng trên tổ chức da, trên màng nhung niệu, trên thượng bì lưỡi bò. Virus có sức đề kháng tương đối yếu đun sôi 60-700C trong 15 phút. 1000C chết ngay. Trong tủ lạnh với nhiệt độ dưới O0C thì nó sống được 425 ngày. Trong cỏ khô sống được 8-15 tuần, phân ủ sâu 15cm giệt nó trong 7 ngày, sâu 50cm giệt nó trong 9 giờ. Trong đất ẩm ướt Virus sống hàng năm, trong tuỷ xương, trong phủ tạng nó sống được 40 ngày. Muốn giệt nó phải dùng các chất sát trùng mạnh, thịt ngâm muối 35-40 ngày, Glycerin 50% bảo tồn rất lâu.
2. Truyền nhiễm học
2.1. Loài mắc bệnh
Trâu, bò mắc Lỡ mồm long móng nhiều, sau đó đến dê, cừu, lợn, hươu, nai, nhím, voi, lạc đà. Nhím mắc bệnh tự nhiên vừa chứa Virus qua ngủ đông, ngựa, gia cầm, chim không mắc. Trong phòng thí nghiệm dùng bê, chuột lang để gây bệnh.
2.2. Chất chứa Virus
Virus ở trong mụn nước, trong dịch lâm ba, trong máu, nội tạng. Máu có độc lực từ giờ thứ 18. Trong các chất bài tiết và bài xuất, nước bọt, nước mũi, nước mắt, phân, sữa.
2.3. Đường xâm nhập
Virus Lỡ mồm long móng xâm nhập vào đường tiêu hóa là chủ yếu. Virus qua niêm mạc vết thương ở da, vú. Ngoài ra còn qua đường sinh dục, đường hô hấp.
2.4. Cách sinh bệnh
Lỡ mồm long móng có thời kỳ mang bệnh 1-3 ngày, có khi 11 ngày. Virus có hướng thượng bì, gây thuỷ thũng một số tế bào làm hình thành mụn nước, sau đó nó vào máu, vào phủ tạng gây sốt. Sau khi mụn vở các vết têch ở thượng bì được lấp vào nhanh chóng, hoàn sinh nhanh thượng bì, không có sẹo. Con cái và trong một số con trưởng thành, do nguyên nhân chưa rõ. Virus lưu hành trong máu, rồi sinh sản trong nếp nhăn cơ tim, gây bại huyết thoái hóa tim. Virus có thể xâm nhập vào phôi thai. Qua đường tuần hoàn con mẹ, xâm nhập vào thai, gây sẩy thai.
2.5. Cách truyền lây
Bệnh Lỡ mồm long móng có thể truyền trực tiếp từ con ốm, sang con khoẻ qua nước bọt do nhốt chung, chăn thả chung. Cũng có thể lây gián tiếp qua thức ăn, nước uống. Truyền qua chó mèo chim muông. Có trường hợp khỏi bệnh, nhưng vẫn chứa Virus ở móng chân, máu, nước tiểu. Người cũng yếu tố lây lan quan trọng. Việc vận chuyển gia súc đi xa cũng là nguyên nhân lây lan bệnh. Bệnh có thể truyền từ mẹ qua bào thai.
3. Triệu chứng
Trâu, bò bë bệnh Lỡ mồm long móng, thời gian nung bệnh 2 - 7 ngày, có khi 16 giờ. Vật ủ rũ lông dựng, đầu, mũi, khô, da nóng, sốt 400C-410C. Đầu gục xuống, tai và đuôi không ve vẩy. Nằm hoặc đứng khó khăn, kém ăn, mụn bắt đầu nổi lên niêm mạc mồm, chân.
3.1. Triệu chứng ở miệng
Thời kỳ đầu miệng nóng, lưỡi dày, cử động khó, có khi không thè lưỡi ra ngoài. Niêm mạc mũi, chân răng khô, đỏ ửng. Mụn bàõt đầu mọc lên hàm trên, phía trong mép chân răng, môi, lợi, lưỡi. Lúc đầu bằng hạt kê, lớn dấn bằng hạt ngô, quả mận. Lúc đầu trong, dần về sau đục. Một vài ngày, mụn vỡ, để lộ lớp niêm mạc, mặt dưới đỏ. Khi mụn chưa vở nước bọt chảy ra ít, trong, vật ăn thức ăn khó, nhai ra bọt trắng, mụn vỡ nước dãi chảy ra nhiều, có khi lẫn máu và nước lâm ba. Con vật hay chép miệng, triệu chứng ở mũi có mụn loét màu xanh.
3.2. Triệu chứng ở chân
61
Con vật kém ăn mụn ở chân xuất hiện, móng nóng đau, vành móng và kẻ móng hơi sưng, da móng có màu trắng hồng, tụ máu phồng lên, con vật đứng không yên, chân đau, nhấc lên, thả xuống như giã gạo, bước bằng mũi của móng, không bước được nhanh, có khi què nặng. Con vật nằm một chỗ, vành móng cương mũ phồng lên, mụn rõ ở kẻ chân. Khi vỡ chỗ da sau gót cũng bị loét, có khi bị long móng, con vật đau nặng. Mụn có mùi hôi thối, sau 10-15 ngày chân lành lên da non, con vật đi lại bình thường.
3.3. Triệu chứng ở vú
Mụn nước mọc lên ở vú, xung quanh vú bị sưng đỏ và đau. Mụn nước to dần vỡ ra để lai vẩy, làm cho vú bị tổn thương. Việc vắt sữa khó khăn do con vật không cho vắt.
3.4. Triệu chứng ở bộ phận khác
Ngoài ra bệnh Lỡ mồm long móng, còn có mụn ở âm hộ, hạch, ngực, bụng, kế phát bệnh khác có chứng viêm mũ ở miệng. Vú bị tắc sữa, khí quản, phổi nổi mụn. Vi trùng vào máu gây bại huyết nặng ác tính. Bại huyết ở gia súc non thuỷ thũng ở tương mạc, nhiễm qua tuần hoàn tim suy nhược vật chết.
3.5. Triệu chứng ở lợn
Lợn mắc bệnh Lỡ mồm long móng thường biểu hiện ở 4 chân long móng. Lỡ mồm chủ yếu là ở trâu, bò sang. Lợn kém ăn, thở nhiều. Đầu vú, bụng mọc mục, chảy nước dãi. Mụn vỡ kẻ móng đứt, long móng, da loét. Bệnh kéo dài 1-2 tuần, lợn gầy yếu sức đề kháng kém dẫn đến vật chết.
3.6 Triệu chứng ở dê, cừu
Dê, cừu mắc bệnh Lỡ mồm long móng thường nhẹ, mụn mọc ở miệng và biến nhanh. Mụn ở chân thì giống ở bò, làm cho con vật què phải quỳ xuống ăn.
3.7 Triệu chứng ở người
Bệnh Lỡ mồm long móng lây sang người là do chăm sóc trâu, bò bệnh, hoặc uống sữa súc vật ốm. Virus Lỡ mồm long móng xâm nhập vào da hoặc qua đường tiêu hóa, hô hấp gây sốt, mụn mọc lên ở đầu ngón tay, bàn tay, cánh tay, mặt chân, đầu vú. Mụn nhỏ, ngứa, gải nhiều, có khi có ở lưỡi, mồm. Có trường hợp gây nôn mữa, đi ỉa chảy bệnh kéo dài 4- 8 ngày có trường hợp 3 tuần.
4. Bệnh tích
Bệnh tích bệnh Lỡ mồm long móng chủ yếu ở đường tiêu hóa, niêm mạc có mụn loét, có màng xuất huyết thối, hoặc tụ máu. Hô hấp, viêm khí quản, cuống phổi, màng phổi. Bệnh tích tim, cơ tim biến chất nên dễ nát, có vết xám, màng tâm nhỉ có chấm xuất huyết đầu đinh gim. Lách sưng đen, chân loét, móng long. Có khi gây thoái hóa cơ vân.
5. Chẩn đoán
5.1. Chẩn đoán lâm sàng
Dựa vào triệu chứng, bệnh tích bệnh Lỡ mồm long móng. Phân biệt với Dịch tả trâu, bò vết loét đặc biệt ở đường tiêu hóa.
5.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Tiêm truyền Virus Lỡ mồm long móng trên lưỡi bò 2 giờ, mụn mọc lên. Khía da chuột lang bôi vào, 12 giờ mụn mọc, có thủy thũng, đau ở chỗ khía. Dùng phản ứng kết hợp bổ thể. Kháng huyết thanh đã biết hoặc kháng thể trong vật ốm, kháng nguyên là mụn bọc. Kháng huyết thanh chế từ chuột lang tối miễn dịch, kháng thể xuất hiện ở ngày thứ 7, hàm lượng đạt tối đa 2-3 tuần, sau giảm.
6. Phòng bệnh
6.1. Vệ sinh phòng bệnh
Đây là một bệnh lây lan mạnh. Vì vậy, công tác kiểm dịch, kiểm soát vận chuyển, cách li tiêu độc, sát trùng. Lập đội phòng dịch, công bố dịch. Dùng Vaccine tiêm thẳng vào ổ dịch, tiêm bao vây xung quanh bằng các loại Vaccine Formol keo phèn. Vaccine đơn giá tiêm 2 lần mỗi lần 20ml, cách nhau 10 ngày. Dùng huyết thanh miễn dịch 20ml/100kgP.
6.2 Dùng thuốc
62
Dùng huyết thanh miễn dịch 120ml-500ml tuỳ trọng lượng lớn bé. Chữa mụn loét bằng khế, chanh, xoa mật ong, thuốc đỏ 1%, phèn chua, Acide acetic 1-3%, thuốc tím 10/00 . Chữa móng, than xoan 2 chén. Cây nhọ nồi (cỏ mực) 1 chén. Phèn chua, diêm sinh 1/3 chén. Lá đào (phía bắc) 1 năm. Nghệ 3 cũ. Dầu lạc (dầu đậu phụng) 1 chén. (Cũ nghệ, lá đào cho vào dầu đun sôi để nguội, trộn với các thứ còn lại đã giã nhỏ thành huyễn dịch bôi, đắp vào chỗ loét. Bồ hóng, vôi tôi, thuốc lào. Lá trầu không + thuốc lào + dầu hoả + măng vòi, mỗi thứ một ít giã nhỏ thành huyễn dịch, đắp vào chống dòi. Tiêm Menciere (Acide benzoic) 2g + cồn 900 10g, Gaiacon 8g nước, cất 1.000ml. Tiêm mỗi lần 20-40ml, tiêm hàng ngày, cách 1 ngày tiêm một lần, tiêm 3-4 lần. Chống biến chứng tiêu hóa Bicácbonát náttri, Sunfát náttri, Mazeclorua 20g trong 1 lít nước ưống. Uống trong 4 ngày, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 1 lít. Kết hợp với các thuốc trợ sức, trợ lực.
BỆNH LOÉT DA QUĂN TAI (Malignant catarrhal feve ofcalte) 1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Loét da quăn tai (viêm màng mũi thối loét) của trâu, bò là một bệnh truyền nhiễm tán phát, có tính chất lưu hành địa phương, gây ra do một Virus. Thể hiện bằng những triệu chứng viêm niêm mạc da, đặc biệt là niêm mạc hô hấp, tiêu hóa và kết mạc mắt. Chứng viêm này có khuynh hướng thối loét và sinh màng giả, có khi bệnh biến ở thần kinh trung ương. Bệnh thấy nhiều nơi trên thế giới. Ở nước ta, bệnh Loét da quăn tai có nhiều ở Trung Bộ bắt đầu từ 1923, Kông Tum, Qui Nhơn, Bình Định và một số tỉnh khác. Bệnh phát ra liên tục trong các năm. Năm 1995 bệnh phát ra hầu như cả nước, không những trâu, bò mà cả trên lợn, làm thiệt hại khá lớn về kinh tế. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có chỉ thị về phòng chống bệnh này.
Cùng với Virus Loét da quăn tai, một số tạp khuẩn như E.coli, Pasteurenlla xuất hiện.... Có thể tiêm truyền cho động vật thí nghiệm cảm thụ, thỏ, phôi gà, bê.... Loài cừu không mắc bệnh, nhưng là loại động vật mang trùng hàng năm và truyền cho gia súc khác. 1. Truyền nhiễm học 2.1 Loài mắc bệnh Trong thiên nhiên, bò và trâu mắc bệnh Loét da quăn tai nhiều nhất. Bò cảm thụ hơn trâu. Bò từ 1-4 tuổi mắc nhiều hơn. Nước ta súc vật non hoặc những con gầy yếu hay mắc. Lợn, dê, ngựa cũng mắc. Cừu mắc bệnh ở thể ẩn. 1.2 Chất chứa Virus
Máu con vật ốm bệnh Loét da quăn tai có độc lực, nhất là máu lấy lúc con vật sốt (phải dùng 300-500ml tiêm mới gây bệnh được). Não, hạch lâm ba cũng có độc lực. Nước mắt, nước mũi, mụn ở vú, và các phụ tạng nghiền nát không có độc lực. 2.3 Cách sinh bệnh
Thời kì nung bệnh Loét da quăn tai rất thay đổi và tương đối dài: Từ 14-150 ngày. Từ 15-60 ngày, sau khi tiêm vào mạch máu của con ốm. Thời gian 3,5 tháng hay hơn sau khi sống chung, hoặc sống cạnh cừu chứa Virus Loét da quăn tai. Căn bệnh có thể gây trúng độc chung cho cơ thể. Sau khi căn bệnh lưu hành trong máu một thời gian, rồi vào phủ tạng, niêm mạc, não, mắt, gây viêm và gây thẩm xuất bạch cầu ở chu vi mạch quản. Sự trúng độc này bằng sự rối loạn tăng bài tiết, chảy nước dãi, nước mắt, nước mũi, ỉa chảy, viêm, rối loạn mạch quản tụ máu. Cùng với những biến chứng của Vi khuẩn kế phát gây nên, sinh mủ, hoại tử dung bào lớp thượng bì niêm mạc. 2.4. Đường xâm nhập
Trong tự nhiên, Virus Loét da quăn tai có thể vào cơ thể theo ống tiêu hóa, cũng có thể theo hệ thống hô hấp. Trong phòng thí nghiệm có thể truyền bệnh, bằng cách tiêm những chất có độc lực (máu, não, hạch lâm ba, gan, lách...) vào các đường khác như: duới da, tĩnh mạch, não, hạch.
2.5 Cách lây lan
Trong điều kiện tự nhiên, bệnh Loét da quăn tai thường lây trực tiếp từ con ốm sang con khỏe. Cách truyền bệnh có thể do loài cừu truyền sang loài nhai lại, vì cừu mang Virus ở thể ẩn trong nhiều năm. Có thể do một loài vật khác truyền sang : Hươu, nai, loài gậm nhấm, gà. Có thể là súc vật bị nhiễm trùng từ trước và nhân một sự mất thăng bằng của cơ thể, do mắc một bệnh khác, sức đề kháng sút kém. Con vật trở nên cảm thụ với bệnh này, bệnh phát ra. 3. Triệu chứng Thời gian nung bệnh Loét da quăn tai từ 10-15 ngày, có khi kéo dài 4-10 tháng, thể hiện ra các thể sau. 3.1 Thể cấp tính
Bệnh Loét da quăn tai súc vật ở tuổi nào cũng có thể mắc bệnh. Nhưng mẫn cảm nhất là súc vật non, con vật thể hiện ủ rủ, kém ăn hoặc bỏ ăn, không nhai lại, lông dựng đứng. Sốt 400C -410C, thở nhanh, thở gấp, tim đập mạnh, không đều,
63
sốt từng cơn, nằm một chỗ, run rẫy. Sưng, nóng, miệng nóng chảy nước dãi nhiều. Đi táo, nước tiểu đỏ thẩm. Ngoài ra còn có triệu chứng ở bộ máy tiêu hóa, sinh dục, tiết niệu và thần kinh.
3.1.1 Triệu chứng của bộ máy hô hấp
Con vật khó thở, tiếng thở khò khè như người ngáy, nước mũi chảy ra lúc đầu trong, sau lẫn mũ, có màu nâu nhạt, có mùi hôi thối, lẫn những mảnh thương bì và màng giả. Niêm mạc ở hai lổ mũi và xoang mũi con vật có cảm giác đau. Cuối tuần lễ đầu tiên xuất hiện nhưng biến chứng ở ngực, viêm cuống phổi, viêm phổi, phổi có màng giả.
3.1.2 Triệu chứng ở mắt
Lúc đầu viêm kết mạc mắt có chất nhờn và mũ. Mi mắt sưng, có khi xuất huyết dưới kết mạc ngày thứ 3. Kết mạc đỏ tía, mắt nữa nhắm, nữa mở, sâu lõm vào trong lỗ mắt, nước và mũ chảy ra, con vật sợ ánh sáng, chói mắt và đau nhức ở vùng quanh mắt. Giác mạc sưng lên và đục hẳn đi, màu trắng ngà gọi là mắt cùi nhãn. Có thể viêm mống mắt, trong trường hợp nặng giác mạc loét ra, con vật mù.
3.1.3 Triệu chứng ở da
Triệu chứng này hay gặp ở nước ta, ở những vùng có khí hậu nóng ẩm, xuất hiện những mụn đỏ trên cơ thể, nhưng thường hạn định ở một vùng. Phía trên cổ, lưng, hông, và những vùng da mền như: nách, bụng, háng, đùi, vú. Những mụn đỏ này tróc da nhanh chóng trở nên đỏ úa, không chảy nước, không có thủy thũng xung quanh. Có khi mọc lên những mụn đỏ rỏ rệt. Sau đó xuất hiện những mảng da hoại tử, những mảng da thối ở những vùng khác nhau, có ranh giới rõ ràng, thượng bì đóng vảy, lông dính lại với nhau, thường thấy ở những vùng quanh móng, vành móng, vùng dịch hoàn. Đầu tiên viêm nặng và đau, rồi chảy nhiều nước hay mũ, da rụng từng mảng. Tai, những chổ vành sẹo co rúm lại, vành tai uốn cong và teo. 3.1.4 Triệu chứng ở bộ máy tiêu hóa
Niêm mạc miệng bị tụ máu, nhất là ở lợi, vòm khẩu cái, phía dưới cuống lưỡi, má, môi. Niêm mạc phủ bựa xám, có những mảng thượng bì thối nát thành màng giả bong ra, rụng đi, để lại những mụn loét. Có khi mụn loét to bằng hạt ngô dưới đầu lưỡi, sau 2 ngày mụn loét, nước dãi chảy ra có màu nâu lẫn những mảnh vụn của thượng bì. Vùng có mụn lóet rất đau, mỗi cử động của lưỡi, môi đều làm cho con vật đau. Do đó mà con vật nuốt khó, không nhai lại, lúc đầu đi táo, gần chết đi tháo, con vật đau bụng. Có triệu chứng của viêm ruột, phân hôi thối lẫn mảnh vụn của thượng bì.
3.1.5 Triệu chứng ở bộ máy sinh dục và tiết niệu
Con vật đi đái ít, nước tiếu có nhiều Anbumin, có khi lẫn máu và mũ. Có thể viêm niệu đạo. Viêm bàng quang, viêm thận sinh mủ. Con cái thường bị viêm âm đạo có màng giã, hoặc viêm dạ con có dịch ngoại xuất. Thể nặng bị sẩy thai, sản xuất sữa bị ngưng trệ.
3.1.6 Triệu chứng thần kinh
Thể ở não làm cho thần kinh bị rối loạn, sau thời kỳ kích thích thì đến thời kỳ ủ rủ, cũng có những con run rẩy như bị động kinh, khi gần chết tê liệt nữa thân dưới, bại liệt chân sau. Có trường hợp vật hốt hoảng, điên loạn, hung dữ.
3.2. Thể quá cấp tính
Triệu chứng cũng như thể cấp tính, bệnh tiến triển nhanh chóng. Vật sốt 410C-420C. Biến chứng ở phổi, ruột tiến triển nhanh.
3.3 Thể nhẹ
Bước đầu khi con vật nhiễm bệnh có những triệu chứng dữ dội. Thời gian đầu có thể ở dạng cấp tính. Có triệu chứng ngoài da, tụ máu, đau, thuợng bì khô cứng, bóc ra nội bì vàng như nghệ, thành sẹo nhanh.
4. Bệnh tích.
So với Dịch tả trâu bò, xác chết Loét da quăn tai ít gây hơn, thường có màu vàng. Bệnh tích ở bộ máy tiêu hóa viêm có màng giả, và cục máu, có mụn loét không đều, chổ sát răng hàm, thường có những vùng thối loét, ruột chứa phân thối dính chất nhờn màu trắng nhạt. Bệnh tích ở bộ máy hô hấp. Xoang mũi tụ máu nặng, có hoại tử thối loét lớn. Niêm mạc đường hô hấp bị viêm toàn bộ, có màng giả, tụ máu phổi, viêm cuống phổi, phổi thối loét. Bệnh tích đường sinh dục tiết niệu, có nước ngoại xuất. Màng giả ở gan, thận, tim, não, bắp thịt tụ máu, viêm màng não, não tủy.
5. Chẩn đoán 5.1. Chẩn đoán lâm sàng
64
Bệnh Loét da quăn tai có tính chất địa phương lẻ tẻ, phát ra trong vùng nhất định. Tái phát từ ổ dịch cũ. Bò và trâu mẫn cảm nhất, sau đến lợn. Mũi loét, chảy nước mũi có màng giả. Mắt cùi nhãn, viêm giác mạc, đục, trằng ngà, chảy nước mắt lẫn mũ. Tai quăn, rụng từng mảng, da loét.
5.2. Chuẩn đoán phân biệt
5.2.1. Bệnh Dịch tả trâu, bò
Bệnh Dịch tả trâu bò lây lan nhanh, mạnh, rộng. Chảy nhiều nước mắt, nước mũi, có dữ mắt. Mũi êt khi loét, nước mũi màu vàng sau đục. Triệu chứng ở da mụn có nước, mũ, tróc vẩy có lổ hay màng to có nước, phân thối khắm lẫn máu. Bộ máy tiêu hóa, loét ở đường tiêu hóa có phủ bựa vàng.
5.2.2 Lỡ mồm long móng
Bệnh Lỡ mồm long móng lây lan mạnh giữ dội, chảy nước mắt đặc, ít khi loét mũi, loét ở đầu và giữa lưỡi từng mảng to, mụn ở khẻ chân, long móng, mụn ở chổ da mỏng không có lông. Có khi đi tháo lẫn máu. Bộ máy tiêu hóa mụn loét sâu, có viền, chảy nước bọt nhiều đặc dính. 6. Phòng trị 6.1. Vệ sinh phòng bệnh:
Cách ly con ốm, tiêu độc sát trùng chuồng trại, chăm sóc nuôi dưỡng tốt. Dùng Vaccine phủ tạng tiêm thẳng vào ổ dịch, hoặc dùng huyết thanh.
6.2. Điều trị
Nước sinh lý 0,8% tiêm mỗi ngày 5-6 lít, tiêm 3 lần. Cho uống thêm nước muối đặc, ngày thứ nhất 250g, ngày thứ hai 150g, ngày thứ ba 60g, ngày thứ tư 40g. Atoxin dung dịch 10%, tiêm 10-15ml mỗi ngày, tiêm 5-10 ngày Novasenonbenzon 1-4g mỗi ngày, chia làm 3 lần trong 3-4 ngày liên tiếp tiêm tĩnh mạch, dung dịch 10%. Naganol 5g trong 100ml nước tiêm tỉnh mạch. Sunfamid tiêm bắp thịt 30ml, dung dịch Dagenan 33/100 mỗi ngày một lần trong 4-5 ngày. Cloruacanci tiêm tĩnh mạch 200-300ml dung dịch 10%. Penicilline mỗi ngày 500.000-600.000UI trong vài ngày liền, đồng thời cho uống Sunfamid 6g /100P mỗi ngày. Urotrofin tiêm tỉnh mạch 8-14g trong dung dịch 25%. Calagon tiêm tỉnh mạch 30ml, nước sinh lý pha Formol 10% và Adrenalin 2-3 lần cách nhau 48 giờ, hoặc 3-5g Formol 10%. Rửa bằng Acide boric, Fèn chua, Fèn xanh , muối, nước chanh, khế, thuốc tím 5 %, Crezine.
Chữa mắt AgNO3 l/200, ZnSo 1%, HgCl.2 1/250. Chữa tiêu hóa: Salon, Napton, chống đi táo Sunfatnatri.
BỆNH NIU-CÁT- XƠN (Newcastle)
1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Newcastle còn gọi là điểm căn bệnh gà rù, là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, xuất huyết, viêm và loét niêm mạc đường tiêu hóa, hô hấp. Cuối thới kỳ bệnh tác động đến thần kinh.
Bệnh Newcastle có từ lâu, người ta tìm ra nó ở thành phố Newcastle (Anh 1926-1928). Bệnh có khắp nơi trên thế giới lưu hành rộng rãi nhất ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Việt Nam có từ lâu và lan truyền suốt từ Bắc đến Nam. Năm 1949 Jacotot đã chứng minh bệnh Newcastle ở Vịêt Nam bằng chẩn đoán thí nghiệm. Năm 1956 Nguyễn Lương và Trần Quang Nhiên đã khẳng định lại sự có mặt của bệnh trên các tỉnh Miền Bắc.
Newcastle thuộc nhóm Paramixo. Là một ARN Virus, hình cầu, có đuôi trông giống tinh trùng. Virus có khả năng ngưng kết hồng cầu gà, phát triển trong phôi thai gà, quá trình phát triển độc lực tăng, sức đề kháng mầm bệnh lớn. Nếu có gà chết, mầm bệnh sống 1 tháng trong chuồng. Gà bệnh sau khi khỏi mầm bệnh tồn tại 7 ngày đến 2 tháng. Trong vỏ trứng mầm bệnh tồn tại 21 ngày.
2. Truyền nhiễm học
2.1 Loài mắc bệnh
Trong thiên nhiên các loài gà mắc bệnh không kể lứa tuổi. Ngoài ra vịt, ngỗng, ngan cũng mắc, nhưng ít hơn, người cũng bị nhiễm bệnh, sốt viêm kết mạc mắt.
2.2. Cách sinh bệnh
65
Virus Newcastle sau khi xâm nhập vào cơ thể, phát triển nhanh, đi vào máu, từ máu vào phủ tạng gây bại huyết. Virus tiết ra độc tố pha vỡ tổ chức mao mạch gây xuất huyết, sau đó dẫn đến hoại tử. Gà biều hiện chứng ủ rủ, lờ đờ, hôn mê. Phần lớn gà nhiễm bệnh thường chết ở thời kỳ nhiễm trùng huyết, đó là thể cấp tĩnh.
2.2. Đường truyền lây
Bệnh Newcastle lây trực tiếp từ con ốm sang con khỏe, bằng con đường tiêu hóa, qua thức ăn, nước uống, qua hô hấp, qua sinh dục. Gián tiếp qua mua bán, vận chuyển, do giết mổ bừa bãi, do các loại vật khác mang tới trong đó có con người.
3. Triệu chứng
Thời kỳ nung bệnh Newcastle 3-5 ngày, bệnh tiến triển theo ba thể chính, thể quá cấp, thể cấp thường xuất hiện đầu ổ dịch. Bệnh tiến triển nhanh, con vật chỉ ủ rũ cao độ vài giờ rồi chết.
Thể cấp tính là phổ biến. Trong đàn gà xuất hiện một số con ủ rũ, kém hoạt động bỏ ăn lông xù như khoác áo tơi. Gà con đứng chụm từng nhóm. Gà lớn tách đàn ngẩn ngơ. Gà trống thôi gáy, gà mái ngừng đẻ. Nền chuồng có nhiều bãi phân trắng. Gà bệnh thường sốt cao 420C-430C. Hô hấp khó, mào, yếm, tích tím bầm, miệng có nhiều dịch tiết ra. Tiêu hóa, cầm chân lộn ngược lên có nước màu vàng chảy ra lẫn thức ăn, diều chứa nhiều nước. Thần kinh chân tê liệt, bắp thịt co giật 90-100%.
Ngỗng liệt các chân, nằm chân co lại, biểu hiện triệu chứng co giật.
Newcastle thể mãn tính thường ở cuối ổ dịch, rối loạn hệ thần kinh trung ương, cơ năng vận động biến loạn nặng do tổn thất tiểu não. Đầu nghẹo ra sau, đang đi tới bổng dưng lùi lại, ngã lăn ra, lên cơn co giật. Mặc dầu ít khi xảy ra, nhưng bệnh Newcastle có thể lây cho con người. Gây viêm kết mạc mắt, hạch lâm ba ngoài biên. Viêm phổi khó thở, trẻ nhỏ có thể bị viêm màng não. Điều trị Tetracyline sẽ giúp cho quá trình hồi phục nhanh hơn.
4. Bệnh tích
Tùy theo thể bệnh Newcastle khác nhau mà bệnh tích khác nhau. Thể quá cấp thường không rõ bệnh tích. Đôi khi chỉ thấy dấu hiệu ở ngoài tam mạc, màng ngực, niêm mạc hô hấp.
Thể cấp tính bệnh thường toàn diện, điển hình, xoang miệng, mũi chứa nhiều dịch nhờn, màu đục. Niêm mạc hầu, họng, khí quản xuất huyết, viêm, phủ màng giả Fbrin. Một số trường hợp tổ chức liên kết ở vùng đầu và hầu bị phù thũng. Diều không có thức ăn hoặc thức ăn chưa tiêu, chứa nước màu vàng.
Dạ dày tuyến và dạ dày cơ xuất huyết trầm trọng. Ruột có nhiều điểm xuất huyết, loét hình cúc áo, trong niêm mạc có điểm hoại tử. Vành tim xuất huyết từng điểm. Não có hiện tượng xuất huyết. Buồng trứng, dịch hoàn xuất huyết, có con noãn hoàng vỡ, viêm phúc mạc. Gan có đám hoại tử hóa mỡ nhẹ. Ngoài ra còn thấy ở màng bao tim, xoang ngực, bề mặt xương ức, thoái hóa viêm không có mủ của nơ ron thần kinh, với sự thấm nhiễm của tế bào Lympho quanh mạch quản.
5. Chuẩn đoán bệnh
5.1. Chuẩn đoán lâm sàng dịch tể
Động vật chủ yếu là gà, tỷ lệ chết cao. Bệnh Newcastle phát sinh quanh năm, nhưng phát rộ nhất vào vụ đông xuân. Căn cứ triệu chứng đường tiêu hóa, uống nhiều nước, phân có màu trắng ngà, màu thâm tím.
5.2. Chẩn đoán thí nghiệm
5.2.1. Tiêm truyền động vật thí nghiệm
Lấy gan, lách, cho vào cối sứ nghiền nát với nước sinh lý (20ml nước), tạo thành huyền dịch 1/20 xử lý bằng kháng sinh, rút 1ml tiêm cho gà khỏe 3-5 con gà cảm thụ, theo dõi 3-5 ngày các triệu chứng đầu tiên sẽ xuất hiện. Sau 7-10 ngày gà chết với các bệnh tích tương tự.
5.2.2. Gây nhiễm cho phôi thai
Từ huyền dịch chế sẵn lấy 0,1-0,2ml tiêm vào túi niệu mô 5 phôi thai 10 ngày tuổi, sau 30-48h, phôi chết, mổ ra thấy toàn thân xuất huyết. Với bệnh phẩm trên có thể gây nhiễm cho tế bào tổ chức bào thai gà.
5.3. Chẩn đoán huyết thanh học
5.3.1. Ngưng kết hồng cầu gà
66
Virus Newcastle kết hợp hồng cầu lắng xuống. Huyết thanh chẩn đoán cần phải được khử hoạt tính ở 560C trong 30 phút. Phản ứng có thể thực hiện trong ống nghiệm hay trên phiến kính. Phản ứng đánh giá dương tính khi huyết thanh chẩn đoán ở nồng độ hơn 1/20 vẫn cho ngưng kết. Phản ứng nghi ngờ khi hiện tượng ngăn trở ngưng kết xảy ra ở nồng độ huyết thanh 1/20. Phản ứng HI không những làm trong ống nghiệm mà ngay cả trong ổ dịch. Giỏ lên phiến kính đã tẩy sạch mỡ 1 giọt nước trứng có chuẩn độ 1/6.200. Để chống đông máu thêm 1% Natrixitrat. Sau đó dùng ống hút lấy 1 giọt máu từ tỉnh mạch cánh, giỏ lên phiến kính cùng với giọt Virus trộn đều, sau 3-5 phút đọc kết quả. Phản ứng dương tính khi hiện tượng ngưng kết hồng cầu gà (HI) xảy ra.
5.3.2. Phản ứng trung hòa
Bằng cách trộn huyết thanh gà với Virus Newcastle có sẵng, rối tiêm cho phôi thai, hay gây nhiễm cho tế bào tổ chức gà, sự bảo hộ của phôi thai hay tế bào tổ chức, chứng tỏ sự có mặt của kháng thể tương ứng trong huyết thanh. Tương tự có thể lấy huyễn dịch tiêm cho 4 gà đã được tiêm phòng, với 4 gà đối chứng chưa được tiêm phòng, 4 gà đối chứng sẽ phát bệnh chết, chứng tỏ gà thí nghiệm đã được bảo hộ.
6. Phòng trị
6.1. Vệ sinh phòng bệnh
Mục đích là ngăn chặn không cho dịch lây lan đến vùng an toàn dịch, hoặc tiêu giệt căn bệnh Newcastle làm giảm bớt thiệt hại kinh tế. Không xuất nhập con bệnh, không mang gà bệnh và sản phẩm gà bệnh từ ổ dịch ra ngoài, không mổ thịt bừa bãi, hạn chế tham quan, không bán chạy gà ốm, gà chết phải chôn. Thường xuyên làm vệ sinh chuồng trại. Dùng các chất sát trùng để tẩy uế chuồng và dụng cụ chăn nuôi thường xuyên. Luôn phát quang xung quanh khu vực chăn nuôi. Không nuôi các động vật khác cùng với gà.
6.2. Bằng Vaccine
Hiện nay có hai loại Vaccine gây miễn dịch chủ động. Vaccine Lasota dùng cho gà mới nở đến 3 tháng tuổi, bằng cách nhỏ mắt, nhỏ mũi, cho uống,cho ăn, khí dung. Sau 8-11ngày sau khi dùng thuốc có miễn dịch và thời gian bảo hộ 3 tháng. Vaccine Newcastle tiêm cho gà từ 3 tháng tuổi trở đi tiêm vào bắp thịt 1ml. Sau 7-10 ngày có miễn dịch và niễm dịch được 6 tháng đến 1 năm. Nếu dùng đúng qui trình thì đàn gà sẽ được bảo hộ tốt an toàn với dịch bệnh.
BỆNH ĐẬU LỢN (Variola suilla) 1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Đậu lợn là một bệnh truyền nhiễm nhẹ của loài lợn, nhất là lợn con có triệu chứng nụn Đậu, nụn nước lẫn mủ ở da. Bệnh do Gohier phát hiện ra năm 1817 và sau đó phát hiện ra nhiều nơi trên thế giới. Nước ta, bệnh Đậu lợn phát triển rất nhiều nơi, nhất là vùng đồng bằng, vùng lợn nái, trại chăn nuôi tập trung và cả trong dân.
Đậu người, Đậu bò, Đậu lợn có thể truyền cho nhau, nhưng không gây miễn dịch cho nhau. Virus Đậu lợn có hình thái giống Virus Đậu bò, nhưng không gây mụn ở da động vật thí nghiệm như thỏ, chuột. Trong tế bào thượng bì Virus hình thành tiểu thể Môrôsôp. Virus Đậu lợn có những thay đổi về độc lực, do khí hậu thời tiết. Nhưng nó sống lâu trong vảy Đậu, cũng như trong nước sinh lý pha thêm 50% Glycerine, hoặc Acide fenic 0,7%. 2. Truyền nhiễm học 2.1 Loài vật mắc bệnh
Bệnh Đậu lợn là bệnh của loài lợn, nhất là lợn con từ 4-5 tháng tuổi, cảm thụ với bệnh và có thể truyền cho lợn mẹ đang nuôi con. Lợn mẹ mắc bệnh thời kỳ có chữa có thể truyền miễn dịch cho con. 2.2 Chất chứa virus.
Mụn, vảy Đậu ngoài da chứa nhiều Virus nhất. Dịch lâm ba, các tổ chức, chất tiết các mụn Đậu trên các niêm mạc, nước mũi, phân, nước dãi, nước mắt, máu, hạch, phủ tạng con vật lúc sốt đều có độc lực. 2.3 Cách sinh bệnh
Virus Đậu có hướng thượng bì, chúng sinh sản trong tế bào thượng bì, phá hoại tế bào gây ra mụn Đậu trên da. Khi sinh sản trong tế bào nó làm tăng tốc độ phân chia tế bào, gây thấm tương dịch vào lớp thượng bì, tạo thành nốt sần, bên trong tạo thành hệ thống xoang ngăn cách. Miệng túi tiếp xúc phát triển, trên đỉnh tạo thành một vùng lỏm, trong các xoang sinh sản có chất dịch dính có mảnh tế bào bị dung giải, hình thành dịch Đậu. Dần dần từng khối bạch cầu tập trung nhiều ở đó, từ mụn nước sang mụn mũ. Cuối cùng mụn Đậu khô đóng vảy, thượng bì hoại tử được thay bằng thượng bì mới. Lợn khỏi bệnh được miễn dịch lâu dài. 2.4 Đường truyền lây
67
Virus vào cơ thể từ vết thương ngoài da, vết cắn của rận, có thể qua hô hấp, tiêu hóa. Bệnh trực tiếp từ con ốm sang con khỏe, gián tiếp qua loài rận hút máu con ốm, truyền cho khỏe, hoặc thành chuồng con ốm xát vào, người cũng mang mầm bệnh từ dụng cụ, dày dép. 3. Triệu chứng bệnh 3.1 Thể quá cấp tính
Bệnh Đậu tiến từ 2-3 ngày, mụn mọc lên trên cơ thể, ban đầu niêm mạc mắt, mũi, miệng. Có trường hợp mụn mọc ở bộ máy tiêu hóa, hô hấp, viêm ruột ỉa chảy, viêm phổi, sưng hạch cổ, hạch hầu tỷ lệ chết trên 40%. 3.2 Thể cấp tính
Thể Đậu này hay gặp, thời kỳ đầu con vật sốt. Thân nhiệt 41oC-42oC, niêm mạc mắt mũi tụ máu. Thở nhanh, thở mạnh, thở gấp, lông dựng, ăn kém. Mạch đập nhanh. Sau đó xuất hiện mụn đỏ tụ máu trên da, con vật ngứa, sau vài ngày xuất hiện nốt sần đỏ nhỏ bằng hạt đậu ở giữa đỏ. Sau vài ngày trở thành mụn nước lẫn mủ có màu trắng, hoặc trắng xanh, chung quanh đỏ, hoặc tím bầm. Lớp da trên mụn vỡ ra có nước màu vàng, có khi lẫn máu và mũ, mụn khô dần để lại vết thương nhỏ màu đỏ, trên phủ vảy do dịch lâm ba thẩm xuất sinh ra, vảy khô bong ra còn lại sẹo, sẹo mất đi dần. 3.3 Thể nhẹ
Thể Đậu này không có triệu chứng rõ, mụn đậu xuất hiện ở bụng, đùi, nách, mụn phát triển nhanh khô cứng, tạo thành vảy dính liền da, thường thấy ở lợn mẹ nuôi con. 4. Bệnh tích.
Có các kiểu mụn Đậu từ mẫn đỏ đến nốt sần, mụn nước, mủ, loét, vẩy và sẹo trắng, hai bên sườn hoặc toàn bộ cơ thể, thường bị tăng sinh và phát triển vào những lớp sâu, da loại tử tạo vảy bong ra. Nếu có nhiễm trùng kế phát sinh thì nơi đó thấm bạch cầu. Nếu bộ máy tiêu hóa bị tác động thì có viêm ruột, viêm manh tràng, loét dạ dày, lách, gan, thận tụ máu, hạch sưng tụ máu. 5. Chẩn đoán bệnh
Chuẩn đoán lâm sàng không khó khăn lắm, giai đoạn đầu bệnh có triệu chứng chung, sốt, ủ rũ, hình thành mụn đỏ. Sau chuyển sang mụn Đậu, có nước có mủ có vảy, thành sẹo. Tiêm mụn Đậu cho thỏ, không gây mụn trên da thỏ. Có thể chẩn đoán bằng cách tìm tiểu thể Môrôsôp trong mụn Đậu. 6. Phòng bệnh
Cách ly con ốm, tiêu độc chuồng, dụng cụ, ổ lót, bồi dưỡng chăm sóc tốt để tăng sức đề kháng, sức chống đỡ bệnh tật. Chống lây lan tiêu diệt rận, ruồi, muổi, các loại côn trùng, tiết túc, bằng các loại hóa chất sát trùng. Dùng kháng sinh để chống kế phát. Dùng thuốc trợ lực.
BỆNH DỊCH TẢ VỊT (Pestis ana tum) 1. Đặc điểm căn bệnh
Dịch tả vịt là một bệnh truyền nhiễm cấp tính của loài vịt, do Virus thuộc họ Hec fec gây ra cho vịt mọi lứa tuổi, rất cảm nhiễm, tỷ lệ chết cao. Đặc điểm Virus gây viêm, xuất huyết da và các phủ tạng. Thường chết nhanh ở tình trạng bại huyết. Bệnh phát ra nhiều nhất vào mùa gột vịt. Bệnh phát triển đầu tiên 1923 Hà Lan do Jan sen tìm ra. Bệnh lần lượt được phát hiện ở một số nước. Nước ta bệnh phát hiện ra từ năm 1963, từ đó tới nay rải rác ở các nơi.
Virus Dịch tả vịt mẫn cảm với Ete, Clorofoc. Nó phát triển tốt trên môi trường phôi thai vịt 10-12 ngày tuổi. Phôi chết sau khi tiêm vài ngày xuất huyết rõ trên mình, phù thũng gan, lách sưng. Ngoài ra có thể nuôi cấy trên phôi thai ngổng. Virus Dịch tả vịt có sức đề kháng yếu với nhiệt độ, ở 37oC trong 12 giờ Virus mất khả năng gây bệnh. Dung dịch Glycerine 50% ở 0oC -4oC bảo quản được 3 tháng, ở dạng đông khô giữ được 6 tháng. Các chất sát trùng như xút 2%, Acide fenic 5% Virus Dịch tả vịt bị tiêu diệt nhanh chóng. 2. Triệu chứng bệnh
Khi nhiễm bệnh hiện tượng lây lan rất nhanh. Vịt sốt, chảy nhiều nước mắt, nước mũi, mũi và miệng luôn bầm, mắt có cuồng ướt rõ. Vịt không thích bơi, ít kêu, lùa xuống nước không muốn xuống. Mắt nhắm lại sợ ánh sáng. Hậu môn dính phân màu xanh, nát, lỏng, hầu sựng vịt gầy sút nhanh, thân nhiệt dưới mức bình thường vịt chết. 3. Bệnh tích
Bệnh Dịch tả vịt xác gầy, mũi miệng bầm, phân bết ở hậu môn. Khi vặt lông thấy toàn bộ da xuất huyết đen thẩm từng nốt đầu đinh gim. Tổ chức liên kết phù thũng, keo nhầy rất nặng. Toàn bộ ruột từ dạ dày đến hậu môn xuất huyết. Trên có phủ một lớp màng mỏng, bệnh nặng có vết loét hình tròn. Lách sưng tụ máu, gan, phổi tụ máu, viêm. Bao tim viêm, xoang tim tích nước màu vàng. Buồng trứng căng phồng, tụ máu hoặc vở, trứng méo mó, xoang bụng chứa nhiều lòng đỏ do trứng non vở. Màng não viêm xuất huyết. Nếu có Vi khuẩn kế phát thì viêm ruột tràn lan, ỉa cháy kéo dài, một số cơ quan hoại tử.
68
4. Chẩn đoán bệnh 4.1 Chẩn đoán phân biệt
Bệnh Tụ huyết trùng vịt cũng gây chết nhiều nhưng dùng kháng sinh dập tắt nhanh chóng. Bệnh Phó thương hàn vịt, điều trị bằng hợp chất Parazolodon thì bệnh dừng lại. 4.2 Chẩn đoán thí nghiệm
Lấy bệnh phẩm gan, lách, hạch nghiền nát với sinh lý thành huyễn dịch 1/20, xử lý kháng sinh, tiêm cho 4-5 vịt cảm thụ, trọng lượng 1kg, mỗi con 1ml dưới da. Sau 2-3 ngày vịt sốt, chảy nước mắt, ỉa chảy, bại liệt. Sáu đến tám ngày vịt chết. Mổ khám thấy bệnh tích xuất huyết da, niêm mạc, phủ tạng. Lấy huyễn dịch đã pha ở trên tiêm vào phôi vịt 10-12 ngày tuổi, sau 4-6 ngày thai chết, thấy xuất huyết dưới da, phù thũng rõ, gan hoại tử. Mặt khác có thể cấy vào môi trường tế bào. 4.3 Chẩn đoán huyết thanh học Trong phòng thí nghiệm có thể làm phản ứng trung hòa: tiêm huyễn dịch bệnh phẩm nghi mắc bệnh cho vịt đã được tiêm phòng bệnh không phát ra, chứng tỏ vịt đã được bảo hộ, còn vịt đối chứng chưa tiêm phòng, bệnh phát ra giống như Dịch tả vịt thiên nhiên. Trộn huyễn dịch bệnh phẩm 20% trong nước sinh lý với lượng tương đương kháng huyết thanh dịch tả vịt đã chế sẵn, để hỗn hợp trong tủ ấm 37oC trong 1-2 giờ. Chọn 5 vịt mỗi con 1kg, tiêm mỗi con 2ml vào dưới da, có thể làm trên 12 phôi vịt ấp tiêm 0,3 ml. Tiêm cho một số con khác, hoặc phôi thai khác, nhưng không có kháng huyết thanh để làm đối chứng, vịt khỏe theo dõi 2 tuần, thai một tuần. Nếu có Virus trong bệnh phẩm, vịt và thai vịt được bảo hộ, còn vịt và thai đối chứng chết. Chứng tỏ Virus đã được trung hòa. 5. Phòng bệnh 5.1 Vệ sinh phòng bệnh
Những nơi chưa có bệnh Dịch tả vịt, tốt nhất nên tự túc con giống. Khi tạo đàn không nên nhập chung nhiều đàn nhỏ lại. Lò ấp trứng cũng không nên ấp quá nhiều đàn. Sau mỗi lần ấp trứng cần tẩy uế máy rồi sát trùng kỹ bằng Formol. Cần tránh để thức ăn, chuồng nuôi, nguồn nước, bãi chắn ô nhiễm căn bệnh. Không nên chăn thả vịt trên cùng một cánh đồng đang có vịt bệnh. Những trại vịt có số lượng đông cần tăng cường vệ sinh chuồng trại, thực hiện nghiêm túc nội qui phòng bệnh, hạn chế người ra vào trại. Vịt mới mua về nên nhốt riêng ít nhất 10 ngày để theo dõi. Nếu không bị bệnh mới cho nhập chung đàn. Những nơi thường xuyên có bệnh cần thực hiện nghiêm ngặt qui trình tiêm phòng hàng năm. Những vùng thường bị bệnh, những đàn mắc bệnh nên giết hết, chôn. 5.2. Phòng bằng Vaccine
Vaccine và nước trứng thu được từ phôi thai đã cấy Virus 12 ngày tuổi, khi tiêm pha loãng với nước sinh lý thành huyến dịch 1/200 tiêm từ 0,2-1ml vào dưới da. Thời gian 7- 15 ngày có miễn dịch, miễn dịch kéo dài 1 năm. Vì vậy hàng năm phai tiến hành tiêm phòng thường xuyên.
BỆNH VIÊM GAN DO VIRUS (Hipatilus anatum) 1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Viêm gan do Virus là một bệnh truyền nhiễm của vịt với các bệnh tích đặc trưng ở gan. Căn bệnh là một ARN Virus thuộc nhóm Picorna không ngưng kết hồng cầu. Nuôi cấy trong phôi thai vịt 13-14 ngày tuổi. Virus có sức đề kháng tương đối cao với nhiệt, hóa chất. Trong tự nhiên nó sống được 15-40 ngày. Trong rơm rạ độn chuồng, và thức ăn rơi vãi, ở 37oC Virus tồn tại được 48 giờ, 60oC tồn tại trong 30 phút, Lizon 2% ở 37oC trong vòng 60 phút, Formol 0,1% ở 37oC 8 giờ, Formol 1% 3 giờ. 2. Truyền nhiễm học
Căn bệnh Viêm gan do Virus gây chủ yếu cho vịt con 1-3 tuần tuổi. Bệnh truyền lây trực tiếp giữa vịt bệnh, vịt mang trùng và vịt khỏe. Xâm nhập chủ yếu qua đường tiêu hóa. Gián tiếp qua dụng cụ, qua người chăm sóc, và một số động vật khác mang trùng truyền lây. Virus xâm nhập vào cơ thể qua tiêu hóa, hô hấp, vết thương rồi vào máu. Từ máu đi đến các cơ quan phủ tạng, chủ yếu là gan. Trao đổi chất bị rối loạn, Glucogen trong gan giảm, Lipit tăng, trao đổi Colesteron bị đình trệ, sức đề kháng bị giảm sút, tế bào gan bị phá hoại gây xuất huyết gan. Virus sinh sản nhiều tế bào Kupfơ làm cho cơ thể không giải độc được, mất chức năng giải độc của gan, con vật chết do ngộ độc. 3. Triệu chứng
Thời gian mang bệnh 2-4 ngày, vật mệt nằm một chỗ, đầu nghẹo ra sau hoặc một bên, co giật chết, cũng có trường hợp chết hàng loạt mà không có triệu chứng đầu ngẹo, chân thẳng ra sau. Nếu kết hợp với Samonella gây ỉa chảy nặng. 4. Bệnh tích
69
Bệnh tích chủ yêu của bệnh Viêm gan do Virus là gan, toàn mặt gan có nốt xuất huyết bằng đầu đinh gim, màu đỏ rìa gọn, đôi khi có nốt nhỏ li ti cạnh những đám tụ máu, hoặc màu vàng nhạt, các tổ chức bị thoái hóa. Lách sưng, thận tụ máu, nếu có kế phát với bệnh khác. Thì gan hoại tử màu vàng trắng.
5. Chẩn đoán 5.1 Chẩn đoán phân biệt
Dựa vào các đặc điểm dịch tễ, triệu chứng bệnh tích, phân lập kiểm tra Virus mà phân biệt với các bệnh sau: Phó thương hàn, chữa khỏi bằng kháng huyết thanh và kháng sinh. Dịch tả vịt: xuất huyết ở gan, bao tim, màng ngực, niêm mạc dạ dày, ruột, bệnh gây cho vịt ở mọi lứa tuổi, chết hàng loạt. 5.2 Chẩn đoán thí nghiệm
Chế bệnh phẩm với huyễn dịch 10-20% trong nước sinh lý. Tiêm 0,2ml cho vịt mới nở. Sau một thời gian nung bệnh, 48-92 giờ bệnh phát ra, mổ khám thấy các điểm xuất huyết ở gan. 5.3 Chẩn đoán huyết thanh học
Phản ứng trung hòa: lây huyết thanh của con vật nghi, hoặc của con vật mắc bệnh còn sống sót sau hai tuần, phản ứng thực hiện trên thai vịt, hoặc là vịt đã được tiêm phòng, dùng huyết thanh nghi tiêm 0,5-1ml cho phôi thai hoặc vịt khỏe 4-5con, sau một thời gian bệnh không phát ra vịt đã được bảo hộ. Cùng với thí nghiệm dùng 4-5con làm đối chứng bệnh xảy ra. 6. Phòng trị
Dùng bằng huyết thanh vịt khỏi, hoặc đã miễn dịch. Tiêm 0,5-2ml cho vịt 2-5 tuần tuổi, làm giảm độc qua thai gà, với liều 0,1-0,2ml để trở thành Vaccine. Vệ sinh phòng bệnh: tiêu độc lò ấp bằng Formol, xút, Clorua vôi.
BỆNH VIÊM PHỔI ĐỊA PHƯƠNG CỦA LỢN (SEP) 1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Viêm phổi truyền nhiễm còn gọi là bệnh Suyễn lợn, là một bệnh viêm phổi địa phương của lợn, thuộc nhóm P.P.L.O (Mycolplasma suis nenmovie). Đó là căn bệnh chính. Ngoài ra còn kết hợp với Vi khuẩn Mycoplasmocis. Chủ yếu là triệu chứng bệnh tích ở đường hô hấp làm viêm phế quản, phổi, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Làm cho con vật sinh trưởng và phát triển chậm, tỷ lệ chết cao. Nếu nuôi dưỡng và chăm sóc kém. Bệnh có từ lâu trên thế giới, nhưng ở Việt Nam xuất hiện từ năm 1959. Việc nghiên cứu nguyên nhân bệnh hàng năm nay có nhiều công trình của một số nhà bác học anh, Mỹ. Người ta đã nuôi cấy và phân lập trên môi trường P.P.L.O, môi trường này chỉ dành riêng cho loại vi trùng này và cũng từ môi trường này mới phân lập được. Việc chẩn đoán Virus học bằng cách tìm kháng thể trong huyết thanh súc vật ốm. Bằng phản ứng trung hòa Virus, cho phát hiện những hiệu giá kháng thể cao. 2. Truyền nhiễm học 2.1 Loài mắc bệnh
Bệnh Viêm phổi truyền nhiễm gây chủ yếu cho loài lợn nhất là lợn con sau cai sữa 2-6 tháng chết nhiều, lây lan nhanh, bên cạnh đó còn có lợn mẹ đang thời kỳ có chữa và sau khi có chữa. 2.2 Chất chứa mầm bệnh
Trong cơ thể con vật mầm bệnh có nhiều ở phổi, chủ yếu là ở 3 thùy, thùy tim, thùy đỉnh, thùy hoành cách mô. Trong dịch của phế quản, ở trong mũi. Những con khỏi bệnh còn mang bệnh một thời gian dài, ở trong đường hô hấp. 2.3 Đường xâm nhập
Mầm bệnh xâm nhập chủ yếu vào đường hô hấp, rồi tiến thẳng vào phổi còn các đường khác không lây. 2.4 Cách sinh bệnh
Sau khi cơ thể bị một tác nhân nào đó, làm cho cơ thể yếu đi, mầm bệnh xâm nhập vào, đường hô hấp, vào phổi gây bệnh tích chủ yếu ở phổi. Trong 2 lá phổi, ở cả 3 thùy đối xứng nhau. Trong giai đoạn này, phổi cũng như ở trong cơ thể con vật, bạch cầu đơn nhân, đa nhân tăng, có khi lấp cả tiểu phế quản. Nếu ở phổi có nhiều vi khuẩn khác cư trú, thì làm cho quá trình viêm ngày càng tăng. 2.5 Cách lây lan và truyền bệnh
Bệnh Viêm phổi truyền nhiễm truyền duy nhất bằng con đường hô hấp. Con vật thở khó, thở mạnh, ho nhiều, lây lan nhanh. Có thể lây từ lợn mẹ sang lợn con. Trong điều kiện chăn nuôi kém, chuồng không hợp vệ sinh hoặc quá trình vận chuyển, thời tiết thay đổi. 3. Triệu chứng Thời kỳ nung bệnh 3-4 tuần biểu hiện các thể sau: 3.1 Thể cấp tính
70
Thời gian đầu bệnh phát triển chưa rõ ràng, vật kén ăn, ít hoạt bát, thân nhiệt không thay đổi, dần dần các triệu chứng xuât hiện, vật hắt hơi, khó thở, hô hấp nhanh. Từ ho khan chuyển sang ho ướt, nếu có Vi khuẩn kết hợp thì tỷ lệ chết tương đối cao (75%) nhất là đối với lợn con. Lợn nái và lợn trưởng thành có thể khỏi, nhưng sau khi đẻ xong, nếu tái phát dễ bị chết. 3.2 Thể thứ cấp tính
Bệnh kéo dài 1-2 năm, thường biểu hiện ở lợn pha tạp hay lợn đang thời kỳ bú mẹ. Biểu hiện thở khó, hô hấp tăng. Nếu ghép với Tụ huyết trùng thì thân nhiệt cao, con vật bỏ ăn và có thể chết. 3.3 Thể mãn
Từ cấp hoặc thứ cấp chuyển sang thể mãn con vật biểu hiện ở triệu chứng hô hấp, ho từng tiếng, từng chuỗi, từng hồi dài. Sau khi ăn xong con vật thở nhanh, hô hấp tăng, thân nhiệt tăng. Nếu có Vi khuẩn kế phát thì con vật dẫn đến ỉa chảy, thời gian kéo dài 3-6 tháng có khi hàng năm, nếu điều kiện chăn nuôi không tốt con vật gầy còm, còi cọc. 4. Bệnh tích
Bệnh tích chủ yếu là ở phổi, viêm phế quản phổi cả 3 thùy. Giai đoạn đầu chấm viêm bằng hạt gạo màu đỏ, sau phát triển to dần thành từng mảng có giới hạn rõ ràng, ở chổ có bệnh tích và không có bệnh tích. Viêm đối xứng nhau giữa 2 lá phổi, giai đoạn này biểu hiện 4-5 ngày. 8-10 ngày sau hình thành đám viêm gan hóa có màu đỏ nhạt, bề ngoài bóng loáng, bên trong hơi mềm gọi là phổi kín, có chất keo bên trong màu nâu gọi là phổi nhục hóa. Cắt ra giống như thịt, có bọt, có nước, mất tính chất của phổi, không dai, không mền, cứng, sự vận chuyển oxy mất dần, hô hấp khó.
16-20 ngày sau, vùng viêm cứng dần, mặt ngoài cứng lại, cắt ra bên trong có màu trắng nhạt, gọi là phổi tùy tạng hóa. Nếu có Vi khuẩn kế phát nó sẽ tạo thành những ổ mủ. Màng phổi có chất Fibrin dính vào lồng ngực từng đám một. Hạch phổi, hạch khí quản sưng to, thấm nước không có hiện tượng xuất huyết, vùng viêm phế quản phổi mờ đi, vùng viêm càng nặng vết mờ càng lan dần. Trong giai đoạn này nếu làm phiến đồ thì thấy trong tổ chức có sự tăng sinh lớn của lám ba cầu. Ngoài ra còn một số bệnh tích, phế quản viêm đỏ, khí quản viêm có bọt, có nước, có máu và có mủ. Nếu có Vi khuẩn thứ phát kết hợp, như: bệnh tụ huyết trùng thì vùng gan hóa của phổi rộng lớn hơn sâu vào trong kèm theo sự hoại tử, tạo những đám bã đậu, có Vi khuẩn nung mủ, hình thành những ổ áp xe. Bệnh tiến triển lan ra ở các khí quản phủ tạng. 5. Chẩn đoán 5.1 Chẩn đoán lâm sàng dịch tể học
Dựa vào triệu chứng bệnh tích chủ yếu là đường hô hấp. Đặc biệt là ở phổi. Phổi bị viêm ở cả 3 thùy của 2 lá phổi đối xứng nhau. 5.2 Nuôi cấy phân lập
Dùng bệnh phẩm là phổi, nghiền nát với nước sinh lý, tạo thành huyễn dịch cấy lên môi trường P.P.L.O (xử lý bằng kháng sinh Penicilline hoặc Streptomycine). Để ủ ấm 37oC trong vòng 3-5 ngày, thấy trên môi trường khuẩn lạc mọc lên rất nhiều. Lấy khuẩn lạc phết lên kính nhuộm bằng phương pháp nhuộm Giemsa. Nó có hình cầu, hình tròn, hoặc hình trứng có đường kính từ 0,2-0.5µ hoặc 0,5-0,8µ . 5.3 Tiêm truyền động vật thí nghiệm
Dùng lợn con từ 10-30 ngày tuổi, lấy bệnh phẩm ở huyễn dịch trên tiêm vào phổi hoặc nhỏ mũi. Theo dõi trong vòng 5 tuần, bệnh phát ra. Giết lợn, lấy phổi nghiền nát, pha huyễn dịch 1/20ml, cho kháng sinh vào diệt tap khuẩn. Sau đó cấy vào môi trường P.P.L.O để tủ ấm 37oC trong vòng 30', kiểm tra kết quả. 5.4 Chẩn đoán huyết thanh học
Cũng có thể làm phản ứng kết hợp bổ thể. Phản ứng ngưng kết trong ống nghiệm. Phản ứng ức chế sinh trưởng. Ức chế chuyên hóa, giống như các bệnh khác. 5.5 Chẩn đoán X quang
Khi con vật chiếu vào X quang ta sẽ phát hiện được những đám viêm đối xứng trên phổi của con vật. Việc chẩn đoán này chính xác và loại trừ được các bệnh khác. 5.6 Chẩn đoán tổ chức học
Việc chẩn đoán tổ chức học nhằm phát hiện ra bạch cầu. Hiện tượng viêm phế nang, tương mạc, đại thực bào. Bệnh tích ở tổ chức hình lưới phát triển. 6. Phòng bệnh
Phòng khi chưa có dịch, nên tự túc con giống, hạn chế nhập lợn mới về. Nếu nhập về phải nhốt riêng ít nhất là 1-2 tháng để theo dõi. Không dùng các loại lợn không có lý lịch rõ ràng. Cách ly con ốm, vệ sinh, chăm sóc tốt. Thường xuyên sát trùng chuồng trại, tiêu độc bằng Formalin 3%, Crezine 10% hoặc xút 2-5%, chú ý: khi tiêu độc không có gia súc ở trong chuồng.
71
Dùng thuốc Tymulin 100-200g/1 tấn thức ăn 7-10 ngày. Nếu tiêm bắp 10-15 mg/1kgP, thời gian 3-5 ngày. Strepnovil tiêm da hoặc tiêm bắp 0,5-1,5ml/1 kgP. Liều dùng 3-5 ngày. Tylosinphotphát tiêm bắp liều 10mg/1kgP 3-5 ngày (có thể dùng kháng sinh đặc hiệu khác) kết hợp bổ trợ B1, C, Cafein, Bcomplex.
BỆNH NẤM PHỔI GIA CẦM (Pneumoniposis, Aspergillosis Avium) 1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Nấm phổi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, của gia cầm con. Gây tỷ lệ chết cao. Đặc trưng của bệnh là hình thành các u Nấm màu vàng xám ở phổi và thành các túi hơi. Bệnh nấm mốc ở phế quản và túi hơi gia cầm được Meiơ Meyer phát hiện lần đầu tiên năm 1815 ở Đức. Từ năm 1841 nấm phổi lần lượt được tìm thấy ở các loại gia cầm, loài có vú và người. Năm 1855 Freusesius nghiên cứu nấm ở cơ quan hô hấp gia cầm và đặt tên cho căn bệnh là Aspergillosis fumigatus. Từ đó bệnh có tên là Aspergillosis. Hiện nay bệnh có khắp nơi trên thế giới, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu bệnh này, nhưng trong khi mổ khám xác chết của nhiều loại thủy cầm, thường xuyên thấy các dấu hiệu mãn tính của bệnh nấm phổi.
Trong các khối u, sợi Nấm có đường kính 3-4µ, chia nhánh bào tử xếp thành chuổi có kích thước 2,5-3µ bắt màu tốt với Lactofucsin. Có thể nuôi cấy nấm dễ dàng trên môi trường thạch Furo, thạch Saburo, thạch Manto, ở nhiệt độ 30oC, khuẩn lạc có dạng đen mịn trắng, sau chuyển sang vàng sám hay xanh tro. Trong phòng thí nghiệm có thể gây bệnh cho thỏ, chuột lang bằng cách tiêm bào tử Nấm vào tỉnh mạch. U nấm sẽ xuất hiện ở phổi. Nấm có sức đề kháng lớn với nhiệt độ và hóa chất. Hấp khô ở nhiệt độ 120oC mất 1giờ, đun sôi 5 phút Nấm mới chết. Các hóa chất như Formol 2,5%, Acide salicilic 2,5% mới diệt được Nấm. 2. Truyền nhiễm học
Trong thiên nhiên tất cả các loại gia cầm, chim đều mắc bệnh, nhưng vịt và ngỗng dể cảm thụ nhất. Con non cảm thụ bệnh hơn con già, tỷ lệ chết cao hơn, bệnh ở loài gia cầm lớn thường ở thể mãn tính. Nguồn bệnh nhiễm là từ thức ăn, ổ rơm, máy ấp. Bệnh lây chủ yếu qua đường hô hấp, gia cầm hít phải sẽ nhiễm bệnh. Bệnh thường phổ biến ở những nơi nuôi công nghiệp, nuôi tập trung mật độ lớn. Ngoài đường hô hấp có thể lây qua đường tiêu hóa, qua thức ăn, nước uống. Trong thực tế bệnh Nấm có liên quan trực tiếp với dùng rơm rạ, cỏ khô độn chuồng. Việc lưu hành của bệnh còn phụ thuộc vào mùa vụ và sức đề kháng của cơ thể. 3. Triệu chứng
Cơ thể sinh bệnh: sau khi vào niêm mạc đường hô hấp, hoặc tiêu hóa, bào tử nấm theo máu vào địa điểm ký sinh. Tại đây, bào tử nẩy mầm thành sợi Nấm tăng lên gấp bội, tạo ra các u Nấm to nhỏ, màu trắng xám ở phổi. Cấu tạo của u Nấm gồm: sợi Nấm và bào tử Nấm, tế bào khổng lồ, tế bào lâm ba và dịch xuất. 4. Bệnh tích
Bệnh tích điển hình là sự hình thành khối u to nhỏ, màu vàng xám ở phổi. U nấm thường có ở 2 thể: thể u hạt, thể tràn lan. Thể hạt: khuẩn lạc có giới hạn rõ ràng trên bề mặt của tổ chức. Thể này thường thấy trong bệnh cấp tính. Thể tràn lan các hạt Nấm không có giới hạn, mọc khắp ở các tổ chức. Thường thấy ở bệnh mãn tính. Phổi có thể bị viêm phù và tụ máu đỏ. Niêm mạc khí quản xung huyết, chứa nhiều dịch nhờn, chứa nhiều mủ và Fibrin. Ngoài ra còn có bệnh tích Nấm ở gan, lách, cơ tim. Trong tim bệnh nấm thường xuất hiện ở nội tạng. Ngoài ra bệnh Nấm còn phát triển ở phúc mạc. Niêm mạc dạ dày và ruột viêm đỏ. 5. Chẩn đoán bệnh 5.1 Chẩn đoán phân biệt
Phân biệt với bệnh Thương hàn gà. Viêm phế quản truyền nhiễm, Lao gà. Bệnh Thương hàn gà có những nốt trắng ở phổi gần giống như nấm phổi, nhưng đó là điểm hoại tử.
Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm, thì phế quản viêm nặng và không có bệnh tích ở các cơ quan khác.
Bệnh Lao, nốt Lao bên trong bị đậu hóa hoặc canxi hóa và sâu vào trong các tổ chức gan, lách, ruột, tủy xương. 5.2 Chẩn đoán thí nghiệm
Phết kính bệnh tích hạt nấm hay dịch xuất của phổi, phủ tạng. Nhuộm Lactofucsin để tìm sợi nấm. Cũng từ bệnh phẩm có thể nuôi cấy phân lập căn bệnh trên môi trường, hoặc trên động vật thí nghiệm. 6. Phòng trị
Công tác vệ sinh chuồng trại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc phòng bệnh Nấm. Vì vậy không nên tích trữ thức ăn quá lâu, hoặc rơm rạ quá ẩm trong chuồng, phải thường xuyên thay đổi chất độn chuồng, giữ cho nền chuồng khô ráo, thoáng mát. Không ấp trứng từ lò ấp, hoặc trứng đã nhiễm Nấm. Có thể thực hiện bằng cách 1m vuông nền xông 40ml Formol duy trì trong 24 giờ. Việc duy trì sức đề kháng cho con vật có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy trong khẩu phần
72
thức ăn có thể bổ sung Vitamine A, B, C.. có thể dùng các hóa chất điều trị như, dung dịch diệt Nấm Iode-kali 0,8% cho uống hoặc Flavofungin, Fungixiline hòa với nước theo tỷ lệ 350.000-425.000 trong 1lít, phun dưới dạng khí dung. Mỗi ngày cho gia cầm hít thở 6 phút, hoặc dùng kháng sinh Micostatin, hoặc Tricomicine hoặc Penicilline, Biomicine, Tetramincine có tác dụng diệt Nấm.
BỆNH NẤM ĐƯỜNG TIÊU HÓA CANDIDA (Candidamycosis, slomatilis, oidica, oidiomycosis, soor, trush, moniliasis) 1. Đặc điểm căn bệnh
Bệnh Candida là một bệnh chung cho người và gia súc. Hay thấy hơn cả là ở gia cầm. Đặc điểm chủ yếu của bệnh là xuất hiện những khuẩn lạc mền ở dưới hình thức các chấm trắng. Hay màng giả niêm mạc mồm, thực quản, diều, dày tuyến.
Bệnh Nấm Candida đầu tiên được Ambodic Macximovich miêu tả năm 1718 ở người, sau đó đến Plan phát hiện trên gia cầm. Hiện nay bệnh có nhiều trên thế giới. Ở Việt Nam có nhiều dấu hiệu của bệnh nhưng chưa phát dịch. Candida là loại Nấm men đơn bào có đường kính 2-4µ, sinh sản thành chuổi và sinh nội độc tố.
Có thể nuôi cấy trên thạch Saburo có 2% đường Gloco và một số loại môi trường khác. Nhiệt độ thích hợp 20-37oC. Nếu thêm vào môi trường chất nhủ Mucine coctizon, Oreomycine, Tetramycine, sẽ kích thích Nấm phát triển và tăng độc lực. Trong phòng thì nghiệm, cảm thụ nhất là chuột bạch, thỏ, phôi thai gà. Tiêm cho chuột con 20 ngày tuổi 0,5- 1ml canh trùng Nấm vào phúc mạc, sau 1-10 ngày chuột có triệu chứng bệnh, vật gầy yếu, tăng bạch cầu. Mổ thấy những hạt Nấm nhỏ màu trăng ở gan, lách, phổi, thận.
Candida albicans có sức đề kháng yếu, trong mũ, nước tiểu, căn bệnh tồn tại trong vòng 1 tháng. Tia nắng mặt trời, nước sôi diệt nhanh. Sức nóng 700C Nấm mất hoạt lực sau 10-15 phút. Nhưng sức đề kháng sẽ tăng lên trong điều kiện khô và lạnh. Các chất diệt nó như Iode kali, Iode, Formol 2%, Metiolat cloramin đều có tác dụng diệt Nấm tốt.
2. Truyền nhiễm học
Trong thiên nhiên Candida gây bệnh cho hầu hết các loại gia súc và người. Căn bệnh phân bố rộng rãi trong thiên nhiên, có thể tìm thấy tế bào nằm trong đất, rơm, rạ, phân, chất độn chuồng. Trong bại xuất của con vật ốm. Nguồn truyền lây trực tiếp là gia cầm và trứng gia cầm. Trong những nguyên nhân làm bệnh phát sinh là sức đề kháng cơ thể yếu. Vitamin A có ý nghĩa giúp niêm mạc chống đỡ sự xâm nhập của tế bào Nấm. Dùng các loại kháng sinh như Biomicine, Tetracycline, Penicillin có khả năng kích thích tế bào Nấm phát triển.
Nấm Candida không gây bệnh trên niêm mạc lành. Tế bào chỉ nảy sinh ở nơi tổn thương, gây hoại tử niêm mạc, làm bỏng các tế bào thượng bì, gây thẩm dịch và phù các tổ chức dưới niêm mạc. Sau đó theo máu vào lâm ba đến các cơ quan thực thể. Làm xuất hiện các bệnh tích hạt trong gan, tim, thận. Phá hoại cơ năng tuần hoàn, thần kinh.Gây nhiễm trùng huyết làm cho vật chết.
3. Triệu chứng
3.1. Thể cấp tính
Thể này thời gian nung bệnh trong vòng 3 ngày, chỉ xuất hiện ở loại gia cầm con từ 5-10 ngày tuổi. Đầu tiên chỉ vài con sau lan ra cả đàn. Gà ủ rũ, biếng ăn, ỉa chảy. Giai đoạn cuối con bệnh có thể bị liệt chân, sau đó chết.
3.2. Thể á cấp tính
Thể này kéo dài trong vòng 3-15 ngày, chủ yếu ở loại gà 10-45 ngày tuổi. Dấu hiệu đầu tiên xuất hiện những đốm trắng trên niêm mạc miêng, hầu, họng, dần dần phát triển thành màng giả lan khắp niêm mạc. Niêm mạc bóc ra để lộ những vết loét màu đỏ, sau chuyển sang màu vàng. Giai đoạn này con vật ủ rũ, kém ăn, sau vài ngày ỉa chảy cánh liệt, mồm há, dần dần con vật kiệt sức chết. Bệnh ở gà từ 1-3 tháng ít chết và thường chuyển sang thể mãn tính. Thông thường chỉ thấy con vật chậm lớn, nhẹ cân, chúng trở thành nguồn truyền nhiễm.
4. Bệnh tích
Bệnh tích điển hình tập trung ở niêm mạc đường tiêu hoá. Xoang miệng chứa nhiều niêm dịch màu trắng đục. Lưỡi, hầu lốm đốm những chấm trắng xen lẫn với niêm dịch nhầy màu trắng sữa hay trắng xám. Trường hợp bệnh nặng, khuẩn lạc phát triển thành màng giả màu trắng đục che phủ niêm mạc phần đường tiêu hoá, nếu bóc đi để lộ vết loét khá sâu. Bệnh biến ở diều rất điển hình, niêm mạc diều phủ nhiều niêm dịch màu trắng sữa, dưới lớp dịch nhờn là những điểm
73
trắng rãi rác khắp xen kẻ với những điểm xuất huyết. Bệnh có thể lan đến túi hơi làm vỡ túi hơi. Bệnh lan đến dạ dày và ruột làm cho dạ dày, ruột chứa nhiều dịch nhờn màu trắng, đôi chỗ có tụ máu xuất huyết. Trên gan, thận, tim, màng não, thấy những chấm trắng có đường kính từ 1-2mm, đối chỗ xuất huyết. Kiểm tra tổ chức học các ổ bệnh tích sẽ thấy sợi Nấm, các tế bào tổ chức bị phá huỷ. Các tổ chức bị thoái hoá đôi chỗ thấy hoại tử.
5. Chẩn đoán bệnh
Bệnh Nấm Candida biểu hiện dễ nhầm với bệnh thiếu Vitamin A, bệnh Âáûu gà thể yết hầu. Vì vậy cần phải kiểm tra bằng phương pháp soi tiêu bản, phết kính bệnh tích màng giả, niêm mạc hay các ổ hoại tử từ phủ tạng, làm sạch tiêu bản bằng cách ngâm xút 10% hay Lactofenol từ 15 - 20phút. Nhuộm Gram, Giemsa hay xanh Cotol. Trường hợp cần thiết có thể nuôi cấy phân lập hay tiêm truyền động vật thí nghiệm.
6. Phòng trị
Phòng bệnh Nấm chủ yếu dựa vào sức đề kháng của con vật. Trong đó, điều kiện nuôi dưỡng, khẩu phần thức ăn có ý nghĩa quan trọng. Thành phần thức ăn đặc biệt là đạm, Vitamin và nguyên tố vi lượng, có vai trò nâng cao khả năng chống bệnh của niêm mạc. Vệ sinh chuồng trại tốt có tác dụng phòng bệnh tốt. Ở những nơi thường xuyên có bệnh, phải chủ động phòng bệnh bằng thuốc. Gia cầm từ 5 ngày tuổi có thể trộn Nistatin vào thức ăn với liều từ 50-100.000 đơn vị cho 1kg thể trọng. Khi bệnh xẩy ra phải cách ly tiêu độc, sát trùng bằng dung dịch Formol 2%, xút 1%. Có thể dội rữa máng ăn bằng xút nóng 2%. Sau 30 phút dội lại bằng nước sạch rồi đem phơi nắng.
7. Điều trị
Những con bị nặng thì phải loại thải, phân đàn, cách ly những con bị nhẹ, điều trị bằng các loại thuốc sau: Fungicidin, Micostatin, Candicidin, Trycomicine. Có thể điều trị bằng Mistatin với liều 300-600.000 đơn vị cho 1kg trọng lượng. Thuốc hào vào sữa chua cho ăn ngày 2 lần, ăn trong 10 ngày. Sữa chua có tác dụng hồi phục sự hoạt động của các Vi khuẩn có ích trong đường tiêu hóa. Trường hợp bệnh có nguy cơ kế phát các bệnh khác thì dùng thêm các loại kháng sinh mạnh. Cùng với dùng kháng sinh cần bổ sung các loại Vitamin vào thức ăn, để tăng sức đề kháng của niêm mạc. Đồng thời dùng dung dịch Sunfat đồng 1/200, Iodure kali 0,8% cho uống, thuốc tím 1% để bôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Đăng Đức, Nguyễn Vĩnh Phước, (1975)
Một số Phương pháp nghiên cứu Vi sinh vật học tập 1, 2, NXB KHKT, Hà Nội.
2. Nguyễn Vĩnh Phước, (1970 - 1976)
Vi sinh vật học Thú y tập I, II, III, NXB ĐH Hà Nội.
74
3. Nguyễn Vĩnh Phước, (1978)
Giáo trình bệnh Truyền nhiễm, NXB Nông nghiệp.
4. Lương Đức Phẩm, Hồ Sương, (1978)
Vi sinh tổng hợp, NXB KHKT, Hà Nội.
5. J.Danov. VM. Gaidamovich, S.ya, (1979)
Virus chuyên đề, NXB Y học.
6. Claude Moreau, (1980).
Nấm độc trong thực phẩm. NXB KHKT Hà Nội.
7. Nguyễn Lân Dũng, (1980).
Vi sinh vật tập 1, 2, 3 NXB ĐH&THCN Hà Nội.
8. Orlop, FM (Nguyễn Thát dịch), (1981)
Bệnh gia cầm tập 1, 2 NXB KHKT, Hà Nội.
9. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, (1986)
Bệnh gia súc non tập 2, NXB NN, Hà Nội.
10. Nguyễn Hữu Ninh, (1987)
Những bệnh gia súc lây sang người, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
11. Công ty thuốc và vật tư Thú y Trung ương II, (1990)
Vaccine và thuốc Thú y.
12. Cục Thú y (1994, 2000)
Pháp luật Thú y, Hà Nội.
13. Black’s Veterinay Dictionary, (2000)
GEO FFREYP WEST. MRCVS.
14. Giáo trình Vi sinh vật Thú y, (2002).
TS Phạm Hồng Sơn, Phan Văn Chinh.
MỤC LỤC
Trang
Chương 1 Mở đầu 2
Chương 2 Nhiễm trùng 5
Chương 3 Quá trình sinh dịch 9
Chương 4 Phòng chống bệnh Truyền nhiễm 19
Chương 5 Miễn dịchi phê 31
Chương 6 Bệnh chung cho gia súc (Vi khuẩn) 56
1. Bệnh Nhiệt thán 56
2. Bệnh Uốn ván 67
3. Bệnh Sẩy thai truyền nhiễm 72
4. Bệnh Xoắn khuẩn 77
5. Bệnh Lao 80
6. Bệnh Ung khí thán 84
7. Bệnh Tụ huyết trùng 88
8. Bệnh Đóng dấu lợn 91
9. Bệnh Phó thương hàn lợn 96
10. Bệnh E.Coli 101
Chương 7 Bệnh do Virus
75
1. Bệnh Dại 104
2. Bệnh Giả dại 108
3. Bệnh Dịch tả lợn 111
4. Bệnh Lỡ mồm long móng 116
5. Bệnh Loét da quăn tai 121
6. Bệnh Newcastle 125
7. Bệnh Đậu låün 129
8. Bệnh Dịch tả vịt 131
9. Bệnh Viêm gan do Virus 133
10. Bệnh Viêm phổi địa phương của lợn 135
11. Bệnh Nấm phổi gia cầm 138
12. Bệnh Nấm đường tiêu hóa CANDIDA 141