Hướng tới nguồn tôm

giống sạch

Thuốc kháng sinh có tác dụng kìm chế hay tiêu diệt sự

sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật gây bệnh. Tuy

nhiên, việc lạm dụng thuốc kháng sinh trong sản xuất con

giống, nhất là tôm giống, đã mang lại nhiều hệ lụy không

đáng có.

Thuốc kháng sinh - Lợi ít, hại nhiều

Ở nồng độ thấp, thuốc kháng sinh có tác dụng ức chế hay tiêu

diệt sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật gây bệnh;

thuốc kháng sinh chỉ sử dụng cho các đối tượng bị nhiễm

khuẩn.

Một số loại kháng sinh thường dùng trong sản xuất tôm

giống là Trimethoprim, Sulfamethoxazole, Norfloxacin và

axit Oxolinic. Các chất này đã làm gia tăng sự kháng thuốc

của vi khuẩn đối với từng loại thuốc và khi không sử dụng

kháng sinh, sự kháng khuẩn giảm khoảng 50%. Kháng sinh

phổ rộng Chloramphenicol bị cấm ở Mỹ và châu Âu. Việc sử

dụng kháng sinh không phải là giải pháp dài hạn, bởi sinh vật

sẽ gia tăng kháng thuốc.

Lâu nay, nhiều cơ sở sản xuất tôm giống, nhất là cơ sở tư

nhân, kể cả những nơi có ưu thế sản xuất tôm giống, đã

không đảm bảo yêu cầu và còn nhiều sai phạm khi dùng

thuốc thú y, thậm chí dùng chất kháng sinh bị cấm. Tại Bình

Thuận, tháng 3/2012, Chi cục Thủy sản kiểm tra điều kiện vệ

sinh thú y tại 98 cơ sở sản xuất, kinh doanh tôm giống, phát

hiện 3 cơ sở sử dụng thuốc có chứa thành phần cấm để phòng

trị bệnh cho tôm; 1 cơ sở sử dụng thức ăn, thuốc không rõ

nguồn gốc, không có tên trong danh mục được phép lưu

hành.

Phát triển bền vững từ tôm giống sạch bệnh - Ảnh: Thanh

Ngân

Hiện, hầu hết các trại sản xuất tôm giống được kiểm tra tại

các tỉnh đều có sử dụng các loại kháng sinh bị cấm, có cơ sở

còn dùng kháng sinh của người cho tôm. Chất kháng sinh có

giá rẻ, dễ mua, hiệu quả nhanh, nên người nuôi dù biết là chất

cấm vẫn dùng. Cùng đó, việc quản lý thức ăn cho tôm giống

còn hạn chế, nhiều đại lý vẫn bán các thứ thuốc thuộc danh

mục cấm.

Việc lạm dụng chất kháng sinh trong sản xuất tôm giống

(dùng với liều cao và liên tục) đã làm giảm sức đề kháng, dẫn

tới tình trạng nhờn thuốc, con giống dễ nhiễm bệnh, khả năng

miễn dịch thấp; để lại dư lượng kháng sinh trong sản phẩm;

ảnh hưởng tới cơ quan tiêu hóa của vật nuôi, dẫn tới tình

trạng tôm chậm lớn, kém phát triển. Từ đó kéo dài thời gian

nuôi, tăng hệ số thức ăn, tăng chi phí và giá thành sản suất,

giảm năng suất và giá trị hàng hóa, gây khó cho việc tìm thị

trường tiêu thụ sản phẩm.

Giám sát chặt chẽ từ đầu vào

Để việc sản xuất tôm giống có hiệu quả hơn, cung ứng cho

thị trường những con giống sạch bệnh, chất lượng đảm bảo,

cần sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, ngành. Cần kiểm tra

chặt chẽ điều kiện sản xuất, kinh doanh, vệ sinh thú y các cơ

sở sản xuất tôm giống; chỉ cho phép các cơ sở/ trại giống đủ

điều kiện (như đảm bảo quy trình ương nuôi sạch, không

dùng thuốc kháng sinh, hóa chất thuộc danh mục cấm sử

dụng). Xử lý nghiêm các vi phạm và đình chỉ những cơ sở

không đủ điều kiện. Hoặc, các cơ sở ương giống có thể sử

dụng các chế phẩm sinh học trong quá trình sản xuất tạo

nguồn con giống sạch bệnh, đảm bảo chất lượng, hiệu quả

nuôi trồng cao.

Quản lý chất lượng tôm bố mẹ, tôm nhập khẩu, buộc phải có

nguồn gốc rõ ràng, có giấy chứng nhận kiểm dịch của cơ

quan có thẩm quyền ở nước xuất khẩu; khuyến khích các cơ

sở có điều kiện nhập công nghệ hoặc hợp tác với các công ty

nước ngoài sản xuất tôm chân trắng bố mẹ đảm bảo chất

lượng di truyền, sạch bệnh, kháng bệnh tại Việt Nam. Tôm

giống lưu thông phải có giấy chứng nhận kiểm dịch, được

đóng gói ghi nhãn mác xuất xứ theo quy định. Kiểm tra chặt

chẽ tôm giống nhập vào các tỉnh; áp dụng các giải pháp công

nghệ để nâng cao năng suất, giảm giá thành con giống, tạo

điều kiện cho người nuôi có được con giống giá rẻ mà chất

lượng đảm bảo (theo Công văn 09/CĐ-BNN-TY, 19/6/2012,

Bộ NN&PTNT).