Hạn chế của việc sử dụng kháng sinh tổng hợp phòng
trị bệnh cho động vật thủy sản
Kháng sinh là những chất có nguồn gốc từ vi sinh vật hoặc
nguồn gốc tổng hợp, bán tổng hợp với liều điều trị có tác
dụng ngăn cản hay diệt vi sinh vật gây bệnh phát trin trong
cơ thể sinh vật [18].
Ở Việt Nam sử dụng thuốc kháng sinh trong NTTS đã đóng
góp một phần không nhỏ trong phòng và trị một số bệnh do
tác nhân vi khuẩn gây ra. Tuy nhiên việc sản xuất, sử dụng
và quản thuốc, hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản
có rất nhiều hạn chế. Hơn thế nữa phần lớn các nông dân
tham gia NTTS là người nghèo sống ở vùng nông thôn ven
biển, nơi có trình độ dân trí thp, nhiều người trong số họ
lại mới bước vào nghề nên còn thiếu nhiều kinh nghiệm. Vì
vậy, họ áp dụng công nghệ nuôi, sử dụng thuốc chữa bệnh,
hoá chất một cách tuỳ tiện, tràn lan, điều đó ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển bền vững của NTTS.
Nghề cá Việt nam đang trong quá trình hội nhập với nghề
cá khu vực và thế giới. Vì thế nước ta phải tuân thủ mọi
luật lệ, các quy tắc hành xử phù hợp với những công ước,
luật pháp khu vực và quc tế mà chúng ta tham gia. Các
điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm phải được cải thiện
cho phù hợp và đáp ứng với những đòi hỏi khắt khe của thị
trường. Yêu cầu từ phía người tiêu dùng trong và ngoài
nước ngày càng khắt khe đối với chất lượng thuỷ sản, đặc
biệt là các thị trường khó tính và là thtrường xuất khẩu
chính ca nước ta trong vòng 10-15 năm nữa như Nhật
Bản, M và các nước EU [19]
Cho đến nay, vấn đề sử dụng kháng sinh nói riêng và hóa
chất nói chung trong NTTS đã tương đối phổ biến. Song
một nghịch lý là chưa có thuốc kháng sinh dùng riêng cho
động vật thủy sản (ĐVTS) mà đa phần chúng ta đều dùng
của người và gia súc [26].
Trước đây chỉ có một số hoá chất và thuc kháng sinh được
sử dụng như vôi, formalin, sulfate đồng, thuốc tím,
dipterex, rotanon và một số thuốc như Chloramphenicol,
furazolidon, Tetracyclin… đưc sử dụng trong nuôi trồng
thy sản [13], [27]. Ngày nay, có rất nhiều chủng loại thuốc
được sử dụng. Đã có hiện tượng nhờn thuốc trong các trại
tôm giống ở Việt Nam [27].
Chỉ riêng Khánh Hòa với 65 trại sản xuất giống thủy sản đã
sử dụng 44 loại kháng sinh, mỗi trại trung bình s dụng 5.8
loại. Trong 44 loại đó, có 5 loại là kháng sinh chữa bệnh
cho người (Streptomycin, Chloramphenicol, Rifampicin,
Fura, Erythromycin ), 6 loại cho gia súc, gia cầm ( Metro,
ZP-45, AU-5, AC, VS-100 và A-30 )[8].
Từ việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, chúng ta đã phải đón
nhận những hậu quả không nhỏ của nó. Trong đó, hai vấn
đề nổi cộm là kháng thuốc và dư lượng thuốc. So với Thái
Lan, Nhật Bản, Đài Loan…các nghiên cu về vi khun
kháng thuc ở Việt Nam chưa quy mô bằng nhưng cũng đã
nêu được những kết quả có ý nghĩa.
Nghiên cu tại ĐBSCL kiểm tra tính kháng thuốc của vi
khuẩn, kết quả cho thấy với 120 mẫu bệnh: 100% kháng
Chloramphenicol, 9.8% kháng Tetracylin, 11% kháng
Trimethoprim, 24% kháng Ampicilin, 35% kháng
Nitrofuratonin và 33% kháng Nofloxacin; vi khuẩn
Aeromonas 100% kháng Sulphonamid []. Riêng vi khuẩn
E.ictaluri phân lập trên cá Tra cho kết quả 100% kháng
thuốc Oxytetracyline, Oxolinic acid và Sulphonamid [1].
Với đối tượng nuôi mặn được nghiên cứu 3 chủng vi khuẩn
trên c Hương. Kết quả là: V.alginoliticus kháng
Cephalexin và Gentamicin; Proteus sp kháng Cephalexin,
Gentamicin, Cefuroxime; Pseudomonas chlororaphis
kháng Cephalexin, Gentamicin, Cefuroxime, Bactrim,
Doxycyline [4].
Theo Lý Thị Thanh Loan (2003), V.parahaemolyticus phân
lập được trên tôm Sú giống nhiễm bệnh tại Bà Rịa – Vũng
Tàu có tính kháng kháng sinh đối với Ampicilin, Colistin
sulphate và Streptomycin. V.alginolyticus có tính kháng đối
với Amoxicillin, Ampicilin, Oxacillin; V.harveyii có tính
kháng Ampicilin, Oxacillin, Colistin sulphate, Amoxicillin
[4]
Một nghiên cứu gần đây của Trương Thị M Hạnh (2006)
cho thấy: V.alginolyticus, V.parahaemolyticus, Steptococus
sp thu được trên cá Song bị bệnh tại Quảng Ninh và Hải
Phòng có tính kháng kháng sinh đối với 4 loại: Rifampicin,
Sufamethoxazol/ Trimethoprim, Erythromycin, Tetracylin
[3]
Vấn đề kháng thuốc kháng sinh thật sự là mối đe dọa đối
với NTTS, đặc biệt khi dựa vào s lượng giới hạn các
kháng sinh ở nhiều nước. Nhiều điều tra cho thấy tính phức
tạp của việc tăng khả năng kháng thuốc đồng nghĩa với việc
chấp nhận tăng khả năng sử dụng kháng sinh trong nghành
NTTS. [20], [21].
Cùng với vấn đề kháng thuốc, dư lượng thuốc cũng là một
cản trở lớn của Thủy Sản nước ta. Năm 2002, số lô hàng
thy sản xuất khẩu phát hiện bị nhiễm dư lượng kháng sinh
được đánh giá là nhiều: EU 19 lô, Thụy Sĩ 15 lô, Canađa 16
lô…Để tăng cường khâu kiểm soát trong nước, năm 2003,
nghành Thủy Sản đã triển khai kiểm soát dư lượng kháng
sinh trên toàn quốc, gồm 124 vùng, 32 tỉnh (thành). Đối
tượng lấy mẫu kiểm soát được bổ sung thêm là thuốc thú y,
thc ăn và nguyên liệu thủy sản tại các đại lý. Cũng trong
năm này, Rô phi chính thức trở thành đối tượng được kiểm
soát [].
Mặc dù được tăng cường kiểm soát, giai đoạn 2006 - 2007
vẫn nóng bỏng vấn đề dư lượng. Cuối tháng 11/2006, Nhật
Bản xem xét áp dụng lệnh cấm nhập khẩu tôm của Việt