Bài 2: Lý thuyết về thuế
18 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207
BÀI 2 LÝ THUYẾT VỀ THUẾ
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Kinh tế học công cộng, NXBKHKT, 1995 (tác giả Joseph E.Stiglitz).
2. Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB tài chính – Hà nội 2005.
3. Giáo trình Quản lý thuế, Nguyễn Thị Bất, NXB Thống kê 2002.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung
Những vấn đề chung về thuế;
Phân loại thuế;
Hệ thống thuế và tính chất của một hệ thống thuế tối ưu;
Phân tích tác động của thuế.
Mục tiêu
Mục tiêu của bài nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức bản về thuế. Các kiến
thức gồm khái niệm và đặc điểm của thuế, cơ sở thuế, thuế suất và cấu trúc thuế suất, phân
loại thuế, phân tích được tác động của thuế trên thị trường cạnh tranh thị trường độc
quyền… Từ đó có thể vận dụng để đánh giá chính sách thuế.
Bài 2: Lý thuyết về thuế
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 19
Tình huống dẫn nhập
Nguyên nhân nào gây thất thu cho ngành thuế?
Trong gần 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca–Cola
liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của công ty này đã
lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu ban đầu 2.950 t
đồng. Do lỗ liên tục như vậy nên Coca–Cola Việt Nam không
phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi doanh thu liên
tục tăng từ 20–30%/năm. Điều đáng ngạc nhiên hơn tuy lỗ
lớn như vậy nhưng doanh nghiệp này đã có kế hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.
Ngành thuế Việt Nam trong nỗ lực chống chuyển giá đã buộc các doanh nghiệp giảm lỗ truy
thu thuế một khoản tiền khá lớn. Chỉ tính riêng TP. Hồ Chí Minh, trong năm 2012, khi thanh tra
312 doanh nghiệp khai lỗ liên tục, trong đó doanh nghiệp trong diện nghi vấn chuyển giá
đã giảm lỗ 2.688 tỷ đồng, giảm khấu trừ 27,83 tỷ đồng, truy thu 187,79 tỷ đồng, truy hoàn 2,64
tỷ đồng phạt gần 85 tỷ đồng, số thuế truy nộp ngân sách 275,43 tỷ đồng. quy toàn
quốc, trong năm 2011, sau khi thanh tra, kiểm tra 921 doanh nghiệp FDI lỗ, ngành thuế đã xử lý
giảm lỗ 6.617 tỷ đồng, truy thu thuế và phạt 1.669 tỷ đồng.
1. Tình trạng thất thu về thuế ở Việt Nam xuất phát từ đâu?
2. Giải pháp hạn chế việc thất thu này?
Bài 2: Lý thuyết về thuế
20 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207
2.1. Những vấn đề chung về thuế
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm
2.1.1.1. Khái niệm
Hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất rằng: thuế là một khoản đóng góp bắt buộc đối
với các thể nhân và pháp nhân, được nhà nước quy định thông qua hệ thống pháp luật.
Sự ra đời của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng sự
xuất hiện của nhà nước.
Thuế đã có quá trình phát triển lâu đời. Từ thời nhà nước chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện
các khoản thu (đảm phụ) bằng hiện vật, các khoản này cộng với các nguồn thu từ việc
cưỡng bức lao động, bóc lột, dịch chinh phục các dân tộc khác đã tạo ra mâu
thuẫn hội chính sự đấu tranh chống lại mâu thuẫn đó làm cho hội ngày càng
phát triển. Cùng với sự phát triển của các quan hệ hàng hóa tiền tệ, thuế cũng
những phát triển đáng kể so với ngày đầu hình thành: từ chỗ mang hình thức hiện vật,
thuế đã dần dần chuyển sang hình thức tiền tệ.
Thuế luôn gắn liền với sự tồn tại phát triển của nhà nước, song quan niệm về thuế
và việc sử dụng công cụ thuế mỗi thời lại khác.
Theo Joseph E. Stiglitz (1 trong những nhà kinh tế xuất
sắc nhất thế giới theo đánh giá của rePEc) trong cuốn
“Kinh tế cộng đồng” cho rằng: “Cá nhân cung cấp trực
tiếp các dịch vụ cho chủ thái ấp đây thuế nhưng chưa
được tiền lệ hóa”. Theo Joseph thì thuế được hình thành
từ rất lâu đời, bằng hình thức cung cấp dịch vụ cho người
cai quản, đây một trong những hình thức đơn giản, đầu
tiên của thuế sau này được tiền lệ hóa trở thành những
nghĩa vụ nộp thuế bằng nhiều hình thức, nhưng cao nhất
là bằng tiền.
Bàn về mối liên hệ giữa thuế nhà nước Mác đã viết: “Thuế sở kinh tế của
bộ máy nhà nước thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sn ca
dân dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”. Ang–ghen cũng đã viết: “để duy trì
quyền lực công cộng, cần sự đóng góp của nhân dân cho nhà ớc, đó thuế
má”. Do lúc này nhà nước chỉ thu thuế để phục vụ nhu cầu của nhà nước,
phương pháp hữu hiệu nhất để tác động tới đời sống kinh tế hội mà chưa sự
quan tâm tới việc thực hiện phụ vụ đời sống nhân dân. Do đó, cả Mác và Ang
ghen đều chỉ đề cập tới vai trò đóng thuế của nhân dân như một sự bóc lột coi
đó là “thủ đoạn đơn giản” của nhà nước.
Theo G. Jege trong cuốn “Tài chính công” cho rằng: “Thuế 1 khoản trích nộp
bằng tiền, tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp cho công dân đóng góp
cho nhà nước trông qua con đường quyền lực nhằm đắp những chi phí của nhà
nước”. Đây là khái niệm cổ nhất và nổi tiếng nhất về thuế. Nhưng thuế không phân
định thuế được đắp vào công việc trong nhiều trường hợp, thuế không chỉ
để đắp chi tiêu còn dùng để phát triển kinh tế, hội. Do đó sau này quan
niệm này được thay đổi như sau: “Thuế một khoản trích nộp bằng tiền, tính
Bài 2: Lý thuyết về thuế
TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207 21
chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng p cho nhà nước
thông qua con đường quyền lực nhằm đắp những chi tiêu của nhà nước trong
việc thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà nước”.
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta đưa ra quan niệm thuế như sau: “Thuế là
hình thức phân phối phân phối lại tổng sản phẩm hội thu nhập quốc dân
nhằm hình thành lên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước (Quỹ ngân sách
nhà nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho thực hiện các chức ng, nhiệm vụ của
nhà nước”.
Trên góc độ người nộp thuế thì thuế được quan niệm là: “Thuế khoản đóng góp
bắt buộc cho nhà nước theo luật định để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Người đóng thuế được hưởng hợp
pháp phần thu nhập còn lại”.
Trên góc độ kinh tế học: “Thuế biện pháp đặc biệt theo đó, nnước sử dụng
quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực sang khu vực
công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của nhà nước”.
khía cạnh nghiên cứu thuế với cách một nội dung điều chỉnh của luật pháp,
các chuyên gia về luật thuế đã nhận định: “Thuế một trật tự đã được thiết lập
hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu,
nộp vào ngân sách. Thuế không bất cứ sự phân biệt đối xử nào giữa các bang
hay vùng lãnh thổ”.
Ngoài ra Việt Nam nhiều quan niệm khác nhau về thuế, tùy thuộc vào các lĩnh
vực, góc độ nghiên cứu khác nhau:
Theo các tác giả Giáo trình Luật thuế, Đại học Luật Hà Nội thì “thuế khoản thu
nộp mang tính bắt buộc các tổ chức nhân phải nộp cho nnước khi
đủ các điều kiện nhất định”.
Giáo trình Quản Tài chính công của học viện tài chính quan
niệm rằng thuế là mt hình thc động viên bt buc ca nhà
nước theo lut định, thuc phm trù phân phi, nhm tp trung
mt b phn thu nhp ca các th nhân và pháp nhân vào ngân
sách nhà nước để đáp ng các nhu cu chi tiêu ca nhà nước
và phc v li ích công cng”.
Tuy nhiên có thể thống nhất một khái niệm chung về thuế như sau:
V phương din pháp lut, hệ thống thuế nhà nước là khoản đóng
góp mang tính bắt buộc theo quy định của pháp luật nhằm hình
thành ngân sách nhà nước.
V phương din kinh tế, hệ thống thuế nhà nước là khoản hình thành trong quá trình
phân phối phân phối lại tài sản hội, thu nhập quốc dân.
2.1.1.2. Đặc điểm
Mang tính bắt buộc và có tính pháp lý cao
Vì không ai tự nguyện từ bỏ quyền lợi của mình để nộp thuế cho nhà nước nữa, để
nhà nước tồn tại nguồn thu từ thuế phải thường xuyên n định. Nếu tự nguyện
Bài 2: Lý thuyết về thuế
22 TXNHLT06_Bai 2_v1.0014108207
nộp thì không thể thường xuyên ổn định được. Tính bắt buộc được thể hiện
dưới 2 khía cạnh sau:
o Đối vi các cơ quan thu thuế: Thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ,
quan thu thuế. Cán bộ quan thu thuế không được quyền lựa chọn đối tượng
nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế… Khoản 1 Điều 8 Luật Quản
Thuế quy định: Trách nhim ca cơ quan qun lý thuế là “T chc thc hin
thu thuế theo quy định ca pháp lut, ly pháp lut làm căn c duy nht để
thc hin”.
o Đối vi người np thuế: Đây nghĩa vchuyển giao tài sản của họ cho nhà
nước khi đủ điều kiện do pháp luật thuế quy định không phải quan hệ
thanh toán trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. được thực hiện dưới hình
thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất bắt buộc, đối tượng nộp thuế không
quyền trốn thuế hoặc mong muốn tự mình ấn định hay thỏa thuận mức đóng
góp của mình chỉ quyền chấp thuận. Những đối tượng nộp thuế vi phạm
luật sẽ bị quan nhà nước thẩm quyền xử vi phạm hoặc ỡng chế thi
hành theo quy định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế.
Đây điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính chất tự
nguyện.
Thuế do Quốc hội lập ra dưới hình thức một đạo luật
hình thức văn bản tính pháp cao nhất do
quan quyền lực cao nhất, quan lập pháp đặt ra. Đây
là một điểm giúp phân biệt thu thuế và các khoản phí, lệ
phí. Tuy cũng là những khoản thu có tính chất bắt buộc
nhưng phí lệ phí được thực hiện dựa theo các văn
bản dưới luật. thể thấy, thuế quyền lực nhà nước
hai phạm trù không thể tách rời. Nhà nước là chủ thể
duy nhất đặt ra các khoản thuế ngược lại thuế
phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực nhà
nước. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ
của đối tượng nộp thuế. vậy, chỉ gắn với yếu tố quyền lực nhà nước, thuế mới
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, thuế được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế: nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính hoặc cưỡng chế
hình sự (quy định tại Điều 161 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009).
Qua đó nhà nước đã gián tiếp đảm bảo tính ổn định trong việc c định nguồn thu
nhập tài chính của nhà nước và đảm bảo tính ổn định của thuế.
Không được hoàn trả trực tiếp: điều này được hiểu người đóng nhiều thuế
không được đòi hỏi quyền lợi cao hơn so với người đóng ít thuế hơn (khác với phí
và lệ phí, càng cao thì quyền lợi được hưởng càng cao).
Khác với khoản vay, phí lệ phí, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp
thuế (tuy nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông
qua các khoản phúc lợi hội, phúc lợi công cộng). Sự không hoàn tr trc tiếp
được thể hiện cả trước sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước không