intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tập lớn Nghệ thuật lãnh đạo

Chia sẻ: | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:21

63
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Bài tập lớn Nghệ thuật lãnh đạo" tìm hiểu cơ sở lý thuyết về phong cách lãnh đạo, vai trò của lãnh đạo; phong cách phong lãnh đạo độc đoán của Hitler. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm chi tiết hơn nội dung nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tập lớn Nghệ thuật lãnh đạo

  1. HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH ­­­­­­­­­­ BÀI TẬP LỚN MÔN: NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO Mã học phần: MGT16A               Giảng   viên hướng dẫn:  PhD. Nguyễn Vân Hà                               Nhóm thực hiện: Nhóm 6                               Sinh viên thực hiện: 1. Bùi Thị Huyền Trang          5. Nguyễn Kim Chi 2. Lê Ngọc Anh                       6. Trần Thị Hồng 3. Đinh Thị Mai Hương         7. Nguyễn Thị Huệ 4. Vũ Thị Hương Liên   ­ Hà Nội, 11/2018  ­
  2. LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian dài học tập, trao dồi kiến thức, tìm tòi và nghiên cứu, nhóm  chúng tôi đã hoàn thành bài tập .  Nhóm xin gửi lời cám ơn  sâu sắc đến PhD. Nguyễn Vân Hà, cô đã tận tình  chỉ dạy, truyền đạt những kiến thức nền tảng cũng như chia sẻ những kinh nghiệm  thực tế để giúp nhóm hoàn thành tốt đề tài này.  TP. Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2018 Nhóm thực hiện đề tài Nhóm 6
  3. MỤC LỤC
  4. 1. Cơ sở lý thuyết 1.1. Khái niệm Lãnh đạo là quá trình gây  ảnh hưởng, tạo động lực, tác động đến ý thức   của chủ  thể  lãnh đạo với các cá nhân hoặc một nhóm nhất định nhằm thúc  đẩy họ  tự  nguyện thực hiện mục tiêu của tổ  chức, nâng cao năng suất lao   động hay tạo lập sinh khí cho tổ  chức, có thể  thông qua các hành động như  thuyết phục, động viên, chỉ dẫn hoặc ra lệnh bằng uy tín… 1.2. Vai trò của lãnh đạo ­ Thiết lập tầm nhìn cho tổ chức ­ Tập hợp quần chúng  ­ Cổ vũ, động viên toàn bộ đội ngũ ­ Xây dựng chiến lược cho tổ chức ­ Ra quyết định ­ Tạo ra những sự thay đổi ­ Hướng dẫn nhân viên hoàn thành mục tiêu 1.3. Một số phong cách lãnh đạo Phong cách lãnh đạo dân chủ: Phong cách lãnh đạo dân chủ  là phong cách mà theo đó nhà quản trị  chủ  yếu sử  dụng uy tín cá nhân đưa ra những tác động đến những người dưới  quyền. Nói cách khác, họ rất ít sử dụng quyền lực hay uy tín chức vụ để tác động  đến những người dưới quyền. Đặc điểm:  Phong cách này thường sử dụng hình thức động viên khuyến khích, không   đòi hỏi cấp dưới phục tùng tuyệt đối, thường thu thập ý kiến của những   người dưới quyền, thu hút, lôi cuốn cả tập thể và tổ chức không chính thức. 4
  5. Phong cách này giúp phát huy tính chủ  động, sáng tạo của nhân viên, làm  cho họ  hiểu biết, quan tâm gắn bó hơn với công việc. Tuy nhiên người lãnh  đạo sử dung phong cách này phải là người có đủ bản lĩnh để không trở  thành  người thỏa hiệp vô nguyên tắc. Phong cách lãnh đạo tự do: Phong cách tự  do là phong cách mà theo đó nhà quản trị  rất ít sử  dụng   quyền lực để tác động để tác động đến người dưới quyền, thậm chí không có  những tác động đến họ. Đặc điểm:  Phong cách này cho phép các nhân viên được quyền ra quyết định. Phong   cách thường mang lại hiệu quả  khi trình độ  cấp dưới cao và công việc thực  hiện mang tính độc lập, đòi hỏi phải chủ động và sáng tạo để giải quyết công  việc.  Phong cách lãnh đạo độc đoán Phong cách độc đoán Độc đoán là phong cách lãnh đạo được đặc trưng bằng việc tập trung mọi   quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo – quản lý bằng ý   chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể. Phong cách lãnh đạo này xuất hiện khi các nhà lãnh đạo nói với các nhân  viên chính xác những gì họ  muốn các nhân viên làm và làm ra sao mà không   kèm theo bất kỳ lời khuyên hay hướng dẫn nào cả Đặc điểm: ­ Nhân viên ít thích lãnh đạo ­ Không khí trong tổ chức: gây hấn, phụ thuộc vào định hướng cá nhân ­ Hiệu quả  làm việc cao khi có mặt lãnh đạo, thấp khi không có mặt  lãnh đạo. ­ Đối tượng sử dụng: những người có thái độ chống đối, những người  5
  6. không tự chủ. ­ Thiên về sử dụng mệnh lệnh ­ Luôn đòi hỏi cấp dưới sự phục tùng tuyệt đối ­ Thường dựa vào năng lực, kinh nghiệm, uy tín chức vụ của mình để  tự  đề  ra các quyết định rồi buộc họ  phải làm theo ý muốn hay quyết định  của nhà quản trị. Ưu điểm:  ­ Giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng. ­ Cần thiết khi tập thể mới hình thành, khi tập thể đó nhiều mâu thuẫn  không thống nhất. ­ Nhấn mạnh vào kết quả đã dự báo trước, chính xác, trật tự Nhược điểm: ­ Người lãnh đạo theo phong cách này có thái độ   ứng xử  lạnh nhạt,  quan cách, hay can thiệp vào công việc của người khác do đó: ­ Không tận dụng được sức sáng tạo của những người dưới quyền. ­ Dễ  gây ra tình trạng bất  ổn của doanh nghiệp. Nhân viên cấp dưới   có tâm lý lo sợ, có thể mang đến sự chống đối của cấp dưới, tạo cơ sở để  phát sinh bè phái, ảnh hưởng đến công việc chung.  2. Phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler 2.1.  Sơ lược về Adolf Hitler  Hitler (20 tháng 4 năm 1889 –30 tháng 4 năm 1945) là người Đức gốc Áo,  Chủ tịch Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa ( từ năm 1921, Thủ  tướng Đức từ năm 1933, là "Lãnh tụ và Thủ tướng đế quốc " kiêm nguyên thủ  quốc gia nắm quyền Đế quốc Đức kể từ năm 1934. Hitler thiết lập chế độ độc quyền quốc gia xã hội của Đệ  Tam Đế  quốc,   cấm chỉ tất cả các đảng đối lập và giết hại các đối thủ. Hitler đã gây ra Chiến  tranh thế  giới thứ  hai, thúc đẩy một cách có hệ  thống quá trình tước đoạt  6
  7. quyền lợi và sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số  nhóm chủng tộc, tôn giáo, chính trị  khác được gọi là cuộc Đại đồ  sát dân Do  Thái. Thời trẻ, khi còn ở Áo, Hitler muốn trở thành một họa sĩ, nhưng chưa từng   được thành công. Về  sau, Hitler trở  thành một người theo chủ  nghĩa dân tộc   Đức cấp tiến. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hitler phục vụ trong Quân   đội Đế  quốc Đức, từng bị  thương và được nhận hai tấm huân chương do   chiến đấu anh dũng. Năm 1913, Hitler đến Munich, tiếp tục con đường họa sĩ của mình và bắt  đầu hoạt động chính trị. Năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Hitler đầu quân cho một  trung đoàn của vương quốc Bayern, một phần của Đế  chế  Đức. Xuất phát  điểm trên con đường chính trị của Hitler là con số "0" nhưng ông ta có một kỹ  năng trời phú đó là tài hùng biện. Tháng 9/1919, Hitler được mời gia nhập đảng  Lao động Đức (tiền thân của đảng Quốc xã) do Anton Drexler và Karl Harrer  thành lập. Ông ta tham gia với tư cách Ủy viên Trung ương thứ 7. Nhờ  tài hùng biện siêu đẳng, Hitler đã lôi kéo nhiều chính trị  gia lập dị,   những triết gia nổi tiếng và nhiều nhân vật chủ  chốt  ở  Đức tham gia đảng   Quốc xã. Bên cạnh đó, ông ta nhanh chóng thiết lập quyền lãnh đạo độc tôn   của đảng và mở rộng phong trào ra khắp nước Đức. Sự  kiện Đức đầu hàng quân Đồng minh và ký Hòa  ước Versailles đã đẩy   nền kinh tế  ­ chính trị  Đức xuống "vực thẳm". Bối cảnh chính trị  rối ren đã  tạo cơ  hội cho Hitler "đầu độc" tư  tưởng người dân Đức. Hitler khẳng định  rằng, phong trào Quốc xã sẽ hồi sinh nước Đức trở thành Đế chế thứ Ba hùng   mạnh (Đế  chế  thứ  Nhất là Đế  quốc La Mã, tiếp đến là Đế  chế  Bismarck, 2  đế chế mang lại uy quyền cho dân tộc Đức). Tháng 11/1923, Hitler bị  bắt sau cuộc bạo loạn bất thành  ở  nhà hàng bia  7
  8. Bürgerbräukeller. Ông ta bị kết tội phản quốc, Hitler bị kết án 5 năm tù nhưng   được ân xá sau 6 tháng giam giữ. Giai đoạn 1924­1929, phong trào Quốc xã  xuống dốc rõ rệt. Trong thời gian bị  quản thúc, Hitler hoàn thành cuốn Cuộc   tranh đấu của tôi, vạch ra hình ảnh nước Đức trong tương lai và cách thức để  trở thành chủ nhân của thế giới. Năm 1929, nền kinh tế Đức tiếp tục lâm vào khủng hoảng. Trong cơn bĩ  cực của người dân Đức, Hitler nhìn thấy cơ hội biến họ thành lực lượng hậu  thuẫn cho những khát vọng cá nhân. Tháng 9/1930, đảng Quốc xã dành thắng  lợi lớn trong cuộc tổng tuyển cử. Tháng 1/1932, Hitler ra tranh cử tổng thống. Tuy không đắc cử nhưng ông   ta đã có bước đột phá cực kỳ quan trọng. Năm 1934 ghi nhận bước ngoặt cực kỳ  quan trọng trên con đường thiết   lập quyền lãnh đạo độc tôn của Hitler ở Đức. Ngày 2/8/1934, Tổng thống Paul   von Hindenburg trút hơi thở cuối cùng. Trưa cùng ngày, Hitler ra thông báo, hai   chức vụ Thủ tướng và Tổng thống gộp chung làm một. Adolf Hitler nhận chức Lãnh đạo kiêm Tư lệnh tối cao của Đế chế thứ Ba 2.2. Thành tự Hitler đạt được Về kinh tế: Sự phục hổi kinh tế của Đức sau chiến tranh là thành tựu nổi  bật. Số  người thất nghiệp từ 6 triệu năm 1932 giảm xuống còn 1 triệu sau 4   năm. Sản lượng và thu nhập quốc nội tăng gấp đôi trong thời gian 1932­1937.  Tuy Hitler không giỏi về  kinh tế  nhưng ông quy tụ  được những kinh tế  gia   giỏi, đặc biệt là TS. Hjalmar Schacht, được coi là phù thủy kinh tế. Về  quân sự: Từ  quân đội bị  hòa  ước Varsailles hạn chế   ở  mức 100.000  người, Hitler tăng quân số  lên gấp ba vào cuối năm 1934. Khi phát động tấn  công Nga năm 1941, Đức huy động 3.2 triệu quân tiến theo trận tuyến dài  1.600km Đến giữa năm 1942, Đức đã chiếm khoảng 90% Tây Âu, trừ  Thụy Điển,  8
  9. Vương quốc Anh, Scotland, Ireland, Bồ  Đào Nha, Tây Ban Nha và Thụy Sỹ;   còn Bắc Phi Đức đang chiếm đóng Tunisia, Lybia và một phần Ai Cập. Nhờ quyết định của ông, Đức đánh chiếm thần tốc các nước Bắc Âu với   thiệt hại không đáng kể, chỉ một nhóm nhỏ  binh sĩ Đức chiếm được pháo đài  hiện đại Eben Emael của Bỉ và đánh thần tốc qua Pháp. 2.3. Phong cách lãnh đạo  2.3.1. Những tố chất trong con người Hitler Trong con người của Hitler có nhiều tố  chất đặc biệt giúp cho ông đi từ  thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh bại hoặc dẹp tan những thể chế chính   trị cộng hòa, quân đội, nghiệp đoàn.  Tinh thần ái quốc cực đoan  Tinh thần này vừa giúp Hitler chiếm được con tim của người dân Đức và  tranh thủ  được sự   ủng hộ  của quân đội. Ban đầu, các nước Đồng Minh chỉ  nhận ra khía cạnh "ái quốc" trong con người Hitler, còn khía cạnh "cực đoan"   thì được che giấu bởi tài hùng biện. Như đã nói, ông ta tự coi mình là người kế  thừa của vua Friedrich II Đại Đế ­ một vị  vua lớn của Vương quốc Phổ xưa,  dù chế độ độc tài của ông ta thực ra chẳng mấy giống với vua Friedrich II Đại  Đ ế. Vào mùa hè 1914, Chiến tranh thế  giới thứ  nhất bùng nổ, và Hitler phải  làm nghĩa vụ  và Ông đầu quân cho một trung đoàn của vương quốc Bayern.  Hitler được thưởng huy chương hai lần vì tinh thần dũng cảm. Tháng 12 năm  1914 ông được thưởng huy chương Chữ  thập Sắt hạng Nhì, và tháng 8 năm  1918 nhận huy chương Chữ thập Sắt hạng Nhất vốn ít khi được ban thưởng  cho cấp binh sĩ trong Quân đội Đế  chế  cũ. Ông luôn mang tấm huy chương   này một cách hãnh diện cho đến lúc chết. Vì tinh thần ái quốc cực đoan, Hitler theo đuổi một cách không mệt mỏi  chương trình tái vũ trang trong 10 năm (ngay khi ông có thể  chỉ  huy việc tái  9
  10. thiết vũ trang 1929­1939) làm vi phạm hiệp  ước, Như tăng quân số, đóng tàu  thiết giáp, tàu ngầm, sản xuất súng đạn… lên nhiều lần. Điều này cho thấy  ông đã có bước chuẩn bị cho việc nước Đức lên làm bá chủ thế giới từ rất lâu   rồi. Việc làm và lời nói đi đôi với nhau  Một khi đã định hình tư  tưởng, xuyên suốt qua cương lĩnh đảng, quyển   sách Mein Kampf và những bài phát biểu, Hitler đều mang ra thực hiện những   gì ông nói. Cũng có nhiều điều ông không làm như đã hứa, nhưng đấy là chiến  thuật mị  dân trong bước đầu khi Quốc xã muốn chiếm quyền lực bằng lá  phiếu dân chủ. Còn lại, Hitler đều thi hành những sách lược chủ  chốt đúng  như ông đã nói.  Trong đại hội quy mô đầu tiên của Đảng Lao động Đức (tiền thân của  Quốc xã) ngày 24 tháng 2 năm 1920, lần đầu tiên Hitler nêu lên 25 điểm trong  cương lĩnh của Đảng Lao động Đức. Những điểm quan trọng nhất sau này   được Hitler mang ra thi hành ngay sau khi ông lên làm thủ tướng. Như  Điểm thứ  nhất trong bản cương lĩnh đòi hỏi hợp nhất mọi người   Đức trong một nước Đức mở rộng. Đây đúng là việc mà Hitler thực hiện sau   này khi sáp nhập Áo với 6 triệu người Đức và vùng Sudetenland với 6 triệu   người  Đức  khác.   Đấy  cũng là   đúng theo yêu  sách đòi  lại vùng  Gdańsk  và   những vùng đất khác ở Ba Lan có nhiều người Đức sinh sống. Hay Điểm 2 đòi  hỏi xóa bỏ  các Hòa  ước Versailles và Saint­Germain. Điểm 25 trù định việc   "thiết lập một quyền lực trung ương mạnh cho Nhà nước". Mùa hè 1924, Hitler đã viết cuốn sách có tựa đề  “Mein Kampf” (Cuộc  tranh đấu của tôi) khi ông đang trong nhà tù. Trong cuốn sách, Hitler diễn giải   tư tưởng của ông và áp dụng đặc biệt vào việc phục hồi nước Đức và vạch ra  việc tạo dựng một quốc gia dựa trên chủng tộc thuần khiết và quy tụ  mọi  người Đức lúc này còn đang sống bên ngoài biên giới Đức. Tư tưởng về tính   10
  11. ưu việt của chủng tộc Aryan, chà đạp lên những chủng tộc khác, những thứ  cỏ rác – đấy là Do Thái và Slav. Những điều này, ông cũng đều thực hiện. Bản chất độc tài, chuyên chế  Bản chất này đã bộc lộ  ngay trong giai đoạn Hitler mới gia nhập Đảng  Lao động Đức, tiền thân của Quốc xã. Hitler đã trình bày rất rõ ý định thiết lập   một nước Đức dưới chế độ  chuyên chế, độc đảng, và đảng này dưới quyền   một lãnh tụ chuyên chế.  Ngày   30   tháng   1   năm   1934,   kỷ   niệm   tròn   năm   Hitler   nhậm   chức   Thủ  tướng, Hitler chính thức hoàn tất công việc qua Luật Tái lập Đế  chế. Tất cả  thể chế dân cử bị xóa bỏ, quyền điều hành bang được chuyển về trung ương,   mọi cơ  cấu chính quyền bang được tập trung dưới chính phủ  Đế  chế, thống   đốc bang được đặt dưới hệ thống hành chính của Bộ Nội vụ Đế chế. Hitler thanh trừng các nhân vật chống đối Như năm 1937, Hitler thông báo  cho giới chỉ huy quân đội và ngoại giao cao cấp ý định tiến hành chiến tranh,   sáp nhập Áo và Tiệp Khắc vào Đức. Các tư lệnh quân đội và ngoại trưởng tin   chắc việc này sẽ dẫn đến chiến tranh toàn châu Âu. Họ đều cảm thấy choáng  váng. Đấy không phải là do yếu tố đạo lý mà vì lý do thực tế hơn: nước Đức   vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến lớn; nếu khiêu khích chiến tranh bây  giờ sẽ có nguy cơ gặp thảm họa. Và những người phản đối đều bị ông ám sát  hoặc mất chức, kể cả những người có địa vị cao trong nước Đức. Lừa dối Tố  chất này không đi ngược lại mà là bổ  sung việc thi hành những gì đã  nói. Có nghĩa là Hitler sẵn sàng lừa dối để nhằm thi hành những điều chủ chốt   trong tư  tưởng của ông. Cũng nhờ  những tố  chất này, Hitler đã chinh phục  được giới thương mại và công nghiệp trong nước. Riêng hai cường quốc Anh  và Pháp, ban đầu muốn trấn áp Đức nhưng kế  tiếp lại muốn xoa dịu Hitler,   mở đường cho ông thôn tính Áo và Tiệp Khắc. Đến khi Hitler hung hăng xâm  11
  12. lăng Ba Lan thì họ mới nhận ra tham vọng vô bờ bến của Hitler, nhưng đã quá  muộn: Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra là điều tất yếu. Tài hùng biện  Đây là một vũ khí rất lợi hại của Hitler. Nhờ tài hùng biện cộng với tính  lừa dối, Hitler đã chinh phục được người dân Đức, giới quân đội, ngay cả giới   truyền thông và các nhà lãnh đạo nước ngoài.  Trong những ngày sống lang thang ở thành Viên, Hitler để ý đến tầm quan  trọng của tài hùng biện trong chính trị, và ông viết: “Uy lực trong lịch sử tạo ra   những cơn lốc về tôn giáo và chính trị  từ ngàn xưa đều là uy lực thần kỳ của   lời nói, và chỉ do lời nói mà thôi.... Chỉ có thể khích động quần chúng bằng uy   lực của lời nói. Mọi phong trào vĩ đại đều là phong trào quần chúng, là sự  bùng nổ của nỗi mê đắm và xúc cảm của con người...”. Hitler đã bắt đầu tập   luyện tài hùng biện đối với những cử tọa anh tìm được ở khu nhà trọ, bếp ăn   từ thiện, góc đường phố. Ngoại hình Hitler không có dáng lãnh tụ: ông chỉ  cao có 1,75m – chưa đủ  tiêu chuẩn vào lính SS, chân nhỏ và dài, tóc lật trái, để bộ ria như một anh hề.   Thế nhưng ông cực kỳ có sức lôi cuốn, chủ yếu ở ánh mắt xuyên thấu tim gan  người khác và khí thế  nói dồn ép người ta phải nghe theo. Hitler còn là nhà   diễn thuyết đại tài trên thế  giới. Ông rất chú ý tập luyện và cải tiến kỹ  xảo   nói, rất thạo kết hợp nói với động tác. Trong Mein Kampf ông viết: “tôi tin  rằng lời nói, chứ không phải là bài viết, có khả năng gây ra những sự kiện làm   rung chuyển thế giới”. Ông dốc toàn bộ nhiệt tình vô tận của mình vào bài nói,  tới mức những lời dối trá trắng trợn nhất cũng có mầu sắc chân lý. Ông luyện  kỹ sảo nói với mục đích không chỉ để thuyết phục, mà là làm cho người nghe   phát điên lên như bị thôi miên. Ông thường diễn thuyết vào buổi tối để có thể  dùng ánh đèn tăng thêm hiệu quả. Vài ngày sau khi Hitler nhậm chức Thủ  tướng, 1 triệu người Đức kéo đến sân bay Berlin để nghe ông diễn thuyết suốt  12
  13. từ 20h cho đến 22h đêm. Hitler nói hay đến mức khi ông nghiêng ngả người thì  cả triệu thính giả cũng nghiêng ngả theo, như một đại dương sôi sục. Phụ nữ  bị  xúc động hơn cả, có bà thét lên nằm vật xuống. Một số cán bộ  ngoại giao   các nước trung lập cũng giơ tay hô lớn “Hailơ Hitler”. Khi xúc động lên tới cao  điểm, Hitler trợn mắt, vung nắm đấm như  đánh vào kẻ  thù không đội trời   chung của ông ­ người Do Thái, bọn Đỏ và những kẻ phản quốc.Tài hùng biện  được xem là một phương tiện, vũ khí lợi hại nhất mà Hitler có được.  2.3.2. Phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler Một trong những tố chất độc tài – chuyên chế, Hitler là một đại diện tiêu  biểu cho phong cách lãnh đạo độc đoán. Điều đó được chứng minh qua những   hành động trong đời sống riêng khi Hitler đối xử với những người dưới trong   cuộc sống hàng ngày, trong công việc với mọi quyết định và hành xử của ông. Trong đời thường Hitler độc đoán cho rằng mình luôn đúng và không chịu sửa các thói quen   cổ quái của mình.  Ông không quan tâm đến chức năng quản lí quốc gia của một Thủ tướng,   thiếu kiến thức điều hành Chính phủ nhưng lại không chịu học. Ông tự bố trí việc tiếp khách, không ưa ai thì không tiếp, dù là việc khẩn   đến đâu.  Ông ít ngồi, hay đi lại trong phòng, ghét viết lách và hay ra lệnh bằng  miệng cho bất cứ ai Ngủ dậy trễ, vừa ăn sáng, vừa đọc bao, sau đó tạt qua phòng làm việc một  lát để làm những việc ông quan tâm. Bữa ăn trưa, bắt đầu lúc 14 hoặc 15h với vài chục cộng sự nhưng không ai  ưa ông. Nhưng sau khi trên mặt trận phía tây, quân Đức ở  Bắc Phi đầu hàng,   Đồng minh chiếm đảo Sicile của Ý; Hitler ngày một cô đơn, ông không ăn  chung với các hậu cần nữa và chỉ còn diễn thuyết có hai lần trước đám đông.  13
  14. Ăn tối một mình và xem phim­ đây là thú tiêu khiển duy nhất. Trong vai trò là nhà lãnh đạo ­ Chiếm quyền độc tài trong đảng Khi Hitler có quyết định xin rút khỏi Đảng Quốc xã, trung  ương đảng đã   khước từ ý nguyện của ông vì khi Hitler ra đi thì đảng chắc chắn sẽ tan rã. Sau  khi nhận thức rõ vai trò của mình, ông buộc các nhà lãnh đạo khác của đảng  phải nhượng bộ. Ông xóa bỏ Trung ương Đảng, nắm quyền lãnh đạo độc tôn  của đảng. Tháng 7 năm 1921, nguyên tắc lãnh đạo được thiết lập, trở  thành   điều luật trước nhất cho Đảng Quốc xã và sau đó cho Đế chế thứ ba ­ Thiết lập thể chế độc tài Nghị  viện và chính quyền bang bị  giải tán ngay trong năm đầu Quốc xã  nắm quyền lực. Hitler giữ  quyền bổ  nhiệm thị  trưởng Berline, Hamburg và  Wien (sau 1938, khi Áo được sáp nhập)  Ngày 14 tháng 7 năm 1933, một luật mới quy định Đảng Lao động Quốc   gia Xã hội Chủ  nghĩa Đức là đàng chính trị  duy nhất  ở  Đức. Ngày 30 tháng 1  năm 1934, Hitler hoàn tất công việc thông qua Luật Tái lập Đế  chế. Tất cả  thể chế dân cử bị xóa bỏ, quyền điều hành ban được chuyển về Trung ương,   mọi cơ  cấu chính quyền bang được tập trung dưới chính phủ  Đế  chế, thống   đốc bang được đặt dưới hệ thống hành chính của Bộ Nội vụ Đế chế. ­ Thanh trừng và đàn áp các nhân vật chống đối Ngày 5 tháng 11 năm 193, Hitler thông báo cho giới chỉ  huy quân đội và  ngoại giao cao cấp ý kiến tiến hành chiến tranh, sáp nhập Áo và Tiệp Khắc   vào Đức. Nhận thấy nguy cơ sẽ dẫn đến chiến tranh toàn châu Âu nên Werner   von Blomberg, Freiherr Werner von Fritsch và Konstantin von Neurath đã lên  tiếng và sau 3 tháng thì cả 3 đều mất chức. Do những âm mưu mà lần lượt Thống chế, Tổng tham mưu trưởng Quân  lực Blomberg và Đại tướng cấp cao Tư lệnh lục quân Fritsch đều mất chức.  14
  15. Hitler tuyên bố đích thân ông chỉ huy toàn quân lực.  Lập Bộ Thống soái Tối cao do (OKW) do ông trực tiếp chỉ huy  Tự ra là chỉ huy chiến Áo, Tiệp Khắc, Ba Lan … mà không hỏi ý kiến ai. Có nhiều âm mưu chống đối Hitler với mục đích chính ban đầu là lật đổ  ông nhằm ngăn ông gây chiến tranh mà họ  nghĩ sẽ  đem đến Chiến Bại cho  nước Đức. Kế  tiếp, khi chiến tranh  đã bùng phát những người chống  đối   muốn ngăn chặn việc Đức bị  thất trận nhục nhã, cần vớt vát ít nhiều bằng   cách ám sát Hitler và đàm phán với Đồng Minh. Riêng năm 1943, có ít nhất  hàng chục kế hoạch ám sát Hitler.  Tất cả âm mưu đều thất bại. Giới nhân sự không thể lôi kéo quân đội Đức  vào âm mưu của họ.  Sau vụ  Claus von Stauffenberg ám sát hụt Hitler, trong cơn giận dữ  tột  cùng và lòng thèm khát trả thù không gì kiềm chế được, Hitler quát tháo: “Lần  này sẽ  cho can phạm xưng tội ngắn gọn. Không có Tòa án Quân sự. Họ  sẽ  đứng trước Tòa án Nhân dân. Không cho phép họ  phát biểu. Tòa án sẽ  xét xử  chớp nhoáng. Án tử hình được thi hành hai tiếng đồng hồ sau. Bằng cách treo  cổ ­ không có sự khoan hồng.” Những người bị  cáo buộc trong giới quân sự  không ra tòa án binh, mà bị  tước quân tịch để đứng trước Tòa án Nhân dân, vốn là loại hình toà án bù nhìn,  nhận lệnh trực tiếp từ Hitler. Từ tội bị đưa vào một phòng giam nhỏ đã có sẵn   đánh tám cái móc treo thịt. Từng người bị lột trần cho đến eo, bị  thằng lọng   bằng sợi dây dương cầm được tròng vào cổ  họng và phía trên buộc vào cái   móc treo thịt. Một máy quay phim thu hình toàn bộ  diễn biến trong khi tử tội  đong đưa và ngạt thở. Chiếc quần không có dây lưng cuối cùng tụt xuống,   khiến cho họ  trần truồng trong khi cái chết một cách đau đớn. Theo chỉ  thị,   trong đêm ấy Cuốn Phim được tráng rồi được chuyển đến cho Hitler xem cùng  với những ảnh chụp trong phiên tòa. 15
  16. Nhân vật có can dự  nổi tiếng nhất là Thống chế  Erwin Rommel, thì bị  Hitler bức tử để  đổi lại gia đình ông không bị  trừng phạt và lễ  tang của ông   được cử hành theo các nhà nước. Trong quân sự  Phong cách độc đoán của Hitler càng thể  hiện rõ khi ông nói: “Tôi không  yêu cầu các tướng lĩnh phải hiểu mệnh lệnh của tôi, mà chỉ yêu cầu họ  chấp  hành.” Hitler thể hiện tính độc đoán của mình khi cho rằng mình có thiên tài quân   sự, bằng chứng là sau khi chiếm được Pháp, ông phớt lờ các tướng Đức.  Trong cuộc tấn công Liên Xô, Hitler nghĩ rằng chỉ vài tuần là chiếm được  Moskva nên quân Đức đã không mang áo rét, do đó bị  cầm chân trong băng  tuyết ở Moskva, chúng bị thua đau đớn trước sự phản công của quân Nga. Lúc  đó Hitler không cho Đức rút lui theo ý kiến của các tướng vì vậy thiệt hại càng  nặng nề. Như  mọi lần ông lại đổ  lỗi cho cấp dưới khiến các tướng phải từ  chức.  Trên mặt trận phía Tây, quân Đức ở Bắc Phi đầu hàng, Đồng minh chiếm  đảo Sicile của Ý, Mussolini bị hạ bệ.  Khi Đồng minh đổ  bộ  Normandy, Hitler vẫn không tin là quân Đức thua,   ông vẫn ra lệnh chiến đấu tới cùng, mắng nhiếc các tướng lĩnh. Cuối cùng để bảo vệ danh dự và không bị người khác coi thường Hitler đã  tự tử 2.3.3. Ưu và nhược điểm trong phong cách lãnh đạo của Hitler Ưu điểm Hitler có tài quân sự  kết hợp với tài hùng biện xuất sắc, do đó việc vận   dụng phong cách lãnh đạo chuyên chế  độc đoán đã phát huy được toàn bộ  16
  17. những khả năng của ông, giúp ông đạt được những thành công theo mục đích  của mình Thay đổi toàn bộ đất nước, nước Đức đang trong tình trạng khủng hoảng   sau chiến tranh nên cần những chính sách kinh tế  mới làm cho Đức vực dậy,  những tư tưởng Hitler đưa ra là mới là vì vậy để thực hiện những tư tưởng đó   yêu cầu phải sử dụng phong cách lãnh đạo độc đoán là phù hợp nhất. Việc sử  dụng phong cách độc đoán giúp Hitler giải quyết công việc một   cách nhanh chóng, đảm bảo đạt được mục tiêu chính xác. Thể hiện ở việc chỉ  trong vòng chưa đầy 20 năm kề từ khi Hitler công khai truyền tư tưởng độc tài  đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, từ những bước đi đầu tiên trong   Đảng Quốc xã đến việc nắm quyền cao nhất nhà nước, từ  việc vực nước   Đức lên về nền kinh tế tới việc xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh,  từ việc khởi động chiến tranh thế giới thứ hai đến những thắng lợi đạt được  trong chiến tranh. Tất cả  đều được áp dụng phong cách lãnh đạo độc đoán   chuyên quyền. Với việc   sử  dụng  phong  cách lãnh  đạo  độc   đoán  giúp  Hitler thâu  tóm  quyền lực về  mình cả  về  chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao… việc thâu  tóm quyền lực đó giúp những quyết định của Hitler rất uy lực, cũng như  làm  thất bại những tham vọng lật đổ ông.  Về quân sự, việc lãnh đạo theo phong cách lãnh đạo chuyên quyền là yêu  cầu cao nhất, vì bản chất của quân đội là nhận thông tin từ  trên xuống, chấp   hành và thực hiện. Hitler đã xây dựng được một lực lượng quân đội hùng   mạnh  Tóm lại, qua việc phân tích  ưu điểm chúng ta thấy rằng việc áp dụng   phong cách lãnh đạo độc đoán là rất cần thiết đối với Hitler nói riêng và Nhà  nước Đức nói chung trong thời kỳ đó. Bởi vì yêu cầu đặt ra cao nhất trong thời   kỳ này chính là làm sao để đưa nước Đức vực dậy một cách nhanh chóng nhất  17
  18. có thể, cả  về chính trị, kinh tế, quân sự... và chỉ  có lãnh đạo theo phong cách   độc đoán chuyên quyền mới làm được. Nhược điểm Việc lãnh đạo theo mang cách độc lập của Hitler là điều cần thiết, tuy  nhiên phong cách nào cũng có ưu điểm và nhược điểm. Có phong cách phù hợp  với  hoàn   cảnh,   tình   huống   này  nhưng   không   phù   hợp  với  hoàn   cảnh,   tình   huống khác. Hitler là một con người vận dụng phong cách độc đoán, gây ra  hậu quả  vô cùng nghiêm trọng, khi tư  tưởng của người lãnh đạo này bị  sai  lệch mà không ai có thể ngăn chặn, làm phát động chiến tranh thế giới thứ hai   và nhận thất bại nặng nề. ­ Mặt khác của phong cách lãnh đạo độc đoán còn thể hiện rất rõ: Thói ngông nghênh trong lúc làm việc của ông, không để ý đến trọng trách  quốc gia, chỉ để ý đến quyền lực trong tay mình => tạo ra rất nhiều kẻ chống   đối muốn lật đổ ông. Hitler quá tự  tin vào tài năng của bản thân, ngủ  quên trong chiến thắng,   không nghe lời khuyên của ai => hoang đường => điều đó đã làm cho Hitler  phải nhận những thất bại cay đắng. Hạn chế tinh thần sáng tạo của cấp dưới trong các tình huống quân sự. Cấp dưới sợ ông, không trung thành, thậm chí là ghét ông. Có nhiều quyết định sai lầm, chịu thất bại trong đế chế 2 do không nghe ý   kiến cấp dưới. Không chịu nhận lỗi về mình mà đánh đổi cả cái chết. Phong cách lãnh đạo độc đoán đã làm cho Hitler xa rời ý chí nguyện vọng  của nhân dân, không thương dân. Khi gặp thất bại => đổ  lỗi cho người khác, không chịu nhận cái sai về  mình. Hitler đàn áp rất dã man những người chống đối mình, người bị  buộc từ  18
  19. chức, kẻ bị giết, kẻ bị ép chết… không từ một ai => bị nhiều người căm ghét. Tóm lại, phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler mang cả   ưu và nhược  điểm, tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của Hitler chính là nguyên nhân dẫn tới  thất bại lớn nhất cuộc đời ông và gây thảm họa cho người Đức và cả thế giới   lại xuất phát từ  chính quan điểm mục tiêu sai lầm, kết hợp với sự độc đoán   chuyên quyền của ông đã làm cho Hitler trở thành một kẻ vĩ đại nhưng bị căm  ghét. 2.3.4. Nhận xét và rút ra bài học Nhận xét Trong hoàn cảnh của Hitler ở Đức, sau thảm họa của chiến tranh thế giới   thứ nhất để lại, việc ông ấy có và áp dụng phong cách lãnh đạo độc đáo là rất   cần thiết. Bởi vì yêu cầu đặt ra cao nhất trong thời kỳ này chính là làm sao để  đưa nước Đức vực dậy một cách nhanh chóng nhất có thể, cả  về  chính trị,   kinh tế, quân sự... và chỉ có lãnh đạo theo phong cách độc đoán chuyên quyền   mới làm được. Bên cạnh đó, không phải phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler lúc nào   cũng tốt và cần thiết. Có phong cách phù hợp với hoàn cảnh, tình huống này   nhưng không phù hợp với hoàn cảnh, tình huống khác việc. Hitler áp dụng   phong cách lãnh đạo độc đoán quá nhiều và vào những hoàn cảnh không phù  hợp như phát động chiến tranh thế giới thứ 2 tháng 9 năm 1939 hay thúc đẩy  một cách có hệ thống quá trình tước đoạt quyền lợi (các đối thủ  chính trị) và   sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái châu Âu cùng một số nhóm chủng tộc,  tôn giáo, như  người Digan, người Slav, người đồng tính luyến ái, người tàn  tật… (còn gọi là “đại đồ sát dân Do Thái”). Chính ông là người giúp nước Đức phục hồi kinh tế, chính trị, quân sự ,...  sau chiến tranh thế giới thứ nhất và lúc đó đại đa số  người Đức đều ủng hộ  ông và tin rằng ông sẽ  thay đổi cả  nước Đức. Và cũng chính ông bị  nhiều   19
  20. người quay lưng,căm ghét, các cuộc ám sát ngầm càng nhiều… sau khi nước   Đức trở  nên lớn mạnh, ông tiến đến việc xâm lược bên ngoài, và bị  hầu hết   mọi người phản đối vì vừa là yếu tố đạo lý, nhân đạo con người  vừa  thực tế  hơn nữa chính là: nước Đức vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến lớn; nếu  khiêu khích chiến tranh bây giờ sẽ có nguy cơ gặp thảm họa. Hay ông phá bỏ  Hiệp ước Versailles đã được ký kết từ trước… Cuối cùng nhận thất bại nặng  nề cho cả ông, nước Đức, ảnh hưởng đến cả Thế Giới. Bài học rút ra trong thực tế hiện nay Mỗi một phong cách lãnh đạo có thể  sẽ  không giống nhau nhưng chúng  lại có một điểm chung cốt lõi, đó là niềm đam mê và sự  cống hiến cho mục   tiêu mình muốn đặt được cũng như  tư  duy nghĩ lớn thể  hiện qua khao khát  thay đổi thế giới, thúc đẩy loài người tiến về phía trước. Những người lãnh đạo cần áp dụng phong cách lãnh đạo đúng công việc,  đúng người, đúng thời điểm. Một người có thể có nhiều phong cách lãnh đạo  nhưng sẽ  có phong cách lãnh đạo chủ  đạo và nó có vai trò quan trọng trong  việc ra quyết định, hành động ứng xử của người lãnh đạo, ảnh hưởng cả đến  những người xung quang. Cùng một vị  trí, công việc có thể  có những phong  cách lãnh đạo khác nhau. 3. Kết luận Trong trường hợp của Hitler, nhờ vào sự lãnh đạo độc đoán mà đã đem lại   những thành công vang dội nhưng cũng vì quá độc đoán, chuyên quyền, không   lắng nghe ý kiến của mọi người nên đã thất bại thảm hại. Từ đó ta có thể kết  luận rằng, phong cách lãnh đạo độc đoán nói riêng và những phong cách lãnh   đạo nói chung đều có hai mặt, hiểu rõ hai mặt và vận dụng một cách khéo léo  phù hợp vào từng tình huống cụ  thể  thì việc lãnh đạo mới đem lại hiệu quả  tích cực. Trong thực tế, mỗi nhà lãnh đạo thường có những cách riêng khi quản lý  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2