
LUẬN VĂN:
Xây dựng quan hệ phân phối hợp lí ,
phù hợp với hoàn cảnh của đất nước

Mở đầu
Đất nước ta đang trên con đường xây dựng chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa
.Mục đích cao nhất của chế dộ xã hội này là bảo đảm thỏa mãn đầy đủ nhất mọi nhu
cầu vật chất , văn hóa và sự phát triển tự do, toàn diện của mọi thành viên trong xã
hội. Do đó nguyên tắc phân phối trong CNCS là “làm hết năng lực , phân phối theo
nhu cầu “.Tuy nhiên , trong điều kiện nước ta hiện nay đang trong thời kì quá độ lên
CNXH thì cần phải xây dựng quan hệ phân phối hợp lí , phù hợp với hoàn cảnh của
đất nước. Vì vậy quan hệ phân phối dã trở thành vấn đề nghiên cứu không những của
những nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách mà còn của tất cả những ai quan tâm tới
sự phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu vấn đề này có tầm quan trọng rất lớn vì
nó sẽ tạo điều kiện để hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới, từ
dó làm tiền dề tiến lên CNXH, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn , văn
minh hơn , có thể sánh vai với các cường quốc trên thế giới.

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về phân phối
1.1. Một số lý thuyết phân phối thu nhập
1.1.1.Lý thuyết phân phối thu nhập của Adam Smith và David Ricardo
* Lý luận về tiền lương
Theo Adam Smith trong xã hội nguyên thủy trước CNTB thì toàn bộ sản phẩm
thuộc về người lao động . Điều dó có nghĩa là ông dã khẳng dịnh rằng một khi người
lao động làm việc bằng chính những tư liệu sản xuất và ruộng đất của mình thi lẽ
công bằng là người sản xuất dó phải nhận dược sản phẩm toàn vẹn của lao động của
họ.Nhưng trong điều kiện XHTB , người lao động bây giờ mất hết TLSX buộc phải
trở thành người làm thuê cho các chủ tư bản. Trong điều kiện như vậy, người làm
thuê chỉ nhận dược một số tiền từ phía chủ sau khi đã làm việc cho chủ với môt thòi
gian nhất định. Số tiền dó gọi là tiền lương. Vậy tiền lương của những người công
nhân làm thuê không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ, thực ra nó chỉ
là một bộ phận giá trị đó.
Adam Smith xác định cơ sở của tiền lương là giá trị những tư liệu sinh hoạt
cần thiết để nuôi sống người công nhân làm thuê và giáo dục , nuôi dưỡng con cái
anh ta để có thể đưa ra thay thế trên thị trường lao động.
Ông chỉ dưa ra mức bình thường của tiền lương và cho rằng tiền lương phải
đạt được ở mức ( giới hạn) tối thiểu. Theo Adam Smith tiền lương không được hạ
thấp quá giới hạn đó, vì nếu như thấp hơn giới hạn này sẽ là một thảm họa cho sự tồn
tại của các dân tộc. Bằng những cứ liệu khoa học ông chỉ ra rằng mức lương thấp hơn
giới hạn tối thiểu chỉ có ở những nước đang diễn ra sự thoái hóa về kinh tế . Còn ở
những nước đang có nền kinh tế phát triển nhanh thì tiền lương ngoài mức tối thiểu
ra còn có một phần khác cao hơn. Phần này do mức tiêu dùng , truyền thống văn hóa
quyết định . Tiếp tục sự nghiệp của Adam Smith , David Ricardo cho rằng giá trị tạo
ra gồm hai phần : Tiền lương và lợi nhuận và ông khẳng định sự đối kháng giữa tiền
lương và lợi nhuận. Ông nhận thấy quy luật của tư bản là : Năng suất lao động tăng
lên , tiền lương giảm và lợi nhuận tăng . Ông có ý đồ giải quyết việc xác định tiền
lương theo quy luật giá trị nhưng không thành công do chưa phân biệt được lao động
và sức lao động. Một trong những công lao to lớn của David Ricardo là phân tích tiền

công thực tế và xác định nó như phạm trù kinh tế. Ông nhấn mạnh lượng hành hóa
mà người công nhân mua được bằng tiền công chưa quyết định địa vị xã hội của
người đó. Sự quyết định tình cảnh của công nhân phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
tiền lương và lợi nhuận .
*Lý luận về lợi nhuận.
Theo Adam Smith , ông coi lợi nhuận là sản phẩm của lao động làm thuê của
người công nhân cho nhà Tư bản , là kết quả lao động không được trả công của người
công nhân làm thuê. Vậy thực chất lợi nhuận đó là thu nhập bóc lột của chủ tư bản
đối với những người làm thuê.
Theo Adam Smith , lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai “ vào sản phẩm của
lao động và ông tiến dần tới việc hiểu lợi nhuận , địa tô và lợi tức chỉ là những hình
thái khác nhau của giá trị thặng dư. Ông đã nhìn thấy xu hướng chia nhau lợi nhuận
theo quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân. Ông nhất quán một quan điểm khi cho rằng
giá trị là do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận được. Vậy phần giá trị
còn lại mà họ không nhận được chính là lợi nhuận. Cả Adam Smith và David ricardo
đều khẳng định: trong nền kinh tế nếu như tỉ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút là
nguy cơ trì trệ của nền kinh tế. Khẳng định thu nhập của chủ doanh nghiệp là động
lực thúc đẩy hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tính tích cực đầu tư
, vì thu nhập cao sẽ khuyến khích mọi người mở rộng đầu tư dẫn đến kinh tế phát
triển nhanh.
* Lý luận về địa tô.
Theo Adam Smith , địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động.
Về mặt lượng nó chính là số dôi ra ngoài tiền lương của công nhân và lợi nhuận của
nhà tư bản. Ông phát hiện ra một điều quan trọng : độc quyền tư hữu ruộng đất là
điều kiện chiếm hữu địa tô thông qua việc coi địa tô như là “tiền trả cho viêc sử dụng
đất đai”.
Một trong những công lao to lớn của Adam Smith là đã chỉ ra mức địa tô của
mảnh ruộng là do thu nhập của mảnh ruộng đó quyết định. Việc kế thừa và phát triển
của David Ricardo trong phân tích địa tô là một công lao to lớn của ông . Ông đã
phân tích địa tô trên cơ sở lí luận giá trị-lao động. Ông bác bỏ lí luận địa tô là sản vật

của những lực lượng tự nhiên hoặc do năng suất lao động đặc biệt trong Nông nghiệp
mang lại. Ông nhấn mạnh rằng địa tô hình thành không ngược với quy luật giá trị mà
tuân theo quy luật giá trị. Cụ thể ông cho rằng , giá trị nông phẩm được hình thành
trên điều kiện ruộng đất xấu nhất vì ruộng đất là yếu tố khan hiếm nên xã hội phải
canh tác trên cả ruộng đất xấu . Do đó , nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất và trung
bình thu được lợi nhuận siêu ngạch.Lợi nhuận siêu ngạch này phải nộp cho địa chủ.
Hạn chế của Adam Smith và David Ricardo là mới chỉ dừng lại nghiên cứu ở địa tô
chênh lệch I, chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối.
1.1.2. Lý thuyết phân phối thu nhập của Mác.
* Về tiền lương .
C.Mac chỉ rõ , công nhân làm việc cho các nhà tư bản trong một thời gian nào
đó , sản xuất ra một lượng hàng hóa nào đó thì nhận được một số tiền trả công nhất
định. Tiền trả công đó chính là tiền lương. Tiền lương không phải là giá trị hay giá cả
của lao động vì lao động không phải là hàng hóa và không phải là đối tượng mua
bán. Cái mà công nhân bán cho nhà tư bản , cái mà nhà tư bản mua của công nhân là
sức lao động. Từ việc giải thích đó , C.Mac khẳng định bản chất của tiền lương dưới
CNTB là giá trị hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài như giá
trị hay giá cả của lao động.
C.Mac đã chỉ ra hai hình thức cơ bản của tiền lương :tiền lương tính theo thời gian và
tiền lương tính theo sản phẩm . Ông còn phân tích sự khác nhau giữa tiền công danh
nghĩa và tiền công thực tế và khẳng định nếu khoảng cách giữa chúng càng lớn thì đó
là nguy cơ đối với cuộc sống của người làm công ăn lương.
* Về lợi nhuận.
C.Mac khẳng định lợi nhuận là một bộ phận giá trị do công nhân tạo ra và
thuộc về các chủ tư bản. Ông khẳng định trong điều kiện tự do cạnh tranh , các nhà tư
bản phân chia nhau lợi nhuận theo quy luật ti suất lợi nhuận bình quân. Tỉ suất lợi
nhuận bình quân là tỉ số tính theo % giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản
ứng trước trong xã hội. Trong điều kiện TBCN ông chỉ ra rằng tỉ suất lợi nhuận cao
hay thấp phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan như : tỉ suất giá trị thặng dư, sự tiết