
LUẬN VĂN:
Quản lý nhà nước vừa đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ
cương trong các hoạt động kinh tế

a-/ Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một
giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân
ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.
Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực
tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc
phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7%
năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn
mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần
của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng
được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải
quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều
tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó
là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là
thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy
chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai
trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền
kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố
các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện
các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm
bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh
hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể

kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần
lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định
đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh
tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.

b-/ giải quyết vấn đề
chương I
tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế
vi mô của Nhà nước trong nền kinh tế
I-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn lịch sử:
1-/ Nhà nước chủ nô:
Nhà nước chủ nô có từ rất sớm trong lịch sử xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô
lệ. Nhà nước chủ nô ra đời và trực tiếp dùng quyền lợi của mình nhằm can thiệp vào
việc phân phối của cải được sản xuất ra. Tuy rằng thời bấy giờ những người nô lệ
làm ra sản phẩm nhưng dưới sự chỉ huy của Nhà nước thì khối lượng lớn của cải đó
không phân phối cho nô lệ mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực lúc này
Nhà nước có vai trò được làm công cụ cho bọn chủ nô điều khiển, cưỡng bức kinh
tế.
2-/ Phong kiến:
Nhà nước lúc này không chỉ can thiệp vào việc phân phối sản phẩm mà còn
đứng ra hợp lực xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp lúc này Nhà
nước đã khuyến khích nhân dân đi tìm các vùng đất mới thích hợp để gieo trồng. ở
Việt Nam đã có sự can thiệp của Nhà nước từ rất sớm thế kỷ thứ X trước công
nguyên. Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là sở hữu của địa chủ phong kiến
đối với ruộng đất cũng như các loại tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông
dân trong sự lệ thuộc vào địa chủ.
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến là
phương tiện để giai cấp phong kiến duy trì địa vị kinh tế của mình và thực hiện
quyền thống trị đối với toàn xã hội.

3-/ Tư sản:
Trên thế giới vào thế kỷ XV xuất hiện các nhà tư bản quá trình tích luỹ nguyên
thuỷ được thực hiện nên kinh tế thị trường dần dần hình thành. Nhằm giúp các nền
kinh tế của mình phát triển nhanh, tất nhiên giai cấp tư sản phải thực hiện thúc đẩy,
vai trò quan trọng của Nhà nước tư sản như là một “bà đỡ” bởi vậy ngày càng xác
định rõ vai trò của giai cấp tư sản và nâng cao dần dần.
Sự quản lý Nhà nước cũng rất khác tức là hết sức nghiêm ngặt, họ quản lý chặt
chẽ vốn của mình, họ tìm cách giữ chặt nguồn vốn của mình không để chạy tuột ra
nước ngoài, Nhà nước của các nước tư bản giai đoạn này đã đề ra luật buộc các
thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ mang hàng mà
thôi. Nhà nước còn quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc
kiểm soát của mình. Các chính sách để có số nhân tiền lớn, tạo ra một lượng tiền
nhỏ chạy ra ngoài lưu thông và quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả. Trong chính
sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và
thuế nhập khẩu các hàng sản xuất trong nước thấp chỉ xuất thành phẩm chứ không
xuất nhiên liệu, cũng như các hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện
việc hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất, tài chính khi
họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời với nó Nhà nước quy định chặt chẽ tỷ giá
hối đoái cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức giá đó. Nhờ vậy mà các nước
tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải, tiền tệ đáng kể. Đầu thế kỷ XVIII giai
cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất nhờ áp dụng công nghệ mới,
nền sản xuất của các nước tư bản phát triển rất nhanh, các nhà tư bản đua nhau mở
rộng quy mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời
sống của nền kinh tế này.
4-/ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Nhà nước kiểu mới không dựa trên cơ
sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân và các
hình thức sở hữu hợp pháp khác.