LUẬN VĂN:

Quản lý nhà nước vừa đảm bảo định

hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế

a-/ Lời nói đầu

Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một

giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân

ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.

Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng

của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực

tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng

hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc

phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước

(GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7%

năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn

mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần

của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng

được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải

quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều

tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.

Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó

là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp

với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch

hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy

chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường

có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là

thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy

chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai

trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền

kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố

các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện

các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm

bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh

hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể

kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần

lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định

đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm

bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh

tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.

b-/ giải quyết vấn đề

chương I

tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế

vi mô của Nhà nước trong nền kinh tế

I-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn lịch sử:

1-/ Nhà nước chủ nô:

Nhà nước chủ nô có từ rất sớm trong lịch sử xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô

lệ. Nhà nước chủ nô ra đời và trực tiếp dùng quyền lợi của mình nhằm can thiệp vào

việc phân phối của cải được sản xuất ra. Tuy rằng thời bấy giờ những người nô lệ

làm ra sản phẩm nhưng dưới sự chỉ huy của Nhà nước thì khối lượng lớn của cải đó

không phân phối cho nô lệ mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực lúc này

Nhà nước có vai trò được làm công cụ cho bọn chủ nô điều khiển, cưỡng bức kinh

tế.

2-/ Phong kiến:

Nhà nước lúc này không chỉ can thiệp vào việc phân phối sản phẩm mà còn

đứng ra hợp lực xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp lúc này Nhà

nước đã khuyến khích nhân dân đi tìm các vùng đất mới thích hợp để gieo trồng. ở

Việt Nam đã có sự can thiệp của Nhà nước từ rất sớm thế kỷ thứ X trước công

nguyên. Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là sở hữu của địa chủ phong kiến

đối với ruộng đất cũng như các loại tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông

dân trong sự lệ thuộc vào địa chủ.

Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến là

phương tiện để giai cấp phong kiến duy trì địa vị kinh tế của mình và thực hiện

quyền thống trị đối với toàn xã hội.

3-/ Tư sản:

Trên thế giới vào thế kỷ XV xuất hiện các nhà tư bản quá trình tích luỹ nguyên

thuỷ được thực hiện nên kinh tế thị trường dần dần hình thành. Nhằm giúp các nền

kinh tế của mình phát triển nhanh, tất nhiên giai cấp tư sản phải thực hiện thúc đẩy,

vai trò quan trọng của Nhà nước tư sản như là một “bà đỡ” bởi vậy ngày càng xác

định rõ vai trò của giai cấp tư sản và nâng cao dần dần.

Sự quản lý Nhà nước cũng rất khác tức là hết sức nghiêm ngặt, họ quản lý chặt

chẽ vốn của mình, họ tìm cách giữ chặt nguồn vốn của mình không để chạy tuột ra

nước ngoài, Nhà nước của các nước tư bản giai đoạn này đã đề ra luật buộc các

thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ mang hàng mà

thôi. Nhà nước còn quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc

kiểm soát của mình. Các chính sách để có số nhân tiền lớn, tạo ra một lượng tiền

nhỏ chạy ra ngoài lưu thông và quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả. Trong chính

sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và

thuế nhập khẩu các hàng sản xuất trong nước thấp chỉ xuất thành phẩm chứ không

xuất nhiên liệu, cũng như các hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện

việc hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất, tài chính khi

họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời với nó Nhà nước quy định chặt chẽ tỷ giá

hối đoái cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức giá đó. Nhờ vậy mà các nước

tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải, tiền tệ đáng kể. Đầu thế kỷ XVIII giai

cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất nhờ áp dụng công nghệ mới,

nền sản xuất của các nước tư bản phát triển rất nhanh, các nhà tư bản đua nhau mở

rộng quy mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời

sống của nền kinh tế này.

4-/ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa:

Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Nhà nước kiểu mới không dựa trên cơ

sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân và các

hình thức sở hữu hợp pháp khác.

Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) ở thời kỳ đầu mới xuất hiện đã tạo

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Khi CNTB phát triển đến

giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc khi mà lực lượng sản xuất đã phát

triển ở trình độ xã hội hoá tương đối cao thì quan hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ

sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư, đã trở nên mâu thuẫn

không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển. Mâu thuẫn đó đòi hỏi một

cuộc cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất (QHSX). Cuộc cách mạng về QHSX ấy

tất yếu dẫn đến sự thay đổi Nhà nước.

Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và QHSX biểu hiện về mặt xã hội là mâu

thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nền sản xuất TBCN đã tạo ra những

tiền đề làm cho giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như về tính tổ

chức, kỷ luật. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội có sứ

mạng lịch sử là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động làm cách mạng, xoá bỏ

Nhà nước tư sản, xây dựng Nhà nước XHCN.

Bản chất của Nhà nước XHCN do cơ sở kinh tế và đặc điểm về quyền lực

trong CNXH quyết định. Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là tổng thể các QHSX

được hình thành trên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển theo định

hướng XHCN trước sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Các kiểu Nhà

nước khác trong lịch sử đều dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về

tư liệu sản xuất.

Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân

về tư liệu sản xuất, là công cụ bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân,

nông dân, trí thức XHCN.

II-/ Các lý thuyết về vai trò kinh tế của Nhà nước của các nhà kinh tế học cổ

điển, tân cổ điện, Keynes:

1-/ Các nhà kinh tế học cổ điển:

Mầm mống tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục phát triển trong lý thuyết tự

nhiên của phái trọng nông ở Pháp. Song nổi bật là A. Smith (1723-1790) một nhà

kinh tế học nổi tiếng người Anh, Ông đã đưa ra lý thuyết “Bàn tay vô hình” và

nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá. Theo ông

phát triển kinh tế cần tuân theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh

tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối sự hoạt động của thị trường, là do

quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết

định quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Ông còn cho rằng mỗi

người hoạt động chỉ nhằm lợi ích của bản thân, song do “Bàn tay vô hình” chi phối

buộc con người phải phục tùng lợi ích chung của xã hội và điều này nằm ngoài ý

định của các nhà kinh doanh. Để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh Nhà nước

không nên can thiệp vào kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp.

Mặc dù coi trọng “Bàn tay vô hình” song A. Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà

nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong các trường hợp các

nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến

cảng, đào các con kênh lớn,...

Thực tế chỉ ra là nền kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có

một cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện đại. Điều này đã làm cho các

nhà kinh tế học thời kỳ này thấy rằng: nền kinh tế phát triển càng cao xã hội hoá

càng mở rộng, thị trường càng phát triển, càng cần có sự quản lý kinh tế của Nhà

nước đối với nền kinh tế. Song, họ vẫn coi tự do kinh tế là sức mạnh của nền kinh tế

thị trường, quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể làm kìm

hãm hay thúc đẩy ở mức độ nhất định sự hoạt động của nó.

Nhưng vào những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ

ra thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) cho thấy

“Bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị

trường phát triển. Thêm vào đó trình độ xã hội hoá phát triển ngày càng cao đã chỉ

cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp

vào quá trình hoạt động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế.

2-/ Quan điểm của Keynes:

Nhà kinh tế học người Anh John Meynard Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý

thuyết nền kinh tế thị trường. Theo J.M Keynes sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến

sự tăng lên của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu

dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập. Vì vậy cầu tiêu dùng

giảm tương đối, sự giảm cầu tiêu dùng sẽ kéo theo sự giảm sút của hàng hoá, từ đó

làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Và khi tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng

lãi suất thì các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, họ sẽ

không đầu tư vào sản xuất kinh doanh nữa. Điều này sẽ dẫn đến nền kinh tế từ chỗ

trì trệ, khủng hoảng và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng. Để khắc phục

tình trạng đó, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế và thị trường, phải huy động

được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh,

giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu về cầu

tăng lên, giá cả hàng hoá tăng, thu nhập tăng, tăng hiệu quả của tư bản đầu tư. Điều

đó khuyến khích mở rộng đầu tư làm cho sản xuất tăng nhanh nhờ đó mà có điều

kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp.

J.M Keynes và trường phái của ông cho rằng Nhà nước can thiệp vào kinh tế

cả tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất,

chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp,

đầu tư phát triển,... ở tầm vi mô Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản

xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng.

Trường phái Keynes cho rằng sự can thiệp của Nhà nước là tuyệt đối không

một cá nhân nào có thể thay thế.

3-/ Quan điểm hỗn hợp của Paul Samuelson - Sự phối hợp giữa “Bàn tay vô

hình” và “Bàn tay hữu hình”:

Paul Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ thuộc trường phái hiện đại. Ông có tư

tưởng kết hợp “Bàn tay vô hình” với chức năng quản lý kinh tế Nhà nước để điều tiết

nền kinh tế thị trường. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ

lẫn thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Cơ chế thị trường xác định giá

cả trong nhiều lĩnh vực trong khi Nhà nước điều tiết thị trường bằng các chương trình

thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả thị trường có tầm quan trọng ngang nhau. Sự phối hợp đó

tạo nên nền kinh tế hỗn hợp.

4-/ Trường phái “Kinh tế thị trường xã hội”:

Trường phái này cũng mang tính chất hỗn hợp “Bàn tay vô hình” của thị

trường và “Bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Tuy vậy tư tưởng can thiệp của Nhà

nước cũng rất đa dạng. Các nhà tư tưởng chủ nghĩa tự do muốn phát triển kinh tế tự

do, Nhà nước chỉ can thiệp mức độ nhất định. Quan điểm của họ là tự do thị trường

nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn. Trong khi đó các nhà tư tưởng Bắc Âu lại chủ

trương tăng cường vai trò Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội, xây dựng kiểu

kinh tế thị trường xã hội.

Tư tưởng vai trò kinh tế Nhà nước được vận dụng vào các nước mang tính chất

đặc thù. Như ở Mỹ ở đầu thế kỷ XX đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước

liên bang đối với nền kinh tế. Vai trò của Chính phủ liên bang tạo ra môi trường tự do

cạnh tranh, xây dựng các đạo luật chống độc quyền, kiểm soát các hoạt động kinh tế

bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ chức ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng

Trung ương vừa làm chức năng dự trữ, vừa làm chức năng điều tiết, kiểm soát lượng

tiền tệ được cung ứng thông qua ngân hàng thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng của

nền kinh tế, giao thông,...

ở Đức thì nền kinh tế thị trường được hình dung như một sân bóng trong đó

mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ Nhà nước đóng vai trò là trọng tài, là người thiết

kế “luật chơi” và dùng “luật chơi” để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế

tránh những tai hoạ khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Nhà nước rất tôn trọng

quyền tự do cạnh tranh trên thị trường của các chủ doanh nghiệp, và chỉ giữ ở mức

độ tối thiểu Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội.

5-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:

Bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C. Mác coi quyền

lực của Nhà nước như vai trò “bã đỡ” cho xã hội cũ thai nghén của xã hội mới. F.

Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuy-ring” cũng nhấn mạnh rằng “Giai cấp vô sản

chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu

Nhà nước” (Tuyển tập, tập V - NXB ST, HN 1983).

ở các thời kỳ khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước

khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau,...

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự khác nhau thể hiện ở

những điểm sau đây:

Một là, các nhà nước trước CNTB, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế

khoá - một chế độ đóng góp có tính cưỡng bước để nuôi sống Bộ máy cai trị thực

hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp, điều hoà sự xung đột và “Giữ cho sự

xung đột đó nằm trong vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.

Nguồn thu của thuế khoá còn nhằm thực hiện chức năng đối ngoại, bảo vệ lãnh thổ

theo đó là bảo vệ lợi ích và mở rộng lợi ích của giai cấp thống trị khỏi bị xâm lược

hoặc bị mất đi ở nước ngoài.

Hai là, đến Nhà nước tư sản vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng lại ở

thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài. Bên trên quá trình

sản xuất như F. Ăngghen đã nhận xét: “Nền văn mình mà tiến lên thì bản thân thuế

má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công

trái” (C. Mác - Ăngghen tuyển tập, tập V).

Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá

trình sản xuất. Nhà nước là: “Nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển

nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư

bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột công nhân bấy nhiêu”. (“Chống Đuy-

ring” - C. Mác - Ăngghen, tập V - NXB Sự thật, 1982).

chương II

những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường

I-/ Ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường:

1-/ Ưu điểm:

Khi chúng ta nói được nhược điểm của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

tức là ta đã chứng minh được rằng kinh tế thị trường có tiến bộ hơn, như vậy thì tiến

bộ hơn ở chỗ nào? phải chăng đơn thuần chỉ là nền kinh tế tập trung được cải thiện

hoá mà thôi.

Thứ nhất, kinh tế thị trường là nơi để diễn ra sự cạnh tranh, sự đào thải của cái

cũ để dẫn đến đưa mọi sự vật phát triển cao hơn. Nói đến kinh tế thị trường là nói

đến sự cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh tế thị trường. Cạnh tranh là

sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, để giành sản xuất, tiêu dùng

hàng hoá có lợi cho mình nhằm thu lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh đối với tất cả

các ngành giữa người bán, người mua,...

Do vậy nền kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng

cao năng suất lao động, để nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất giá thành rẻ, chất

lượng cao, chỉ còn cách là nâng cao kỹ thuật công nghệ để cạnh tranh với các hãng

khác nhằm tối đa hoá lợi nhuận. C.Mác cũng đánh giá vai trò lợi nhuận đối với các

nhà tư bản với tư cách là chủ thể của nền kinh tế thị trường. Theo Mác, những nhà

kinh doanh ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít

chẳng khác gì giới tự nhiện ghê sợ chân không. Vậy mà cuộc sống lại đi lên hàng

ngày vấn đề phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hoá sản xuất làm cho

năng suất lao động cá biệt và năng suất xã hội tăng lên. Nhờ đó mà nền kinh tế thị

trường tuy mới ra đời mấy năm lại đây nhưng bề thế đã tạo cho mình khá dầy dặn là

một khối lượng, lực lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong lịch sử xã hội

loài người.

Thứ hai, kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh

chóng khi sản xuất một mặt hàng nào đó cái cần thiết là phải biết được thị hiếu của

dân chúng, hãng nào sản xuất các mặt hàng lạ, đẹp mắt và hợp thời trang sẽ đạt

nhiều lợi nhuận hơn. Muốn vậy có nhiều hình thức như quảng cáo, tiếp thị, thu nhập

thông tin khi thấy mặt hàng của mình ít ưu chuộng hoặc là ưu chuộng giảm tức là

cầu đang giảm dần thì người sản xuất phải ngừng ngay sản xuất lại. Chính điều đó

dẫn tới sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội vì vậy trong nền kinh tế thị trường luôn

luôn diễn ra sự đổi mới. Nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán nay mất đi vì không có

nhu cầu, nhiều sản phẩm mới với chất lượng, quy cách ngày càng được hoàn thiện

hơn.

Thứ ba, không kể tới nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế có nhiều hàng

hoá và dịch vụ. Đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải thiếu hụt. Do nền

kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật

chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của con người.

Thứ tư, đó là nơi thúc đẩy xã hội hoá và tập trung dân chủ cao, phân phối thu

nhập hợp lý. Đúng theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không

làm không hưởng.

Nhưng những mặt tốt của nó lại đi kèm những nhược điểm mà nó được gọi là

những mặt trái của nền kinh tế thị trường.

2-/ Mặt trái của nền kinh tế thị trường:

Thứ nhất, nếu nói rằng thị trường là nơi mà các thông tin phải rất nhạy bén và

chính xác thì chỉ cần một thông tin lệch lạc hay sự “lỡ” sản xuất dẫn đến sản xuất

mù quáng gây ra các cuộc khủng hoảng thừa và thiếu nghiêm trọng, có những lúc

thị trường khan hiếm, nhưng có nhiều lúc lại quá thừa dẫn đến tình trạng đổ đi một

cách quá lãng phí.

Thứ hai, chính thị trường cạnh tranh đó làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

không theo kịp và tất nhiên sẽ có quá nhiều doanh nghiệp phải đi đến phá sản, phải

đào thải công nhân, thất nghiệp tràn lan, dẫn đến các tệ nạn xã hội tăng lên đáng kể

như: nghiện hút, cơ bạc,...

Thứ ba, cũng chỉ vì theo đuổi mục đích tối đa lợi nhuận mà các hãng kinh

doanh sẽ chỉ đầu tư vào những ngành có lợi nhuận cao mà không quan tâm đến sự

phát triển kinh tế như thế nào dẫn đến nền kinh tế có sự không cân đối giữa các

ngành dịch vụ gây ra sự mất cân bằng.

Thứ tư, khi gắng gia tăng sản lượng cao nhất vô tình con người đã thải ra môi

trường một lượng chất thải vượt xa với lượng chất thải mà môi trường có thể tự

phân huỷ, bởi vậy ô nhiễm môi trường một cách nặng nền hơn thế có thể làm ảnh

hưởng tới cuộc sống hay sức khoẻ con người sự tàn phá thiên nhiên một cách tàn

nhẫn.

Thứ năm, ta không thể không nói đến vấn đề “độc quyền” trong nền kinh tế thị

trường, chính sự độc quyền này làm gây ra rất nhiều những bức xúc và dẫn đến có

thể làm đảo lộn nền kinh tế khi một công ty tung tiền ra với một lượng quá lớn sẽ

gây ra lạm phát cao và gây ra sự mất hiệu quả của nền kinh tế, không có sự canh

tranh giữa các doanh nghiệp với nhau mà chỉ có một mức giá cố định.

II-/ Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường:

Đây là những đặc trưng nội cộm nhất, tiêu biểu nhất của một nền kinh tế vận

hành theo cơ chế thị trường.

Có năm đặc trưng lớn:

Thứ nhất, đó là thể chế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp

luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa liên kết, hợp tác và phát triển xã hội

hoá cao.

Thứ hai, khi ở nền kinh tế thị trường thông tin là một điều tối quan trọng và

ngày càng đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn sản xuất các hãng kinh doanh lựa chọn

phương án sản xuất cho mình để ngày càng mở rộng quy mô sản xuất, lợi nhuận

nhiều hơn hay có hiệu quả trong việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên, lựa chọn

các phương án sản xuất bao gồm thời gian tiến hành, nơi tiến hành, thiết bị, lực

lượng lao động,... tất cả những điều này là thể chế của những chủ thể tự chủ. Các

hãng tự quyết định lấy hành vi của mình nhưng phải theo một khuôn khổ với sự

quản lý vĩ mô của Nhà nước và tuân theo pháp luật. Do lợi nhuận các hãng luôn

thay đổi các thiết bị, mẫu mã để cạnh tranh với các hãng khác, giành giật hợp đồng

cũng như khách hàng. Nhưng trong nền kinh tế thị trường vẫn phải có khuôn phép,

có luật bảo vệ. Ngoài ra, ở nền kinh tế thị trường không nên dàn đều các mặt quan

trọng như một tổ chức ta sẽ phân công cho phát triển các vị trí then chốt, vị trí

không thể thiếu được của cuộc sống, để tạo ra thế vững chắc, đồng đều và cân bằng.

Trong nền kinh tế thị trường điều thiết yếu là sở hữu cá nhân và tư nhân (về

lao động, vốn, tài sản,...) được tôn trọng, đồng thời phải phát triển các hình thức sở

hữu, hỗn hợp, đan xen trong các tổ chức kinh doanh. Đối với các tổ chức kinh tế

quốc doanh ta nên tách quyền sở hữu tài sản của Nhà nước với quyền kinh doanh tài

sản của doanh nghiệp. Riêng kinh tế hợp tác tự nguyện được khuyến khích và hỗ

trợ. Làm sao cho các thành phần kinh tế phải được công bằng trước pháp luật.

Thứ ba, giá tự do tức giá thị trường, tự do hoá thương mại (ban đầu ở trong

nước dần dần mở rộng ra thị trường ngoài nước) và cạnh tranh tạo mọi khả năng

cho thị trường phát huy vai trò tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng

hoá.

Sự sai lầm của chúng ta trong cơ chế cũ là Nhà nước quy định giá cho các mặt

hàng, giá cả cứng nhắc, tiền lương thực tế không thay đổi khi gia tăng làm ảnh

hưởng rõ rệt đến nền kinh tế là lạm phát quá cao gây lộn xộn mất ổn định của nền

kinh tế. Và bây giờ khi chuyển sang một nền kinh tế mới, hơn hết chúng ta hãy để

thị trường, doanh nghiệp tự quyết định hành vi của mình mà cho giá cả phù hợp

cũng như tuỳ thuộc vào lượng cung cầu mà sản xuất kinh doanh. Thấy rõ khi cung

lớn cầu ta phải ngừng sản xuất ngay để tiêu thụ hết tất cả các sản phẩm tồn kho, để

tránh khủng hoảng thừa hay để lợi ích cận biên giảm. Khi cầu lớn hơn cung giá cả

sẽ tăng và các hãng doanh nghiệp rất muốn mở rộng quy mô sản xuất.

Tuy rằng xã hội luôn mong muốn cầu và cung ở trạng thái cân bằng để tránh

gây suy thoái hay gây lạm phát bằng các chính sách, các hình thức kinh tế, các hoạt

động kinh tế, luật pháp, chế độ phân phối mà điều tiết cũng như hạn chế sao cho

phù hợp. Các hình thức trợ giá hay phát hành cổ phiếu,... để hạn chế mặt trái của thị

trường.

Thứ tư, trong khi điều hành nền kinh tế đừng đưa những quy định cứng nhắc,

bảo thủ, cần hạn chế tối đa các mệnh lệnh hành chính để làm sao đưa nền kinh tế thị

trường đúng như quy luật của thị trường tức là diễn ra theo các quy luật: quy luật

cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh nhằm diễn ra theo nguyên tắc vận

hành chủ yếu. Nhưng không vì vậy mà ta bỏ mặc nền kinh tế thích ra sao thì ra mà

vẫn phải có sự quản lý của Nhà nước để chỉnh hướng đi theo nền kinh tế có kế

hoạch, có mục tiêu kinh tế xã hội. Bởi vậy ta không nên cô lập thị trường mà nên

kết hợp nền kinh tế kế hoạch và nền kinh tế thị trường để đảm bảo chính sách kinh

tế của nước nhà, suy cho cùng nền kinh tế thị trường không phải là vạn năng, có

nhiều cái nó không thể làm được. Tầm quan trọng của kế hoạch ở năng lực điều

chỉnh hành vi của nó, đó là khi ta dự đoán chính xác đưa ra các chính sách phương

án và phương hướng phát triển nền kinh tế đưa cái nào là mũi nhọn như phát triển

công nghiệp, sự nghiệp công ích mà thị trường không đoái hoài đến. Đồng thời là sự

uốn nắn những sai lầm của thị trường loại bớt, giảm và hạn chế tối đa.

Thứ năm, mọi yếu tố sản xuất phải đi vào thị trường bởi nó tạo điều kiện cho

nền kinh tế hoạt động bình thường phải đưa tất cả vào đừng vì bất cứ cái gì mà chần

chừ. Tiếp tục đẩy mạnh cơ chế lưu thông hàng hoá xây dựng hệ thống thị trường

thông suốt và thống nhất ở các thị trường hàng hoá dịch vụ, vốn, kỹ thuật, chứng

khoán, bất động sản.

Đặc trưng xã hội cũng như vai trò xã hội to lớn của Nhà nước XHCN trở thành

đặc trưng nổi bật của thể chế nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa mô hình kinh tế mà con người là nhân vật trung tâm.

Một nền kinh tế thị trường thành công không phải dừng lại đơn thuần là sự

tăng trưởng kinh tế mà đi kèm với nó là không ngừng nâng cao chất lượng cuộc

sống như lương và thu nhập thực tế tăng trưởng mạnh, y tế tăng, phân hoá giầu

nghèo không còn rõ nét, không làm phương hại lớn đến chúng, mặt khác phải giữ

vững vai trò cũng như bảo tồn nền văn hoá truyền thống của xã hội.

Muốn vậy khi quyết định ta phải nêu ra các chi tiêu cần phải đạt được về mặt

giáo dục, y tế, việc làm, xoá đói giảm nghèo, lĩnh vực văn hoá xã hội, đảm bảo môi

sinh môi trường, đồng thời nâng cao vai trò xã hội của Nhà nước XHCN theo chế

độ bảo hiểm xã hội, theo nguyên tắc công bằng, bình đẳng, tuy vậy ta phải quan tâm

chú ý săn sóc đến các thành viên có công với cách mạng, các bà mẹ anh hùng, liệt

sỹ, thương binh, người già, trẻ em mồ côi.

Chương III

Mục tiêu, chức năng, vai trò quản lý kinh tế

vĩ mô của nhà nước

I-/ Mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước:

Mỗi vấn đề đặt ra đều có những mục tiêu riêng của nó. Vậy thì khi ta nghiên cứu

sự quản lý vĩ mô của Nhà nước ta sẽ có những mục tiêu nào để từ đó đưa ra các chính

sách cũng như các biện pháp quản lý hợp lý và đúng đắn nhất.

1-/ Mục tiêu phân bố nguồn lực có hiệu quả:

Để phân bố có hiệu quả Nhà nước phải dựa vào những công cụ kế hoạch định

sự phát triển toàn diện nền kinh tế, thông qua các công cụ này Nhà nước có thể nắm

bắt được tất cả các yếu tố cung cũng như cầu, trạng thái nền kinh tế, đặc điểm từng

vùng để hướng tới sự phân bố, định hướng về quy mô và sản lượng từng vùng để xử

lý nguồn lực đang có một cách tốt hơn. Xác định quy mô từng vùng để có khả năng

phát triển tốt nhất các mặt mạnh của vùng đó, đặc trưng và tài nguyên. Bởi vậy hiện

nay cũng có rất nhiều vùng khác nhau có mũi nhọn như: than, lúa, sắt,... từ đó Nhà

nước có thể cung cấp vốn, kỹ nghệ, sức lao động để sử dụng có hiệu quả nhất. Và

đây cũng chính là công cụ để Nhà nước có thể khẳng định được ý đồ cũng như mục

đích của mình trong tất cả các lĩnh vực, công cộng, khoa học, kỹ thuật, kinh tế,

giảm bớt rủi ro với các thành phần kinh tế đảm bảo các hoạt động đi vào guồng máy

hơn, tạo sự hài hoà thống nhất các khu vực với nhau.

2-/ Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã

hội:

a-/ Phương pháp cân bằng:

Để đảm bảo phân bố công bằng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội Nhà nước

có chức năng phân phối thông qua sự điều tiết kinh tế. Phân phối theo chủ sở hữu,

phân phối theo lợi nhuận, phân phối theo lao động một cách công bằng nhất, ai làm

người đó hưởng, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhà nước phải đại diện

cho quyền lợi nhân dân lao động. Tuy nhiên Nhà nước vẫn phải trợ cấp cho các

người già, thương binh, bảo hiểm, công nghệ bằng các chính sách tiền tệ nhằm hạn

chế tối đa sự bất bình đẳng, bất công bằng trong xã hội. Ngoài ra Nhà nước còn áp

dụng các chính sách kinh tế khác như: chính sách thuế, chính sách phân phối lợi

nhuận, chính sách lãi suất.

b-/ Giáo dục:

Cùng với sự phân phối cân bằng thì giải quyết các vấn đề xã hội cũng là mục tiêu

lớn. Đó là mục tiêu nâng cao mặt bằng văn hoá dân tộc, đẩy lùi nạn mù chữ, đồng thời

tạo điều kiện giảng dạy cho thật tốt, có hiệu quả,... Khi ta có trí thức ta sẽ dễ dàng nhận

thức được nhiệm vụ cũng như hành động của mình.

3-/ Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế:

Đây là mục tiêu cần thiết và quan trọng nhất. Tăng trưởng không có nghĩa là

chỉ tăng về số lượng mà tăng cả về chất lượng đồng thời với nó là nền kinh tế đã đi

vào nhịp thở như nhịp thở của trái tim vậy, hoà quyện với nhau để cùng tồn tại và

phát triển.

Nhà nước có vai trò tối quan trọng ở đây đó là tạo môi trường lành mạnh để

các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh, kết hợp theo cấu trúc và theo quy định

của pháp luật, làm sao để phát huy đẩy mạnh các mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực,

nhằm cho các doanh nghiệp thuận lợi để sản xuất tối đa sức sản xuất của mình.

Nhà nước phải xác định rõ quyền sở hữu tài sản để đảm bảo nguồn lực tham

gia vào kinh tế vốn, kỹ nghệ, các dự án đầu tư, đồng thời khuyến khích nhằm nâng

cao sức sản xuất cũng như sự cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền và phát triển

toàn diện các yếu tố lao động vốn, kỹ thuật, đất đai theo không gian và thời gian.

Ngoài ra Nhà nước còn có một nhiệm vụ đó là nguồn tài trợ cuối cùng đối với

các doanh nghiệp chủ chốt để phát huy không làm cho nền kinh tế chệch hướng xã

hội chủ nghĩa.

4-/ Củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội:

Kết cấu hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mục tiêu không thể thiếu được khi

xây dựng một nền kinh tế mở và toàn diện. Muốn vậy ta phải phát triển giáo dục

cũng như tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo sự tiến bộ mới cho nền

kinh tế đồng thời tạo nền kinh tế thị trường có sức cạnh tranh, đổi mới công nghệ.

5-/ Mục tiêu củng cố quốc phòng, an ninh trật tự:

Bảo vệ và phát triển luôn đi kèm với nhau. Yêu cầu cao nhất của xã hội đó là

phát triển bền vững và có sự vững chắc về quốc phòng cũng như an ninh.

II-/ Chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường:

Vai trò nhà nươc trong nền kinh tế thị trường được thực hiện thông qua các

chức năng cơ bản sau:

1-/ Thiết lập khuông khổ pháp luật:

Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối vói sự phát triển kinh tế mà cá doanh

nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm

qui định về tài sản, các qui tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách

nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định

môi trường kinh tế.

Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những

mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp

ứng những giá trị và quan điểm được đồng tình rộng rãi về sự công bằng hơn là qua

một sự phân tích kinh tế được mài dũa rất cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Nhưng

khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tơi các ứng xử kinh tế của con người.

2-/ Hiệu quả:

Nhà nước sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có

hiệu quả như: Hạn chế ảnh hưởng của động quyền, tình trạng vô chính phủ dẫn đến

khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, nạn ô nhiễm môi trường...

Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó

không hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi dụng ưu thế của

mình, các tổ chức độc quyền có thể qui định giá để thu lợi nhuận, và do vậy phá vỡ

ưu thế cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để hạn

chế độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả cạnh tranh thị trường. Điều đó đảm bảo được

ganh đua của những người kinh doanh, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.

Song song cạnh tranh không hoàn hảo hay độc quyền thì một người cạnh tranh

không hoàn hảo có thể làm thay đổi giá cả của mặt hàng nào đó. Vì người độc

quyền trên thực tế là người duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể nào đó. Vì vậy

có khả năng qui định giá cao để thu hút siêu lợi nhuận. Tình trạng đó làm cho giá cả

cao hơn mức hiệu quả, làm biến dạng về cầu và xuất hiện siêu lợi nhuận. Tình trạng

đó làm cho giá cả cao hơn mức hiệu quả, làm biến dạng về cầu và xuất hiện siêu lợi

nhuận. Những lợi nhuận này có thể được sử dụng vào những hoạt động như quảng

cáo lừa dối, mua ảnh hưởng. Vì vậy nhà nước không thể coi mọi hoạt động của độc

quyền là tất yếu. Nhà nước cần đưa ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để

làm tăng hiệu quả của hệ thống thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.

Thứ hai, những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt

động của thị trường và cũng đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xẩy

ra khi doanh nghiệp tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc người khác mà

doanh nghiệp đó không phải trả đúng số chi phí phải trả hoặc không được nhận

những lợi ích nhẽ ra anh ta được nhận. Ví dụ, Doanh nghiệp A sử dụng tài nguyên

hiếm như không khí hay nước sạch mà không phải trả tiền cho những người phải

sống trong bầu không khí bị ô nhiễm hay nước bẩn. Những tác động bên ngoài như

vây làm cho hoạt động kinh tế không hiệu quả. Vì vậy, nhà nước phải sử dụng đến

luật lệ để hành kinh tế như là một phương pháp để ngăn chặn những tác động tiêu cực

bên ngoài như ô nhiễm nước và không khí. Khai thác đến cạn kiệt khoáng sản, chất

thải gây nguy hiểm cho thức ăn, nước uống, thiếu an toàn và các chất phóng xạ...

Nhà nước phải đảm bảo nhiệm vụ sản xuất hàng hoá công cộng. Theo các nhà

kinh tế, hàng hoá tư nhân là loại hàng hoá mà nếu như một người đã dùng thì người

khác không thể dùng được nữa. Còn hàng hoá công cộng là một loại hàng hoá mà

nhiều người cùng sử dụng. Ví dụ không khí trong sạch và quốc pòng là hàng hoá

công công. Đặc trưng của hàng hoá công cộng là:

Về mặt kỹ thuật, một người tiêu dùng mà không làm giảm số lượng sẵn có đối

với người khác. Nó không loại trừ bất cứ ai ra khỏi việc tiêu dùng này trừ khi phải

trả giá quá đắt.

ích lợi giới hạn của hàng hoá công cộng đối với xã hội và tư nhân là khác

nhau. Nhìn chung lợi ích giới hạn mà tư nhân thu được từ hàng hoá công cộng là rất

nhỏ. Vì vậy, tư nhân thường không muốn sản xuất hàng hoá công cộng. Mặt khác,

có nhiều hàng hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia như quốc phòng,

luật pháp, trật tự trong nước nên không thể giao cho tư nhân được. Vì vậy nhà nước

cần phải sản xuất hàng hoá công cộng.

Thứ ba, là thuế. Trên thực tế phần chi phí của Chính phủ phải được trả giá

bằng thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự thực là toàn

bộ công dân tự mình phải đặt gánh nặng thuế lên mình và mỗi công dân cũng phải

được hưởng phần hàng công cộng do Chính phủ cung cấp.

Như vậy Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị

trường. Nhà nước đề ra luật đi đường và đảm bảo hàng hoá công cộng như đường

sá, do đó tạo điều kiện dễ dàng cho tư nhân hoạt động, ngăn cản sự lạm dụng của

các doanh nghiệp khi họ trở thành những kẻ tham lam, độc quyền chiếm đường và

kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.

3-/ Đảm bảo sự công bằng

Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm

triệt tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực

hiện chức năng này, một mặt, Nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi

người có cơ hội ngang nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao

động và phần đóng góp của mình; mặt khác, trong điều kiện hoạt động hoàn hảo

nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng

sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có

thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy, chính sách để phân phối lại thu nhập. Công

cụ quan trọng nhất của Chính phủ trong lĩnh vực này là thuế thu nhập, thuế người

giầu theo tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường là thuế luỹ tiến áp

dụng cho thuế thu nhập và thuế thừa kế.

Bên cạnh thuế, phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đữ cho người già,

người tàn tật, người phải nuôi con và bảo hiểm thất nghiệp cho người không có

công ăn việc làm. Hệ thống thanh toán chuyển nhượng này tạo ra mạng lưới an toàn

cho những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế.

Cuối cùng, Chính phủ đôi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu

nhập thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế, cho thuê nhà với giá

rẻ,...

4-/ ổn định kinh tế vĩ mô:

Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản từng gặp những thăng trầm chu kỳ của lạm

phát (giá cả tăng) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng

này rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm 20, thời kỳ đại

suy thoái của Mỹ những năm 30.

Nhờ học thuyết của John Meynard Keynes và những người theo học thuyết

của ông mà chúng ta hiểu được làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu

kỳ kinh doanh. Ngày nay, chúng ta hiểu rằng, việc sử dụng một cách trân trọng

quyền lực về tiền tệ và tài chính của nhà nước có thể ảnh hưởng đến sản lượng, việc

làm và lạm phát. Quyền lực về tài chính của Nhà nước là quyền đánh thuế và chi

tiêu. Quyền lực về tiền tệ bao hàm quyền điều tiết về tiền tệ và hệ thống ngân hàng

để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng. Bằng hai công cụ trung tâm này của

chính sách kinh tế vĩ mô, nhà nước có thể ảnh hưởng đến sản lượng, công ăn việc

làm và giá cả của một nền kinh tế nhờ đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường trên thế

giới mở mang chưa từng có kể từ chiến tranh thế giới lần thứ hai đến đầu những

năm 70.

Nhà nước thực hiện chức năng trên đây thông qua ba công cụ: Các loại thuế,

các khoản chi tiêu và những qui định hay kiểm soát về tiền tệ. Thông qua thuế,

Chính phủ điều tiết tiêu dùng, đầu tư của tư nhân, khuyến khích hoặc hạn chế hoạt

động kinh doanh của doanh nhân. Các khoản chi tiêu của Chính phủ sẽ thúc đẩy các

doanh nghiệp hay công nhân sản xuất ra một số hàng hoá hay dịch vụ, và cả những

việc chuyển tiền nhằm trợ cấp thu nhập (như bảo hiểm, trợ cấp thất nghiệp,...).

Những qui định hay kiểm soát của Chính phủ cũng nhằm hướng nhân dân đi vào

hoặc từ bỏ những hoạt động kinh doanh.

Nhưng trong nền kinh tế thị trường ngày nay không thể nào vừa có đủ công ăn

việc làm vừa không có lạm phát.

Trong thực tế, cho đến nay người ta thấy những nước thực hiện tốt các chức

năng trên đây đều thành công trong việc quản lý kinh tế. Vượt quá những chức năng

đó hoặc là dẫn đến chi tiêu tốn kém, tạo ra bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu

lực hoặc là làm cho nền kinh tế rối ren, dẫn đến tình trạng quản lý kém hiệu quả của

Nhà nước.

Từ sự phân tích trên đây có thể đi đến một ssó nhận xét có ý nghĩa phương pháp

luận đối với việc thiết lập cơ chế điều hành nền kinh tế thị trường là:

Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ở các mức độ khác nhau cơ

chế điều tiết kinh tế có hiệu quả là cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà

nước hay là cơ chế kinh tế hỗ hợp.

Thứ hai, việc vận dụng cơ chế hỗn hợp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội

của mỗi nước, vào hệ tư tưởng, quan điểm phát triển được nghiên cứu một cách

khoa học của mỗi dân tộc.

Thứ ba, trong sự phát triển kinh tế thị trường cần coi trọng tự do kinh doanh,

đảm bảo tính tự chủ của nhà kinh doanh (được tự do đầu tư, lựa chọn thị trường,

cung cầu, giá cả). Sự áp đặt của Nhà nước về giá cả thị trường sẽ làm sai lệch sự

phát triển theo qui luật, gây ra những tổn thất, thiệt hại và hạn chế sự phát triển năng

động của nền kinh tế,

Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của Nhà nước chủ yếu thông

qua việc hoạch định các chiến lược phát triển, các công cụ kinh tế vĩ mô, đặc biệt là

chính sách tài chính, tiền tệ, điều tiết thu nhập, chính sách đầu tư, tích luỹ, tiết kiệm

tiêu dùng.

Thứ năm, cuối cùng nhà nước phải xây dựng được một hệ thống luật pháp

hoàn chỉnh tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế, phải nâng cao năng lực điều hành

vĩ mô nền kinh tế của nhà nước.

III-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường:

Khi nước ta chuyển từ một nước tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị

trường vai trò của Nhà nước cần phát huy hơn bao giờ hết. Khi là nền kinh tế thị

trường thì vai trò của Nhà nước không thể thiếu được - nó là nơi sẽ trả lời những

câu hỏi ai sẽ là người can thiệp, điều khiển nền kinh tế, hạn chế những tật xấu của

nền kinh tế thị trường,...

Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và sự dao động lên xuống

thường xuyên của các nhân tố như tài nguyên, xã hội, chính trị, kinh tế làm biến

động nền kinh tế. Làm sao để không lâm vào chu kì lúc thặng dư quá, lúc kém quá

mà nên giảm biên độ chu kỳ để nền kinh tế là một đường dốc lên, tức là tăng

trưởng. Muốn như vậy cần phải vững chắc vai trò của Nhà nước, củng cố, phát huy,

đưa ra những định hướng, kế hoạch mục tiêu và môi trường thuận lợi để sản xuất

cũng như các hãng kinh doanh yên tâm để tạo ra sản phẩm cho phù hợp với thời đại.

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thể hiện rõ ở những vai trò sau:

1-/ Định hướng chiến lược đúng đắn vai trò quan trọng mang tính chất tiên

quyết đối với sự phát triển kinh tế:

Quản lý nền kinh tế quốc dân có nghĩa là Nhà nước sử dụng các công cụ, các

chính sách của mình để can thiệp vào nền kinh tế cũng như điều tiết nó để phát triển

và ổn định theo xu thế của đất nước, của thời đại tăng trưởng hơn theo mỗi năm.

Điều đó phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, nếu nó phù hợp

và đúng đắn hiệu quả mang lại sẽ rất nhiều ví dụ như ở những năm 50 và 60 ở các

nước ASEAN đều thực hiện chiến lược “phát triển thay thế nhập khẩu” nhằm giảm

bớt sự phụ thuộc đối với hàng nhập khẩu từ bên ngoài. Các nước này đã tìm cách

hạn chế tối đa hàng thành phẩm công nghiệp nhập từ các nước công nghiệp phát

triển tập trung phát triển một số ngành công nghiệp trong nước thay thế hàng nhập

khẩu, mở rộng thị trường nội địa tận dụng tối đa vốn đầu tư trong nước.

Nhà nước chú ý đầu tư xây dựng thêm nhiều ngành và cơ sở công nghiệp, cơ sở

quốc doanh, nhưng lại có hiệu quả thấp. Trong điều kiện kinh tế “mở” hàng hoá trong

nước không đủ sức cạnh tranh với hàng nước ngoài. Do vậy các nước vẫn phải tiếp tục

nhập máy móc ngày càng nhiều hơn, vật liệu kỹ thuật từ bên ngoài và kinh tế càng lệ

thuộc vào các nước công nghiệp phát triển.

Chính sự quyết định này làm cho sự phát triển kinh tế không thể hoà nhập với

nền kinh tế thị trường, thị trường trong nước nhỏ hẹp, đầu tư giảm dẫn đến giá tăng,

lạm phát, nợ nước ngoài càng nhiều gây mất ổn định.

Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền lựa

chọn phương án sản xuất kinh doanh Nhà nước không can thiệp vào họ sản xuất cái

gì? sản xuất như thế nào và sản xuất bằng cách nào, tiêu thụ ở đâu. Các doanh

nghiệp khi sản xuất họ đã dựa vào “lợi nhuận” để đề ra sự lựa chọn sao cho lợi

nhuận tối đa. Và chính vì điều này mà gây sự cạnh tranh các doanh nghiệp với

nhau, dẫn đến môi trường phá huỷ, kinh tế không phát triển.

Nhà nước can thiệp bằng cách đưa ra các luật, chia xẻ pháp luật định hướng ta

cần phát triển như thế nào và phát triển cái gì làm chủ đạo. Nhà nước không theo

đuổi mục tiêu lợi nhuận mà chỉ vươn tới một xã hội ổn định hơn.

Định hướng cho các doanh nghiệp là định hướng sự phát triển của nền kinh tế

là thống nhất các lợi ích khác nhau sao cho mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của

mình nhưng cũng đồng thời góp phần của mình theo đuổi lợi ích dân tộc bằng việc

hoạch định các chính sách theo cơ cấu ngành, vùng, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên

để mang tính định hướng cao hơn.

ở nước ta khi định hướng “theo hướng phát triển thay thế nhập khẩu” không

có hiệu quả. Thì năm 1969 các nước ASEAN đã đề ra một chiến lược hoàn toàn

mới là phát triển theo hướng xuất khẩu. Sự thay thế này là sự khôn ngoan của Chính

phủ của tất cả các nước ASEAN nhằm tận dụng tối đa nguồn vốn và công nghệ tiên

tiến từ bên ngoài vào việc khai thác tiềm năng của mỗi nước, tập trung vào phát

triển các ngành công nghiệp có thể xuất khẩu được để từng bước cạnh tranh và

chiếm lĩnh trên thị trường thế giới. Các ngành công nghiệp khai khoáng và ngành

công nghiệp chế biến hướng vào xuất khẩu do đó có điều kiện phát triển nhanh

chóng quá trình phát triển kinh tế đối ngoại. Chiến lược này vừa phù hợp với nhu

cầu đầu tư và chuyển giao công nghệ đến các nước đang phát triển của các nước

phát triển.

Sau khi lựa chọn chiến lược phát triển đúng đắn Nhà nước đều đề ra các

chương trình phát triển kinh tế xã hội nhằm dẫn dắt, khuyến khích mọi thành phần

kinh tế hướng vào mục tiêu đề ra.

Sự dẫn dắt của Nhà nước với những chiến lược đúng đắn sẽ là bước vững chắc

để xã hội có thể bước được những bước cao hơn.

2-/ Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư từ các nguồn trong và ngoài

nước đặc biệt là vốn đầu tư từ nước ngoài:

Vốn đầu tư là phần quan trọng của một dự án để phát triển và “đứng vững” dự

án của mình. Tuy vậy, chúng ta luôn đứng trong trạng thái thiếu vốn lưu động.

Không chỉ cần đầu tư trong nước mà còn cần cả đầu tư của nước ngoài nữa.

Đầu tư luôn là vấn đề đau đầu không chỉ một người mà tất cả mọi người, sự

thiếu vốn sẽ làm cho sản xuất đình đốn, kinh tế kém phát triển. Nhà nước luôn phải

giữ mức lãi suất tiết kiệm là dương nghĩa là phải cao hơn lạm phát để khuyến khích

gửi tiền tiết kiệm cũng như sử dụng vốn vay có hiệu quả.

Các hình thức lưu động vốn khá phong phú và linh hoạt có thể bằng nhiều

hình thức cổ phiếu, trái phiếu, thị trường chứng khoán rất phát triển. Hoạt động của

thị trường chứng khoán sẽ góp phần quan trọng vào việc huy động vốn tạo điều kiện

cho vốn di chuyển dễ dàng đến những khu vực kinh doanh có hiệu quả và bổ sung

hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Nguồn vốn bao gồm: viện trợ, vốn vay đầu tư và vốn trực tiếp từ nước ngoài.

Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sẽ có lợi hơn bởi lẽ vốn góp phần chuyển giao công

nghệ giúp cho các nhà kinh doanh có những kinh nghiệm tốt trong quản lý của

mình. Khuyến khích đầu tư nước ngoài bằng các chính sách ưu đãi đảm bảo và tạo

điều kiện thuận lợi cho các tư bản nước ngoài đầu tư vào nhanh chóng phát huy vốn

đầu tư, xác định rõ quyền sở hữu kinh doanh của các tư bản nước ngoài.

Nhà nước bảo hiểm đối với đầu tư nước ngoài, không hạn chế vào những

ngành then chốt miễn là đầu tư nhiều vốn, dùng nhiều nhân công, có kỹ thuật hiện

đại và quy trình công nghệ mới, dùng nguyên liệu bản địa.

Các đối tượng kinh doanh còn được hưởng ưu đãi về tài chính như: miễn thuế,

đảm bảo cung cấp nguồn lao động ổn định, cho phép tự do bồi thường vốn và lợi

nhuận.

Đồng thời tạo không khí ổn định chính trị, môi trường kinh doanh thuận lợi

cho các hoạt động của các công ty tư bản nước ngoài, chế độ nhập cảnh, nội trú đối

với nước ngoài.

Xây dựng cơ sở hạ tầng có sẵn hệ thống cung cấp điện nước, nhà ở, bưu điện,

kho tàng, giao thông, thuận lợi cho thuê với giá rẻ, nhằm giúp các nhà đầu tư nước

ngoài nhanh chóng đi vào hoạt động sản xuất, rút ngắn vòng quay của vốn. Lập ra

các khu mậu dịch tự do “khu công nghiệp chế biến xuất khẩu”, “khu công nghiệp tự

do” để thực hiện tổng hợp của nó. Những vấn đề này đề ra không ai khác ngoài Nhà

nước có thể làm được.

3-/ Nhà nước thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô:

Nhà nước bằng việc thực hiện một cách linh hoạt, mềm dẻo các chính sách và

tín dụng như: nới lỏng hàng rào thuế quan, miễn giảm thuế, và có lãi suất ưu đãi đối

với hàng xuất khẩu,... đã kích thích sản xuất và xuất khẩu. Các biện pháp để ổn định

chống lạm phát là thực hiện có hiệu quả về thu thuế, tăng cường xuất khẩu, để tăng

thu năng suất dùng quỹ phát hành để bồi đắp bội chi, tăng tỷ lệ lãi suất và tiền vay

ngân hàng, khuyến khích hạn chế chi dùng. Chính nhờ đó ta có thể kiểm soát lạm

phát và ổn định tiền tệ, tạo điều kiện phát triển tăng trưởng một cách liên tục.

Chính sách về giải pháp kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ được coi là kết quả

tổng hợp nhất của các biện pháp điều tiết vĩ mô của Nhà nước, vì nó ảnh hưởng đến

mọi hoạt động đời sống, xã hội.

Ta có thể làm tăng tỷ lệ lãi suất tiền gửi, tiền vay ngân hàng, ấn định số lượng

tiền mặt dự trữ tăng lên và các ngân hàng thương mại các kho dự trữ, giới hạn tín

dụng cao nhất đối với các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính, khuyến

khích hạn chế chi dùng.

4-/ Nhà nước điều tiết thu nhập đảm bảo công bằng xã hội:

Trong nền kinh tế thị trường thu nhập đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với

phát triển sản xuất kinh doanh của các chủ thể và đời sống dân cư.

Đối với sản xuất tăng thu nhập là điều kiện mở rộng để tích luỹ, tăng đầu tư,

tạo ra các nguồn lực gắn với thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh.

Đồng thời thông qua phân phối thu nhập hợp lý các chủ thể kinh tế và người lao

động sử dụng nguồn thu nhập của mình để tăng cầu. Nhà nước cũng có chức năng

phân phối thông qua công cụ điều tiết. Trong kinh tế thị trường chủ sở hữu đất đai

được hưởng địa tô, người lao động phân phối theo tiền lương, tiền công dựa theo

kết quả lao động, người quản lý được phân phối theo lợi nhuận với nguyên tắc đảm

bảo các yếu tố sản xuất kinh doanh phải được trả giá đầy đủ sòng phẳng và thoả

thuận.

Tuy nhiên lại có những mâu thuẫn mới nảy sinh. Vấn đề này bắt nguồn từ

nguyên nhân sâu xa là sự bất bình đẳng hay chênh lệch với nhau về sở hữu tài sản,

vốn, và sức lao động do Nhà nước chưa điều chỉnh tốt,...

Muốn đại diện tốt, Nhà nước phải là Nhà nước của nhân dân lao động. Sự phân

phối là một nội dung rất quan trọng của QHSX phản ánh kết quả của quan hệ sở hữu

làm cho nó sở hữu về mặt kinh tế không được không công bằng. Bác Hồ chúng ta nói

rằng: “Không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng”.

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng sự hoạt động của quy

luật càng dẫn đến phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành

các tầng lớp khác nhau. Đừng để tình trạng bất bình đẳng quá rõ nét sẽ gây sự đối

kháng giữa các giai cấp bởi vậy, Nhà nước phải hoàn thành các chức năng này sao

cho có sự phân bố hiệu quả nhất.

Để giải quyết nó Nhà nước phải cần thiết xây dựng hệ thống thuế để điều tiết

một phần thu nhập của lớp người giàu có. Đồng thời giúp đỡ những người nghèo

như tạo công ăn việc làm cho họ, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghiệp vụ,

cho vay vốn ban đầu với chế độ ưu đãi thích đáng. Đồng thời phải dùng quỹ huy

động của dân giúp đỡ những người thất nghiệp.

5-/ Nhà nước kịp thời điều chỉnh việc sử dụng các thành phần kinh tế:

Khi đất nước càng đi lên tư nhân hoá ngày càng trở nên quan trọng và thiết

yếu. Nhưng các Doanh Nghiệp Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực

kinh tế quốc doanh đóng vai trò mở đường tham gia vào một số khâu quan trọng

nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho tư nhân nhanh chóng phát huy hiệu quả đầu tư sản

xuất như xây dựng và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, đảm nhận các dịch vụ thông tin,

tiếp thị, đào tạo nghiên cứu và một phần ứng dụng kỹ thuật mới.

Sự đóng góp của các xí nghiệp quốc doanh không chỉ có tác dụng thúc đẩy

nhanh chóng quá trình phát triển sản xuất, đẩy mạnh việc tiếp thu kỹ thuật mới mà

còn góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm và tạo nguồn thu cho ngân

sách.

Khi sử dụng thành phần quốc doanh này đã đưa nền kinh tế thị trường vào

bước phát triển sâu hơn, phân phối hơn. Song lại có rất nhiều người nói kinh tế quốc

doanh quá kém cỏi. Ta lấy ví dụ ở Inđônêxia năm 1983 có 33 xí nghiệp quốc doanh

thì năm 1984 phải đóng cửa 21 xí nghiệp thua lỗ (gần 67%). ở Philippinese năm

1982 có 178 xí nghiệp thì có tới 37 xí nghiệp thua lỗ nghiêm trọng.

Nguyên nhân là vì sao?

Do chủ yếu là cơ chế hoạt động của xí nghiệp quốc doanh, do bộ máy Nhà

nước quản lý cồng kềnh, cứng nhắc, kém năng động. Họ thường được hưởng các

quy chế ưu đãi nên không chịu sức ép cạnh tranh trên thị trường, do xí nghiệp quốc

doanh có ít quyền tự chủ hơn thì họ phải gắn nhiều với cấp quản lý, phải gắn không

chỉ với các nhiệm vụ kinh tế mà còn có trách nhiệm mang tính chất xã hội được

Nhà nước giao cho nên thường không đề cao hiệu quả kinh doanh. Ngoài ra trong

các xí nghiệp thuộc kinh tế vùng này thường có các hình thức tham nhũng.

Chính để giao hoàn toàn cho tư nhân quá cũng không phù hợp và tách rời hạn

chế doanh nghiệp quốc doanh. Bởi vậy lúc này Nhà nước cần phải khắc phục hạn

chế khu vực quốc doanh này bằng cách tư nhân hoá từng bộ phận. Các bộ phận còn

lại ta nên tiến hành theo hướng giảm dần các khâu ưu đãi, đặt hoạt động của các xí

nghiệp này trong kinh tế thị trường theo nguyên tắc trang trải và có lãi.

Và chính nhờ công cụ này Nhà nước có thể thêm một lần nữa khẳng định nền

kinh tế thị trường.

6-/ Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực:

Phát triển nguồn nhân lực là một vấn đề rất quan trọng để phát triển tương lai

của một đất nước. Đó là đầu tư thích đáng cho giáo dục, đào tạo coi đây là chính

sách quan trọng hàng đầu. Chính phủ ngoài việc tăng kinh phí từ ngân sách cho giáo

dục, đào tạo nhanh hơn nhiều lần so với mức tăng trưởng kinh tế, còn huy động vốn

trong xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài thông qua đa dạng hoá giáo dục đào tạo, chú

trọng phát triển văn hoá, nhân tài.

Chính sự đào tạo này đã tạo tiền đề phát triển, tăng trưởng kinh tế, sử dụng

nguồn lao động có hiệu quả nhất trả lương thích đáng cho lao động có trình độ, đảm

bảo tái sản xuất sức lao động.

Ta phải có sự phân bố điều tiết giữa các ngành trong khu vực với nhau, giữa

lao động giản đơn và lao động phức tạp nhằm tạo đòn bẩy kích thích nâng cao trình

độ học vấn, kỹ năng để hoạt động lên cao hơn như kèm theo sự tăng mức lương

thực tế.

7-/ Đối với từng giai đoạn phát triển hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường

từ một trình độ kinh tế chưa phát triển, sản xuất nhỏ, bao cấp là chủ yếu nên Nhà

nước giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong công việc hình thành và phát triển quan hệ

thị trường và sử dụng cơ chế thị trường. Nhà nước phải gánh vác các mục tiêu kinh

tế vĩ mô và thực hiện nhiều mục tiêu xã hội có tính cơ bản, cấp bách như phân phối

sản xuất lao động các ngành, các vùng mới, huy động nội tiềm năng và phát triển và

lưu thông hàng hoá, tổ chức lại phân công,... và giải quyết nhu cầu trong đời sống

và kinh tế xã hội bằng cách mở rộng kinh tế thị trường.

Đối với những nước đang phát triển việc luôn phải đề cập đến các thông tin

chính xác để điều chỉnh nền kinh tế cho phù hợp, các biện pháp hành chính - pháp

lý và hành chính kinh tế cùng với việc phát triển hệ thống các cơ sở kinh tế Nhà

nước trong các ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân là một trong những công

cụ vĩ mô vô cùng quan trọng, luôn tạo ra môi trường lành mạnh cho nền kinh tế để

tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài nhằm đẩy công nghệ,

trí thức lên cao. Nhà nước với chức năng điều khiển nền kinh tế còn phải đóng vai

trò là người quản lý tài sản quốc gia phân bố các nguồn lực một cách hợp lý nhất

đồng thời ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền, vùng trời,

vùng đất và vùng biển.

Từ tất cả các điều trên ta chứng minh được rằng Nhà nước can thiệp vào nền

kinh tế như một tất yếu khách quan để sửa chữa khuyết điểm của nền kinh tế thị

trường. Nhà nước sử dụng hợp lý các công cụ của mình để quản lý kinh tế là nhu

cầu khách quan nội tại của nền kinh tế hoạt động theo lợi ích của nền kinh tế thị

trường, đưa ra các phương hướng, mục tiêu, phù hợp với sự phát triển của đất nước.

Nhà nước là một cơ quan quyền lực có chức năng quản lý kinh tế với tư cách đại

diện cho sở hữu toàn dân, điều phối các hoạt động chung của nền kinh tế.

Nhất là, bây giờ vai trò của Nhà nước ta còn rõ hơn khi mà nền kinh tế cũ đã

hoàn toàn mất đi, nền kinh tế dần dần hình thành thì Nhà nước có vai trò như một

bà đỡ đồng thời sẽ là người rút ngắn chặng đường để tiến tới một xã hội cao hơn đó

là XHCN.

chương IV

thực trạng và kiến nghị

I-/ thực trạng:

1-/ Thành tựu đạt được:

Trong quá trình chuyển mình theo một thời đại mới, chúng ta đã thành công

nhưng cũng có những khuyết điểm, vấp váp. Việc đánh giá thực chất và xu thế của

tình hình, rút ra những kết luận đúng đắn làm cơ sở xác định hướng đi cho những

năm sau là điều kiện vô cùng cần thiết. Chúng ta có thể nói rằng chúng ta đã đạt

được những thành tựu quan trọng để chứng tỏ rằng đường lối đi là đúng đắn, bước

đi là phù hợp theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta đã đạt được những tiến bộ bước đầu về kinh tế, về nông nghiệp, đặc

biệt là lương thực, kiềm chế một bước đà lạm phát, giảm bớt một phần khó khăn về

đời sống nhân dân. Đã đạt được những tiến bộ về xuất khẩu và cải thiện đáng kể cán

cân nhập khẩu đúng vào lúc mà quan hệ kinh tế đối ngoại có những biến động đột

ngột, viện trợ quốc tế giảm nhiều, nguồn vay nhập siêu không còn, và khả năng

nhập khẩu từ các thị trường truyền thống giảm mạnh. Có thể nói những tiến bộ kinh

tế vừa qua đã giúp cho nền kinh tế nước ta thoát khỏi cơn thử thách hiểm nghèo.

Nền kinh tế hình thành kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường có

sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản xuất, đã có điều chỉnh quan

trọng theo hướng tập trung cho ba chương trình kinh tế đáp ứng hiệu quả hơn những

nhu cầu của thị trường trong nước và đang dần mở rộng với thị trường thế giới.

Với chính sách đối ngoại mở rộng ta cũng gặt hái được nhiều thắng lợi trong

hoạt động ngoại giao, việc Mỹ bỏ cấm vận năm 1993, việc Việt Nam nhập ASEAN

năm 1996 đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thị trường trong nước với thị

trường thế giới.

2-/ Những hạn chế:

Thứ nhất, tuy nhiên không nên đánh giá quá mức những thành tựu. Không nên

quên rằng đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, không thể coi thường

nhân tố gây ổn định về chính trị.

Mức độ lạm phát vẫn còn cao, những nguyên nhân của lạm phát chưa được xoá

bỏ. Sản xuất còn nhiều mặt đình đốn. Lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm

ngày càng tăng. Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. Có những mặt trong lĩnh

vực văn hoá xã hội chưa chặn đứng được tình trạng xuống cấp. Tham nhũng, bất công

và tiêu cực trong xã hội còn nhiều; trật tự và an toàn xã hội còn phức tạp; pháp luật, kỷ

cương xã hội chưa nghiêm.

Chúng ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc đổi mới đặc biệt là đổi mới nền

kinh tế, nhưng cũng cần thấy mặt trái của nhiệm vụ này. Việc chuyển nền kinh tế

mang nặng tính tự cấp, tự túc, với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang

nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý

của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết để giải phóng và phát huy các tiềm

năng sản xuất trong xã hội. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường là

một liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển kinh tế thị trường

cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Đã

xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo, gây tội ác, vi

phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm. Lối sống truỵ lạc

chạy theo những thị hiếu thấp hèn, văn hoá không lành mạnh và những thủ tục mê tín

dị đoan đang được phục hồi và phát triển. Trong thế hệ trẻ có một bộ phận phai nhạt

lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng. Một bộ phận không ít cán bộ đảng viên có

chức có quyền, trong đó có cả những người đã từng đóng góp đáng kể cho cách mạng

cũng bị tha hoá, biến chất. Để hạn chế khắc phục nó, Nhà nước ta luôn giữ tốt vai trò

lãnh đạo, quản lý và tổ chức giáo dục của mình.

Thứ hai, ngoài ra chúng ta còn có một cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, các văn bản pháp

quy nhiều lúc mâu thuẫn với nhau chồng chéo lên nhau, kém hiệu lực.

Thứ ba, đồng thời với nó là các hệ thống cơ quan thanh tra kiểm tra về kinh tế

nhiều khi gây phiền hà, khó khăn không hiệu quả gây ra ức chế cho các nhà doanh

nghiệp.

Thứ tư, cơ chế quản lý còn quá phức tạp, thủ tục vô cùng cồng kềnh và rườm

rà từ cấp trên xuống cấp dưới. Ví dụ cho vay vốn các hộ nông dân gia đình, các hợp

tác xã thủ tục nhiều đến mức khi vay xong vụ mùa vừa kết thúc.

Thứ năm, việc bất cập về lãi suất cũng như thông tin chưa đầy đủ, chính xác

dẫn đến tình trạng không kiểm soát được mức cung tiền gây ra sự phiền hà và thất

bại của thị trường.

Thứ sáu, việc để hàng lậu tràn vào quá nhiều hay sự “vô tâm” của các nhà

chức trách dẫn đến làm cho giá trị của hàng nội giảm, xuất khẩu giảm người dân

không tiêu thụ được sản phẩm của mình dẫn đến những hành động tiêu cực phá huỷ

hay đốt bỏ các sản phẩm của mình.

Thứ bẩy, tư tưởng của Nhà nước ta còn quá cứng nhắc đối với các hình thức

đầu tư vốn vào của các nhà doanh nghiệp nước ngoài.

II-/ Một số kiến nghị:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới trong tài chính ngân

hàng nhằm tháo gỡ khó khăn cho cơ sở sản xuất, kiềm chế lạm phát, ngăn chặn các

hiện tượng tiêu cực trong kinh doanh. Xây dựng các chính sách tài chính quốc gia

vừa thực hiện cải cách vừa thúc đẩy sản xuất kinh doanh tạo tích tụ vốn.

Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, an ninh

quốc gia và trật tư an toàn xã hội, củng cố lực lượng vũ trang.

Thứ hai, đổi mới ban hành các văn bản pháp quy, điều chỉnh các quan hệ quốc

tế để nó rõ ràng, chính xác, rành mạch và đầy đủ hơn. Nên ban hành các văn bản

theo hệ thống ngang hoặc là dọc.

Thứ ba, đổi mới các cơ chế hành chính, giảm tối thiểu các thủ tục rườm rà tạo

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cũng như các hộ nông dân được vay vốn

để phục vụ cho sản xuất.

Thứ tư, cần phân định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tính chất

thanh tra, kiểm tra.

Thứ năm, dựa vào khung lãi suất hoặc là để lãi suất trần cho phù hợp, cập nhật

với các thông tin để tận dụng các nguồn đầu vào, đồng thời tạo điều kiện cho các

nguồn ra phù hợp.

Thứ sáu, Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, kịp

thời thay thế những cán bộ kém năng lực, xử lý những cán bộ lệch lạc vi phạm kỷ

luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đổi mới và hoàn thiện cơ chế tuyển chọn và

đào tạo lại cán bộ, nhất là cán bộ quản lý các cấp, để đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp

đổi mới và sự chuyển tiếp của cán bộ. Nâng cấp, thiết lập lại kỷ cương, hiệu lực

quản lý làm cho Nhà nước thực sự là của dân do dân và vì dân.

Thứ bẩy, sửa đổi những hiến pháp lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt hiến pháp,

sửa đổi cải cách hệ thống hành chính Nhà nước vững mạnh từ Trung ương đến cơ

sở. Sửa đổi cơ chế, chính sách tạo kẽ hở cho những tệ nạn quan liêu, bao cấp. Tăng

cường công tác kinh tế, giải quyết kịp thời những vấn đề khi mới phát sinh.

Cùng với các cơ quan Nhà nước, Bộ máy Đảng và các tổ chức đoàn thể nhân

dân cũng cần gọn nhẹ, chất lượng cao và có hiệu quả.

Thứ tám, nhiệm vụ đối ngoại bao trùm thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở

rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho các công cụ

xây dựng CNXH bảo vệ tổ quốc góp phần tích cực vào đấu tranh chung của nhân

dân thế giới, vì hoà bình, vì dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội.

Ngoài ra chúng ta nên cụ thể chính sách chế độ sở hữu về hình thành và phát triển

các loại thị trường như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu

tạo điều kiện cho thị trường phát triển lên một mức cao hơn.

Kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân có thể phân hoá giàu nghèo nhưng với

vai trò của Nhà nước nếu chính sách đúng có thể phân hoá, và đảm bảo công bằng

xã hội trên cơ sở nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người, Nhà nước phải ổn

định tiền tệ, tạo lòng tin cho nhân dân và các nhà đầu tư nước ngoài từ đó mới có

tiền đề phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời phải triển khai thị trường vốn với hình

thức nâng cao cổ phần, cổ phiếu, công trái, tín dụng.

Kiềm chế mức lạm phát ở một con số.

Chúng ta hy vọng và tin tưởng rằng nền kinh tế thị trường của ta với sự vận

động đúng theo quy luật sẽ có những bước phát triển vững mạnh lớn, tương lai kinh

tế đất nước sẽ tăng trưởng nhanh, ổn định, góp phần đưa kinh tế Việt Nam đuổi kịp

kinh tế thế giới.

C-/ Kết luận

Bất kỳ trong giai đoạn nào Nhà nước cũng có chức năng và vai trò của mình,

đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Một mặt chúng ta cần nâng cao đẩy mạnh ưu

điểm của nó nhưng đồng thời cũng phải tìm cách để mà sửa chữa những khuyến

điểm mà thị trường này gây ra.

Trong thời đại ngày nay nền kinh tế hỗn hợp là xu thế của mọi nền kinh tế thế

giới. Nền kinh tế có sự kết hợp giữa “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình”, tôn

trọng vai trò khách quan của thị trường vừa phát huy vai trò quản lý vĩ mô của Nhà

nước. Mô hình này ảnh hưởng trực tiếp cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam định

hướng đúng đắn hướng đi cho mình. ủng hộ điều này Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng

từng nói rằng “Chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta sẽ trở

thành yếu tố phục vụ đắc lực cho việc đuổi bắt, rút ngắn khoảng cách lạc hậu”.

Chúng ta kiên trì bám vững nền kinh tế nhiều thành phần và gắng để nó phát huy

hết khả năng để rút ngắn khoảng cách giữa các nước kinh tế trên thế giới.

Tuy đã có nhiều đóng góp rõ ràng cũng như những thành tựu tạo ra song ta không

được nóng vội mà duy trì từ từ để đưa nước ta từng bước nên con đường xã hội chủ

nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Là một cá nhân trong xã hội và là một sinh viên năm thứ 2 trường Đại học

KTQD - Hà Nội em sẽ cố gắng được đóng góp chút sức lực của mình vào sự hoà

nhập của nền kinh tế thế giới để gồng mình vì một sự tiến bộ xã hội.

Tuy nhiên do vấn đề “Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh

tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” là một vấn đề lớn cần có sự nghiên

cứu sâu sắc và kiểm nghiệm thực tế

mục lục

a-/ Lời nói đầu ......................................................................................................

b-/ giải quyết vấn đề .............................................................................................

chương I: tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế vi mô của

Nhà nước trong nền kinh tế ....................................................

I-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn

lịch sử: ..................................................................................................

1-/ Nhà nước chủ nô: ............................................................................

2-/ Phong kiến: .....................................................................................

3-/ Tư sản: ............................................................................................

4-/ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa: ............................................................

II-/ Các lý thuyết về vai trò kinh tế của Nhà nước của

các nhà kinh tế học cổ điển, tân cổ điện, Keynes:...............................

1-/ Các nhà kinh tế học cổ điển: ...........................................................

2-/ Quan điểm của Keynes: ...................................................................

3-/ Quan điểm hỗn hợp của Paul Samuelson - Sự phối hợp

giữa “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình”: ...............................

4-/ Trường phái “Kinh tế thị trường xã hội”: ........................................

5-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: ...........................................

chương II: những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế

thị trường.................................................................................

I-/ Ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường: ......................................

1-/ Ưu điểm: .........................................................................................

2-/ Mặt trái của nền kinh tế thị trường: .................................................

II-/ Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường: ........................

Chương III: Mục tiêu, chức năng, vai trò quản lý kinh tế

vĩ mô của nhà nước .................................................................

I-/ Mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước: ...............................................

1-/ Mục tiêu phân bố nguồn lực có hiệu quả: ........................................

2-/ Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra

và giải quyết tốt vấn đề xã hội: ........................................................

3-/ Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế: .........................................

4-/ Củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội: .......................

5-/ Mục tiêu củng cố quốc phòng, an ninh trật tự: ................................

II-/ Chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế

thị trường: ............................................................................................

1-/ Thiết lập khuông khổ pháp luật: ......................................................

2-/ Hiệu quả: ........................................................................................

3-/ Đảm bảo sự công bằng ....................................................................

4-/ ổn định kinh tế vĩ mô: ......................................................................

III-/ ................................. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế

thị trường: ............................................................................................

1-/ Định hướng chiến lược đúng đắn vai trò quan trọng mang

tính chất tiên quyết đối với sự phát triển kinh tế: .............................

2-/ Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư từ các nguồn

trong và ngoài nước đặc biệt là vốn đầu tư từ nước ngoài: ..............

3-/ Nhà nước thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô: .....................

4-/ Nhà nước điều tiết thu nhập đảm bảo công bằng xã hội: .................

5-/ Nhà nước kịp thời điều chỉnh việc sử dụng các

thành phần kinh tế: ..........................................................................

6-/ Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực: ..............

IV-/ một số biện pháp tăng cường và đổi mới vai trò

nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa: ..............................................................

1-/ Xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội

phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội nước ta

và bối cảnh hiện nay ........................................................................

2-/ Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao,

bền vững ..........................................................................................

3-/ Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại

doanh nghiệp Nhà nước ...................................................................

4-/ Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ ...........................

5-/ Cải cách hành chính gắn với đổi mới kinh tế ...................................

chương IV: thực trạng và kiến nghị ...........................................................

I-/ thực trạng: ...........................................................................................

1-/ Thành tựu đạt được: ........................................................................

2-/ Những hạn chế: ...............................................................................

II-/ Một số kiến nghị: .................................................................................

C-/ Kết luận ...........................................................................................................