YOMEDIA
ADSENSE
Bài thu hoạch: Cảm tình Đảng
3.759
lượt xem 151
download
lượt xem 151
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài thu hoạch trình bày nội dung chi tiết về các kiến thức: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên; những nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay và. Mời các bạn cùng tham khảo.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài thu hoạch: Cảm tình Đảng
- BÀI THU HOẠCH CẢM TÌNH ĐẢNG Câu 1: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào? Câu 2: Những nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay? Câu 3: Trình bày hiểu biết của Anh, Chị trong việc phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam? Liên hệ bản thân trong việc phấn đấu trở thành Đảng viên? Câu 4: Vấn đề mà Anh, Chị tâm đắc nhất khi tham gia lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng; Anh, Chị có những kiến nghị, đề xuất gì cho công tác tổ chức, truyền đạt nội dung, v.v... với Ban tổ chức lớp học nhằm rút kinh nghiệm tổ chức tốt hơn các lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng cho sinh viên sau này? - Hà Nội 2016 -
- Câu 1: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào? Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam dược xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.
- Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đáp ứng cơ bản yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng hiện nay, là cơ sở quan trọng tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là kết tinh của trí tuệ Việt Nam, là văn bản quy định nguyên tắc của Đảng do những những đảng viên ưu tú đại diện cho nhân dân Việt Nam soạn thảo và lấy ý kiến rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân. Điều 1 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về tiêu chuẩn của đảng viên như sau: 1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. 2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng. Điều 2 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về nhiệm vụ của đảng viên như sau: 1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. 2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham những, lãnh phí và các biện pháp tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. 3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- 4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định. Điều 3 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về quyền hạn của đảng viên như sau: 1. Được thông tin và thảo luận vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đương lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. 2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương. 3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời. 4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình. Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng. Như vậy, các Điều 1, Điều 2, Điều 3 trong Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định một cách đầy đủ về tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên. Mỗi người khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đều phải nghiêm túc thực hiện những quy định này về đảng viên để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch và vững mạnh như lời của Bác Hồ nhận định khi Đảng ta tròn 30 tuổi: "Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình. Đảng ta là đạo đức, là văn minh, Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”.
- Câu 2: Những nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay? Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài của nhân dân ta, là anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Suốt cuộc đời, Người hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Ham muốn tột bậc của người thật là giản dị: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Câu ấy được Bác nói khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào đầu năm 1946. Câu nói ấy có ý nghĩa lớn lao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng đất nước. Câu nói ấy thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và giá trị đạo đức lớn lao. Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi theo. Theo Người thì đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Vì thế đạo đức là cái gốc của người cách mạng, một người muốn trở thành người cách mạng thì phải có đạo đức và thường xuyên rèn luyện đạo đức “Cũng như ngọc, càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Sinh thời Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc rèn luyện đạo đức, coi việc rèn luyện đạo đức trong đội ngũ cán bộ như một việc làm thường xuyên, giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức cách mạng. Người nói rằng: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Trong giai đoạn hiện nay, trước xu hướng toàn cầu hóa, sự hội nhạp kinh tế quốc tế đã làm cho văn hóa của các quốc gia có dịp để cộng hưởng nhau. Sản phẩm của sự giao thoa văn hóa là sự tồn tại của những nét văn hóa mang dáng dấp của phương Tây. Trước sự phát triển của nền kinh tế thì một bộ phận cán bộ chạy theo xu hướng thị trường ăn chơi, xa xỉ, suy thoái đạo đức, lối sống, quên đi nhiệm vụ cách mạng của mình. Sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân đang dần làm xói mòn lý tưởng cách mạng trong bộ phận cán bộ và các tầng lớp nhân dân, làm giảm tinh thần đoàn kết, giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Nhận định tình hình thực tế của sự xuống cấp về mặt đạo đức, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đề ra Chỉ thị 06-CT/TW ngày 7 tháng 11 năm 2006 về việc thực hiện Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Mục đích của cuộc vận động là làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và
- làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội. Trải qua bốn năm thực hiện cuộc vận động, các địa phương, các ban ngành đoàn thể đã hưởng ứng nhiệt tình cuộc vận động. Các cấp, các ban ngành đoàn thể đã cụ thể hóa cuộc vận động thành những hành động cụ thể ví dụ như Trường Đại học Đà Lạt đã tổ chức Hội thi “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ngày 16 tháng 5 năm 2011. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động cuộc Hành trình xuyên Việt từ Làng Sen đến bến Nhà Rồng thu hút nhiều bạn thanh, thiếu niên, sinh viên và học sinh tham gia. Vậy nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là gì? Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có bốn nội dung cơ bản sau: Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh mượn khái niệm “trung, hiếu” trong tư tưởng đạo đức truyền thống và đưa vào một nội dung mới “ Trung với nước, hiếu với dân” tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Người cho rằng trung với nước phải gắn liền hiếu với dân vì nước là nước của dân còn dân là chủ nhân của nước, bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đày tớ của dân chứ không phải là “quan cách mạng”. Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng, người cách mạng là phải gần dân , kính trọng và học tập nhân dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần: Thứ nhất, trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc. Thứ hai, luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, “làm giàu cho chính mình, cho đất nước”.
- Thứ ba, có ý chí vươn lên, thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thứ tư, có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội. Thứ năm, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sang; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thứ sáu, giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, theo lời dạy của Bác: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “ Cần, kiệm, liêm, chinh, chí công, vô tư” nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Người cách mạng phải thực hiện “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” thường xuyên như lời dạy của người: Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính Thiếu một mùa, thì không thành trời Thiếu một phương, thì không thành đất Thiếu một đức, thì không thành người. Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất với tinh thần tự lực cánh sinh. Kiệm là tiết kiệm ( tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của cải..) của nước, của dân; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch không tham lam” tiền của địa vị danh tiếng. Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: Đối với mình thì không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở của minh. Đối với người – không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà không dối trá.
- Đối với công việc thì phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác, nhỏ mấy cũng tránh. Chí công vô tư, là công bằng không thiên tư, thiên vị; làm việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc. “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Các đức tính : “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” là những đức tính mà mỗi đảng viên cần phải có và phải được thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, gắn chúng vào những việc làm thực tế thì việc học tập tu dưỡng mới có hiệu quả. Thứ nhất là phải tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả. Thứ hai là quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương hình thức. Thứ ba là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá nhân. Thứ tư là thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm… Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh, chống tham những, tiêu cự, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội. Người cách mạng phải nêu cao những phẩm giá đạo đức của con người Việt Nam để trở thành đạo đức cách mạng. Trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” năm 1947, Bác căn dặn: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm:
- Nói tóm tắt, tính tốt ấy có năm điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Nhân là thật thà yêu thương, hết long giúp đỡ đồng chí đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Nghĩa là không có tâm tư, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn Trí là không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sang suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xem việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian. Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sụ vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần thì phải có gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát. Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng. không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa”. Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phụ vụ. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo gần dân, luôn luôn lắng nghe nhân dân, tôn trọng nhân dân, được nhân dân quý mến. Bác nhiều lần về thăm bà con nông dân, những câu hỏi: “Hầm trú ẩn có an toàn không? Mũ phòng không có chắc chắn không? Đồng bào có đủ ăn, đủ mặc không?” được Bác ân cần hỏi han đồng bào. Người luôn dạy cán bộ đảng viên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân hết sức tránh; phải gần dân, hiểu dân, học dân, kính trọng nhân dân; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Người phê phán quyết liệt óc “quan cách mạng” và tự mình, Người thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu, “lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng”. Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc Việt Nam vừa trải qua nạn đói khủng khiếp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tăng gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba lần để góp gạo cứu đói, và Người cũng đóng góp lon gọn của mình như mọi người dân. Đi thăm trại tù binh trong chiến dịch Biên giới về, Người không có áo khoác ngoài vì Người đã
- cho tên quan ba thầy thuốc người Pháp bị rất cóng. Những tình cảm đó thật là lớn lao thể hiện lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để thực hiện tốt những phẩm chất này, mỗi người cách mạng cần phải thực hiện: Thứ nhất là mỗi cán bội, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Thứ hai là phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khác phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân dân. Thứ ba là coi trọng tự phê bình và phê bình, “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình có mục đích trong sáng, có lý, có tình. Khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật… để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”; nhân danh phê bình đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ. Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghĩ giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sằng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình và phát triển. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sau sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đảng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền… Để làm được những điều đó chúng ta cần phải: Thứ nhất là tôn trọng độc lập, chủ quyền các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì hòa bình, phát triển, hợp tác, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Với những vấn đề của quá khứ, lịch sử cần xóa bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Thứ hai là chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn