Bản sắc văn hóa của dòng họ Việt
lượt xem 0
download
Bản sắc văn hóa của dòng họ Việt là một chủ đề phong phú và sâu sắc, phản ánh những giá trị truyền thống và nét đẹp văn hóa đặc trưng của người Việt. Qua từng thế hệ, các dòng họ không chỉ gìn giữ di sản văn hóa mà còn đóng góp vào sự phát triển chung của dân tộc. Những phong tục tập quán, lễ hội, và ngôn ngữ của từng dòng họ đều mang trong mình những câu chuyện lịch sử và tinh thần đoàn kết. Bài viết này sẽ khám phá những yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của các dòng họ Việt, từ đó làm nổi bật vai trò của chúng trong đời sống xã hội hiện đại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bản sắc văn hóa của dòng họ Việt
- TẠPCHÍVHDG s ố 4/2011 3 J5S------------ ------- 4 N G H IÊN CỨU. BẢN SẮC VfiN HÓfl k í của DÒNG NỌ VIỆT NGUYỄN VĂN THẮNG ÌSỹSĩSsĩaỉ — M Ở ĐẦU Nhìn một cách tổng quát, tính đến thời thời điểm này, có thế nhận thấy những Dòng họ là một hiện tượng lịch sừ - văn hóa mang tính phổ quát, xuất hiện từ lâu thành tựu nghiên cứu về dòng họ người trong lịch sử nhân loại và tồn tại ở mọi nền Việt chủ yếu tập trung vào ba định hướng. văn hóa. Trên thế giới, đã từ lâu, dòng họ Hướng dân tộc học, tác giả tiêu biểu là: trờ thành đối tượng nghiên cứu của nhiều Phan Kế Bính, Toan Ánh. Hướng xã hội ngành khoa học với các phân nhánh chuyên học, tác giả tiêu biểu là: Mai Văn Hai, Phan sâu: sử học, triết học, di truyền học, nhân Đại Doãn. Hướng gia phả học, tác giả tiêu chủng học, dân tộc học, xã hội học, gia phả biểu là Nguyễn Đức Dụ. Nhờ ba mũi nhọn học... Ở Việt Nam, tính đến thời điểm này, nghiên cứu chuyên sâu này mà một số đặc việc nghiên cứu dòng họ đã đạt được những điểm chung về dòng họ người Việt đã bước thành tựu rất đáng ghi nhận. Trước năm đầu được làm sáng tỏ. Nhiều dòng họ đã 1945, tuy không nhiều, song đã xuất hiện ghép nối được các chi, nhánh, truy nguyên những công trình nghiên cứu về dòng họ. tới thủy tổ nhiều đời. Trong số đó phải kể đển các công trình tiêu biểu của các tác giả: Phan Kế Bính(1), Pierre Tuy đã có những thành tựu không thể Gourou(2), Đào Duy Anh*-3-*... Sau năm phủ nhận, song các hướng tiếp cận trên đây 1945, đặc biệt là từ những năm 1986, trong chưa thể giải quyết thỏa đáng một trong không khí đổi mới với tư tường chỉ đạo của những vấn đề quan trọng nhất của dòng họ: Đảng: xây dựng và phát triển nền văn hóa bản sắc văn hóa của dòng họ người Việt. Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Để trả lời được câu hỏi thú vị nhưng không nhiều công trình nghiên cứu chuyên và dễ dàng này, chúng tôi thấy cần phải có một không chuyên về dòng họ lần lượt được hướng tiếp cận mới: hướng văn hóa học(13). xuất bản. Tiêu biểu là công trình của các tác Khi xem dòng họ người Việt như một đối giả: Toan Ánh(4), Nguyễn Đức Dụ(5), Lê tượng nghiên cứu chính thức của văn hóa Trung Hoa(ó), Mai Văn Hai, Phan Đại học có nghĩa là chúng ta áp dụng phưcmg Doãn(7), Nguyễn Từ Chi(8)... Nhiều cuộc pháp liên ngành, vận dụng linh hoạt tri thức hội thảo(9) về dòng họ được tiến hành với khoa học của nhiều phân ngành đơn lập quy mô khác nhau. Việc nghiên cứu gia phả được thúc đẩy, trở nên sôi nổi với nhiều địa như: dân tộc học, xã hội học, gia phả học, chỉ trang web(,0). Các nhà nghiên cứu nước khảo cổ học, sử học... để hướng tới mục ngoài như Alain Fiorucci(11), Nelly tiêu làm sáng tỏ bản sắc văn hóa của dòng Krowolski(l2)... cũng vào cuộc. họ người Việt.
- 4 NGHIÊN C Ứ U-TRAO ĐỔ I BẢN SẤC VĂN HÓA CỦA DÒNG HỌ thờ thủy tổ, quan hệ cộng đồng của các VIỆT thành viên cùng sống trong một thiết chế xã Tính đến thời điểm này, đã có rất nhiều hội được tổ chức thẹo nguyên tắc luân lí... định nghĩa về dòng họ người Việt của các Như vậy, nếu phân tích sâu bản chất của dòng họ trong nhiều mối quan hệ chằng nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Có thể chéo, thì định nghĩa sau đây của Léopol kể đến một số định nghĩa tiêu biểu sau: Cadière mới là định nghĩa tương đối toàn , Nelly Krowolski quan niệm: “Theo diện về dòng họ người Việt: “Người Việt định nghĩa, tộc hay dòng họ tập hợp toàn cho dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng thuộc về thể con cháu bên nội của cùng một ông tổ một họ, tức gia đình theo nghĩa rộng, tổ được thừa nhận” (14). Nguyễn Từ Chi quan chức vững chắc, liên kết chặt chẽ bằng niệm: “Họ, quá lắm cũng chỉ có thể xem là huyết thống, bằng những quyền lợi vật chất, một dạng đặc biệt của gia đình mở rộng, mà bằng những niềm tin tôn giáo, bằng các mối tác dụng chính đối với các thành viên của dây luân lí của cộng đồng”(17\ Trong môi nó (tức là các gia đình nhỏ hợp thành nó) là trường cùa những mối quan hệ đặc thù này, tạo ra một niềm cộng cảm dựa trên huyết dòng họ người Việt dần hình thành và xác thống”(15). Phan Đại Doãn viết: “Theo nghĩa định bản sắc văn hóa độc đáo. Theo chúng rộng thì dòng họ, ngoài mối liên hệ ngang tôi, bản sắc văn hóa đó được thể hiện trên ba phương diện(18) nổi bật: văn hóa vật chất, lại có mối liên hệ dọc đứng đến 9 đời (cửu văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội (hay tộc), ngoài ra còn có quan hệ nội ngoại, còn gọi là văn hóa tổ chức cộng đồng). nhưng huyết thống bên nội là quan hệ quyết định nhất”(16). 1. Dòng họ - nơi kết tinh giá trị văn hóa vật chất đặc sắc của người Việt Điểm lại một số định nghĩa tiêu biểu Những giá trị văn hóa vật chất độc đảo của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước của dòng họ người Việt được thể hiệp trên như trên, ta thấy, về cơ bản, các nhà nghiên nhiều phương diện. Đến tận hôm nay, tuy cứu tương đối thống nhất khi khẳng định: có nhiều biến đổi bởi quá trình đô thị hóa, dòng họ là một thiết chế xã hội đặc biệt gắn nhưng nhiều từ đường của các dòng tộc trên bó với nhau bởi quan hệ huyết thống do cả nước vẫn còn lưu giữ được rất nhiều khởi sinh từ một thủy tổ. Trong mối quan những giá trị văn hóa của kiến trúc Việt cổ. hệ đồng huyết này, các cá nhân bao gồm cả Từ đường người Việt thường được xây người đang sống và người đã chết đều dựng dựa trên nguyên tắc của triết thuyết mang tộc danh về phía bố. Chỉ mang tộc âm dương ngũ hành - một trong những học danh về phía bổ nên người Việt thường coi thuyết được hình thành ở nền văn hóa Nam trọng họ nội. Á. Hướng của từ đường chủ yếu hướng Tuy nhiên, chính mối quan hệ quan Nam - hướng cư trú phổ biến của người trọng nhất - mối quan hệ huyết thống đó đẫ Việt cổ từ thời văn hóa Hòa Bình. Kết cấu khiến dòng họ người Việt hình thành hàng từ đường linh .hoạt bởi hệ thống cột cái, cột loạt mối quan hệ khác: quan hệ kinh tế với quân nối ghép với hệ thống kẻ, xà bằng lỗ chế độ lưu giữ và trao truyền gia sản, quan mộng nên tháo dỡ dễ dàng. Kiểu kết cấu hệ tín ngưỡng thờ tổ tiên mà trước hết là này là kết quả của lối tư duy ứng biến, linh
- TẠP CHÍVHDG SỐ 4/2011 5 hoạt của cư dân nông nghiệp lúa nước cổ sáng tỏ nhiều nét vãn hóa đặc sắc của người truyền. Từ đường của nhiều dòng họ còn có Việt. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng bảo vật như đại tự, câu đối, sắc phong, bài tôi chỉ tập trung tìm hiểu sâu một giá trị văn vị, tượng thờ, tế k h í... nếu được nghiên cứu hóa vật chất rất tiêu biểu của dòng họ người nghiêm túc, sẽ làm sáng tỏ nhiều giá trị văn Việt: mộ tổ. hóa. Hiện nay, nhiều từ đường vẫn còn lưu Đối với mỗi người dân Việt, mộ tổ là giữ bảo vật quý, chẳng hạn như từ đường một trong những bảo vật có giá trị quan họ Mạc tại thôn c ổ Trai, xã Ngũ Đoan, trọng hàng đầu. Dù đó là dòng họ đơn đinh huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Từ hay đa đinh, phú quý hay bần hàn, quan đường này là di tích lịch sử duy nhất còn chức hay bình dân ... thì phần mộ tổ đời nào sót lại trên quê hương của vương triều Mạc cũng được chú tâm chăm sóc nghiêm cẩn, với những tấm bia đá tạc rõ thế thứ, tôn quanh năm xạnh cỏ, lễ tiết đỏ đèn. Đối với hiệu hoàng tộc nhà Mạc. Trong bổi cảnh người Việt, việc kiến thiết lăng mộ, nhất là nhà Lê - Trịnh đã tìm mọi cách để xóa bỏ mộ tổ quan trọng đến mức dưới thời phong hoàn toàn các dấu tích của vương triều kiến, các triều đại Trần, Lê, N guyễn... đều Mạc, những tấm bia đá duy nhất còn sót lại ban hành những quy định xây dựng, nếu “ai hên thực sự có giá trị quan ừọng trong việc cậy giàu có, khéo tay xây vượt bậc điển lễ tìm hiểu sâu thêm về dòng họ lắm vinh đã ban hành đều bị phạt nặng và triệt quang, nhiều oan ừái này. Hoặc từ đường phá”(21). Những năm gần dãy, trong không của dòng họ Nguyễn Huy tại thôn Trường khí phục hưng dòng họ, các dòng tộc từ Bắc Lưu xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh vào Nam ra sức tầm nguyên thủy tổ, tôn tạo Hà Tĩnh. Đây là từ đường còn lưu giữ nhiều từ đường, riêng phần mộ tổ được quan tâm sách cổ, được coi như một thư viện sách cổ đặc biệt. Mộ tổ được khôi nguyên, phục quý giá ở Việt Nam với nhiều đầu sách về dựng với quy mô khang trang, bề thế. Các Bắc sử, Nam sử, địa lí, phong tục... Một dòng họ như họ Nguyễn, họ Lưu, họ Hà ở trong những bảo vật được coi là đặc biệt Võng La, Đông Anh, Hà Nội; họ Phạm ở quan trọng của dòng họ là gia phả(19). Ở Yên Mạc, Yên Mô, Ninh Bình; họ Nguyễn Việt Nam, cuốn gia phả sớm nhất xuất hiện ở Bình Minh, Nam Trực, Nam Đ ịnh... còn dưới thời Lý. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, quy tập mộ tổ và mộ của con cháu hậu duệ vào năm 1026, vua Lý Thái Tổ “xuống vào một nghĩa trang chung của dòng tộc. chiếu làm ngọc điệp (phả hệ nhà vua)”(20). Dù ở đâu và bất cứ khi nào, các thế hệ Việc làm gia phả phát tích từ hoàng tộc, người Việt đều gắng sức giữ gìn sự bình phát triển ở các tầng lóp quan nha và cuối yên và kiến thiết dựng xây để tổ tiên có cùng lan rộng đến các họ tộc dân gian. được “mồ yên, m ả đẹp” . Để giữ cho “mồ Nghiên cứu bản sắc văn hóa Việt Nam từ yên”, ngay sau khi thủy tổ mới qua đời, gia phả của các dòng tộc là m ột vấn đề khoa người Việt đã đặc biệt quan tâm tới việc lựa học lớn, chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề thú chọn huyệt đất sao cho thuận phong thủy, vị này trong một bài viết khác. quy tụ được linh khí của tròi đất để ạn táng Có thể nói, cùng với kiến trúc từ đường thủy tổ. Sau khi đã chọn thế đất thiêng để thì bảo vật đặc biệt là gia phả của dòng họ an táng thủy tổ, đời đời con cháu các thế hệ trên khắp mọi miền tổ quốc góp phần làm nối tiếp có trách nhiệm trao truyền nhau
- 6 NGHIÊN C Ứ U-TRAO ĐỔ I nghĩa vụ chăm sóc phần mộ tổ. Họ ra sức một số mộ rải gốm vụn ở đáy mộ hoặc ghép giữ-gìn và ngăn ngừa mọi nguy biến có thể gốm làm thành huyệt (...) mộ chôn trong gây chấn động tới phần mộ của thủy tổ. thạp đồng (...) những mộ chôn trong thân Thành ngữ dân gian “giữ như giữ mả tổ” cây khoét rỗng hình thuyền độc mộc”(23). phản ánh rất rõ điều này. Đê làm cho “mả Các dạng thức mai táng gắn với các đẹp”, bất cứ khi nào có điều kiện, một trong loại hình huyệt mộ ngày càng phức tạp từ những điều quan tâm đầu tiên của các dòng thời Đá mới đến thời Đông Sơn như trên tộc là sửa sang để kiến thiết mộ tổ với quy chính là kết quả của quá trình nhận thức mô khang trang, bề thế hơn. Vì vậy, khi luận về vũ trụ quan, nhân sinh quan của kinh tế cho phép, trong thời gian gần đây, người Việt cổ, m à trước hết là nhận thức phong trào tôn tạo, xây mới mộ tổ của các luận về một thế giới bên kia. dòng tộc đã và đang diễn ra rầm rộ trên Với người Việt cổ, chết không phải là phạm vi cả nước. Người ta làm tất cả những sự kết thúc của một kiếp người. Chết là quá gì có thể để tổ tiên có được “mồ yên, mả trình chuyển di sự sống từ thế giới có thực đẹp” bởi người Việt quan niệm: “sống về bên này sang thế giới bên kia trong tâm mồ về mả, ai sống về cả bát cơm”. tưởng. Vì nhận thức rằng có một cuộc sống Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao đối với vẫn đang tiếp tục diễn ra ở thế giới bên kia, người Việt, mồ mả tổ tiên, nhất là phần mộ nên người Việt cổ chôn cất người chết mà thủy tổ của dòng tộc lại quan trọng tới mức như đang dựng lại một phiên bản của cuộc trở thành tác nhân quyết định tới sự hưng sống hiện tại. Người chết được chôn với tư suy, sống còn của cuộc sống con người? thế của những người đang sống: tư thế ngồi Thực ra quan niệm “sống về mồ về mả ai xổm, ngồi xổm bó gối - tư thế ngồi đặc sống về cả bát cơm” trên đây vốn bắt nguồn trưng của người Việt cổ được ghi chép từ một nhận thức luận về vũ trụ quan, nhân trong sách Tùy thư của Trung Quốc: “Nam sinh quan của người Việt cổ được hình Hải và Giao Chỉ là đô hội... ngồi xổm là thành từ thời Đá mới. Những bằng chứng tục cũ của họ”(24). Quan niệm người chết khảo cổ học sau đây sẽ làm sáng tỏ điều vẫn phải lao động để duy trì cuộc sống và này. có nhu cầu làm đẹp là lí do để họ chôn theo Ngay từ thời Đá mới, cư dân Việt cổ đã người chết những vật dụng tùy táng, bao chôn người chết với nhiều dạng thức khác gồm công cụ lao động và đồ trang sức. Cư nhau: “Chôn theo tư thế ngồi xổm, chân tay trú trên m ột địa bàn ngập trũng với mạng gập lại, ngồi xổm bó gối, nằm co, nằm ngừa lưới sông ngòi dày đặc nên ngay từ thuở duỗi thẳng, chôn theo công cụ lao động và ban đầu, cư dân lúa nước cổ truyền đã sáng đồ trang sức, người chết bị buộc chặt trước chế phương tiện đi lại thích ứng với môi khi đem chôn”(22). trường ngập lụt quanh năm: di chuyển Các nhà khảo cổ học còn khai quật bằng thuyền. Vì mang theo lối tư duy dịch được nhiều khu mộ táng quan trọng của nền chuyển bằng thuyền đó, nên người Việt cổ văn hóa Đông Sơn. Tại đây, giới nghiên đã thiết kế những thân cây khoét rỗng cứu phát hiện nhiều táng thức với sự đa giống hình con thuyền độc mộc để chôn dạng về hình thức huyệt mộ: “Phổ biến vẫn người chết với mong mỏi nhờ những con là mộ đất, thường có huyệt hình chữ nhật, thuyền đó, người chết sẽ bình an đến được
- TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 7 và tiếp tục sống một cuộc sống mới ở thế đã chết là chăm sóc huyệt mộ. Đây chính là giới bên kia. lí do khiến các loại hình huyệt mộ phát triển Như vậy, các dạng táng thức phong ngày càng đa dạng từ thời văn hóa Đá mới phú, phức tạp trên là kết quả của quá trình đến thời văn hóa Đông Sợn. Trải qua bao nhận thức luận về một sự sống mới đang cơn sóng bão của sự giao thoa văn hóa toàn bắt đầu ở thế giới bên kia sau khi đã chết cầu, đến tận hôm nay, người Việt vẫn bảo trong tư duy của người Việt cổ. Tuy nhiên, lưu nghi thức cổ với sự chăm chút đặc biệt vấn đề đặt ra là: người đã chết không chỉ phần mộ tổ của dòng tộc trong quá trình đang sống ở thế giới khác - thế giới bên kia thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên, đúng như trong tâm tưởng - mà còn có mối liên hệ, Chu Xuân Diên nhận xét: “Việc thờ cúng tương tác nào không với thế giới thực tại định kì hằng năm và việc sửa sang phần mộ mà con người đang sống? Ở điểm này, là nhiệm vụ của cả cộng đồng cùng huyết chúng tôi bày tỏ sự tán đồng với ý kiến của th ố n g ...”(26). Trương Hữu Quýnh khi nhận xét về các Giữ nguyên nhận thức luận về một thế dạng táng thức của cư dân Phùng Nguyên: giới bên kia và niềm tin thiêng liêng vào “Họ cũng thể hiện ý niệm về mối quan hệ sức mạnh siêu linh của những người đã giữa người đang sổng và người đã chết”(25). chết, trong quan niệm dân gian của người Nhận thức rằng người đã chết vẫn sống ở Việt, sự hung, suy của con cháu dòng tộc một thế giới khác và tiếp tục làm ảnh hưởng phụ thuộc rất lớn vào phần mộ tổ tiên, nhất đến cuộc sống của con người hiện tại chính là phần mộ của thủy tổ dòng tộc. Nếu phần là nguyên nhân quan trọng khiến cư dân mộ của thủy tổ bình yên thi con cháu sẽ thuộc nền văn hóa Đá mới đã chôn người được khai tâm, phát phúc, đời đời hưng chết - có lẽ là một tội nhân của cộng đồng - thịnh, kiếp kiếp an hưởng phú quý vinh trong một tư thế lạ: buộc chặt chân tay với hoa. Nêu phần mộ thủy tổ “động” thì con mong nguyện người này chết rồi sẽ không cháu sẽ lụn bại, gia cảnh khánh kiệt, dòng có cơ hội trở về làm hại những người đang tộc suy vong. Đơn cử một ví dụ: ba dòng họ sống. Nhận thức luận yề một sự sống mới Nguyễn Đình, Nguyễn Xuân, họ Lưu cư trú đang tiếp diễn ở thế giới bên kia và niềm tin tại làng Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện vào sức mạnh siêu linh của những người đã Thanh Trì, thành phố Hà Nội đều lưu chết có thể tác động, thậm chí đảo ngược truyền câu chuyện huyền thoại về việc chọn quá trình sinh, trụ, dị, diệt của những người huyệt đất đắc địa, thuận phong thủy. Trong đang sống chính là nguyên nhân sâu xa thôi quan niệm của ba dòng tộc trên, con cháu thúc cư dân Việt cổ thực hiện những hành đời đời phát phúc, khai khoa, hiển vinh đỗ vi mang tính chất thiêng hóa đối với những đạt, tạo thành truyền thống làng khoa bảng người đã chết. Sự phát triển cùa những là nhờ phúc ấm thủy tổ để lại, mà trước hết hành vi này dần trở thành một hệ thống do mộ tổ đặt đúng nơi đắc địa. Như vậy, với nghi lễ trong việc thờ cúng những người đã người Việt, mồ mả của tổ tiên dòng tộc giữ chết - tiền thân của tín ngưỡng thờ cúng tổ vai trò quyết định tới sự hưng, suy của các thế hệ con cháu sau này. tiên của người Việt. Một trong những nghi thức sơ khai, đặc biệt quan trọng thể hiện Từ quan niệm dân gian vê vai trò của niềm sùng kính của người sống với người mộ tổ như trên, ta nhận thấy, đến tận hôm
- 8 NGHIÊN CỪU ■ TRAO Đổl nay, người Việt vẫn giữ vững niềm tin sớm, trước cả tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thiêng liêng để thực hiện một trong những trọng từng gia đình nên từ lâu, người Việt tín ngưỡng thờ cúng cổ xưa nhất: thờ cúng đã hình thành và bảo lưu một niềm tin tổ tiên dòng tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ thiêng liêng vào sức mạnh siêu nhiên của tiên dòng tộc này vốn manh nhạ xuất hiện thủy tổ dòng họ. Vì giữ nguyên niềm tin tín từ thời thị tộc nguyên thủy(27\ Trong tác ngưỡng đó nên đến tận hôm nay, người phẩm kinh điển bàn về nguồn gốc của gia Việt vẫn lí giải sự thành bại, hưng suy của đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, cháu con dòng tộc là đều do thủy tổ dòng nhận xét về tôn giáo của thị tộc Aten, F. họ phù trì hay trừng phạt. Sự phù trợ hay Ăngghen viết: “Những nghi lễ tôn giáo trừng phạt đó luôn gắn liền với phần mộ chung và độc quyền được cúng tế một vị của tổ tiên bình yên hay chấn động. thần nhất định, m à thị tộc coi là ông tổ của Như vậy, dưới góc nhìn văn hóa học và mình, và với danh nghĩa đó, vị thần ấy đã cũng chỉ xét riêng từ yếu tố văn hóa vật được thị tộc đặt cho m ột biệt hiệu riêng”(28\ chất là mộ tổ của dòng tộc, ta thấy bản sắc Cái mà F. Ăngghen gọi là “tôn giáo” đó văn hộa Việt rất rõ. thực chẩt là tín ngưỡng thờ cúng “ông tổ” Một trong những vấn đề gây nhiều của thị tộc. Vậy ông tổ của thị tộc là ai? Người Iroqua cho rằng tổ tiên của thị tộc là tranh luận trong giới nghiên cứu là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt có các loài động vật: sói,, gấu, nai, rùa, chim, cò... Trong quan niệm của người Aten, tổ nguồn gốc bản địa hay do sự tiếp biến của tiên thị tộc mình là các vị thần do thần Dớt Nho giáo Trung Quốc? Căn cứ vào những thành tựu nghiên cứu của khảo cổ học, dân sinh ra. Như vậy, thị tộc là những nhóm người cùng huyết thống - một dạng thức tộc học, với sự xuất hiện, phát triển ngày ban đầu của dòng họ - đã có ý niệm về tổ càng phong phú các loại hình huyệt mộ từ tiên và thực hiện những hành vi tín ngưỡng văn hóa Đá mới đến văn hóa Đông Son và thờ cúng tổ tiên. Tuy không phải là tổ tiên việc bảo lưu nghi thức chăm sóc phần mộ cùng huyết thống, song việc xác định thủy tổ của các dòng tộc hiện nay, chúng ta có cơ tổ chung của thị tộc là động vật, rồi tới thần sở khoa học xác đáng để khẳng định: tín thánh như trên sẽ là quá trình chuẩn bị cần ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt mà thiết để các dòng tộc sau này xác định thủy trước hết là tổ tiên dòng tộc có nguồn gốc tổ là con người đồng huyết. Rõ ràng, tín bản địa. Chính nhận thức luận về vũ trụ ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dòng tộc vốn quan, nhân sinh quan trong quan niệm về sự manh nha hình thành từ thời công xã thị sống và cái chết mang đậm bản sắc văn hóa tộc. Do đó, có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng cùa cư dân nông nghiệp lúa nước cổ truyền tổ tiên của dòng tộc đã có dấu hiệu xuất là nguyên nhân quan trọng đầu tiên, giữ vai hiện trước tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong trò quyết định tới sự hình thành tín ngưỡng gia đình. Bởi lẽ, chỉ sau khi công xẫ thị tộc thờ cúng tổ tiên của người Việt. Với nguồn tan rã, công xã nông thôn được xác lập thì gốc bản địa, Nho giáo Trung Quốc chỉ có từ đây, những gia đình nhỏ chính thức ra tác dụng củng cố và duy trì để tín ngưỡng đời vá việc thờ cúng tổ tiên trong những gia thờ cúng tổ tiên của người Việt tiếp tục phát đình đó mới xuất hiện. Chính vì xuất hiện triển sâu rộng và bền vững.
- TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 9 2. Dòng họ - nơi thể hiện giá trị văn tề tựu được đông đủ, thì nhất thiết phải cắt hóa tinh thần độc đáo của người Việt cử nhân đinh về dự lễ tại từ đường, thắp Trải qua quá trình hình thành, phát triển nén tâm nhang, m ột lòng hướng về tổ quán. lâu dài, dòng họ người Việt đã tạo dựng Ngay cả những người dân Việt, vì nhiều lí nhiều giá trị văn hóa tinh thần độc đáo. do phải xa tổ quốc, định cư sinh sống tại Trong cuộc sống thường ngày, mối quan hệ khắp các châu lục nhưng ý thức về tổ gốc họ hàng luôn được đề cao: “Một giọt máu không hề phai nhạt. Tiêu biểu là dòng họ đào hon ao nước lã”, sống với các mối Lý gốc Việt ở Hàn Quốc. Không chỉ xây quan hệ họ hàng, người Việt luôn đề cao ý dựng một Trung hiếu đường tại Bong-hwa thức đoàn kết, tinh thần tương thân tương trên đất Hàn để sớm tối khói hương, mà ái, cưu mang, đùm bọc, che chở nội tộc: hàng chục năm qua, vào ngày 15 tháng ba, “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”; “Nó lú con cháu dòng họ Lý vẫn trở lại cố hương, nhưng chú nó khôn”,... Trong bài viết này, tề tựu tại Đền Đô, một lòng thắp nén tâm chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu hai nhang mong liệt tổ, liệt tông chứng giám. giá trị văn hóa tinh thần nổi bật cùa dòng họ Hiện nay, ý thức tầm nguyên thủy tổ có người Việt: ý thức tìm về tổ quán của các xu hướng trỗi dậy. Nhiều dòng tộc trên dòng tộc và truyền thống riêng biệt của mỗi khắp mọi miền tổ quốc đang ra sức hợp dòng họ. nhất chi phái, ghép nối phả hệ, truy nguyên Một trong những giá ữ ị văn hóa tinh thủy tổ. Họ Nguyễn có nguồn gốc phát tích thần tiêu biểu hàng đầu của dòng họ người ở Hà Ngọc, Hà Trung, Thanh Hóa đã hợp Việt là ý thức tìm về cội nguồn, tổ quán. Dù nhất các chi ở Hà Nội, Hà Tây cũ, Hải ở đâu và bất cứ khi nào, ý thức về tổ tiên, Dương, Thái Bình, Thanh H óa... truy trước hết là tổ tiên dòng tộc vẫn là một nguyên đến thủy tổ Nguyễn Bặc (924 - 979) trong những ý thức sâu sắc nhất, ăn vào tâm - công thần khai quốc nhà Đinh. Họ Doãn trí, ngấm trong máu thịt mỗi người dân có nguồn gốc phát tích ở Tân Ninh, Triệu Việt. Ý thức này được thể hiện rất rõ trong Sơn, Thanh Hóa đã ghép nối các chi ở Hà thờ cúng tổ tiên dòng tộc. Hầu hết các dòng Nội, Hà Tây cũ, Thái Bình, Nam Định, họ người Việt đều thờ cúng tổ tiên dòng Ninh Bình, Hưng Yên, Thanh Hóa, Nghệ tộc. Người tộc trưởng được kí thác nhiệm A n ... phát hiện thủy tổ là Doãn Anh Khái vụ thiêng liêng thay mặt con cháu chăm sóc giữ chức Lệnh thư gia dưới triều Lý Thần từ đường, sớm tối đỏ đèn, quanh năm nhang Tông. Họ Vũ có nguồn gốc tại Mộ khói. Đều đặn vào các ngày sóc vọng, lễ Trạch, Bình Giang, Hải Dương đẫ hợp nhất tiết, giỗ chạp... tộc trưởng nhất tâm dâng các chi ở Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, cúng lễ vật, kính cẩn cầu mong anh linh Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh... tìm đến tiên tổ chứng giám, phù trì cho cháu con ông tổ họ Vũ là Vũ Hồn (804 - 853)... dòng tộc. Đặc biệt là ngày giỗ tổ - ngày hóa Ý thức tìm về thủy tổ của các dòng tộc của thủy tổ - luôn được tổ chức trang trọng. trong việc ghép nối gia phả, tầm nguyên Nhiều dòng tộc thực hành nghi thức tế lễ rất thủy tổ trên đây đang diễn ra theo hai xu quy mô. Trong ngày này, con cháu của các hướng: lịch sử hóa và huyền thoại hóa. Xu chi, phái, ngành, nhánh, cành... nếu không hướng lịch sử hóa thường xác định ông tổ
- 10 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl của dòng tộc mình là những nhân vật lịch ngưỡng mà còn thực hiện bởi đạo lí làm sử cùng mang tộc họ, có danh tiếng và công người - một đạo lí sâu nặng nghĩa tình, trạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Xu mang đậm màu sắc nhân văn của nền văn hướng huyền thoại hóa thường tạo ra một minh nông nghiệp lúa nước cổ truyền. lớp khói sương bàng bạc sắc màu huyền Bên cạnh truyền thống chung, mỗi thoại bao phủ cuộc đời thủy tổ. Gác lại việc dòng tộc còn có truyền thống riêng. Các bàn luận đúng sai trong việc truy nguyên dòng họ như Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, thủy tổ ở cả hai xu hướng trên, ta thấy rõ Mạc, Nguyễn... là những hoàng tộc. Các ràng rằng, người Việt đời nào cũng vậy, rất hoàng tộc này đã thay nhau giữ gìn bờ cõi, khát khao tìm về cội gốc của mình. quyết chống ngoại xâm, phát triển kinh tế, Vậy tại sao đối với người Việt, ý thức mở mang văn hóa để góp phần kiến lập một tìm về tổ quán lại luôn thường trực vậ sâu quốc gia Đại Việt hưng thịnh. Nhiều dòng sắc đến vậy? Tâm thức hướng về nguồn cội họ đã sản sinh, nuôi dưỡng cho quốc gia này ở người Việt được hình thành bởi: khác những nhân tài kiệt xuất, vang danh không với nhiều tộc người thuộc nền văn hóa du chỉ trong mà còn ngoài nước. Họ Nguyễn ở mục, tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội đã sinh ra trọng sức mạnh, trọng tài, “ ...con người danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo nguyên (1380 - 1442). Quan điểm của Thân Nhân tắc trọng tình”(29\ Nguyên tắc trọng tình Trung (1418 - 1499) - người con của dòng này tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức. họ Thân ở Yên Ninh, Việt Yên, Bắc Giang Người Việt đặc biệt đề cao chữ “đức” nên - “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” là sự kết mới quan niệm “Thiện tâm ở tại lòng ta. tinh đỉnh cao của văn hóa dân tộc trong việc Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Với trọng dụng hiền tài. Họ Lê Hữu ở Liêu Xá, người Việt, cái đức từ lâu đã trở thành một Mỹ Hào, Hưng Yên nức tiếng trời Nam bởi tiêu chuẩn để đánh giá nhân phẩm con tiếng tăm của thánh y Lê Hữu Trác (1724 - người. Tùy thuộc vào các mối quan hệ khác 1791). Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du nhau mà chữ đức có các dạng thức biểu (1765 - 1820) - danh nhân văn hóa thế giới hiện khác nhau, rất phong phú đa dạng. - đã làm rạng danh họ Nguyễn ở Tiên Điền, Trong mối quan hệ huyết tộc, ý thức về cội Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Còn họ Nguyễn ở nguồn, gốc gác đã sinh thành ra mình được Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An đã sinh ra và xem như là tiêu chí đạo đức quan trọng nhất nuôi dưỡng một nhân tài kiệt xuất, một nhà để xem xét nhân cách, đánh giá đạo đức văn hóa tầm cỡ quốc tế, một người con ưu tú của đất Việt - Chủ tịch Hồ Chí Minh một con người. Do bảo lưu một hệ giá trị đạo đức truyền thống đậm chất nhân văn (1890 - 1969). Chính những danh nhân của các dòng tộc ấy đã góp phần tạo dựng tinh như vậy, nên người Việt dù thời nào, cũng luôn vọng tưởng về tổ quán để thờ phụng, hoa văn hóa Việt. tri ân với tâm niệm: “Người ta có tổ có Bên cạnh những dòng tộc đó, người tông. Như cây có cội, như sông có nguồn”. Việt còn có nhiều dòng họ khác cũng vang Như vậy, người Việt thực hiện tín ngưỡng danh không kém. Trải qua quá trình hình thờ cúng tổ tiên, trước hết là thờ cúng tổ thành và phát triển lâu dài, nhiều dòng họ tiên dòng tộc, không chỉ bằng niềm tin tín đã xây dựng và lưu giữ truyền thống tốt đẹp
- TẠP CHÍ VHDG s ọ 4/2011 11 riêng. Có những dòng họ vang danh bởi nguồn sức mạnh tinh thần vô giá. Nó làm nghiệp khoa cử như họ Nguyễn ở Kim Đôi, thức dậy lòng kiêu hãnh tự hào, tiếp thêm Bắc Ninh; họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai, Hà sức mạnh tinh thần để cháu con vươn lên, trở Nội; họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ A n ... Đặc thành người tài đức song toàn, nối nghiệp tổ biệt là họ Vũ ở Mộ Trạch, Bình Giang, Hải tông, sáng danh dòng tộc, vinh hiển quốc Dương. Từ thời Trần đến thời Lý, dòng tộc gia. Sản sinh những tài năng, giáo dục nhân này đã có tới 36 tiến sĩ đỗ đại khoa. Ghi phẩm, cổ vũ tinh thần để góp phần phát triển nhận những đóng góp danh nhân biệt tài những nhân tài, định hình nhân cách lớn cho của họ Vũ cho dân tộc, vua Tự Đức đã khen nền văn hiến dân tộc, có thể nói, truyền tặng: “Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ” thống dòng họ đã góp phần tạo dựng và nuôi (làng Mộ Trạch có nhân tài nhiều bằng dưỡng bản sắc văn hóa Việt. nhân tài của một nửa quốc gia)... Để tạo lập một hệ giá trị văn hóa vật Có thể nói, dòng họ là nơi tinh kết chất, văn hóa tinh thần đặc sắc như đã nêu nhiều giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc của trên, từ lâu, dòng họ người Việt đã tự thiết người Việt. Ngót 600 năm trước, trong áng lập một cơ cấu tổ chức gắn với cơ chế vận thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cảo, danh hành đặc biệt. nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi đẫ từng dõng dạc tuyên bố bản sắc cùa nền văn hiến 3. Dòng họ - một dạng thức văn hóa tổ chức cộng đồng đặc biệt của làng xã Đại Việt trong thế đối sánh với nền văn hiến Trung Hoa: “Như nước Đại Việt ta từ người Việt trước. Vốn xung nền văn hiến đã lâu. Núi Văn hóa tổ chức cộng đồng của dòng sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam họ có nhiều biểu hiện. Song hai biểu hiện cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao tiêu biểu nhất là dòng họ người Việt được đời xây nền độc lập. Cùng Hán, Đường, tổ chức theo nguyên tắc phụ quyền và vận Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một hành với phương thức tự ưị. Theo nguyên phương. Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau. tắc này, người đàn ông tuyệt đối được đề Song hào kiệt thời nào cũng có”. Đúng như cao ữên các phương diện kinh tế, tín Nguyễn Trãi đâ tuyên ngôn, một trong ngưỡng, tổ chức dòng tộc. những phương diện để xác định bản sắc văn về kinh tế, giống như dòng họ của hóa dân tộc là những danh nhân biệt tài. người Hán, dòng họ người Việt thực thi chế Những danh nhân biệt tài của đất Việt - độ kế thừa bất động sản theo nguyên tắc những con người tài năng xuất chúng, ứí phụ quyền. Chỉ người đàn ông nào giữ vai tuệ siêu phàm, đức dày tâm sáng - chính là trò trưởng tộc mới được hưởng đặc ân kế sự kết tinh đỉnh cao của văn hóa Việt, họ lại thừa bất động sản gồm từ đường, ruộng được sinh ra và dưỡng nuôi bởi muôn họ vườn của dòng tộc. Nguyên tắc phụ quyền của bá tánh trăm dân. này còn chi phối đến việc trao truyền gia Như vậy, truyền thống dòng họ người sản của từng gia đình thành viên trong dòng Việt mang đậm chất nhân văn của nền văn tộc. Khi cha mẹ qua đời, tài sản thường chia minh nông nghiệp lúa nước cổ truyền, với ý cho các con, chủ yếu là con ưai. Người con thức sâu sắc về nguồn cội đã trở thành trưởng đảm nhiệm việc tế tự tổ tiên nên
- 12 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl được hưởng phần hương hỏa nhiều hơn. của dòng họ người Việt được xác định tới Chính việc kế thừa tài sản theo nguyên tắc chín đời đồng tộc danh, trên cơ sở xác định phụ quyền đã giúp dòng họ truyền giữ của một tổ tiên chung về phía người cha. Hệ cải liên tục trong nhiều đời ở phạm vi nội thống cửu tộc này bao gồm: cao tằng tổ tộc. Nhờ số của cải vật chất này mà dòng (kị), tằng tổ (cụ), tổ phụ (ông), phụ (cha), họ có điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát ngã (tôi), tử (con), tôn (cháu), tằng tôn triển và duy trì các nghi thức trong việc (chắt), huyền tôn (chút)... Chính tính chất thực hiện tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. phụ quyền trong việc đề cao dòng dõi tôn Nguyên tắc phụ quyền của dòng họ thống của người cha khiến dòng họ của người Việt còn thể hiện rõ trên phương diện người Việt về cơ bản nghiêng hẳn về họ tín ngưỡng. Thủy tổ của dòng tộc được con nội. Đó chính là lí do để nghiên cứu về cháu đời đời khói hương thờ phụng phải là dòng họ người Việt. nam giới. Việc chỉ ghi nhận tổ tiên về phía về mặt tổ chức dòng họ, tính chất phụ người đàn ông đã khiến dòng họ của người quyền thể hiện rõ trong sự phân biệt trưởng Việt, về thực chất, là một tổng gộp nhiều thứ. Đứng đầu dòng tộc sẽ là tộc trưởng. gia đình nhỏ liên kết chặt chẽ với nhau bởi Tiếp đó sẽ là trưởng chi, trưởng phái, mối quan hệ huyết thống được xác định về trưởng ngành, trưởng nhánh, trưởng cành... phía người cha. Nguyên tắc phụ quyền trên Các vị trưởng này buộc phải là nam giới và phương diện tín ngưỡng còn được thể hiện là con trưởng của phân cấp m à mình đảm trong quy định về người được phép tế tự tổ trách. Nhờ hệ thống trưởng thứ theo nguyên tiên. Đối với dòng họ người Việt, người đàn tắc phụ quyền m à từng người trong dòng ông - cụ thể là tộc trưởng mới được ban tộc được phân vai vế rõ ràng, xác định được phát đặc ân tế tự thủy tổ. Nhận xét về các mối quan hệ họ hàng và vị trí của mình nguyên tắc phụ quyền trong tín ngưỡng thờ trong nội tộc: “Bé bằng củ khoai. Cứ vai mà cúng tổ tiên của người Việt, Đào Duy Anh gọi”; “Xanh đầu con ông bác. Bạc đầu con viết: “Người chủ trì việc tế tự tổ tiên là gia ông chú”. Sự phân vai này khiến dòng họ trưởng trong gia đình nhỏ và tộc trưởng ở người Việt tuy là một tổ chức của nhóm trong gia tộc”(30). Dựa trên nguyên tắc phụ người cùng huyết thống với nhiều độ tuổi quyền, người Việt đã tổ chức dòng họ thành khác nhau, nhưng là m ột tổ chức chặt chẽ, hai bộ phận: họ nội và họ ngoại. Họ ngoại có tôn ti với hệ thống ngôi vị trưởng thứ, được xác định theo huyết thống của người vai vế được phân cấp rất rõ ràng. mẹ cùng hệ thống thân tộc: già, dì, cậu, Không ai phù nhận rằng nguyên tắc phụ m ợ... Họ nội được xác định theo huyết quyền - nguyên tắc quan trọng nhất để thiết thống người cha với hệ thống thân tộc: chú, lập tổ chức dòng họ người Việt như trên đã bác, cô... Tuy cấu thành bởi hai bộ phận là chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo Trung họ nội và họ ngoại, nhung người Việt coi Quốc, đặc biệt là sau khi Hồ Sỹ Tân (1690 - trọng họ nội mà xem nhẹ họ ngoại. Người 1760) biên soạn Thọ mai gia lễ trên cơ sở con gái một khi đã “xuất gỉá tòng phu” thì thâu nhận Chu Công gia lễ của người Trung coi như người ngoài họ, theo quan niệm dân Quốc. Tuy nhiên, ở dòng họ người Việt, gian “Nữ nhân ngoại tộc”. Tổ chức nội tộc nguyên tắc phụ quyền này vẫn có nhiều
- TẠP CHÍ VHDG s ố 4/2011 13 điểm khác biệt. Tuy chịu ảnh hưởng sâu sắc Hinh đã rút ra kết luận: “Như vậy, trước của Nho giáo Trung Hoa, nhưng nguyên tắc khi hệ thống thân tộc Hán du nhập chia thân phụ quyền trong tổ chức dòng họ người tộc thành nội, ngoại, chắc chắn đã có một Việt là nguyên tắc phụ quyền nửa vời, hệ thống thân tộc Việt”(31). không triệt để. Như vậy, mặc dầu chịu ảnh hưởng sâu về chế độ kể thừa gia sản, nếu như ở sắc của hệ thống Hán tộc nhưng người Việt Trung Quốc, luật pháp thời Tống, Minh quy thực thi nguyên tắc phụ quyền không triệt định rất rõ, gia sản chỉ được chia cho người để. Tính chất phụ quyền nửa vời và một hệ thừa kế là con trai thì ở Việt Nam, nguyên thống thân tộc đực - cái bản địa như trên đã tắc phụ quyền trong chế độ kế thừa gia sản góp phần làm rõ đặc điểm mà Trần Quốc này cỏ điểm khác biệt. Các điều 1, 6, 127, Vượng gọi là “Nguyên lí mẹ của nền văn 319... trong Hồng Đức thiện chỉnh thư hóa Việt Nam”(32). (1470 - 1497) và các điều 391, 397... trong Điểm nổi bật thứ hai ừong văn hóa tổ Quểc triều hình luật (1483) dưới thời vua chức cộng đồng của dòng họ người Việt là Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đều quy định tính tự quản. Trong trường hợp này, khái rất rõ về quyền lợi của người con gái trong niệm tự quản được hiểu theo hàm nghĩa việc kế thừa gia sản. Ngay cả khi nhà mỗi dòng họ tự thiết lập một bộ máy tổ Nguyễn (1802 - 1820) ban hành Hoàng Việt chức với cơ chế quản lí và phương thức vận luật lệ (1815) không cho phép con gái được hành riêng. kế thừa gia sản, thì dân gian vẫn trao truyền Ở người Việt, để quản lí dòng tộc, các một phần hương hỏa cho con gái. dòng họ thường tự xây dựng một bộ máy tổ về tín ngưỡng, tuy người đàn ông mới chức riêng. Bộ máy tổ chức này được gọi là danh chính ngôn thuận được phép tế tự tổ Hội đồng gia tộc. Hiện nay, các dòng họ uy tiên, song trong nhiều gia đình người Việt, danh được gọi là danh gia vọng tộc như: Nguyễn, Phạm, Đặng, Đỗ, Trần, V ũ... đang vì những lí do khác nhau m à người đàn ông có xu hướng kết nối các chi, nhánh trên luôn phải rời xa gia đình và tất yếu, người toàn quốc để thành lập một Hội đồng gia phụ nữ đã thay chồng đảm đương nhiệm vụ tộc rất quy mô, bề thế. Nhân sự của Hội thờ cúng tổ tiên, v ề tổ chức dòng họ, tuy đồng gia tộc thường bao gồm các vị trưởng thiết lập một hệ thống thân tộc theo mô tộc, trưởng chi, trưởng ngành... Nhiều dòng hình thân tộc Trung Quốc, song trước khi tộc còn đề nghị những cá nhân tuy không thâu nhận hệ thống thân tộc Trung Quốc, giữ vị trí trưởng nhưng có tri thức, kĩ năng người Việt đã có một hệ thống thân tộc quản lí hoặc những cá nhân đang nắm giữ riêng. Đó là hệ thống thân tộc lấy giới tính những cương vị trọng yếu trong các cơ đực - cái để phân loại. Trên cơ sở phân tích quan hành chính sự nghiệp nhà nước, nguồn gốc danh xưng trong hệ thống thân những doanh nhân thành đạt... cùng tham tộc của người Việt và dựa vào kết quả gia Hội đồng gia tộc. nghiên cứu tại Minh Hải, Văn Lâm, Hải Hội đồng gia tộc có nhiệm vụ tự quản Hưng, người dân gọi “Ông Đực, Bà Đực” lí tông tộc mình trên các phương diện: tự để chỉ ông nội, bà nội và “Ông Cái, Bà Cái” giải quyết mâu thuẫn để giữ gìn an ninh hòa để chỉ ông ngoại, bà ngoại, Nguyễn Duy mục trong nội tộc; đề xuất phương thức xây
- 14 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl dựng và phát triển dòng tộc; tổ chức các vừa dần hoàn thiện về nhân cách cho xã sinh hoạt phong tục: quan, hôn, tang, tế ... hội. Tuy vận hành tương đối độc lập với hệ của các gia đình thành viên; định hướng và thống luật pháp của quốc gia, song nhiều giáo dục nhân cách con cháu hướng tới các khi chính dòng họ giúp cho việc thực thi giá trị văn hóa vĩnh hằng: chân, thiện, m ĩ... pháp luật của nhà nước ở làng xã - nơi mà Vậy Hội đồng gia tộc căn cứ vào đâu thói quen hành xử tập nhiễm bởi “lệ làng”, để quản lí dòng tộc, thực hiện có hiệu quả ít biết đến “phép nước” - đạt hiệu quả rõ các nhiệm vụ trên? Các dòng họ thường có rệt. Trong ngày giỗ tổ, bên cạnh những hoạt tộc ước. Tộc ước là những văn bản truyền động tế lễ, các dòng họ Nguyễn, Phan, miệng hoặc thành văn thường được soạn Phạm, Trần ở Phú Điền, Tân Phú, Đồng thảo bởi Hội đồng gia tộc, trong đó có Nai còn lồng ghép cả một chương trình phổ nhiều điều khoản quy định rõ ràng về quyền biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành nước, nhằm mục đích phát triển kinh tế, viên trong nội tộc. Bản tộc ước này được đảm bảo trị an, giúp con cháu tránh xa tệ các thành viên cùa dòng tộc thông qua và nạn xã hội. Nhiều chủ trương, chính sách nhất trí tự nguyện thi hành. Tự hình thành đúng đắn của Chính phủ đẵ ban hành, một bộ máy tổ chức, tự xây dựng một hệ nhưng việc thực thi trong dân chúng lại đạt thống “tộc quy” riêng để quản lí dòng họ - hiệu quả rất thấp, trong khi đó, nếu biết đó chính là biểu hiện rất rõ của sự vận hành phát huy vai trò tự quản của dòng họ thì sễ theo phương thức tự quản của dòng họ. đạt được kết quả bất ngờ. Luật cấm hút Như vậy, tham gia vào việc quản lí làng xã thuốc lá ở nơi công cộng theo quyết định người Việt, bên cạnh hệ thống luật pháp của 1315 của Chính phủ là một ví dụ. Trong khi nhà nước, hệ thống “lệ làng” của làng xã, cuộc vận động cấm hút thuốc lá nơi công còn có thêm hệ thống “tộc quy” - một kiểu cộng diễn ra rầm rộ trên các phương tiện “luật pháp” riêng của dòng họ. Đối với việc thông tin đại chúng nhưng kết quả thu được quản lí làng xã, phương thức tự quản bằng không hề khả quan, thì từ năm 2001, hộ Đỗ “tộc quy” này hiển nhiên có cả mặt tích cực ở Khánh Thọ, Phú Ninh, Quảng Nam đã có và mặt tiêu cực. quy định con cháu toàn gia tộc hạn chế, tiến tới bỏ hẳn thuốc lá. Đến năm 2011, sau 10 Với phương thức tự quản, dòng họ đã tự giải quyết mâu thuẫn nội tộc theo năm thực hiện chủ trương trên, con cháu họ Đỗ đã bỏ hẳn thuốc lá. Họ Đỗ ở Khánh phương châm “M ột giọt máu đào, hơn ao nước lã”. Cách hóa giải mâu thuẫn độc đáo Thọ, Phú Ninh, Quảng Nam đã trở thành này khiến dòng họ vừa khơi dậy được tinh “dòng họ không khói thuốc” đầu tiên của Việt Nam. Thực trạng trên cho thấy vai trò thần đoàn kết nội tộc, duy trì bền vững lối ứng xử tình nghĩa của cư dân nông nghiệp tự quản của dòng họ cổ tác dụng lớn trong lúa nước cổ truyền, vừa góp phần đảm bảo việc thực thi luật pháp của quốc gia nếu biết kết họp hài hòa giữa tộc quy và luật pháp. trị an nơi thôm xóm. Việc tự định hướng trong giáo dục và xây dựng nhân cách thành Tuy nhiên, phương thức tự quản của viên nội tộc khiến dòng tộc có đóng góp dòng họ như trên hiển lộ những mặt tiêu không thể phủ nhận trong việc đào tạo cực dễ thấy. Vì những lí do khác nhau nên những cá nhân vừa có tri thức khoa học, nhiều dòng họ ganh đua, phát sinh mâu
- TẠP CHÍ VHDG SỐ 4Z2011 15 thuẫn. Mặc dù sống chung trong một làng tự quản của dòng họ nên đẫ cố gắng duy trì nhưng gầm ghè nhau, không thể giải tỏa phương thức tự quản này. Bằng chửng là mâu thuẫn, nên một số dòng họ đó có mối trong các bộ luật dưới thời nhà nước phong thâm thù, hận huyết truyền đời. Mối mâu kiến Đại Việt, không thấy có điều khoản thuẫn này gây không khí căng thẳng, ngột nào ngăn chặn hoặc khắc chế phương thức ngạt, phá vỡ an ninh làng xã. Theo một kết tự quản của dòng họ. Mặt khác, nhà nước quả điều tra của Mai Văn Hai và Phan Đại phong kiến Đại Việt lại muốn lợi dụng Doãn tại Đào Xá, Nam Sách, Hải Dương truyền thống tự quản này để củng cố an thì: “Hai dòng họ Trần Hữu và Trần Huy đã ninh xã hội, duy trì chế độ vương quyền. từng cạnh tranh thế lực khá gay gắt”(33). Trong vụ án Lệ Chi viên thời Lê sơ, đại Phương thức tự quản còn là mảnh đất tốt để thần Nguyễn Trãi (1380 - 1442) bị vu oan tư tưởng phe cánh, cục bộ bắt rễ, xanh “Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây”, buộc mầm, nhất là với những dòng tộc có người phải chấp nhận hình phạt tru di tam tộc. nắm giữ địa vị quan chức với tư tưởng Việc xử án với khung hình phạt này đã cho “Một người làm quan, cả họ được nhờ”. thấy rất rõ mục đích mượn chế độ tông Nhận xét về hiện tượng này, Đoàn Văn pháp để củng cố vương quyền của nhà nước Chúc viết: “Ở các cấp huyện thị, nếu thống phong kiến đương thời. Năm 1921, do kê, người ta sẽ thấy họ hàng của đội ngũ muốn với tay sâu vào việc quản lí làng xã cán bộ, ở thành phố, các vụ tham nhũng để hoàn thành mục tiêu xâm lược, ở miền hiếm khi vắng mặt quan hệ họ hàng”(34). Bắc Việt Nam, thực dân Pháp đã thành lập Như vậy, lợi dụng phương thức tự quản, Hội đồng tộc biểu m à thành phần là các tộc một số dòng họ đã thao túng quyền lực trường của dòng họ. Nhà nước xã hội chủ trong nội tộc. Trong trường hợp này, sự nghĩa vẫn tiếp tục duy trì và khuyến khích phát triển của quan hệ họ hàng đã làm nhòe mặt tích cực trong truyền thống tự quản của mờ các quan hệ luật pháp của nhà nước, dòng họ. Hiện nay, chính quyền các cấp gây rối ren về chính trị, tác động xấu tới trị đang có nhiều biện pháp, chủ trương khơi an của quốc gia. Đây chính là hiện tượng dậy tinh thần tự quản này. Các cấp chính “nhị nguyên phân quyền” hay “song trùng quyền của huyện Ba Vì, Hà Nội; huyện Lạc quyền lực” giữa tính tự quản của dòng họ Sơn, Hòa Bình; huyện Quỳnh Lưu, Nghệ với hệ thống luật pháp của quốc gia mà A n ... đã có nhiều hình thức thiết thực nhằm nhiều nhà nghiên cứu đã từng đề cập tới. phát huy truyền thống tự quản của dòng họ Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra là tại trong việc thực hiện chủ trương chính sách sao truyền thống tự quản của dòng họ đã của Đảng, phát triển kinh tế, đảm bảo an bộc lộ nhiều điểm tiêu cực nhưng vẫn tồn ninh làng xã. Thực tiễn lịch sử trên cho tại dai dẳng đến tận hôm nay? Có nhiều thấy, từ nhà nước phong kiến đến nhà nước nguyên nhân để giải thích hiện tượng này, xã hội chủ nghĩa, đều chưa bao giờ can song nguyên nhân quan trọng nhất là do thiệp thô bạo, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cách ứng xừ của nhà nước với dòng họ. quyền lực tự quản của dòng họ. Nhà nước Như chúng ta đã biết, suốt 10 thế kỉ trung các thời, một mặt muốn kìm hãm tính tiêu đại, nhà nước phong kiến Đại Việt đã sớm cực, mặt khác lại muốn lợi dụng tính tích nhận thấy mặt tích cực trong phương thức cực trong truyền thống tự quản của dòng họ
- 16 NGHIÊN C Ứ U-TRAO ĐỔ I để quản lí xã hội. Chính tính ứng xử nước mảng văn hóa khác, những thành tựu đôi của nhà nước như trên đẵ khiến truyền nghiên cứu về văn hóa dòng họ thường thống tự quản của dòng họ tồn tại bền vững mỏng và thưa vắng. Trong bối cảnh đó, đến tận ngày hôm nay. chúng tôi mong muốn góp thêm m ột hướng Tóm lại, dưới góc nhìn văn hóa tổ chức tiếp cận mới - nghiên cứu dòng họ từ góc cộng đồng, nguyên tắc phụ quyền kết gắn nhìn văn hóa. Với hướng tiếp cận này, chặt chẽ với truyền thống tự quản của dòng chúng ta sẽ có thêm m ột cơ sở khoa học để họ đã góp phần tạo lập bản sắc độc đáo của khám phá sâu hơn bản sắc văn hóa Việt văn hóa Việt. Nam từ góc nhìn văn hóa dòng h ọ .n KÉT LUẬN N.V.T Trong tác phẩm kinh điển Nguồn gốc CHỦ THÍCH của gia đình, của chế độ tư hữu, của nhà (1) . Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, đăng nước, mặc dầu đã được kế thừa rất nhiều trên Đông Dương Tạp chí những năm đầu thế kỉ thành tựu nghiên cứu xuất sắc từ công trình XX, sách xuất bản lần đầu năm 1915. X ã hội cổ đại của L.H Moocgan (1818 - (2) . Pierre Gourou (1936), Người nông dân 1881), song F. Ăngghen (1820 - 1895) vẫn châu thổ Bắc Kì, Nxb. Nghệ thuật và lịch sử, Pari. phải thừa nhận những khó khăn bất khả Cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Việt vào năm 2003 bởi Hội khoa học lịch sử Việt Nam và kháng trong nghiên cứu dòng họ bởi Viện Viễn Đông Bác cổ, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ “nguồn gốc và bản chất cho đến nay vẫn Chi Minh. còn mù mịt đối với tất cả các nhà sử học (3) . Đào Duy Anh (2006), Việt Nam văn hóa của chúng ta”(35). Bên cạnh khó khăn mang sử cương, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. tính khách quan ấy, việc nghiên cứu dòng (4) . Toan Ánh (1992), Nếp cũ, 6 quyển, Nxb. họ ở Việt Nam còn gặp không ít những khó Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. khăn mang tính chù quan, nhất là vấn đề gia (5) . Nguyễn Đức Dụ (1992), Gia phả khảo phả - khâu then chốt nhất để nghiên cứu luận và thực hành, Nxb. Thời đại, Hà Nội. dòng họ. Trong khi nhiều quốc gia đã (6) . Lê Trung Hoa (1992), Họ và tên người Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. nghiên cứu chuyên sâu môn Gia phả học với hệ thống gần 200 trường đại học danh (7) . Mai Văn Hai, Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ sông Hồng, Nxb. tiếng trên thế giới, thì ở Việt Nam, thành Khoa học xã hội, Hà Nội. tựu nghiên cứu gia phả học còn rất khiêm (8) . Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu tốn. Việc sưu tầm gia phả cũng gặp không ít vãn hỏa và tộc người, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. khó khăn. Vì những lí do khác nhau, rất (9) . Hội thảo về dòng họ do UNESCO tổ nhiều cuốn gia phả có giá trị cao về văn chức năm 1996, 1997; Hội thảo dòng họ Nguyễn hóa, lịch sử hiện vẫn đang lưu truyền trong Xí ở Nghệ An tổ chức hăm 1997; Hội thảo Văn dân gian m à giới nghiên cứu chưa thể sưu hóa các dòng họ Nghệ An với sự nghiệp thực hiện chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỉ XXI tổ tầm. Bên cạnh đó, sự đơn điệu về mặt chức năm 1998... phương pháp nghiên cứu đã hạn chế rất (10) . Một số trang web tiêu biểu chuyên giới nhiều thành tựu nghiên cứu về dòng họ ở thiệu việc nghiên cứu gia phả Việt Nam: Việt Nam. Vì những khó khăn khách quan http://vi.wikipedia.org/wiki/Gia ph%El%B và chủ quan nêu trên nên, so với nhiều A%A3
- TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 17 http://www.vietnamgiapha.com/faq/?mnu=2 (20) . Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu &fid=4&id=3 đính (2009), Đạì Việt sử kí toàn thư (toàn tập), http://www.phahe.vn/Knowledge Detail.asp Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr. 167. x?ContentĩD=5632 (21) . Vân Hạnh sưu tầm, biên soạn (2009), Văn hỏa dòng họ, Nxb. Thời đại, Hà Nội, tr. 110. http://www.phahe.vn/KienThuc.aspx?topicĩd =797 (22) . Trương Hữu Quýnh chủ biên (2010), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 23. (11), (12). Phillippe và Olivier Tessier chủ biên (2002), Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: (23) . Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Vàn Tấn, Lương Ninh»(1985), Lịch sử Việt Nam, vẩn đề còn bỏ ngỏ, Nxb. Trung tâm khoa học xã Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà hội và nhân văn quốc gia.. Nội, tr. 92. (13.) Theo Đoàn Văn Chúc (1997), “Văn hóa (24) . Nguyễn Duy Hĩnh (2004), Văn minh học là môn học liên ngành”, in trong sách Văn Lạc Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. hóa học, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 7. 152. (14) . Phillippe và Olivier Tessier chủ biên (25) . Trương Hữu Quýnh chủ biên (2010), (2002), sdd, tr. 343. sđd, tr. 28. (15) . Nguyễn Từ Chi (2003), sđd, tr. 253. (26) . Chu Xuân Diên (2002), sđd, tr. 189. (16) . Phan Đại Doãn (2003), Làng xã Việt (27) . Theo Mac và Ăngghen, thị tộc là một Nam, một sổ vẩn đề kinh tể,, văn hỏa, Nxb. Văn nhóm người được tập hợp với nhau nhờ mối quan hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 27. hệ huyết thống. Ban đầu, mối quan hệ huyết thống (17) . Léopol Cadière (2006), Văn hóa, tôn này đựợc xác định theo huyết thống người mẹ, tiêu giảo, tín ngưỡng Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, biểu là 'thị tộc mẫu quyền cùa người Iroqua vùng Huế, tr. 241 -242. Bắc Mỹ và phát triển với mối quan hệ huyết thống (18) . Tính đến nay, tùy thuộc vào tiêu chí xác định theo người cha trong thị tộc phụ quyền khác nhau mà các nhà nghiên cứu trong và ngoài của người Aten vùng Hy lạp. Gắn với chế độ thị nước có nhiều cách phân chia các thành tổ văn tộc này là các hình thức tín ngưõng đặc thù mà hóa. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn tiêụ trước hết là tín ngưỡng thờ cúng ông tổ của thị tộc. chí giá trị - một tiêu chí mà hầu hết các nhà (28) . F. Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia nghiên cứu văn hóa có sự đông thuận cao. Chúng đình, cùa chể độ tư hữu và của nhà nước, Nxb. Sự tôi tán đồng quan điểm với Chu Xuân Diên là căn thật, Hà Nội, tr. 147. cứ vào tiêu chí giá trị để phân chia vàn hóa thành (29) . Trần Quốc Vượng chủ biên (1998), Cơ ba thành tố: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. văn hóa xã hội (văn hóa tổ chức cộng đồng). Xin 71. xem thêm Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ (30) . Đào Duy Anh (2006), sđd, tr. 224. Chí Minh, ừ. 23. (31) . Nguyễn Duy Hình (2004), sđd, tr. 429. (19) . Nội dung quan trọng nhất của gia phả (32) . Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt ghi chép khái quát về lịch sử hình thành phát triển Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, của mỗi dòng tộc. Lịch sử đó thường được thể tr. 467. hiện trong bảng phả hệ. Nhìn vào bâng phả hệ, (33) . Mai Văn Hai, Phan Đại Doãn (2000), người ta thấy rõ được mối quan hệ huyết thống từ sđd, tr. 124. thủy tổ xa nhất có thể đến thế hệ con cháu đương đại. Có nhiều cách lập phả hệ nhưng về cơ bản (34) . Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn người ta thường sử dụng bốn cách sau: Âu thức, hóa, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 278. Tô thức, Tháp thức và Điệp kí thức (35) . F. Ăngghen (1961), sđd, tr. 123.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
4 p | 1884 | 612
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng Sản Việt Nam
14 p | 1080 | 462
-
Slide bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh
41 p | 1782 | 348
-
GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI KÌ HỘI NHẬP
2 p | 576 | 205
-
Giải pháp xây dựng văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc
2 p | 489 | 112
-
Phân tích vấn đề thời có trong Cách mạng tháng Tám
5 p | 583 | 104
-
BẢN THU HOẠCH CÁ NHÂN HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
3 p | 709 | 37
-
Những phong tục cưới xin lạ lùng của Việt Nam
11 p | 155 | 15
-
Văn hoá tâm linh và nghệ thuật trong tranh Làng Sình xứ Huế.
12 p | 143 | 12
-
Hát Sình ca – nét văn hóa độc đáo của dân tộc Sán Chay
5 p | 163 | 12
-
Nhà Gươl - Biểu tượng văn hóa Cơ tu
7 p | 129 | 10
-
NGUỒN GỐC TÊN HỌ TẠI TRUNG QUỐC
13 p | 104 | 10
-
Độc đáo lễ cúng tạ ơn của đồng bào Gia Rai
3 p | 76 | 7
-
Văn hóa Nõ Nường : Lý giải Thái Trắng Thái Đen qua văn hóa của họ
16 p | 88 | 5
-
Văn hóa Việt đóng góp cho thế giới
8 p | 64 | 4
-
Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài
38 p | 28 | 3
-
Truyện kể dân gian xứ Bắc về các nhân vật anh hùng văn hóa
9 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn