CẤU TRÚC CỦA VĂN HÓA
Văn hóa là một hệ thống được cấu trúc bởi nhiều thành tố khác nhau. Tuy nhiên ở các
góc độ tiếp cận khác nhau cấu trúc văn hóa sẽ được phân tích khác nhau dựa trên sự hợp
thành của những thành phần cụ thể của chúng.
Quan điểm 1: Coi cấu trúc của văn hóa gồm hai thành tố cơ bản: văn hóa vật chất và văn
hóa phi vật chất. Văn hóa tinh thần (hay còn gọi là văn hóa phi vật chất) là những ý niệm
tín ngưỡng phong tục tập quán giá trị chuẩn mực… tạo nên một hệ thống. Hệ thống đó
bị chi phối bởi trình độ của các giá trị, đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất.
Quan điểm 2: Ở Việt Nam theo giáo sư Trần Ngọc Thêm, cấu trúc văn hóa bao gồm 4
thành tố gạch tiểu hệ như: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng
xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Văn hóa nhận thức là những kinh nghiệm và tri thức tích lũy đã được tích lũy về vũ trụ
và con người. Văn hóa tổ chức cộng đồng bao gồm hai vi hệ cơ bản là văn hóa tổ chức
đời sống tập thể (ở tầm vĩ mô như tổ chức nông thôn, đô thị, quốc gia) và văn hóa tổ chức
đời sống cá nhân liên quan đến đời sống riêng mỗi người như tín ngưỡng phong tục giao
tiếp nghệ thuật. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên: trong quan hệ với môi
trường tự nhiên, con người có thể tận dụng để ăn uống, tạo ra các vật dụng hằng ngày…
đồng thời cũng phải ứng phó với thiên tai (trị thủy) với khoảng cách giao thông, với khí
hậu và thời tiết, nhà cửa, quần áo... Và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội: trong
môi trường xã hội, bằng các quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa mỗi dân tộc đều cố
gắng tận dụng những thành tựu của các dân tộc khác để làm giầu thêm cho nền văn hóa
của mình; đồng thời lại phải lo ứng phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao.
LOẠI HÌNH CỦA VĂN HÓA
Văn hóa tinh thần
Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập
quán, giá trị, chuẩn mực,... tạo nên một hệ thống. Hệ thống đó bị chi phối bởi trình độ của các giá trị,
đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống nhất và
khả năng tiến hóa nội tại của nó.
Văn hóa vật chất
Ngoài các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩn,... nền văn hóa còn bao gồm tất cả những sáng tạo
hữu hình của con người mà trongXxã hội họcXgọi chung làXđồ tạo tác. Những con đường, tòa cao ốc,
đền đài, phương tiện giao thông, máy móc thiết bị... đều làXđồ tạo tác. Văn hóa vật chất và phi vật chất
liên quan chặt chẽ với nhau. Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa vật chất phản ánh những
giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng. Ở các nướcXHồi giáo, công trình kiến trúc đẹp
nhất và hoành tráng nhất thường là thánh đường trong khi ởXMỹ, nó lại là trung tâm thương mại. Văn
hóa vật chất còn phản ánh công nghệ hiểu theo khái niệm xã hội học là sự áp dụng kiến thức văn hóa
vào sinh hoạt trong môi trường tự nhiên.XTháp EiffelXphản ánh công nghệ cao hơn tháp truyền hìnhX
Nội. Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm thay đổi những thành phần văn hóa phi vật chất.
Các loại hình văn hóa phổ biến tại Việt Nam
Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất tại Việt Nam tổng thể những sản phẩm vật chất do con người sáng tạo ra trong
quá trình sinh sống và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam. Nó bao gồm nhiều lĩnh vực như:
Kiến trúc: Nhà rông, chùa Một Cột, Đình làng
Trang phục: Áo dài, nón lá, áo bà ba, khăn rằn
Ẩm thực: phở, bánh mì, nem, bánh chưng, nước mắm
Nghệ thuật thủ công: điêu khắc gỗ, đồ gốm sứ, thêu thùa và tranh dân gian.dụ nổi tiếng
làng gốm Bát Tràng ở Hà Nội và làng dệt lụa Vạn Phúc ở Hà Đông.
Sản xuất nông nghiệp
Di tích, thắng cảnh
Văn hóa phi vật chất
Văn hóa phi vật chất của Việt Nam là một kho tàng cùng phong phú đa dạng, bao gồm những
sản phẩm tinh thần được lưu giữ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn các hình thức khác. thể hiện bản sắc văn hóa của cộng đồng, dân tộc góp
phần tạo nên sự đa dạng cho nền văn hóa nước ta.
Một số ví dụ tiêu biểu về văn hóa phi vật thể của Việt Nam:
Nhã nhạc cung đình Huế: là một loại hình âm nhạc cổ truyền, được biểu diễn trong các nghi
lễ cung đình của triều Nguyễn. Nhã nhạc Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2003.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên: là một hệ thống âm nhạc độc đáo, bao gồm
các loại cồng chiêng khác nhau được sử dụng trong các nghi lễ, lễ hội sinh hoạt cộng
đồng của người dân Tây Nguyên. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2005.
Dân ca Quan họ Bắc Ninh:Xlà một loại hình âm nhạc dân gian, được hát đối đáp giữa nam và
nữ trong các lễ hội, sinh hoạt cộng đồng của người dân Bắc Ninh. Dân ca Quan họ được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2009.
Hát Ca trù: một loại hình âm nhạc dân gian, được biểu diễn bởi một nữ ca (được gọi
"đào") một người đánh đàn đáy. Ca trù được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2009.
Hội Gióng đền Phù Đổng đền Sóc: một lễ hội truyền thống, được tổ chức để tưởng
nhớ Thánh Gióng, một vị anh hùng trong truyền thuyết Việt Nam. Hội Gióng được UNESCO
công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2010.