
2
Theo Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc
(FAO), trong giai đoạn 1990 - 2020 có khoảng
420 triệu ha rừng trên toàn cầu - lớn hơn diện
tích Liên minh Châu Âu (EU) - đã biến mất.
Phá rừng và suy thoái rừng là hai nguyên nhân
chính dẫn đến biến đổi khí hậu và mất đa dạng
sinh học. Khoảng 90% hoạt động phá rừng
được cho là do mở rộng diện tích nông nghiệp
và liên quan đến một số hàng hóa nhất định.
Liên minh Châu Âu là nhà tiêu thụ chính các
mặt hàng liên quan đến phá rừng và suy thoái
rừng. Trong số 2,3 tỷ Euro từ các sản phẩm của
Việt Nam xuất khẩu sang Châu Âu chủ yếu rơi
vào các mặt hàng: Cà phê (chiếm 47,5%); gỗ
(chiếm 35,2%) và cao su (chiếm 17,1%).
Tổng quan quy định về sản xuất không
gây mất rừng và suy thoái rừng (EUDR)
Mục tiêu tổng quát của quy định về sản xuất
không gây mất rừng và suy thoái rừng (EUDR)
là giảm thiểu sự đóng góp của EU vào nạn mất
rừng và suy thoái rừng trên toàn thế giới. Mục
tiêu cụ thể là giảm thiểu rủi ro gây ra từ hàng
hóa tới từ chuỗi cung ứng gắn liền với nạn mất
rừng hoặc suy thoái rừng được bày bán tại thị
trường EU; đồng thời nhằm gia tăng yêu cầu
của EU đối với buôn bán các mặt hàng và sản
phẩm hợp pháp và “không gây mất rừng”.
EUDR được Nghị viện Châu Âu thông qua
vào ngày 19/4/2023, được Hội đồng Châu Âu
thông qua vào ngày 22/5/2023, thỏa thuận ký
bên lề phiên họp toàn thể Hội đồng Châu Âu
vào ngày 31/5/2023 và có hiệu lực từ ngày
29/6/2023. Lộ trình áp dụng quy định bắt đầu
từ tháng 12/2024 đối với các công ty lớn và từ
tháng 6/2025 đối với các doanh nghiệp nhỏ.
Hàng hóa áp dụng đối với quy định này bao
gồm: Gia súc, cocoa, cà phê, dầu cọ, cao su,
đậu nành, gỗ và một số sản phẩm có nguồn gốc
từ đó (ví dụ: sôcôla, đồ gỗ nội thất, lốp xe, sản
phẩm in). Danh sách hàng hóa áp dụng quy
định được cập nhật thường xuyên.
Đối tượng áp dụng quy định: Thẩm định bắt
buộc đối với tất cả các nhà vận hành nhập khẩu
hoặc xuất khẩu các sản phẩm liên quan nêu
trên từ EU.
Điều kiện được nhập khẩu: Các sản phẩm
không được sản xuất do phá rừng; các sản
phẩm phải hợp pháp theo luật của quốc gia sản
xuất; và sản phẩm phải có báo cáo thẩm định.
Về hệ thống đối sánh: Mức độ rủi ro quyết
định yêu cầu và giải pháp bắt buộc cho các
công ty, chính quyền địa phương phải tuân thủ.
Rủi ro mất rừng phải được giám sát ở tất cả các
sản phẩm liên quan. Đối với rủi ro thấp phải có
các hồ sơ thông tin về: Dữ liệu sản phẩm; vị trí
địa lý (GPS, polygon); nhà cung cấp và nhà
mua; pháp lý và vấn đề xã hội khác. Đối với rủi
ro cao thì ngoài các tiêu chí của rủi ro thấp phải
có thêm các biện pháp giảm thiểu rủi ro; cơ chế
quản lý rủi ro không tuân thủ quy định; và đánh
giá hàng năm.
Dữ liệu rừng phục vụ giám sát và đối sánh
bao gồm: Bản đồ thực trạng rừng vào thời điểm
31/12/2020; khoanh vùng sản xuất cà phê theo
từng mức độ nguy cơ (thấp, trung bình hay
cao). Dữ liệu vườn trồng bao gồm: dữ liệu
GPS/polygon của vườn trồng, thông tin vườn
trồng; quyền sử dụng đất. Truy xuất nguồn
gốc: thực hiện truy xuất theo mức độ rủi ro. Hỗ
trợ nông hộ nguy cơ cao: xây dựng cơ chế hỗ
trợ nông hộ tại các khu vực nguy cơ cao.
Báo cáo thẩm định bao gồm các nội
dung sau: Mô tả sản phẩm (tên thương mại,
loại sản phẩm hàng hóa liên quan); số lượng
sản phẩm hàng hóa; nước sản xuất, vùng sản
xuất; số liệu định vị toàn bộ các lô vườn nơi sản
phẩm hàng hóa được sản xuất và thời gian bán
sản phẩm hàng hóa; tên, địa chỉ và email của
công ty và người lãnh đạo công ty bán sản
phẩm hàng hóa liên quan; tên, địa chỉ và email
của công ty và người lãnh đạo công ty mua sản
phẩm hàng hóa liên quan; cung cấp đầy đủ
thông tin chứng minh sản phẩm hàng hóa
không đến từ nơi mất rừng; và cung cấp đầy đủ
thông tin chứng minh sản phẩm hàng hóa là
3
THÔNG TIN NÔNG NGHIỆP THÔNG TIN NÔNG NGHIỆP
hợp pháp như quyền sử dụng đất.
Ban giám sát Châu Âu được thành lập
bởi Ủy ban Châu Âu để quản lý giám sát sự
thay đổi về mất rừng và nguyên nhân gây mất
rừng; xây dựng các công cụ đo đếm tính toán,
giám sát không gian từ các nguồn lực của khối
công tư; hỗ trợ tiếp cận thông tin chuỗi cung
ứng sản phẩm hàng hóa cho chính quyền,
khách hàng và doanh nghiệp; cung cấp thông
tin và số liệu gắn với việc mất rừng, thoái hóa
rừng và sự thay đổi độ che phủ rừng toàn cầu
cho Liên minh Châu Âu trong việc trao đổi
thương mại sản phẩm hàng hóa.
Yêu cầu của EU về sản phẩm không
gây mất rừng (EUDR) và thách thức của
vùng trồng cà phê Việt Nam
Yêu cầu 100% sản phẩm phải có định
vị GPS/polygon đến từng mảnh vườn: Thách
thức là hiện nay chỉ có khoảng 20 - 30% cà phê
chứng nhận có định vị và chi phí định vị quá
lớn.
Yêu cầu truy xuất vật lý đến vườn trồng:
Thách thức là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún; thương mại cà phê phức tạp với nhiều
tầng lớp trung gian; chi phí phát sinh lớn.
Theo dõi diễn biến mất rừng bằng công cụ
viễn thám, cà phê sản xuất trên đất gây mất
rừng sau ngày 31/12/2020 không được thông
quan: Thách thức là chưa rõ nền bản đồ rừng
tham chiếu phản ánh đúng thực trạng vào mốc
31/12/2020; Một số khu vực đã chuyển mục
đích sử dụng trong nhiều năm nhưng chưa thể
hiện trên nền bản đồ rừng hiện có, và một tỷ lệ
nhỏ chưa trùng khớp giữa bản đồ rừng và bản
đồ địa chính; Định nghĩa các loại rừng và cơ
chế bảo vệ, khai thác giữa hệ thống của Việt
Nam và Châu Âu cũng là một trong những
thách thức.
Chứng minh không gây mất rừng bằng các
báo cáo giải trình, phân tích nguy cơ và giải
pháp giảm thiểu nguy cơ mất rừng: Thách thức
đối với chúng ta là chưa có cơ chế, biện pháp
phản hồi thông tin minh bạch, hoặc biện pháp
hỗ trợ nông hộ nguy cơ cao không xâm lấn
rừng và tham gia trồng phục hồi rừng.
Đánh giá và giảm thiểu nguy cơ về vấn đề
xã hội (quyền sử dụng đất, lao động, thu
nhập…): Thách thức là chưa có đánh giá tổng
thể về nguy cơ xã hội và thử nghiệm giải pháp
can thiệp.
Một số giải pháp thực hiện
Một là, bảo vệ và giám sát rừng, cần có nền
bản đồ phản ánh thực trạng rừng vào ngày
31/12/2020. Đảm bảo đồng bộ giữa dữ liệu địa
chính và dữ liệu giám sát rừng, cách thức phân
loại và ranh giới các loại rừng. Khoanh vùng
sản xuất cà phê theo mức độ nguy cơ mất rừng
và tổ chức giám sát theo từng mức độ nguy cơ.
Hiện nay, khu vực an toàn (không có nguy cơ)
chiếm khoảng 55-60% diện tích (vùng sản
xuất cà phê không gần rừng); vùng nguy cơ
thấp chiếm khoảng 30-35% diện tích (gần
rừng nhưng có ranh giới rõ ràng và quản lý tốt);
vùng nguy cơ cao chiếm khoảng 5-15% diện
tích (gần rừng và không có ranh giới rõ ràng,
hoặc không được quản lý tốt).
Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu vườn trồng,
vườn trồng đã được phân thửa (có chứng nhận
sử dụng đất): Chia sẻ dữ liệu địa chính để xác
định dữ liệu GPS/polygon của vườn trồng; xác
nhận thực địa bằng các nhóm mẫu. Vườn trồng
chưa được phân thửa (chưa có chứng nhận sử
dụng đất, đã bắt đầu canh tác trước ngày
31/12/2020) thì tiến hành khoanh vẽ thực địa
và kiểm tra định kỳ. Cơ sở dữ liệu vườn trồng
gồm dữ liệu định vị và các dữ liệu canh tác
khác và mã số nông hộ/mã vườn (UBND
huyện quản lý) cùng với hệ thống chia sẻ thông
tin với chuỗi cung ứng.
Ba là, truy xuất nguồn gốc theo nhóm/vùng,
cấp nông hộ/vườn: Đối với vùng nguy cơ cao:
Truy xuất cấp vườn, gồm: Dữ liệu
GPS/polygon tại vườn trồng; giám sát bảo vệ
và phục hồi rừng; báo cáo quản lý và giảm
thiểu rủi ro; phân chia cà phê theo bao/lô giữa
từng mảnh vườn.
Cấp xã: Các đại lý cấp xã thu mua sản phẩm
cà phê từ các nông hộ/vườn và được truy xuất
từ cấp nông hộ/vườn.
Cấp huyện: Các đại lý cấp huyện thu mua
sản phẩm từ đại lý cấp xã và được truy xuất từ
cấp xã, cấp nông hộ/vườn và có sự quản lý của
cơ quan nhà nước cấp huyện.
Nguyễn Minh Trường (t/h) - TTKN Lâm Đồng
TỔNG QUAN QUY ĐỊNH VỀ SẢN XUẤT KHÔNG GÂY MẤT RỪNG VÀ
SUY THOÁI RỪNG (EUDR), THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
(Xem tiếp trang 13)
SỐ 01/2024SỐ 01/2024