BÀN VỀ CÁC CHỨNG "HƯ HOẢ" CỦA Y HỌC CỔ TRUYN
NHÂN HIỆN TƯỢNG "ĐẦU BỐC KHÓI"
lun về hoả là một nét đặc thù của liệu pháp chỉnh thể
trong việc định hướng điều trị nhiều chứng bệnh mãn tính
những triệu chưng rối loạn khí hoá, rối loạn cơ năng nhằm đạt đến
kết quả chữa bệnh mà không làm suy giảm thêm sức miển dịch của cơ
thể.
Thực, Hàn Nhiệt hai trong sbốn cặp đối ứng hợp thành
bát cương y học cổ truyền phương Đông thường phân tách, quy nạp
trong quá trình chẩn đoán điều trị một căn bệnh. Hàn hay Nhiệt đ
cập đến tính chất nóng hay lạnh của bệnh . hay Thực nói đến tương
quan mạnh yếu giữa chính khí và khí. chính khí không đầy đủ.
Thực khí ra. hay Thực là yếu tố quan trọng để giúp người
thầy thuốc xác định hướng cha hoặc thoặc bổ hoặc vừa công vừa bổ.
Bệnh Thực là bệnh do yếu tố y bệnh từ ngoài vào hoặc yếu tố dư ra
cần phải tđi (Thực tắc t). Ngược lại, chứng do thể chỗ
yếu cần được bồi bthêm vào (tắc bổ). Điều khó hiểu đối với
người "ngoại đạo" là đôi khi sự kết hợp giữa hai cặp đối ứng trên lại đưa
đến một kết quả k mơ hồ. Đó những trường hợp Nhiệt,
Hoả. Nhiệt là Nhiệt, Hoả là Hoả, sao lại Hư, chẳng lẻ đó lại không
phải là Hoả?
Hư Hoả là gì?
Theo Y học c truyền, bệnh tật xảy ra là do có sự chênh lệch thái
quá giữa hai yếu tố Âm ơng trong thể. Có th là Âm thiên
thắng hoặc Dương thiên thắng. Tuy nhiên, trong thực tế, "Khí Dương
thường thừa mà khí Âm thường thiếu". Âm không đủ hay Âm có
thdo tiên thiên, do phòng lao quá độ hoặc qcăng thẳng, lo âu trong
cuộc sống. Tính của Hoả là bốc lên. Bình thường khi Âm Dương cân
bằng, Dương được Âm gìn giữ. Trái lại khi Âm thiếu, Âm không liểm
được Dương th gây ra các chứng trạng mà Y học cổ truyền gọi
chung Âm Hoả vượng hoặc còn gọi là Hư Hoả như hay nóng sốt
v chiều, mờ mắt, mắt đỏ, kcổ, ù tai, hay l miệng, viêm họng, viêm
xoang mãn... Đặc trưng của những chứng Ho là nóng sốt không
liên tục mà sốt cơn. Những cơn sốt nầy thường phát sinh hoăc tăng
nặng tương ứng với những thi điểm sự rối loạn của bức xạ mặt trời,
nhng thời điểm bốc lên của địa khí hoặc những lúc mà tinh thần người
bệnh căng thẳng, lo âu. Riêng n giới, những cơn bốc hoả cũng d
xảy ra vào những thời điểm rối loạn chu kỳ sinh , những lúc hành kinh
hoặc giai đoạn tiền mãn kinh. Trong giai đoạn đầu, những chứng
Hoả thường không gây ra những tổn thương thực thể mà chỉ là nhưng rối
loạn khoá. Khi cơn sốt qua đi, người bệnh trở lại bình thường như
không bệnh. Tuy nhiên khi án mạch, những người âm thường
biểu hiện mạch ch trái lực hoặc tế, sác. Những cơn bốc hoả của
nhng phụ nsắp đến tui mãn kinh, những trường hợp mặt và hai
ửng hồng kèm theo huyết áp tăng của những người cao tuổi vào những
lúc sau xế trưa là những thí dụ thường gặp về Hư Hoả.
Mấy ngày gần đây báo chí có đề cập đến trường hợp một nữ sinh
lớp 9 Nam Định triệu chứng đầu "bốc khói". m theo hiện tượng
"bốc khói" là cảm giác nóng đầu sau đó nhức đầu. Hiện tương
nầy xảy ra nhiều lần, mỗi lần kéo dài tvài phút đến 10, 15 phút. Tuy
nhiên qua chẩn khám Bệnh viện Nhi Trung ương, các Bác cho biết
không m thy bất cử tổn thương gì. Thân nhiệt bình thường, huyết áp
không tăng... Tđộ tuổi, giới tính, cơn bốc hoả lúc lúc không nên
ta có thể cho rằng đây là một dạng Hư Hoả.
Điều trị Hư Ho
Nếu đã xác định Hư Hoả thì phép chữa chyếu phải là b
âm.Tuy nhiên phải bổ âm như thế nào?
Nói đến Hoả người ta khuynh hướng nghĩ đến những chứng
Hoả cần phải thanh trừ, cần được tả đi. Ở đây, Hư Ho lại là cái Hoả lúc
lúc không, hư hư, thực thực. không phải là Hora một
thành phần của bản thể cần phải được gìn giử. Tập Huyền Tẩn của Hải
Thượng Lãn Ông viết "chân Ho khí nóng trong thân người, h
vcho thân thể, nếu kém thì bệnh mà mất đi thời chết". Do đó không
thể dùng thuốc hàn lương để thanh Hoả, cũng không thể dùng thuốc phát
tán đđuổi Hoả. Cha Hoả phải dùng cách "tòng trị", nương theo
tính của Hoả để dẫn nó về chổ cũ, thường gọi là "dẫn Hoả quy nguyên".
Nương theo tính của Hoả là ng một vị thuốc nóng đdẩn dụ Hoả về
nơi an trú. Vị thuốc nóng ấm thêm vào thang âm dược còn l khí âm
phải nương theo khí dương n.Nếu chỉ bổ riêng cho khí âm shại
đến khí của dạ dầy sẽ ảnh hưởng đến chức năng sinh hoá của hậu thiên.
Nếu lưu ý cng ta có ththấy hầu hết các phương bổ âm giáng Hoả
Hải Thương Lãn Ông dùng như Bâm thanh giả nhiệt phương, Bổ
âm tiếp dương phương, Bảo âm phương, Bổ tỳ âm tiển . . . đều có kèm
theo một vài vthuốc nhiệt như Phụ tử, Nhục quế hoặc Can khương.
Trên lâm sàng, những trường hợp âm kéo dài thể kèm theo nhiều
tạp chướng khác nhau, hư thực lẫn lộn. Phép chữa cần phân biệt tiêu
hay bản, hoản hay cấp, tu trung vẫn là giữ vững thuỷ hoả, cân bằng âm
dương quan m đến khí hoá của tỳ vị để không làm suy giảm sức
miễn dịch của cơ thể.
Trlại trường hợp em nsinh "bốc khói". Nếu dùng thuốc hàn
lương để thanh Hoả có thể làm trệ Tỳ. "Tỳ năng sinh huyết", nếu Tỳ trệ
thuốc sẽ khó được chuyển hoá, ăn ung cũng kém đi sẽ không sinh được
âm huyết. Nếu dùng thuốc phát tán mạnh để trị nhức đầu hoặc đuổi Hoả
thể làm hao kiệt chân khí. Hai cách nầy không chữa được hư hoả mà
lại thể làm trầm trọng thêm smất quân bình Âm Dương hoặc làm
giảm bớt sức kháng bệnh. Đổi lại, chỉ cần bâm. Khi âm đủ sẽ giữ
được dương, Hoả sẽ tự yên vị.
Đông y rất nhiều cổ phương có tác dụng bổ âm hoặc dưỡng
âm. Thông dụng nhất phương Lc vị hoàn. Lục vị gồm 6 vị thuốc
Thục địa, Hoài n, Sơn thù du, Mẫu đơn bì, Trạch tả và Bạch phục
linh. Người xưa câu "Lảo nhi bất ly Lục v" với hàm ý khi điều trị
cho người già tr em cần quan tâm đến dưỡng âm. Trong những
trường hợp Hoả đang bốc lên, các thầy thuốc thường thêm vào
nhng vị thuốc để dẫn Hoả trở xuống như Ngưu tất hoặc để liểm Hoả
như Ng vị tử. Ngoài ra, vẫn phải lưu ý đến Vị khí để bảo đảm sự
chuyn hoá của hậu thiên.
Điều trị không dùng thuốc
Hoả là những chứng rối loạn khí hoá, rối loạn năng. Do
đó những yếu tố tâm , cảm xúc tác động rất lớn đến căn bệnh. S
căng thắng, sự tức giận thể kích hoạt hoặc làm nặng thêm những cơn
bốc hoả. Ngược lại, "thần nh tất âm sinh", các phương pháp dưỡng
sinh, luyện tập thư giãn hoặc kiểm soát cảm xúc để giử cho tâm bình khí
hoà có tác động sinh âm dưỡng âm. Ngoài ra, những bài tập khí
công, Thái cực quyền với nguyên tắc "thượng hạ thực" thường bao
gồm những động tác như xuống tấn, eo lưng hơi thót lại, buông lỏng
phần vai, tập trung khí lực tại Đan điền... đều nhằm làm cho khí trầm
Đan điền, chính là "dn Hoả quy nguyên" nên những cách đối trị rất
tốt đối với các chứng Hư Hoả.
Riêng trường hợp "bốc khói" của em nsinh lớp 9, ngoài ý nghĩa
Hư Hoả như trên, hiện tượng bốc nóng hy hữu đầu còn làm cho những
nhà khí công nghĩ đến một giả thiết khác. Đó khả năng chơn Hoả
Trường cường đã được kích hoạt và mạch Đốc được khai thông một
mức độ nhất định. Chính sức nóng của chơn Hoả tTrường cường theo
mạch Đốc đi lên khai thông cBách hội đã tạo ra hiệu ứng nóng và
trường khí nhân thể toả ra khỏi đầu như một màn sương trông giống như
khói. Trường hợp nầy nếu khéo vận dụng sẽ là một hữu ích không nhỏ
cho việc duy trì sức khoẻ và phát triển tâm linh sau nầy. Cách vận dụng
thtuần tự bao gồm các bước 1) Chuyển hoả tBách hội ngược theo
mạch Đốc trở lại Trường cường; 2) Khai mở Huyệt Hội âm và khai
thông mạch Nhâm đquân bình vi chơn Hoả và mạch Đốc. 3) Hình
thành một vòng vận khí từ Đan điền xuống Trường cường qua Hội âm
trlại Đan đin để ổn định chơn Hoả hạ tiêu. 4) Nối liền hai mạch
Nhâm Đốc từ Bách hội theo mạch Nhâm xuống Đan điền qua Trường
cường đi lên theo mạch Đốc trở lại Bách hội. Khi hai mạch Nhâm Đốc
được thông suốt luân lưu thành một vòng tuần hoàn khép n thường
gọi là vòng Tiểu châu thiên stác dụng điều hâm dương tăng
cường chân khí cho việc chữa bệnh hoặc dưỡng sinh.
Đối với các chứng hoả, cũng như với hầu hết những triêu chng
rối loạn khí hoá khác, liệu pháp khí công có ưu điểm là tái lập tình trng
khí hoá bình thường một cách nhanh chóng mà không sxảy ra những
phản ứng phụ.