KIỀU THU HOẠCH - v ấn đ ề b ảo tồn và p h á t huy...

34

VấN Đ€ BẢO TỔN

VA PHÁT HUY DI SẢN

VÃN h ọ c Há n Nô m

THftNG LONG - HÃ NỘI

đánh giá tác phẩm. Yếu tô cơ bản để xem xét giá trị của tác phẩm, chủ yêu vẫn là ở nội dung phản ánh của nó. Và đương nhiên do cách tiếp cận theo loại hình tác phẩm nhu thế, nên có những tác gia dù quê gốc ở Thăng Long - Hà Nội, nhưng lại không viết về mảnh đất mình sinh sống, thì tác phẩm của họ cũng không phải là đối tượng khảo sát của chuyên đề vê tác phẩm văn học.

KIỀU THU HOẠCH

i sản Hán Nôm Tháng Long - Hà Nội nói chung bao gồm các vàn bản khắc in hoặc văn bản chép tay, và các bản rập văn bia, phản ánh hiện thực lịch sử của vùng đất này, từ thời Lý đến thời Nguyễn.

Để khỏi trùng lặp với các báo cáo chuyên đề của các nhánh đề tài khác, chúng tôi chủ trương giới thiệu Di sản Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội theo 5 loại hình tác phẩm:

1. Loại hình tác phẩm văn học

2. Loại hình tác phẩm địa chí

3. Loại hình tác phẩm thần tích, thần phả

4. Loại hình tác phẩm hương ước

5. Loại hình tác phẩm văn bia.

I. T ìn h h ìn h v à g iá trị lo ạ i h ìn h tá c

p h ẩm v ă n h ọc

Sau đây, chúng tôi xin trình bày về loại h ìn h tác p h ẩ m v ă n học H á n N ôm T h ă n g Long - Hà Nội. Di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội lấy tác phẩm vãn học làm đơn vị khảo sát, và sẽ được trình bày theo hai phần: Thơ và văn xuôi.

Như vậy, một tác phẩm vãn học viết về Thăng Long - Hà Nội, thì bất kể tác giả của nó là ai, sống ỏ đâu, quê quán ở đâu, cũng không phải là điều quan trọng để nhận xét, Một vấn đề nữa cũng cần được nói rõ, đó là chuyên đê về tác phẩm văn học không phải là viết về văn học sử, nên không nhất thiêt trình bày tác gia, tác phẩm theo lôi phân kỳ của văn học sử. Phân kỳ văn học sử vón là vân đề phức tạp, thường gây tranh cãi trong giói khoa học lâu nay, đặc biệt là ở việc phân định các giai đoạn / thời kỳ ngắn như thời Lý - Trần, thời Lê... với những tính chất, đặc điểm riêng. Tuy nhiên, trong thực tê lịch sử, thì các tác phẩm văn học Hán Nôm đều là sản phẩm của những con người sinh ra trong xã hội phong kiến, mà hầu hết đểu có quan hệ với các triều đại phong kiến, thậm chí có người là vua, chúa, quan lại của triều đình phong kiến... Do đó, chúng tôi nhận thấy, trong báo cáo chuyên để, việc giói thiệu các tác phẩm theo lịch đại, tức là theo thứ tự biên niên của các triều đại phong kiến là hợp lý và thuận tiện hơn cả. 0 đây, một lần nữa, chúng tôi xin được nhắc lại, vấn đề trình bày tác phẩm theo lịch đại của các triều đại phong kiến chỉ đơn thuẩn là theo trậ t tự thời gian, chứ không liên quan gì đến tính chất, đặc điểm của các thời kỳ văn học sử, và do đó, đương nhiên những nhận xét đánh giá của chuyên luận hoàn toàn không phải như đánh giá, nhận xét của một công trình văn học sử - có nghĩa là không nhất thiết phải trình bày đầy đủ về tiểu sử tác giả, về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm, vê những u'u khuyêt điểm của tác phẩm cũng như vê vai

TCVHDG SỐ 1/2007 - NGHIÊN c ứ u TRAO Đ ổl

35

trò và vị thế của tác phẩm trong lịch sử văn học v.v. và v.v...

1. P h ầ n th ơ p h ú

Thời Trần còn một sô" bài thơ tả cảnh đẹp của các chùa tháp ở Thăng Long, song không chỉ là thơ tả cảnh đơn thuần. Như bài Báo Thiên tự tháp (Tháp chùa Báo Thiên) của Phạm Sư Mạnh, ngoài tả cảnh tháp còn như vang vọng cả cái hào khí của đời Trần quyết giữ vững đất đế đô, giữ vững non sông đất nước.

Di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội hiện còn được bắt đầu từ thời Lý, với tác phẩm Chiếu dời đô của Lý Công u ẩ n (1010). Thực ra, đây là tác phẩm văn xuôi, viết theo lối biền văn (tức lôi văn có những câu đối nhau, lại là thể loại văn học chức năng nhưng do tầm quan trọng của tác phẩm, nên chúng tôi xếp lên đầu như một biệt lệ/ngoại lệ. Đây là một áng văn chương trác tuyệt có giá trị như một bản tuyên ngôn "mở nước" có ý nghĩa lịch sử quan trọng.

Bài Diên Hựu tự (Chùa Diên Hựu, còn gọi chùa Một Cột) của sư Huyền Quang, thì lại là bài thơ Thiên tuyệt hay. Có thể nói đây là bài thơ Thiền hay nhất trong các bài thơ Thiền Việt Nam. Cùng loại thơ tả cảnh chùa còn có bài Báo An tự (Chùa Báo An) của Trần Nghệ Tông (1322 - 1395). Nhưng bài thơ có tính giáo huấn hơn là thơ Thiền.

Thời Trần có tác phẩm Tụng giá hoàn kinh sư (Theo xa giá trỏ' về kinh đô) của Trần Quang Khải (1241 - 1294):

Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quăn thù Thái bình nên gắng sức Non nước.ấy nghìn thu.

Đó là một sô" bài thơ ít ỏi còn sót lại của thời Lý - Trần viết về Thăng Long - Hà Nội, dẫu ít nhưng rất quý, vì đó là những viên đá tảng đặt nền móng cho cả một chặng đường thơ ca ngót một ngàn năm lịch sử viết về Thăng Long - Hà Nội. (Lời dịch)

Bài thơ ca ngợi hai trận chiến thắng lổn của quân dân đời Trần ở bến Chương Dương và cửa Hàm Tử, đồng thời cũng thể hiện khí phách hào hùng của dân tộc ta lúc bấy giờ.

Di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội, xét về m ặt sô" lượng và cả châ"t lượng, thì phải kể từ thòi Lê đến thời Nguyễn mối thực sự phong phú, đa dạng. Trước hết là những bài thơ viết về Thăng Long, nằm trong các thi tập của một sô" tác gia khoảng từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Đó là chùm thơ Du Tây Hồ bát cảnh (Vịnh tám cảnh chơi Hồ Tây) của Nguyễn Mộng Tuân, đậu Thái học sinh (Tiến sĩ) cùng khoa Canh Thìn (1400) vởi Nguyễn Trãi. Thơ tả cảnh của Mộng Tuân bài nào cũng đẹp như tranh vẽ. Cùng dòng thơ vịnh cảnh, còn có Tây Hồ xuân oán, Tràng

KIỂU THU HOẠCH - Vân đ ề bảo tổn và p h á t huy...

36

Hướng bốn phương cùng họp đăt này, giữa chưng thiên hạ;

Hoà mọi chốn đều làm đô đấy, ngăn được th ế hình.

An xuân mộ... của Thái Thuận, Tiên sĩ thời Lê Hồng Đức thứ 6 (1475). Nhưng thơ của tác giả này dường như không nhằm vịnh cảnh, mà cảnh chỉ là cái cố đê nhà thơ bộc lộ tâm sự riêng tư. Chẳng hạn như bài Tây Hồ xuân oán là một thí dụ:

Đêm đêm gió rét trăng tà Gió xuân thổi đến biết là về đâu Mày ngài má đỏ phai màu Hoa đồng cỏ nội ai hầu đoái trông.

(Lời dịch)

Cùng đề tài ca tụng cảnh sắc kinh thành Thăng Long, còn có Tứ thời khúc vịnh (Thơ vịnh bôn mùa) của Hoàng Sĩ Khải, đậu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1544). Đây là khúc ca Nôm đầu tiên dùng thê song thất lục bát, vừa ngợi ca cảnh sắc bôn mùa ở kinh thành vừa ngợi ca triều đình Lê - Trịnh đương thời.

Sau mấy bài thơ chữ Hán vịnh cảnh Thăng Long ở thế kỷ XV, đáng quý hơn cả là những tác phẩm thơ Nôm ở thế kỷ XVI, XVII viết về mùa xuân cùng một số di tích văn hoá - lịch sử ở kinh thành như: Phụng thành xuân săc phú, Tứ thời, khúc vịnh, Vịnh Nam Giao thi, Vịnh Văn Miếu thi, Khán Sơn tự thi, Chân Vũ quán thi. Đáng chú ý là mấy bài thơ Nôm vịnh các danh tích ở Thăng Long của chúa Trịnh Căn (1633 - 1709) như các bài Thơ vịnh Văn Miếu, Thơ vịnh chùa Khán Sơn... đều có thêm lời Dẫn bằng chữ Hán, do đó, đã giúp người đọc hiểu rõ hơn vị trí địa lý cụ thể của các di tích lịch sử ở kinh thành.

Từ thê kỷ XVIII trở đi, nét nổi bật của các tác phẩm thơ viết về Thăng Long là sự xuất hiện đồng loạt của các tập thơ chuyên đề - nghĩa là cả tập thơ đều là các bài vịnh cảnh Thăng Long. Chẳng hạn, có thể kể đến các thi tập như:

Phụng thành xuân sắc phú (Sắc xuân ở thành Phụng, tức thành Thăng Long) của Trạng Me Nguyễn Giản Thanh (1480) là hài phú Nôm cổ còn giữ được văn bản đến nay. Bài phú ca ngợi cảnh xuân ở kinh thành Thăng Long, đồng thời cũng hàm ý ca tụng chế độ đương thời, đôi chỗ lại phảng phất những ý tưởng trong Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ. Chúng ta hãy thử đọc một đoạn: - La Thành cỏ tích vịnh của Trần Bá Lãm (1757 - 1815), soạn năm Mậu Thân (1788) niên hiệu Lê Chiêu Thông; Trời đượm khí xuân, sắc tươi tốt - Thăng Long tam thập vịnh của Trần Thước Sào, tác giả thời Nguyễn; khăp hoà th ế giới; Nước mừng thịnh trị, thè vững vàng

chống cột thần kinh

- Thăng Long tam thập vịnh của Đoàn Nguyễn Tuấn, nhà thơ nổi tiếng thời Tây Sơn;

- Thăng Long tam thập vịnh của Huyện doãn Nam Xương;

- Thăng Long tam thập vịnh, khuyết Nhớ xưa, Cõi giữ bang trung Đứĩig trên thượng quốc Đính Tản Sơn hùm chiếm tây nam. Dòng Nhị Thuỷ rồng chầu đông bắc Nghìn dặm giang sơn đặt hiểm, tượng danh; đã có danh, - Thăng Long tam. thập vịnh, cũng Bốn mùa cảnh vật đểu xuân, hoa càng khuyết danh. thêm sắc...

TCVHDG SỐ 1/2007 - NGHIÊN c ứ u TRAO Đ ổl

37

Cũng lấy số lượng bài thơ làm tên gọi còn có các tập:

- Thăng Long thập cửu vịnh của Phạm

Đình Hổ (1768 - 1839);

- Thăng Long thành hoài cổ thập tứ thủ

của Vũ Tông Phan (1804 - 1862);

hồn thi nhân. Có cảm hứng hoài cổ kiểu "Lô'i xưa xe ngựa hồn thu thảo / Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương" {Thăng Long thành hoài cổ của Bà huyện Thanh Quan). Tuy nhiên, đây không phải là cảm hứng hoài cổ của riêng Bà huyện Thanh Quan. Ngay cả một nhà thơ ngang tàng khí phách như Cao Bá Quát, mà khi qua cố cung nhà Lê củng không khỏi chạnh buồn: - Long Biên bách nhị vịnh gồm 102 bài thơ của Bùi Cơ Túc, th ế kỷ XIX, có Tựa để niên hiệu Thiệu Trị (1844).

Cờ giong lỏi ngự này nơi cũ Cỏ áy đàn Giao mặc gió thu Việc cũ trăm năm thương bóng xê Lòng trần một điếm thoảng chuông đưa...

(Trích dịch Cao Bá Quát: Qua chùa Thiên Quang cảm thương cung điện cũ nhà Lê)

Ngoài những tập thơ mang tên gọi của kinh thành như Thăng Long, Long Biên, còn có những bài thơ viết về các thắng cảnh, các di tích của Thăng Long - Hà Nội tuy chỉ là một số bài đơn lẻ, chưa được tập trung thành một thi tập, nhưng lại đêu là những bài của các nhà thơ, các nhân vật có tên tuổi, như: Ngô Thì Sĩ, Phạm Quý Thích, Nguyễn Du, Tùng Thiện Vương, Nguyễn Công Trứ, Trịnh Sâm, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyên, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan... Có thể nói, hầu hết các nhà thơ lởn đều ít nhiều có thơ về Thăng Long - Hà Nội và đều là những bài thơ hay. Đặc biệt, những cảnh đẹp của kinh thành Thăng Long không chỉ là đề tài ngâm vịnh của các nhà thơ trong nước, mà còn là đê tài có sức hấp dẫn đốì vói cả các nhà thơ nước ngoài. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ, thì vào khoảng dầu niên hiệu Càn Long (1736) đời Thanh Cao Tông, một người hay thơ có tên Ngụy Tiếp, người Phúc Kiến, từng theo thuyền buôn tới Kinh thành Thăng Long, sau khi du ngoạn các cảnh dẹp ở đây, đã xúc cảm làm một bài phú tả cảnh chơi sông Nhị Hà, và một chùm thơ tám bài vơi nhan đê An Nam kinh đô bát cảnh (Tám cảnh đẹp ở kinh đô nưốc Nam).

Cảm hứng hoài cổ có lẽ là cảm quan thẩm mỹ chung của nhiêu thi nhân khi viết về Thăng Long - Hà Nội. Song nói như vậy không có nghĩa là thơ viết về cô' đô Thăng Long chỉ toàn một giọng u buồn. Trong khoảng gần 400 bài hiện còn, cho thấy có khá nhiều tứ thơ, có khá nhiều cảm hứng khác nhau: Có tình yêu sâu nặng với non nước kinh thành; có cảm hứng tự hào dân tộc, ca ngợi các chiến công lịch sử (như các bài viết vê đền Bô' Cái, về miêu Hai Bà Trưng, vê đền Bạch Mã...); có những lời đẹp tôn vinh làng nghê (các bài Ruộng hoa Võng Thị, Khói phủ Bát Tràng...); có những ngôn từ bay bổng mô tả cảnh tượng phồn hoa, tráng lệ của chôn dế đô (các bài Chơi chợ Bạch Mã, Ca nữ Hoè Nhai...) còn nói về tả cảnh, thì điều đặc biệt thú vị là hầu như không có nhà thơ nào mà lại không có thơ ngâm vịnh Hồ Tây. Và trong hơn 20 bài tả cảnh Hồ Tây, đọc bài nào cũng thấv hay, thấy đẹp tuyệt vời. Trong đó, chùm thơ Du Tây hồ bát tuyệt của Cao Bá Quát, bài phú Nôm Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng, bài Vịnh Tây Hồ đầy chất tài hoa lãng tử Nội dung các bài thơ dĩ nhiên mỗi bài mỗi vẻ. song nhìn chung, các tác phẩm thơ ca ở đây không chỉ tả cảnh, mà còn tả tình, còn chứa chan những cảm hứng của tâm

KIỂU THU HOẠCH - v ấ n đ ề bảo tồn và p h á t huy...

38

của Nguyễn Công Trứ... có thể coi là những tác phẩm bất hủ, trường tồn.

Đây là tập ký sự có khuynh hướng ghi chép người thực việc thực. Truyện kể về các nhân vật ở Thăng Long, trong đó có mấy nhân vật tiêu biểu như vua Trần Nghệ Tông, nhà giáo Chu Văn An, thầy thuốc Phạm Bân. Đó là những nội dung cơ bản/ chủ yếu được phản ánh qua các tác phẩm thơ phú viết về Thăng Long - Hà Nội.

2. Phần văn xuôi

So với phần thơ ca / phần văn vần, các tác phẩm văn xuôi tự sự viết về Thăng Long - Hà Nội không phong phú bằng, cũng không có tác phẩm nào chuyên ghi chép vê Thăng Long - Hà Nội. Tuy nhiên, do đặc trưng thể loại, nên nội dung phản ánh hiện thực dường như lại có phần sâu rộng và đa dạng hơn các tác phẩm văn vần.

Tiếp theo Nam Ông mộng lục là mấy tập truyện thuộc loại truyền kỳ như Truyền kỳ mạn lục, c ổ quái bốc sư truyện, Truyền kỳ tân phả... Trong sô' này, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, bài Tựa đề năm 1547 đời Mạc được coi là tập truyện ngắn có giá trị bậc nhất. Trong đó, đáng chú ý là một số truyện được xây dựng từ bối cảnh xã hội - lịch sử của phô' phường Thăng Long, phản ánh được những nét riêng của vùng đất đô thành như: "Chuyên kỳ ngộ ở trại Tây", "Chuyên nghiệp oan của Đào Thị", "Chuyện nàng Tuý Tiêu"... Đây là những truyện viết về tình yêu đôi lứa, theo môtip tài tử giai nhân, phản ánh tiếng nói tiến bộ, dân chủ, ca ngợi hôn nhân tự do.

Sau nhóm truyện truyền kỳ là nhóm truyện ký với hàng loạt các tác phẩm nhu Công dư tiệp ký, Thượng kinh ký sự, Lan Trì kiến văn lục, Vũ trung tuỳ bút, Châu phong tạp thảo, Tang thương ngẫu lục, Sơn cư tạp thuật. Nhóm truyện ký có nhiều truyện ghi chép về người thực việc thực ở Kinh thành Thăng Long, song cũng có nhửng truyện chỉ là ghi lại theo nguồn truyện kê dân gian được lưu truyền ở nội ngoại thành.

Tác phẩm sớm nhất là Việt điện u linh tập của Lý Tê Xuyên, soạn khoảng đầu thê kỷ XIV, thời Trần Hiến Tông. Việt điện u linh tập chủ yếu ghi chép truyền thuyết và thần tích vê các linh thần được thờ phụng ở các đền miếu tại kinh đô Thăng Long và các vùng phụ cận. Trong đó có chép những chuyên kể dân gian về Từ Đạo Hạnh, về Lý Thường Kiệt, Lý ông Trọng, Lý Hoảng, vể Thần sông Tô Lịch, vê Mục Thận... Tiếp đó, có thể kê đến Lĩnh Nam chích quái cũng là sách chép nhiều truyện dân gian thời cố và thời Lý - Trần. Riêng những truyện về các nhân vật ở kinh thành Thăng Long, có một số truyện cũng đã thấy ở Việt điện u linh tập. Riêng truyện "Hà 0 Lôi" là một truyện rất lý thú, nói vê môi quan hệ nhục dục giữa n à n g q u ậ n c h ú a goá b ụ a đời T rầ n D ụ T ông vởi tên gia nô xấu xí Hả Ô Lôi. Đây là một truyện hiếm thấy trong các văn bản cổ, đồng thời cùng là một truyện đã thu hút sự chú ý của giói nghiên cứu folklore trong ngoài nước.

Sau hai tập truyện dân gian vừa nêu là tập ký sự lịch sử Nam Ông mộng lục, bài Tựa đê năm 1438 của Hồ Nguyên Trừng. Ngoài các tác phẩm tự sự văn xuôi ngắn như đã trình bày, còn có một tác phẩm tự sự văn xuôi dài, phản ánh nhiêu mặt của hiện thực lịch sử Thăng Long thời Lê mạt, đó là bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí, của các tác giả họ Ngô Thì, xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Nội dung tác phẩm chủ yếu miêu tả cuộc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiên Đàng Ngoài thòi Lê mạt. đồng

TCVHDG SÓ 1/2007 - NGHIÊN c ứ u TRAO Đ ổ l

39

thời cũng phản ánh khá toàn diện về phong trào Tây Sơn cùng chiến công đại phá quân Thanh. Song đây cũng là tác phẩm phản ánh nhiều mặt của Kinh thành Thăng Long đương thời: Cảnh sinh hoạt trong cung đình, cảnh sông của dân chúng thời chiến loạn ở phô' phường, cảnh đám cưới Ngọc Hân, cảnh kiêu binh nôi loạn, cảnh quân Tây Sơn đánh đuổi quân Thanh ra khỏi kinh thành Thăng Long... Có thê coi Hoàng Lẽ nhất thống chí như là tác phẩm đã cắm một cái môc quan trọng đê khép lại dòng tự sự văn xuôi viết về Thăng Long. Bởi sau tác phẩm này, dường như không còn tác phẩm nào viết về hiện thực lịch sử của kinh thành phong phú, đa dạng, sông động và sâu sắc như vậy.

II. M ột sô p h ư ơ n g h ư ớ n g v à g iả i p h áp về v iệ c b ảo tồ n , p h á t h u y di sản

vă n h ọc H án N ôm T h ă n g L on g - Hà N ội

Phần trên, chúng tôi đã

sách còn ghi rõ, vào thời kỳ giặc Minh xâm lược nước ta, nhiều thư tịch cổ đã bị chúng hưỷ hoại hoặc cướp vê nước, trong đó đương nhiên có cả những tác phẩm văn học Hán Nôm Thăng Long. Đó là một tổn thất lớn. Do đó những gì còn lại, chúng ta lại càng phải trân trọng giữ gìn. Hiện tại, di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội là một phần của di sản Hán Nôm của cả nước nói chưng, và chủ yếu đang được lưu giữ trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Một đặc điểm đáng chú ý là hầu hết các tác phẩm văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội đều nằm xen kẽ với các loại hình tác phẩm Hán Nôm khác. Có thê nói, đây cũng là tình trạng chung của các loại hình di sản Hán Nôm. Đó chính là tính pha tạp, tính không thuần nhất của cấu trúc nội dung của các thư tịch Hán Nôm nói chung. Chẳng hạn, trong Sơn cư tạp thuật (Thuật lại những chuyên linh tinh khi ngụ cư ở Đan Sơn) của một tác giả khuyêt danh, lại có hai mẫu chuyên rất thú vị về Thăng Long, đó là “Chuyên kể về Quốc Tử Giám”, và “Chuyên Hội đổi quan”. Hotặc trong Châu Phong tạp thảo tập, một tác phẩm ký sự của Phạm Đình Hô, cũng có một sô bài ký liên quan đến Thăng Long, trong đó đáng chú ý là một bài ký nói về cuộc đôi diện giữa tác giả với vua Minh Mệnh tại điện c ẩn Chánh trong hoàng thành Thăng Long cũ. Cũng như vậy, trong Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, lại cô chép chùm thơ An Nam kinh đô bát cảnh (Tám cảnh đẹp ở kinh đô nước Nam) của Ngụy Tiếp đời Thanh... Do vậy, nếu chúng ta chỉ tìm đọc những cuốn sách có ghi hai chữ Thăng Long thì chắc chắn sẽ bỏ sót rất nhiều tác phẩm văn học viết vê Thăng Long.

trình bày những nét lởn vổ nội dung và giá trị của các tác phẩm văn học Hán Nôm tiêu biểu viết về Thăng Long - Hà Nội, trong khoảng thời gian mười thê kỷ từ thời Lý đến Nguyễn. Trước khi bàn vê' phương hương và giải pháp báo tồn, chúng tôi muôn nói thêm đôi nét vê lịch sử, hiện trạng và cấu trúc của loại hình văn hoá phi vật thể này. Khác với các di sản văn hoá phi vật thê khác, di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội được lưu giữ trong các văn bản chữ Hán - Nôm chép tay và khắc ván in. Do đó, nó vừa là di sản văn hoá phi vật thể, vừa là di sản văn hoá vật thể. Đây là loại vật thê dễ hư nát, môi mọt nêu không được bào quản tot, ấy là chưa ke khi đất nước có chiến tranh giặc giã, thì sách vở cũng là loại vật thê dễ bị huỷ hoại nhất. ''Giáo mác đầy đường dâu chẳng là giặc Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước đêu trở thành một đống tro tàn" (Ngô Sĩ Liên: Biêu dáng Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1479). sử Từ thực trạng như đã trình bày, việc bảo tồn và phát huy di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội cần được triển khai theo mấy giải pháp như sau:

KIỂU THU HOẠCH - Vân đ ể bảo tồn và p h á t huy...

40

ĐỘNG VẬT TRONG...

(Tiếp theo tra n g 24)

1. Cần sưu tầm, tập hợp các tác phẩm văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội trong nhiều chủng loại thư tịch khác nhau, không chỉ dừng lại ở những cuốn sách có ghi tiêu đề là tác phẩm văn học về Thăng Long - Hà Nội.

2. Cần sốm tập hợp thành những tập chuyên đê về văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội và sao chụp thành nhiều bản đê lưu giữ lâu dài.

không thể hiện. Ngay cả con cá thờ trong đền cũng không mấy ai chú ý. Khi tôi xem lễ hội Rước Vua ở Đông Anh thì thấy quan chủ tê cứ quỳ mọp khi đã xướng "Hưng", phải có người kéo tay ông ta đứng dậy! Khi tôi xem lên đồng ở Phủ Dầy thì tâ't cả các bà tham gia múa đều đã có chồng chứ không phải "đồng" nữa. Cho nên đó chỉ là vũ đạo tôn giáo chứ không phải lên đồng chính hiệu.

3. Tuyển chọn những tác phẩm có giá trị để tiến hành dịch thuật, phiên âm, chú giải, nhằm phổ biến rộng rãi trong nhân dần. Đôi vởi một phần những tác phẩm đã được dịch thì cần rà soát lại vê mặt dịch, chú và nếu cần thì phải hiệu đính lại.

Nói như vậy không đồng nghĩa phủ định 100% nội dung lễ trong lễ hội hiện nay. Vấn đề là phải phân tích các lễ hội hiện hành theo đúng tinh thần thần tích chủ yếu là đúng cốt lõi mà người xưa gọi là hèm, tuyệt đôi bí mật thiêng liêng. Tất nhiên ngày nay cần phải chú trọng đến giá trị giáo dục của lễ hội.

4. Thư viện Hà Nội nên có một kho sách riêng về di sản Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội, trong đó có lưu giữ phần di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội như một ngân hàng tư liệu đặc biệt quý hiếm của vùng đất cố đô.

K ết lu ậ n

Cái phi vật thể phải được vật thể hoá đúng đắn thì mới bảo tồn và phát huy được. Cần có sự can thiệp của nhà nghiên cứu. Nếu đê nó trôi nổi trong dân gian thì nó sẽ tha hoá và chết như thánh Càn thành thánh Gàn!O

N.D.H

SÁCH THAM KHẢO

- Đại Nam nhất thông chi. - Nguyễn Duy Hình (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

- Lĩnh Nam chích quái. - Nguyễn Vinh Phúc (2003), Hồ Hoàn Kiếm

và đền Ngọc Sơn. Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Vinh Phúc (2004), Mặt gương Tây

Hồ, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

- Tây Hồ Chí. ■ Tư liệu điền dã của Nguyễn Duv Hình.

Di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội không chỉ là tài sản quý báu của riêng mảnh đất Kinh kỳ / mảnh đất cố đô, mà còn là tài sản chung vô cùng quý báu của cả nước. Di sản văn học Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội bao gồm nhiều tác phẩm là tinh hoa của văn học dân tộc, là kêt tinh của tinh thần độc lập, tự cường, của hào khí dân tộc, của giá trị nhân văn, của tinh thần yêu nưóc và cách mạng. Do vậy, việc bảo tồn di sản này không chỉ là sưu tẩm, sao chép và cất giữ trong kho sách, mà quan trọng hơn, là phải biến di sản thành những giá trị thẩm mĩ sông động trong đông đảo nhân dân.D

- Lê Trung Vũ chủ biên (2001), Lễ hội.

Thăng Long. Nxb. Hà Nội, Hà Nội.

K.T.H