NGHIÊN CƯU - TRAO ĐỔI
Đ7



MỘT THẾ KỈ SƯU TẦM NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ, VĂN NGHỆ DẪN GIAN
Ở THÁI BÌNH
NGUYÊN THANHỀ)
hái Bình là tỉnh mới được thành lập
vào ngày 21/3/1890 trên cơ sở sáp nhập các vùng đất thuộc tỉnh Nam Định và tỉnh Hưng Yên. Đây là vùng đất giàu tiềm năng về văn hoá, văn nghệ dân gian. Những thành tựu sưu tầm nghiên cứu trong một thế kỉ qua đã khẳng định điều này.
Trước thế kỉ XX, ngoài những tư liệu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình được ghi chép rải rác trong các bộ sử quốc gia như Đại Việt sử bí toàn thư, Đạt Nam nhất thống chí, Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt thông sử, Minh đô sử , Kiến uăn tiểu lục... còn nhiều cuốn sách viết về nhân vật, phong tục, truyền thuyết, nghề thủ công, sản vật... nhưng có lẽ chưa có cuốn sách nào viết riêng về các phủ huyện thuộc vùng đất này mang tính địa chí.
Nếu thống kê những kết quả sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình trong một thế kỉ qua có lẽ phải bát đầu kể đến cuốn sách được viết vào năm 1900 mang tên Thái Bình phong vật chí của Phạm Văn Thụ khi đó làm tri phủ
` Cữ nhân Văn khoa, Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình
Tiên Hưng và sau đó làm Tổng đốc Thái Bình vào những năm 1913 - 1920. Tiếp theo là cuốn sách Các tỉnh của Bắc Kỳ (Lesprovinces du tonkin) của Pat - xkiê viết năm 1901 trong đó có chương viết về Thái Bình. khi tác giả là Phó sứ tỉnh Thái Bình. Tác phẩm này đã được đăng trên tạp chí Đông Dương 6 tháng đầu năm 1904. Trong mấy thập niên đầu thế kỷ, một số học giả người Pháp cũng viết về Thái Bình dưới dạng viết về người nông dân Bắc Kỳ, trong đó thẳng hoặc có để cập đến một số vấn để mang tính địa chí văn hoá dân gian của vùng đất này. Có lẽ đáng chú ý hơn cả là hai tập tài liệu có phần viết riêng về Thái Bình đó là viết về Lịch sử tỉnh Thái Bình của Plegở rốt - xanh xuất bản năm 1998 và phần viết về Địa chí Thái Bình của Giăng - Ca - ta - la xuất bản năm 1934.
Những thập kỷ đầu của thế kỉ XX, một số tác giả người Việt đã có những cuốn sách viết về Thái Bình, đáng chú ý là cuốn sách Thái Bình phong uật chí của Phạm Văn Thụ viết bằng chữ Hán như đã kể trên. Cuốn sách đã đề cập đến các vấn đề về địa danh, phong tục, nhân vật, cổ tích và di văn, chỉnh chiến, sông ngòi, đường xá, cầu cống, chợ, kĩ nghệ, thổ sản... Tuy tư liệu chưa thật phong phú và một số tư liệu chưa thật chuẩn xác nhưng cách ngày nay tròn một thế kỉ có thể coi đây là một công trình sưu tập nghiên cứu, văn hoá văn nghệ dân gian đầu tiên chuyên về một tỉnh đáng được trân trọng. Hơn ba thập kỉ sau, Dương Thiệu Tường đã hoàn thành cuốn sách Tỉnh Thái Bình viết bằng tiếng Pháp dày đặn hơn. Cuốn sách gồm bảy chương trong đó chương ba đề cập đến phong tục và một số vấn đề về văn nghệ dân gian.Ngoài ra còn cần phải D8
NGUYÊN THANH

kể đến những tác phẩm được viết bằng chữ Hán đề cập đến các lĩnh vực văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình như Thái Bình phong uật phú của Dương Quảng Hàm hoặc các sách viết từng phủ huyện của Thái Bình như Tiên Hưng phú chí của Phạm Nguyên Hợp, Quỳnh Côi dự địa chí của Ngô Vĩ Liễn và các bài báo được đăng tải thành nhiều kì trên Nam Phong như Thuy Anh du bí của Đặng xuân Viện, Thái Bình hí sự ngâm hhúc của Nguyễn Tiến Từ, Hưng nhân kí sự của Nguyễn Văn Đào...
Một bộ phận đáng kể sách. báo. tài liệu có liên quan tới việc ghi chép các lĩnh vực văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình viết bằng tiếng Hán hoặc tiếng Pháp chưa được xuất bản hoặc chưa được địch. Trong số này có tác phẩm được sưu tầm đưa vào các kho lưu trữ, các thư viện ở Trung ương hoặc địa phương, một số tác phẩm khác chỉ mới được nghe nhắc đến trong tình trạng “Văn kì thanh bất biến kì hình”. Một phần vì những lí do trên nên việc phác hoạ quang cảnh chung về thành tựu sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình trước Cách mạng Tháng 8/1945 cũng là những xới xáo, gợi mở cần thiết cho những người làm công tác này ở những thập kỉ tiếp theo đó tham khảo để tiếp cận ngày một khách quan hơn, đầy đủ hơn.
Sau Cách mạng Tháng 8/1945 do tập trung vào kháng chiến nên những công trình nghiên cứu về Thái Bình nói chung thưa vắng.Trong 9 năm kháng chiến chống pháp, công tác sưu tầm văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình có thể kể đến các gánh chèo, các đội văn nghệ ở vùng giải phóng sưu tầm diễn lại các tích chèo, tuông cổ vốn từng được các gánh
chèo, tuồng duy trì trong nửa đầu thế kỉ XX. Hoạt động này tiếp tục được duy trì vào những thập kỷ 50 - 60. Cũng từ những năm đầu thập kỷ 60 trở về sau, việc sưu tầm nghiên cứu các loại hình văn hoá, văn nghệ dân gian được tiến hành từng đợt, chủ yếu do các cơ quan nghiên cứu ở trung ương tổ chức triển khai. Có thể kể đến các hoạt động như Ban nghiên cứu chèo Trung trơng mời các nghệ nhân chèo Nguyễn Mầm, Nguyễn Tích, Phạm Văn Điền, Cao Kim Trạch, Đào Thị Na... lên giảng dạy truyền nghề và thu băng ghi âm lại một số làn điệu chèo cổ. Đồng thời với việc sưu tầm, khai thác vốn chèo cổ là các hoạt động sưu tầm nghiên cứu về nghệ thuật múa rối nước, nghê thuật kiến trúc và lễ hội chùa Keo và các đợt sưu tầm ca đao, tục ngữ, văn học dân gian của thầy và trò khoa Văn hai trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Về lực lượng sưu tầm, nghiên cứu văn hoá văn nghệ dân gian ở Thái Bình trong thập kỷ 60 tuy chưa thật tập trung nhưng cần phải kể đến việc sưu tầm thơ ca hò vè kháng chiến chống Pháp của các ông Giang Đức Tuệ, Bùi Thọ Ty, Lê Nhữ Tiếp. Bút Ngữ, Nắng Hồng và một số cán bộ của ngành văn hoá thông tin Thái Bình. Cũng cần phải kể đến việc sưu tâm giới thiệu một số loại hình diễn xướng dân gian như chèo, tuông ca trù dưới dạng những bài báo ngắn của các tác giả Thanh Long, Hồng Dương, Hà Văn Cầu...
Nhìn chung, trong thập kỷ 60 việc sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình chủ yếu do các nhà nghiên cứu chuyên ngành ở Trung ương về khai thác và công bố rải rác trên các báo cáo, tạp chí chuyên ngành ở Trung ương. Lực lượng sưu tầm nghiên cứu ở địa phương hoạt động theo tính tự phát, NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
59
—_—_—_ Ặ ____________£ÈẼ£Ẽễ£ễẼễ£ễ£ÔÓÔÐBv/©© ..
chưa thành chủ trương, chưa có sự đầu tư nhiều của các ngành hữu quan.
Công tác sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình thực sự được chú trọng và thu được nhiều hiệu quả là ở ba thập kỷ cuối thế kỷ XX, nói cho chính xác hơn là từ cuối thập kỉ 70 trở đi. Sở Văn hoá Thông tin (thời kỳ này là Ty VHTT) có biên chế cán bộ nghiên cứu. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh có bộ phận nghiên cứu lịch sử nhân dân. Cả hai bộ phận này được cấp kinh phí sưu tầm, nghiên cứu. Ngoài nỗ lực hoạt động của lực lượng cán bộ biên chế ở hai bộ phận trên phải kể đến những hoạt động cần mẫn tận tụy của các cộng tác viên cao tuổi như các cụ Phạm Tuyển, Dương Quảng Châu, Vũ Đình Ngạn, Nguyễn Tiến Đoàn và nhiều bậc cao niên ham thích công tác sưu tâm nghiên cứu như các cụ Giang Đức Tuệ, Bùi Thọ Ty, Nguyễn Đình Giốc ...
Trong khoảng hơn 10 năm, một khối lượng đồ sô tư liệu điền đã được thu gom, gồm các lĩnh vực về nhân vật, phong tục, nghề thủ công truyền thống, thơ văn yêu nước chống Pháp, văn học dân gian, thần tích, sắc phong, gia phả... Một bộ phận tư liệu trong số này đã được thẩm định, nghiên cứu, bổ sung để xuất bản thành sách trong những thập ký 80 - 90 như Văn học dân gian Thái Bình (tập 1) Eỳ Đồng tiểu sử uà thơ uăn, Trạng nghè ở Thái Bình, Giai thoại 0uăn chương Thái Bình (tập 1), Thơ uăn yêu nước chống Pháp ở Thái Bình, Chùa Keo, Hội lễ dân gian ở Thái Bình... một số tư liệu sưu tầm ở thời kỳ này đã được sử dụng nghiên cứu công bố dưới những bài báo, tạp chí đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành ở Trung ương và địa phương. Thập kỷ 80 có thể coi là thời kỳ hoàng kim của
công tác sưu tầm tư liệu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình. Trong điều kiện ít tiếp nhận những thông tin về sự định hướng của Trung ương, hầu hết là tự sáng tạo, từ chủ trương của cán bộ chuyên môn thuộc Ty Văn hoá Thông tin và bộ phận nghiên cứu lịch sử nhân dân thuộc Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Thái Bình thì những kết quả thu được trong công tác sưu tầm ở Thái Bình thật đáng trân trọng. Công đầu của những người tổ chức thực hiện phải kế đến các ông Phạm Đức Duật, Nguyễn Thanh Vân, Vũ Mạnh Quang. Những người làm công tác sưu tầm tận tuy, thuỷ chung, có hiệu quả cao ở thời kỳ này ngoài các cộng tác viên cao niên như đã nêu trên phải kể đến thành quả sưu tầm nghiên cứu của hai nhà nghiên cứu Phạm Đức Duật, Phạm Thị Nét và lực lượng cán bộ nghiên cứu thuộc bộ phận :¡ghiên cứu lịch sử nhân dân Thái Bình.
Cũng trong hai thập kỷ 70 và 80, việc sưu tầm khai thác vốn văn hoá văn nghệ dân gian ở Thái Bình được các cơ quan chuyên ngành ở Trung ương triển khai tập trung hơn, chủ yếu ở các lĩnh vực sân khấu, âm nhạc dân gian như chèo, tuông, rối nước, múa dân gian, lễ hội. Hai công trình của các tác giả Trung ương xuất bản ở Thái Bình đáng chú ý ở thập kỷ 70 là Chòa Keo của Đỗ Văn Ninh và Trịnh Cao Tưởng (1974) và nghệ thuật múa rối nước Thái Bình của Nguyễn Huy Đồng (1977)
Từ cuối thập kỷ 80 trở đi, kế thừa và phát huy thành quã sưu tầm của thời kỳ trước, công tác sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình triển khai ngày một hiệu quả hơn. Lực lượng sưu tầm nghiên cứu được bổ xung thêm. Ngoài sự nỗ lực của từng cán bộ sưu tầm nghiên 60
NGUYÊN THANH
=———————ễ€ễ EDD—ỄễẼEễễỄễỄễỄễ=ễỄễỄễỄễ=EỄễEEE==ễŸễỄễẼỄễễ SE 5E S5ÃEÃ
cứu phải kể đến vai trò của Sở Văn hoá Thông tin, Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Bộ Văn hoá Thông tin, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia mà trực tiếp là Viện Văn hoá dân gian, Viện nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật và Viện Âm nhạc và múa.
Nếu như ở những thập kỷ trước, những chủ trương định hướng của tỉnh, của các cơ quan chuyên ngành của Trung tương chưa nhiều, chưa toàn diện thì ở thập kỷ 90 với Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình đã có chủ trương thành kế hoạch hàng năm, có kinh phí sưu tầm, xuất bản. Chỉ hội văn nghệ dân gian Thái Bình có một số hội viên hoạt động tích cực và ngày được bổ xung thêm hội viên.
Nếu như ở các thời kỳ trước việc sưu tầm, nghiên cứu còn tuỳ hứng thì ở thập kỷ 90 được triển khai toàn điện hơn với các lĩnh vực múa dân gian, lễ hội, hương ước, văn hoá làng, nghề thủ công truyền thống, văn hoá dòng họ, văn hoá ẩm thực ...
Nằm trong các hoạt động khoa học chuẩn bị kỉ niệm 100 năm thành lập tỉnh Thái Bình (1890-1990 ), Thái Bình được mùa lớn về xuất bản các công trình sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian. Hơn 10 đầu sách được xuất bản trong đó có nhiều đầu sách có giá trị khoa học tốt như Ngàn năm đất uà người Thái Bình, Trạng nghè ở Thái Bình, Thái Bình truyền thống uà hiện tại, Hội lễ dân gian ở Thái Bình, Giai thoại 0uăn chương Thái Bình... Việc xuất bản hàng loạt sách ở thời điểm này có ý nghĩa lớn trong việc cổ vũ công tác sưu tầm nghiên cứu và tạo tiền để để hàng năm tỉnh cấp kinh phí cho nghành VHTT xuất bản sách theo kế hoạch và ưu tiên xuất bản những công
trình sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình.
Do thấy được tiểm năng. tiểm lực sáng tạo các loại hình văn nghệ dân gian của cư dân Thái Bình và thế mạnh của lực lượng cán bộ sưu tầm, nghiên cứu ở Thái Bình nên Viện Âm nhạc và múa đã phối hợp với Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình triển khai để tài Múa dân gian Thái Bình uà Ba uùng chèo Thái Bình do một tổ chức phi chính phủ của Nhật Bản tài trợ. Việc sưu tầm nghiên cứu đã được thực hiện khá công phu bằng các hình thức ghì âm, ghi hình. chụp ảnh. viết báo cáo khoa học. Tiếc là khi hai để tài đang triển khai. kinh phí cấp chưa đáng kể thì cố nhạc sĩ Viện trưởng Nguyễn Xinh chủ nhiệm để tài đã qua đời. Sở Văn Thông tin Thái Bình đã chủ động giải quyết hậu quả bằng việc in hai cuốn sách Múa dân gian Thái Bình và Chèo cổ Thái Bình.
Cũng trong thập kỉ 90, Thái Bình là một trong những địa phương duy trì thường niên các cuộc hội thảo khoa học theo từng chuyên đề khác nhau như hội thảo về văn hoá làng, làng văn hiến, văn hoá dòng họ, lễ hội, hương ước, chèo truyền thống... Những hội thảo này vừa tranh thủ được sự tham gia của các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học chuyên nghành ở Trung ương vừa cổ vũ khích lệ được phong trào sưu tầm, nghiên cứu ở cơ sở nhất là đội ngũ trí thức đã nghỉ hưu đang sống trong khu vực nông thôn. Hầu hết các cuộc hội thảo khoa học hàng năm đều được in thành sách phát hành đến từng cơ sở gíup cho những người làm văn hoá nhận thức thêm về diện mạo vốn văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Từ năm 1997 đến năm 2000, theo chương trình bảo tồn và phát huy vốn văn hoá phi vật thể của Bộ Văn hoá Thông tin, mỗi năm Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình thực hiện một đề tài khoa học bằng phương pháp ghi âm, ghi hình, chụp ảnh viết báo cáo khoa học, dựng thành phim vào đĩa CD —- ROM. Qua bốn năm thực hiện, bốn đề tài đã được Bộ Văn hoá Thông tin nghiệm thu và đánh giá cao đó là các đề tài: chèo Khuốc và nghệ nhân Cao Kim Trạch(1997), tục múa bệt hội làng Vọng Lỗ (1998), múa ông Đùng bà Đà và tục gieo ống, rước nước hội làng Quang Lang(1999) và tục nấu cơm thi trong các hội làng ở Thái Bình (2000). Qua triển khai các đề tài, những người làm công tác sưu tâm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian tích luỹy thêm nhiều về vốn hiểu biết và kinh nghiệm tác nghiệp.
Những kết quả thu được trong công tác sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình trước hết là do nhiệt tình, nỗ lực của các tác giả vốn có may mắn sống ở một vùng quê giàu tiềm năng, tiềm lực về các loại hình văn hoá, văn nghệ dân gian nhưng không thể tách rời vai trò của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam dưới các hình thức cung cấp tài liệu, định hướng, hỗ trợ kinh phí cho các đề tài khoa học tập huấn, xét giải thưởng hàng năm...
Từ khi Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xét giải thưởng hàng năm đến nay Thái Bình đã có ð/8 hội viên được trao giải thưởng, có hội viên 3 năm liền dự giải đều được giải thưởng. Một số tác phẩm được trao giải đã được công bố như Nhận diện uăn hoá làng Thát Bình (Nguyễn Thanh), Văn hoá uùng đất Lạng
61
Hương Mần (Nguyễn tiến Đoàn - Nguyễn Thanh), số còn lại đang được xem xét để đưa vào kế hoạch xuất bản. Hai hội viên được tài trợ kinh phí nghiên cứu trong đó đề tài lễ hội truyền thống ở Thái Bình của tác giả Nguyễn Thanh đã được nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 2000. Để công tác sưu tầm, nghiên cứu được đẩy mạnh hơn năm 1998 Hội văn nghệ dân gian Việt Nam đã phối hợp với sở Văn hoá Thông tin Thái Bình tổ chức lớp tập huấn với hơn 150 học viên tham dự, sau lớp tập huấn này hiệu quả sưu tầm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian đã tăng lên rõ rệt.
Một thế kỷ sưu tâm nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình mà hoạt động khá tập trung, thành tựu khá nổi bật vào một phần tư cuối thế kỷ XX đã bất đầu đặt được nền móng, tạo được tiền đề các nhà sưu tâm nghiên cứu ở Thái Bình có niềm tin để thực hiện những đự định trong thập niên đầu thế kỉ XXI, như biên soạn từ điển địa danh dân gian Thái Bình và tiến tới biên soạn địa chí dân gian Thái Bình cùng với việc hoàn thành các công trình còn dang dở như làng nghề ở Thái Bình, văn hoá ẩm thực ở Thái Bình, mỹ thuật cổ truyền Thái Bình
Có sắc thái riêng về địa văn hoá, văn nghệ dân gian, kế thừa và phát huy thành quả của các thế hệ sưu tầm nghiên cứu trong thế kỷ XX chắc chắn thế kỷ XXI sẽ dự báo những thành tựu khoa học hơn, toàn diện hơn về công tác sưu tầm văn hoá, văn nghệ dân gian ở Thái Bình.
N.P k