
TẠ P CHÍ VHDG SỐ 5/2010 15
T H Ă N G T R Ầ M M Ộ T
L À N G G Ố M C Ổ
TRƯ Ơ NG MINH HẰ NG
1. Lị ch sử và truyề n th u y ế t
Tính đế n đầ u th ế kỉ XX, Hư ớ ng Canh
là mộ t trong sáu làng thuộ c tổ ng Hư ơ ng
Canh, huyệ n Bình Xuyên, tỉ n h Vinh Yên.
Năm 1950, do sự hợ p nh ấ t củ a hai tỉ nh
Phúc Yên và Vĩnh Yên th ành Vinh Phúc,
cấ p tổ ng bị bãi bỏ , Hư ơ ng Canh trỗ thành
mộ t trong năm thôn/làng thuộ c xã Tam
Canh, trong đó, ba làng Hư ơ ng Canh,
Ngọ c Canh, Tiên Canh còn có tụ c danh
chung là Kẻ Cánh. Sau nhiề u lầ n đổ i
thay, tách, nhậ p đị a danh, đị a giớ i các
đơ n vị hành chính cấ p tỉ nh, huyệ n, xã,
hiệ n Hư ơ ng Canh là thị trấ n huyệ n lị củ a
huyệ n Bình Xuyên, tỉ nh Vinh Phúc.
Thị trấ n Hư ơ ng Canh nằ m trên m ặ t
đư ờ ng Quố c lộ 2. Đây là đầ u mố l, huyế t
mạ ch giao thông chính nồ ĩ sáu tỉ nh phía
bắ c (Lai Châu, Tuyên Quang, Yên Bái,
Phú Thọ , Hà Giang, Việ t Trì) và chỉ cách
sân bay Nộ i Bài gầ n 10km. Dân giả n
thư ờ ng biế t danh tiế ng gố m Hư ơ ng Canh
qua các câu phư ơ ng ngôn hoặ c dân ca
(“Gôm Móng Cái, vạ i Hư ơ ng Canh”, “Ai về
mua vạ i Hư ơ ng Canh...”) m à không biế t
rằ ng, ở Hư ơ ng Canh chỉ có mộ t thôn/xóm
có nghề làm gôm tên gọ i Lò Cang.
Theo sách Danh nhân B ình Xuyên,
Lò Cang xư a vố n là mộ t bãi đấ t hoang có
nhữ ng tên gọ i gò Giữ a, gò cắ t, gò Dinh,
đế n khi nghề gố m sành xuấ t hiệ n dư ớ i
thòi Cả nh Hư ng (1741 - 1786), mớ i sáp
nhậ p vào đị a giớ i xã Hư ơ ng Canh. Lò
Cang không làm nồ i đấ t như Hiể n Lễ (Mê
Linh) hoặ c các làng xung quanh khu vự c
Đầ m Bạ c như Vị Nộ i, Vị Trù, Bả o Sơ n,
Thanh Dã (Vĩnh Yen). Lễ hộ i nâu cơ m thi
ở Hư ơ ng Canh đề u nấ u bằ ng nồ i đồ ng
điế u vì nơ i đây không sả n xuấ t nồ i đấ t.
Năm Cả nh Hư ng thứ hai (1742), ngày
mùng 6 tháng 8 năm Nhâm T uấ t, vua Lê
Hiế n Tông cử quan Nộ i hầ u Trị nh Xuân
Biề n về Hư ơ ng Canh, ban tặ ng danh hiệ u
“Trung nghĩa dân” cho ba làng Kẻ Cánh,
biể u dư ơ ng tinh th ầ n kiên cư ờ ng bấ t
khuấ t chố ng lạ i quân Quậ n Hẻ o Nguyễ n
Danh Phư ơ ng (từ T hanh Lãng kéơ ra). Vì
nghĩa lổ n, ba làng Kẻ Cánh hi sinh tớ i
600 ngư ờ i. Thấ y xóm làng xơ xác tiêu
điề u, dân chúng phiêu b ạ t nhữ ng ngư ờ i
hồ i cư không k ế sinh nhai, ông Trị nh
Xuân Biề n đã giúp dân phụ c hồ i sả n xuấ t
nông nghiệ p và đem ngư ờ i đế n dạ y dân
làng nghề cang chĩnh. Cuộ c sông đi vào
Ổ n đị nh và khấ m khá dầ n. Khi ông qua
đòi, dân làng thư ơ ng tiế c, lậ p miệ u thờ ,
tôn ông làm sư tổ nghề gôm (Ị )anh nhân
B ình Xuyên 2005: 153).
Cũng theo ghi chép trong sách này,
Trị nh Xuân Biề n ngư òi gố c ỏ Sóc Sơ n,
huyệ n Vinh Lạ c, tỉ nh Thanh Hóa(1), có bà
thiế p là Bùi Thị Ái, quê ỏ Thổ Hà, Bắ c
Ninh. Cả hai đề u là ngư òi hiể u biế t về
nghề gố m cổ truyề n củ a quê hư ơ ng, nhậ n
thấ y nhữ ng th u ậ n lợ i về điề u kiệ n tự
nhiên và xã hộ i củ a vùng này (có sồ ng
Cánh chả y qua làng đổ vào sông Cà Lồ -
mộ t chi lư u củ a sông Nguyệ t Đứ c ồ đị a
phậ n xã Tiề n Châụ , thị xã Phúc Yên; có
nguồ n đấ t sét tố t và nhiên liệ u ỏ các cánh
núi lân cậ n; có nguồ n nhân lự c dồ i dào...)
nên đã dâng sớ xin triề u đình cho lậ p
công tư ợ ng sả n xuấ t gố m sành tạ i khu Lò
Cang. Bà thiế p cũng nhẫ n đấ y đứ ng lên
hư ng công dự ng m ộ t ngôi chùa ỏ sau